Thứ Năm, 30 tháng 5, 2013

Walter de la Mare - Dick và cây đậu thần


Nguyễn Thành Nhân dịch 
từ nguyên bản tiếng Anh Collected Stories for Children




Ở quận Gloucestershire[1] có một cậu bé tên là Dick sống cùng với cha nó là một chủ nông trại. Trang trại của họ không nằm trong số các nông trại to nhất ở Gloucestershire. Nó chỉ ở mức trung bình, không lớn cũng không quá nhỏ. Nhưng ngôi nhà cũ yên bình và êm ả đã nằm ở đó ít nhất hai trăm năm rồi, được xây bằng đá Cotswold loại tốt. Nó có những cột ống khói xinh xắn và một mái nhà đẹp tuyệt. Từ cửa sổ phía dưới một trong những đầu hồi của ngôi nhà, Dick thường nhìn ra ngoài qua mảnh ruộng và những đồng cỏ tới những dãy đồi xa. Gần hơn là những kho thóc, chuồng ngựa và chuồng heo nằm quây quần quanh nhà, như những con gà con xúm xít quanh mẹ chúng. 
Dick là đứa con trai duy nhất và không còn mẹ. Cha nó – chủ yếu là vì muốn có bầu có bạn – chưa bao giờ cho nó tới trường. Nhưng vốn là là một đứa bé nhanh trí, Dick đã tự học, với sự giúp đỡ của cha nó, để biết đọc, viết và cộng trừ chút đỉnh. Và do luôn quan sát, lắng nghe, học hỏi ở bất cứ nơi nào nó tới, và khi cần sẽ tự mình tìm ra lời giải đáp, nó đã học được khá nhiều điều khác.
Khi còn bé, nó đã từng nghe những điệu hát xa xưa và những câu chuyện cổ ở vùng quê quanh đó, do mẹ nó kể, và cả do một bà cụ hay đến nông trại để may vá áo quần hay viền những tấm chăn. Bà là một cụ già tai nghễnh ngãng, mắt kèm nhèm, nhưng rất khéo tay khi may vá. Nó chưa bao giờ thấy chán khi nghe bà kể chuyện, dù có đôi khi, nhất là vào những buổi tối mùa đông gió lộng, nó thường thấy hồi hộp và ớn lạnh cả người khi quay về giường để ngủ.   
Những câu chuyện cổ đó không chỉ nằm trong đầu Dick mà còn sống trong đó. Nó không chỉ nhớ tới chúng mà còn suy nghĩ về chúng; và đôi khi còn mơ thấy chúng nữa. Nó không chỉ nhớ gần như thuộc lòng những chi tiết mà còn tự tìm vui với chính mình bằng cách tưởng tượng ra những gì khác đã xảy ra cho những nhân vật trong các câu chuyện đó sau khi câu chuyện đã hết hoặc trước khi chúng bắt đầu. Nó không chỉ tưởng tượng theo cách của mình về một câu chuyện trong sách, theo từng chương một, từng trang một, mà còn tự hỏi khu vườn bên ngoài một ngôi nhà trông ra sao, nếu như câu chuyện chỉ kể về phía bên trong nhà. Và với trí tưởng tượng, nó thường hình dung ra cảnh tượng khi nó bước ra khu vườn đó và sau đó có lẽ còn cố khám phá thêm nhiều điều khác nữa. Chẳng hạn, theo cách thức đó, Dick đã tìm ra kết luận của riêng mình rằng Aladdin đã đeo chiếc nhẫn của chàng vào ngón tay nào, và mắt ông cậu của chàng có màu gì; rằng chuyện gì rốt cuộc đã xảy ra cho bà tiên già trong Người đẹp ngủ trong lâu đài. Nghĩa là, sau khi bà ta cưỡi con lừa trắng của mình đi vào rừng và chiếc suốt thần kỳ bắt đầu gieo rắc giấc ngủ như chết kéo dài suốt một trăm năm lên các kẻ thù của bà ta. Nó biết vì sao sau đó bà ta không đến dự đám cưới! 
Nói về tòa lâu đài tháp đá và có nhiều cửa sổ của Râu Xanh, với cái hành lang màu hạt dẻ ở hướng đông và cái hào bùn lầy có những con cá chép nằm dưới hàng cây bách của nó, Dick còn biết nhiều về chúng hơn ngay cả Fatima[2]! Tương tự, nếu nó phát hiện ra rằng Mẹ già Hubbard[3] có một con mèo, nó có thể bảo cho bạn biết tên của con mèo ấy. Và nó có thể mô tả cái vương miện mà Molly Whuppie[4] đội khi nàng trở thành hoàng hậu, thậm chí cho tới viên ngọc lục bảo cuối cùng gắn trên đó. Nó thuộc dạng mà người ta hay gọi là một độc giả sắc sảo.
Dick thường ao ước giá mà nó được là chàng út trong ba anh em, lúc đó nó có thể đi ra thế giới bên ngoài một cách dễ dàng để tìm kiếm tương lai. Và sau vài năm phiêu lưu rong ruổi, nó sẽ quay về, túi đầy tiền, với cái bàn thần kỳ nằm trên lưng hoặc cái mũ tàng hình nhét trong túi quần, và sau đó sẽ sống hạnh phúc mãi mãi cùng cha nó. Từ lâu, nó khá chắc chắn rằng nếu như nó có thể thu hết can đảm và đi ra ngoài một chuyến, thậm chí chỉ cần tới một trong các quận kế bên, Warwickshire hoặc Wiltshire, Monmouthshire hoặc Somerset, chắc chắn nó sẽ có những cuộc phiêu lưu. Nó rất nôn nóng được thử vận may của mình.
Nhưng có một trở ngại. Cha nó hầu như không hề rời mắt khỏi nó. Và đó là chuyện đương nhiên. Người đàn ông tội nghiệp này không có con gái, vì vậy Dick là đứa con trai độc nhất của ông. Mẹ nó đã qua đời. Ngoài cái nông trại, người trại chủ này chỉ có một ý nghĩ duy nhất trên đời – về chính bản thân thằng Dick con trai ông. Tuy nhiên, thỉnh thoảng ông cũng cho phép nó đi một mình sang cái chợ thị trấn gần nhất để mua sắm vài thứ lặt vặt. Và việc đi một mình đối với Dick khác hẳn với việc không đi một mình.
Đôi khi Dick đi xa hơn. Nó có một ông chú, một người đàn ông to béo, làm nghề thợ nề ở vùng Moreton-in-the-Marsh, và một bà cô già góa chồng làm chủ một cái cối xay gió và bảy con mèo ở vùng Stow-on-the-Wold. Nó thường đến thăm họ. Nó cũng đã từng tới Hội chợ Saffron ở Cirencester và ở lại đó cho tới khi đèn được thắp lên, với ánh sáng lập lòe trên  những quầy bán bánh gừng và những vòng quay ngựa gỗ. Nhưng còn những thị trấn lớn ở xứ Gloucestershire – chính bản thân Gloucestershire, hoặc Bristol; hay xa hơn, Excester, hay xa hơn ở hướng khác, như London (nơi ông bạn già cùng tên Dick Whittington[5] từng làm Thị trưởng ba lần rưỡi) – thì Dick chưa từng đặt chân lên con đường nào của chúng, ngoại trừ trong những cuốn truyện hay những giấc mơ của nó. Dù sao đi nữa, những người có đủ kiên nhẫn chờ đợi ít khi đợi chờ một cách uổng công. 
Vào ngày sinh nhật kế tiếp sau lần sinh nhật mà nó được tới Hội chợ Saffron; cha nó mua cho nó một con ngựa Pony lông xồm để làm quà sinh nhật. Con ngựa này có bộ lông bờm ngắn và lởm chởm, đuôi cắt ngắn, cao khoảng một mét mốt và có tên là Jock. Cha Dick cho phép nó cưỡi con Jock chạy quanh trong vùng khi nó làm xong công việc buổi sáng, để nó ngắm nhìn thế giới chút xíu và học cách tự lo liệu cho mình, ông bảo thế. Giữa hai cha con họ đã có một cuộc thương lượng và một giao ước rằng trừ phi có một sự không may hoặc một sự cố bất thường nào đó khiến Dick phải về muộn, nó sẽ luôn luôn trở về trước khi đêm xuống. Hai cha con luôn có những cuộc chuyện trò thú vị vào buổi xế chiều khi họ cùng ăn tối với nhau trong bếp. Cha nó bắt đầu mong ngóng chúng không kém gì chính bản thân Dick mong ngóng chúng. Dick và cha nó thật sự là những người bạn tốt của nhau.  
Một sáng mùa đông – khoảng giữa tháng Giêng năm sau, Dick xin phép cha nó cho nó được tự do sử dụng cả một ngày đẹp trời vào hôm sau. Thời tiết sương giá đã qua, bầu trời chiều đỏ rực, và mọi thứ đều hứa hẹn những điều tốt đẹp. Dick bảo cha nó rằng nó muốn đi xa hơn trước đó – “ra mé ngoài những ngọn đồi ở đằng kia”.
Vì lúc này ngày trở nên ngắn và chỉ vài giờ sau buổi trưa trời sẽ sụp tối, nó phải lên đường sớm. Cha nó cho phép, nhưng cảnh báo nó nên cẩn thận khi gặp gỡ người lạ và phải tránh làm những điều điên rồ hay dại dột. “Đừng tìm tới tai họa, mà cũng đừng để tai họa tìm tới con, con trai ạ,” ông nói. Dick cười to và hứa.
Ngày hôm sau, trước lúc bình minh, khi các vì sao vẫn còn lấp lánh, nó thức dậy, mặc quần áo rồi bò xuống gác, nhanh chóng ăn sáng rồi cắt thêm một khoanh bánh mì và thịt trong chạn cho vào túi. Sau đó, nó viết vài dòng cho cha để báo với ông rằng nó đã đi, ghim mảng giấy lên bàn, lắp yên cương cho con ngựa rồi lên đường đi về hướng tây bắc trong lúc trời bắt đầu rạng sáng.
Trong đêm đó, trời có nhiều sương giá. Như thể có một người chủ cối xay khổng lồ đang đứng oai vệ trên những cánh đồng để gieo vãi bột xay khi nó đi trên đường. Những vết xe trên đường mòn cứng và sắc như đá khi họ đi ngang, bộ vó của con Jock nghiền vỡ những vũng nước đóng băng như thể đó là những lớp thủy tinh mỏng mảnh. Chẳng bao lâu, mặt trời xuất hiện, sáng rỡ như một cái lò, mặc dù không nóng mấy vì những tia nắng chưa đủ mạnh thậm chí để nung chảy những lớp sương đóng băng nằm trong các vũng và bên dưới những thân cây.
Vào ngày thứ Sáu trước đó, Dick đã đi tới một thung lũng nằm giữa hai ngọn đồi tròn, và đã nhìn ra mé ngoài ngọn đồi. Nhưng lúc bấy giờ đã muộn để đi xa hơn. Vào khoảng mười giờ sáng, nó lại đi tới cái thung lũng này một lần nữa. Nó cho ngựa chạy nước kiệu đều đều dọc theo những con dốc phủ bóng cây rừng của thung lũng, đi theo một lối mòn cỏ đã mọc cao cho tới lúc cuối cùng con đường mòn biến mất, và nó đã đi tới mé bên kia. Đây là một vùng đất bằng phẳng, trống trải, dù cách khoảng vài dặm lại có những ngọn đồi phủ tuyết. Những ngọn đồi này rất xa lạ đối với Dick, và nó không biết mình đang ở nơi nào.
Những cánh đồng chưa cày xới ở đây rộng lớn hơn bất kỳ cánh đồng nào nó từng biết và phủ đầy cỏ dại. Trên đồng, những đàn chim mùa đông đang kiếm ăn. Những dãy hàng rào tả tơi không được chăm nom, và không có bóng dáng một ngôi nhà nào cả. Dick rời khỏi lưng con Jock và lấy bữa ăn trưa của nó ra. Bữa ăn ngon lạ lùng trong bầu không khí lạnh tê người. Trong lúc đang ngồi ăn – trên một gò đất xanh rì dưới ánh nắng trong trẻo – nó nhìn quanh quẩn. Và nó thấy ở đằng xa một cái gì đó mà đầu tiên nó cho là một cột khói đang cuộn lên bầu trời. Nó quan sát một lúc, lấy làm lạ trong lòng. Không có biểu hiện gì của một ngọn lửa hay sự chuyển động ở cột khói. Nó treo lơ lửng một cách bất động giữa mặt đất mù sương và bầu trời xanh biếc. Nếu không phải là khói, thì đó là cái gì? Dick trầm ngâm nhưng không thể nghĩ ra.
Sau khi vội vã ăn xong bữa trưa, và cảm thấy khá hơn, nó trèo lên ngựa và tiến về hướng cột khói với tốc độ nhanh nhất trong khả năng của con Jock. Vào khoảng ba giờ chiều nó tới gần nơi đó và phát hiện ra rằng rốt cuộc nó đang ở trong một thung lũng lòng chảo, nơi có một ngôi nhà tranh xiêu vẹo, mái tranh bị tốc, cột ống khói bị gãy và khu vườn bị bỏ hoang tàn. Cách ngôi nhà này vài bước chân - chọc thẳng lên trên cao, với ngọn của nó nằm ngoài tầm mắt – là một mớ sợi lòng thòng, khô queo, to lớn của một thứ gì đó trông như một thân cây liễu gai hay một loài dây leo nào đó. Nó vặn vẹo uốn lượn theo hình xoắn ốc hướng thẳng vào không gian và mất hút khỏi tầm nhìn. Dick không thể đoán được là bao xa, vì ánh nắng làm nó chói mắt. Nhưng khi nó kiểm tra lại một cách kỹ càng hơn thân cây to lớn này và những vỏ đậu khô với những hạt khổng lồ to bằng những viên đá lớn hình bầu dục, vẫn đang bám vào cuống thân cây, nó quả quyết rằng đó phải là những cây đậu.
Nó chưa bao giờ nhìn thấy cái gì có thể sánh với những cây đậu này. Ai có thể trồng chúng, vào lúc nào, và vì mục đích gì? Và chúng đang vươn tới đâu? Thế rồi, trong một khoảnh khắc, cuối cùng Dick chợt nhận ra nó đang ở chỗ nào và đang nhìn vào cái gì. Không còn ngờ gì nữa. Đây là căn nhà cũ của Jack. Đây là nơi mà Jack từng sống với mẹ của anh ta – trước khi anh ta gặp người hàng thịt thân thiện trên đường đi tới chợ. Và cái thang vặn vẹo khổng lồ ở đây – cái thân dây leo mà ắt hẳn đã mọc xum xuê trở lại như trước sau khi Jack đã chặt nó đi và tên khổng lồ đã té đâm đầu xuống đất – chính là Cây đậu thần nổi tiếng của Jack[6].
Bà cụ già tội nghiệp, Dick nghĩ thầm. Mẹ của Jack hẳn đã qua đời cách đây lâu lắm. Và cả Jack cũng thế. Nó len lén bước qua chỗ tường đổ nơi từng có một cánh cửa sổ. Cái lò sưởi mọc đầy những dây tầm ma già cỗi. Mái tranh lũng lỗ chỗ với những cái tổ chim và lỗ chuột hoang phế. Không có một âm thanh nào trên mặt đất hay dưới bầu trời; không có một dấu vết nào của con người. Dick ngồi lên một cái gò ngoài trời gần chỗ những bức tường và một lần nữa ngước nhìn đăm đăm cây đậu, rồi lại cúi đầu. Nó điểm lại trong đầu tất cả những cuộc phiêu lưu lạ lùng của Jack. Nó thuộc chúng nằm lòng.
Lớp cỏ dưới chân nó đã bị những con thỏ rừng gặm trụi. Chỗ ngồi của nó, dù êm ái, điểm lấm tấm những cái lỗ tí hon, và nổi lên trên lớp cỏ thành một hình tròn như một phiến đá lớn màu xám. Ngay sát bên, dây trường xuân và mâm xôi mọc phủ lên trên nó, nhưng trên lớp cỏ cách chừng ba bốn bước chân hiện ra một cái gò khác nhỏ hơn. Và trong khi nhìn nó, Dick chợt nhận ra rằng chắc hẳn nó đang ngồi trên chỏm của một trong những khúc xương to lớn của gã khổng lồ của Jack, có lẽ là xương đùi của hắn ta, giờ đây đã bị chìm lấp chôn vùi một phần trong lớp đất. Nghĩ tới điều này, nó đứng bật dậy và liếc nhanh khắp xung quanh. Cái xương sọ của gã khổng lồ nằm ở đâu, nó tự hỏi. Rồi nó lại nhìn một lúc lâu lên cây đậu khổng lồ, rồi lại nhìn khúc xương. Trời vẫn mới xế chiều, nhưng đang là mùa đông; và vào khoảng bốn giờ, nó tự nhủ, mặt trời sẽ lặn. 
Càng nhìn cây đậu, nó càng nóng lòng muốn trèo lên đó – dù chỉ lên cao ngang ống khói của ngôi nhà. Cao hơn nữa, cao hơn chút nữa, nó có thể nhìn thấy xa hàng nhiều dặm. Và nếu lên cao hơn nữa, thậm chí nó có thể, nếu đôi mắt của nó cho phép, nhìn thoáng qua đồi Old Bowley, một ngọn đồi cao mà vào những ngày trời sắp đổ mưa nó có thể nhìn thấy từ cửa sổ phòng ngủ của mình.
Thế là nó bắt đầu tranh luận với chính mình: “Bây giờ, chắc chắn cha sẽ không bao giờ tha thứ cho mình nếu ông biết rằng mình đã thật sự khám phá ra cây đậu thần của Jack và đã bỏ đi mà không dám trèo lên nó dù chỉ hai phân!” Và một bản ngã khác của nó trả lời: “Được, hay lắm, anh bạn của tôi. Nhưng cậu đã dám trèo lên hai phân, thì một dặm cũng vậy mà thôi, thế thì sao nhỉ?”
“Thế thì sao?” Dick nghĩ thầm. Nó tới gần và giật mạnh hết sức bó dây đậu. Một vài hạt đậu đã tách khỏi vỏ rơi khỏi lớp vỏ khô. Dick hụp đầu xuống. Nó giật mạnh một lần nữa; bó dây đậu chắc như một sợi dây da. Thế là nó bắt đầu leo lên.
Nhưng nó tiến lên khá chậm. Những thớ sợi thô nhám của dây đậu không chỉ cứa đứt hai bàn tay nó mà còn phủ đầy sương muối, và tay chân nó chẳng bao lâu đã tê cóng đi vì lạnh. Nó dừng lại nín thở và hổn hển, không dám nhìn xuống dưới. Nó tiếp tục trèo và sau khoảng một tiếng trèo lên một cách đều đặn, nó lại dừng lại nhìn quanh. Lúc này một cảnh tượng khác thường đập vào mắt nó. Đầu óc nó choáng váng vì sự lạ lùng đó.
Vầng mặt trời đỏ rực đang xuống thấp trên bầu trời, và phía dưới nó là cái dĩa to lớn mênh mông của thế giới. Và kìa, chắc chắn thế, là ngọn đồi Old Bowley! Ngôi nhà của Jack dường như không lớn hơn một căn nhà búp bê đang nằm ngay dưới chân nó. Và cách đó khoảng hai phân là con Jock, không to hơn một con chuột chũi, đang gặm cỏ trong khu vườn của mẹ Jack. 
Đã trèo cao đến thế, Dick không thể không trèo lên cao hơn nữa. Vì vậy nó tiếp tục. Thân người bầm tím vì những hạt đậu vẫn tiếp tục rơi lộp độp lên nó, nín thở và hít luồng khí nóng qua lớp bụi sương muối trắng, cuối cùng nó lên tới ngọn của cây đậu. Nó ngồi xuống đó nghỉ ngơi. Nó thấy mình đang ở một vùng đất thấp, phẳng nhưng có những dãy đồi và thung lũng rất rộng lớn. Một lớp tuyết mỏng đã rơi xuống đây. Dưới ánh sáng xanh trong này, trông vùng đất càng giống với những nơi chốn lạ lùng mà đôi khi nó đã thám hiểm trong những giấc mơ hơn là bất cứ thứ gì mà nó từng nhìn thấy ở mặt đất bên dưới. Và xa, thật xa, về hướng bắc, trong bóng tối đang dâng và nằm thấp hơn bên trên lớp tuyết mờ xanh, hiện ra những ngọn tháp canh của một tòa lâu đài; và càng nhìn nó, Dick càng ít thích cái dáng vẻ của nó hơn.
Tuy nhiên, Dick sớm quyết định rằng nó sẽ đi theo nơi mà Jack đã dẫn đường. Và tốt nhất là phải nhanh lên! Không suy nghĩ thêm về việc nó có thể quay về nhà đêm đó hay không, và tin rằng cha nó sẽ tha thứ cho việc không giữ đúng theo thỏa thuận giữa họ lần này, vì chắc chắn nó sẽ có nhiều điều để kể với ông vào buổi sáng, Dick tiến tới tòa lâu đài nhanh hết sức trong khả năng cho phép. Lớp tuyết đóng băng không sâu hơn hai phân, nhưng trên vùng đất cao này trời lạnh cóng cả người; và những tinh thể tuyết khô nhỏ như bụi khiến nó không thể đi nhanh được.
Thật sự, chỉ tới khi vầng trăng đã rọi sáng sau lưng nó Dick mới tới được cánh cổng mái vòm bằng đá sâu hút của tòa lâu đài to lớn. Ánh trăng tỏa sáng huy hoàng trên mặt tuyết, trên những đầu đinh sắt hình vuông trên hai cánh cổng, và trên những bức tường trơ trụi dữ dằn của tòa lâu đài. Một sợi xích kéo chuông han rỉ treo cao bên trên đầu Dick ở phía ngoài cánh cổng. Dick đứng dán mắt vào nó, tim đập thình thịch trong lồng ngực. Nhưng khi đã đi xa tới mức này, nó thấy xấu hổ nếu quay trở lại. Nó nhảy lên, chụp lấy cái tay nắm bằng sắt với cả hai bàn tay và lấy hết sức giật mạnh.    
Nó không nghe thấy gì, không một âm thanh. Nhưng vài phút sau – và dường như chúng rất dài – một cánh cửa xép nằm trên cánh cổng to lớn xoay trên bản lề, rồi một người đàn bà mặt nặng như chì ló ra nhìn nó và hỏi nó muốn gì. Đầu và đôi vai bà ta quấn trong một tấm khăn choàng, và, với sự kinh ngạc của Dick, bà ta chỉ cao chừng một mét tám.
Theo tấm gương của Jack, Dick bảo bà ta rằng nó lạc đường – vì thật sự nó lạc đường, dù nó đã tìm ra con đường của Jack! Nó nói rằng nó mệt đừ và đói, và sợ sẽ chết vì giá lạnh. Nó cầu khẩn người đàn bà cho nó chút nước uống và chút bánh mì, và có lẽ cho phép nó sưởi ấm chỉ vài phút thôi bên bếp lửa của bà ta. “Nếu không, thưa bà, điều duy nhất tôi có thể làm là nằm gục xuống chân tường ở đây và có thể sẽ chết. Tôi không đi thêm được nữa.” Nó nói.  
Không có chút dấu hiệu nhỏ nhất nào của sự thay đổi trên gương mặt dài xương xẩu của người đàn bà. Bà ta chỉ tiếp tục nhìn chằm chằm vào nó. Rồi bà ta hỏi tên nó. Dick cho bà ta biết tên của nó, và lúc này đôi mắt bà ta quắc lên như thể bà ta đã mong đợi điều này.
“Bước ra phía có ánh trăng một chút,” bà ta bảo nó, “để ta có thể nhìn thấy mặt cậu. Thế cậu là Dick phải không?” bà ta lặp lại theo nó. “Dick! Và cậu đến xin ăn hử? Ta từng nghe câu chuyện này trước đây. Và cầu Chúa, ta có nên nói rằng cậu không đến từ cùng một nơi, dù đó là đâu, với cái tên Jack lưu manh, người đã đến đây cách nay rất nhiều, rất nhiều năm với cùng câu chuyện mà cậu vừa nói với ta, rồi bỏ trốn đi, đầu tiên với túi tiền của ông cố ta, rồi với con gà mái của ông, và cuối cùng với cây đàn hạc của ông? Làm sao ta biết được? Sao chứ! – từ những gì ta từng nghe – với ta, trông cậu giống hệt gã đó như hai giọt nước!”
Dick nhìn lên mặt bà ta đầy thắc mắc. Gã khổng lồ của Jack, nó nghĩ, không thể quá xa xưa như câu chuyện đã được lưu truyền nếu người đàn bà này chỉ là cháu đời thứ ba của ông ta. Bản thân nó có thể đoán rằng ít nhất phải có hàng tá đời rồi. Đó là một bí mật.
“Jack ư?” Nó nói như thể nó không hiểu gì cả. “Ai là Jack, thưa bà? Ở chỗ tôi có nhiều Jack. Nhưng không có người nào thuộc gia đình tôi cả. Vậy điều gì đã xảy ra với ông ta?”
“À, cậu nên hỏi điều đó. Nếu ông cố của ta bắt được hắn, ông sẽ nghiền xương của hắn thành bột trong cái cối của ông và đem nấu súp những gì còn lại. Ông cố của ta đang tuổi tráng niên vào lúc đó, nhưng ông không bao giờ quay lại. Không bao giờ. Không bao giờ có một linh hồn tốt bụng hơn thế nữa. Và JACK là ai chứ!” Bà ta lẩm bẩm với chính mình, và Dick không thích âm thanh của nó.
“Chà, tôi tự hỏi!” Nó nói, ước gì nó có thể giấu mặt đi khỏi ánh trăng sáng. “Tôi muốn nói rằng tôi tự hỏi không biết ông cố của bà  có tìm lại được cây đàn hạc, hoặc con gà mái của ông không. Ở chỗ tôi có hàng đống gà mái. Và cả những cây đàn hạc nữa, như tôi từng nghe thấy. Ý tôi là câu chuyện nghe thật đáng buồn; nhưng cái gã xấu xa mà bà nhắc tới đã muốn làm gì với một cây đàn hạc nhỉ?”
“Hừ,” người đàn bà mặt chì nói, chớp mắt nhưng chỉ một lần không hơn khi bà ta nhìn nó. “Cái gì?”
“Dù sao đi nữa,” Dick nói, “chuyện đó đã xảy ra cách đây nhiều năm hơn mức tôi có thể đếm. Và nếu tôi là Jack, thưa bà, hay thậm chí là cháu ba đời của ông ta, tôi không thể ở tuổi lúc này của tôi. Tôi hẳn phải có một bộ râu dài như cánh tay của bà, và đã chết đứ đừ từ lâu rồi. Tôi rất tiếc về ông cố của bà. Đó là một câu chuyện buồn. Và tôi không biết Jack đã đi đến kết cục thế nào. Nhưng nếu bà cho tôi chút nước, chút bánh mì và được hơ ấm bên lò lửa, tôi sẽ không xin thêm bất cứ điều gì khác.”
“Jack cũng vậy, người ta bảo thế,” người đàn bà nói một cách chua cay, rồi lại nhìn nó từ đầu đến chân lần nữa.
Nhưng dù sao thì bà ta cũng dẫn nó đi qua hai cánh cổng lớn của tòa lâu đài và đi xuống nhà bếp, nơi có một ngọn lửa đang cháy trong lò. Cái nhà bếp này, Dick tự nhủ, có kích thước cỡ (nhưng không lớn hơn nhiều lắm) một ngôi nhà thờ nhỏ. Thật là ấm áp và dễ chịu sau khi trải qua bóng tối và sự lạnh lẽo. Một cây đèn dầu đang tỏa sáng trên bàn, và có những cái giá cắm nến bằng thiếc cao hơn chín tấc để cắm những cây nến mỡ động vật trên tủ chạn. Dick lén lút nhìn quanh trong lúc nó đang đứng hơ đôi tay cách cái bếp lò lớn vài bước chân. Ở đây, bên cạnh nó, chính là cái tủ lớn mà mà Jack đã nấp vào trong cơn kinh hãi. Cánh cửa đóng của cái bếp lò trông như cửa của một nhà ngục. Một cái ghế đặt cạnh bàn. Và trên bàn, như thể đang chờ ai đó, là một liễn súp to bằng cái chậu. Bên cạnh là một cái bát và một cái thìa. Kế bên cái thìa là một lát bánh mì to cỡ một ổ bánh bốn cân Anh. Dù nó đang đứng hơi xa, Dick phải nghểnh cổ lên mới nhìn thấy những thứ trên bàn.
Dick nhìn tất cả những thứ này với đôi mắt kinh ngạc. Nó đã tưởng tượng rằng căn nhà bếp của gã khổng lồ là một chỗ tối tăm và ảm đạm. Nhưng có lẽ vào thời của Jack lửa trong lò không cháy dữ dội bằng và không có ánh đèn; cũng có lẽ là vào mùa hè, bóng của những bức tường lâu đài đã đổ một cách lạnh lẽo xuống mấy cánh cửa sổ. Nó không thấy thoải mái tí nào. Giờ đây, khi đã xoay xở vào được tòa lâu đài, nó bắt đầu lo ngại không biết việc gì có thể xảy ra với nó trước khi nó có thể ra ngoài trở lại. Cung cách và dáng vẻ của người đàn bà này không giống chút nào với những gì nó hình dung và dù là ai sắp ăn tối ở cái bàn đó đi nữa, có thể trông gã ta còn tệ hơn nhiều!
Bà ta đã cởi chiếc khăn choàng ra, và sau khi lục lọi trong một cái tủ cao màu xanh lá, bà ta quay lại với một cái đĩa cỡ bình thường và một cái ca bằng đất nung – những thứ đồ chơi búp bê so với cái liễn trên bàn. Bà ta đổ đầy sữa vào cái ca.
“Giờ hãy ngồi lên cái ghế đẩu đó,” bà ta vừa nói vừa mang ca sữa và dĩa bánh mì tới cho nó. “Ngồi lên đó ăn uống và tự sưởi ấm trong khi còn có thể. Chồng ta sẽ về nhà bất kỳ lúc nào. Khi đó cậu có thể nói cho ông ấy biết cậu là ai, cậu muốn gì, vì sao cậu tới đây, và từ nơi nào tới.”
Chân Dick run rẩy trong đôi giầy – không phải vì những câu nói mà vì cái miệng của người đàn bà khi thốt ra những lời đó. Nhưng nó cố lấy hết can đảm nhìn lại bà ta rồi trèo lên cái ghế đẩu. Ở đó, một tay lóng ngóng cầm cái ca và tay kia cầm mẩu bánh mì, nó bắt đầu ăn uống. Thật là thú vị, nó tự nhủ, khi ngồi trong không khí ấm áp để ăn tối, dù chắc là còn tuyệt hơn nếu có thêm chút ít bơ. Nhưng chồng của người đàn bà này chắc không thể nghĩ ra món ngon gì dành cho hắn khi hắn về tới nhà!       
Thế là, trong lúc đang nhấm nháp, nó liếc mắt nhìn quanh để tìm một lối thoát thân. Nhưng ngoài cánh cửa ra vào đang mở hé, một số lọ lớn trên cái kệ để lọ bên dưới chạn và một cái hang chuột ở lớp ván ốp tường to cỡ một cái lỗ đi lại của cáo trên hàng rào, nó không nhìn thấy một kẻ hở nào khác. Ngoài ra, người đàn bà đang nhìn nó chăm chú như một con mèo rình chuột. Nó quyết định lúc này nên khôn khoan giữ mình và tỏ ra vô hại.
Cuối cùng, từ phía sau của tòa lâu đài vọng lại âm thanh mà Dick cho là tiếng bước chân. Giống như thể một người nào đó đang  nện vồ vào một cái chậu. Chúng đến gần hơn. Khoảng một hai phút sau cửa bếp mở ra, và người chồng xuất hiện ở khung cửa mở. Dick không thể không liếc mắt chút xíu khi hắn ta nhìn nó.
Nó đoán hắn cao khoảng năm mét rưỡi đến sáu mét, không hơn. Ngoài chiều cao, Dick nghĩ, hắn không phải là dạng mà bạn có thể gọi là một người khổng lồ vạm vỡ. Hắn gầy nhom, mảnh khảnh; chiếc áo khoác da mở nút khoác hờ trên đôi vai; còn đôi chân mang vớ dài của hắn không to hơn hai cây cột cái.   
Trên gương mặt dài xanh xao của hắn là một chiếc mũi dài, và từ hai phía của cái nón dẹt của hắn thò ra những lọn tóc bẩn thỉu màu vàng nhạt.


Khi tia mắt hắn bắt gặp Dick đang ngồi thưởng thức bữa ăn trên chiếc ghế đẩu, đôi mắt xanh như nước của hắn trông như thể muốn rớt ra khỏi đầu hắn vào bất cứ lúc nào.
“Thật bất ngờ! Chúng ta có gì ở đây, bà nó?” Cuối cùng hắn nói với người đàn bà mặt nặng như chì. “Chúng ta có gì ở đây, hừm, hừm!”
Trước khi bà ta có thể trả lời, Dick lên tiếng, cố tỏ ra bạo dạn hết mức có thể, và kể cho người khổng lồ trẻ tuổi (vì dù Dick không chắc lắm, trông hắn ta không quá ba mươi tuổi). Nó kể cho hắn nghe rằng nó đã lạc đường và khi tình cờ bắt gặp cây đậu khô héo nó đã trèo lên ngọn cây để nhìn quanh. Nó cũng kể cho hắn nghe nó đã đau khổ thế nào khi nó nghe nói rằng ông cố của người đàn bà đã không bao giờ quay về tòa lâu đài nữa sau khi đuổi theo thằng bé tên gọi là Jack, và nó đã tự hỏi con gà mái nhỏ có bị chôn giấu hay không, còn cây đàn hạc thì ra sao. Dick tiếp tục nói vì làm điều này dễ hơn là giữ im lặng khi nó nhìn thấy cả hai tiếp tục nhìn nó chòng chọc với một vẻ không có gì là thân thiện.
“Tôi cho là nó đã tự chơi bản nhạc cuối cùng từ nhiều, rất nhiều năm trước khi tôi ra đời.” Nó kết luận.
“Được,” người đàn bà nói. “Tất cả những lời này khá dễ nghe. Nhưng ta muốn nói là trừ phi toàn bộ câu chuyện mà ta nghe là truyện ngụ ngôn, cái tên quỷ nhỏ xấu xa này phải cùng một giuộc với tên trộm tồi bại kia. Dù sao đi nữa, tôi trông nó giống như đã đến từ cùng một nơi với tên kia. Ngoài ra…” Bà ta quay sang Dick, “nếu cậu có thể nói cho chúng ta biết đó là nơi nào, cậu phải đưa chồng ta tới đó và chỉ cho ông ấy xem. Để ông ấy có thể tìm kiếm ngôi mộ của ông cố ta. Và có lẽ,” đôi môi thâm của bà ta cong lên khi bà ta nói tiếp, “có lẽ nếu cậu tìm ra cây đàn của ông cố ta, cậu sẽ phải học để chơi một khúc nhạc với nó!”
Như đã nói, Dick không thích cả vẻ ngoài lẫn giọng nói của người đàn bà này. Nó xác định rằng bà ta gian xảo và khó tin như một con cáo. “Tôi có thể dễ dàng chỉ cho ông bà nơi tôi đến,” nó đáp. “Nhưng tôi không biết gì về Jack ngoài những điều tôi vừa nghe.”
“Chúng ta cũng thế,” người đàn bà nói. “Được, được! Khi chồng ta ăn xong, cậu sẽ đưa ông ấy theo con đường mà cậu đã đi, rồi chúng ta sẽ thử xem chúng ta sẽ thấy điều gì.”
Dick liếc nhìn gã khổng lồ, người từ nãy tới giờ đã nhìn nó với đôi mắt to và gần như không màu. Thế rồi, vì không biết hắn có làm theo những thói quen của ông cố hắn, hay vợ hắn sẽ ở lại bao lâu đó nữa, nó nghĩ tốt nhất là không nói gì nữa. Nó mỉm cười, trước tiên với người này, rồi với người kia, nhấp một ngụm sữa dê béo ngậy, rồi nói, “Khi ông bà đã sẵn sàng thì tôi cũng sẵn sàng.” Điều khó khăn nhất là việc giữ cho giọng nói của nó không chỉ ra rằng trái tim nó đang đập thật dồn dập.  Khi nghe thấy thế, gã khổng lồ ngồi vào bàn và bắt đầu bữa ăn mà vợ hắn đã chuẩn bị. Với muỗng trong tay, hắn sì sụp thưởng thức chậu súp to, thận trọng và thèm khát như một con chim sáo đá, hắn dùng những ngón tay vớt những cục thịt nóng bốc khói ra. Hắn ăn như một con cá heo. Khi ăn xong chậu súp, hắn bắt đầu tiếp tục với thứ gì đó trông như một cái bánh của dân chăn cừu đã được rán trong lò. Rồi sau khi xắn một tảng bơ xanh xanh to tướng, hắn nốc cạn thứ nước giải khát trong vại. Nhưng Jack không thể nói đó là rượu vang, bia, rượu táo hay nước.
Khi đã no nê, gã khổng lồ trẻ tuổi ngồi dựa người vào ghế, như thể để suy nghĩ về bữa ăn đã qua. Và chẳng bao lâu sau đó hắn ngủ thiếp đi. Người phụ nữ thì không thế. Bà ta đã tới ngồi ở mé bên kia lò sưởi, trong một cái ghế đu lớn, gần với Dick hơn, rồi bắt đầu đan. 
Đôi kim đan của bà ta liên tiếp tục phát ra những tiếng lách tách như tiếng củi nổ trong gian bếp. Trong lúc đó, gã khổng lồ há to mồm, thỉnh thoảng lại rùng mình trong giấc ngủ, cất tiếng ngáy to lên hay ngưng ngáy trong giây lát. Trong khi Jack thậm chí không mở miệng ra để ngáp, hoặc nhấc chân nó ra khỏi ánh lửa, gương mặt nặng như chì của bà ta vẫn quay về phía nó và nhìn nó đăm đăm như thể bà ta làm bằng đá.
Cuối cùng, với sự nhẹ nhõm của Dick, gã khổng lồ thức giấc và duỗi thẳng người ra. Trông hắn vui vẻ hơn sau một lúc chợp mắt, và không tỏ ra quạu quọ như một số người. “Ta muốn nói,” hắn nói với một tiếng cười khi nhìn lại Dick, “ta muốn nói là có nhiều loại bữa tối khác nhau!”
“Ha, ha, ha!” Dick cười phụ họa, nhưng không vui vẻ lắm. Sau đó gã khổng lồ sờ soạng tìm một cây gậy lớn bằng gỗ mận gai dựng sau cửa bếp. Hắn đội cái nón dẹt lên đầu, quấn một chiếc khăn quàng quanh cổ, rồi bảo rằng hắn đã sẵn sàng. Chưa bao giờ, dù trong những quyển sách hay ngoài đời, Dick từng nghe nói về một gã khổng lồ thích quàng khăn. Nó tụt khỏi cái ghế đẩu và đứng đợi. Bàn tay đưa lên che miệng, gương mặt hẹp vàng vọt trông càng ít thân thiện hơn bao giờ hết, người đàn bà nhìn nó một lúc lâu. Rồi bà ta quay sang nhìn chồng.
“Ờ, đêm nay trời lạnh,” bà ta nói, “nhưng ông sẽ ấm lại khi đi bộ, không cần đến tấm chăn da cừu.” Khi nghe nói tới từ lạnh, gã chồng quay lại và nhấc tấm màng che của một cánh cửa sổ nhỏ lên. Hắn đưa tay dụi mắt rồi nhìn ra.
“Lạnh!” hắn nói. “Trời rét cóng. Mặt trăng như một tảng bạc còn sương mù thì đặc như thỏi sắt, ngoài ra,” hắn càu nhàu, “”một cái chợp mắt không phải là một giấc ngủ, và tôi sẽ không nhấc chân nửa bước cho tới khi trời sáng.”
Cả hai cãi nhau một lúc, còn Dick thì lắng nghe. Nhưng cuối cùng, sau khi mở cánh cửa song sắt ra và khoá trái nó trong đó, chẳng để lại thứ gì cho nó qua đêm, ngoài ngọn lửa làm bầu bạn, họ rời khỏi nó hẳn, như Dick hy vọng. Nhưng chỉ một lúc sau, người đàn bà quay trở lại, trong tay cầm một sợi dây xích.
“Cứ phải thế!” bà ta nói, tròng cái vòng vào cổ chân nó và khóa lại. “Vậy nhé! Nó đã giữ an toàn cho con két già Poll của ta suốt nhiều năm, vì vậy nó cũng sẽ giữ cậu an toàn cho tới sáng!”
Bà ta khom xuống để cột đầu kia sợi xích quanh chân một cái bàn lớn. Rồi bảo, “Cứ ngủ đi, chàng trai, trong lúc có thể, ngủ ngon vào. Cậu sẽ cần đến mọi trí khôn của mình vào sáng mai.”
Tiếng bước chân của bà ta tắt hẳn. Nhưng khá lâu sau đó Dick vẫn nghe thấy giọng nói của cả hai thì thầm trong bóng đêm sâu trên đầu, dù bản thân nó chẳng có gì để suy nghĩ. Sau khi cố gắng một cách vô ích để giải phóng cái chân nó khỏi sợi dây xích, nó xem xét trong vòng khả năng cho phép với sự trợ giúp của cái ghế đẩu những ổ khóa và chốt cửa trên mọi cánh cửa sổ chắc chắn bằng gỗ sồi. Nó cho rằng những bức tường của căn bếp này phải dầy ít nhất ba mét và những cái chốt cửa cũng to tương ứng.
Trong lúc ngày càng nôn nóng tìm kiếm một lối thoát, nó chợt nghe thấy một tiếng sột soạt sau lưng, rồi một tiếng chít chít chói tai như tiếng còi vang lên. Nó quay phắt lại, và dưới ánh sáng của ngọn lửa, nó nhìn thấy một sinh vật mà nó cho là một con chuột vừa chui ra khỏi hang, dù đó là một con thú có hình dáng lạ lùng, dài ốm, lông thẫm, to gấp rưỡi một con chuột Anh lớn hết cỡ. Ngay sau đó, cả một bầy những con thú này bò ra khỏi lớp ván ốp chân tường. Chúng chạy nhảy nô đùa trên sàn nhà bếp và tìm kiếm thức ăn.
Thật may mắn, khi nghe thấy tiếng kêu, Dick đã đứng trên cái ghế cạnh cửa sổ. Nó nín thở khi nhìn thấy chúng, và có lẽ vì đã nín khá lâu, hoặc mùi tiêu của người khổng lồ đã chui vào mũi nó, nó chợt hắt hơi một cái. Sau âm thanh này, căn bếp trở nên náo loạn. Và nếu Dick không thực hiện một cú nhảy từ cái ghế lên bàn, bất chấp sợi xích ở chân, có thể đó là giây phút cuối của nó. May mắn hơn nữa là rìa của cái bàn cách khá xa những cái chân bàn, nhờ thế dù những con chuột đói tinh mũi cố trèo lên chân bàn để tóm lấy nó, chúng không thể trèo xa thêm được.
Thỉnh thoảng, ngồi xổm ở đó, trải qua những giờ dài dằng dặc – nép mình giữa những cái liễn và cốc vại của người khổng lồ - Dick ngủ gà gật, bất kể lũ chuột ồn ào đói khát, và cả tiếng gáy đinh tai nhức óc của những con dế trong những khe hở của bếp lò. Nó còn bị quấy rầy bởi một con ruồi khó chịu bị đánh thức, dù những con khác như nó, to bằng những con gián, vẫn đang treo mình ngủ ngon trên những bức tường trong ánh sáng lờ mờ của ngọn lửa. Đây hẳn phải là một nơi thiếu không khí và ẩm mốc, Dick nghĩ, mới có ruồi vào mùa đông. Và cứ thế, nó trải qua một đêm khốn khổ.
Đồng hồ chỉ năm giờ sáng khi gã khổng lồ và vợ hắn quay trở lại. Grackel, tên của hắn, vẫn tiếp tục càu nhàu, còn vợ hắn thì thúc ép hắn đi. Cuối cùng hắn cũng đã sẵn sàng. Vợ hắn nhìn hắn từ trên xuống dưới. “Chuyện gì cần làm thì tốt nhất nên làm cho nhanh,” bà ta bảo hắn. “Ông có thể ăn sáng ở một quán trọ nào đó. Và nhớ để lại cái đồng hồ bỏ túi của bà cô ông, ông xã ạ. Nó sẽ an toàn hơn ở nhà.”
Gã khổng lồ giận dỗi làm theo lời vợ hắn, rút khỏi túi một cái đồng hồ đẹp bằng vàng – lưng nó nạm thứ gì đó mà Dick trông như những viên ngọc bích, ngọc lục bảo và các loại đá quý khác – rồi đặt nó lên bàn.
“Cái đồng hồ đó đẹp đấy,” Dick nói, run rẩy trong bộ quần áo, vì người nó vẫn còn tê cóng vì lạnh.
“Phải, đúng vậy,” người đàn bà nói, rồi bà ta cất nó vào một cái kệ trong tủ chạn. “Bây giờ, nghe này Grackel,” bà ta nói thêm khi cả ba đã ra tới cổng lâu đài, “nếu ông không về nhà trước lúc mặt trời lặn ngày mốt, tôi sẽ nhắn cho các chú của ông, và họ sẽ tới tìm ông.”
Dick nhấc nón lên để chào người đàn bà khi sắp rời cổng lâu đài, nhưng trong mắt bà ta có nhiều ngờ vực đến nỗi nó vờ như nó làm thế chỉ để gãi đầu, thậm chí nó không thể thốt nổi lời chào đã nằm sẵn trong miệng.
Thế là nó cùng với gã khổng lồ đi vào màn tuyết đang sáng lên lấp lánh dưới ánh trăng. Vầng trăng vẫn còn ở tít phía chân trời. Họ đi chưa tới một dặm – một dặm theo cách tính của Dick – thì gã khổng lồ bắt đầu mất kiên nhẫn với những bước chậm chạp mà hắn buộc phải giữ để Dick có thể theo kịp, mặc dù cứ mỗi bước của hắn Dick phải chạy ba bước. Vì vậy, hắn khom lưng xuống mặt tuyết và bảo Dick trèo lên vai hắn. Dick trèo lên như một con mèo trèo lên cây cau, bám chặt vào những sợi tóc vàng to tướng của hắn, rồi họ đi tiếp.
Vắt vẻo trên một độ cao như thế, cách mặt tuyết đến khoảng sáu mét và nẩy lên nẩy xuống trên vai Grackel, với bàn tay xương xẩu của gã khổng lồ nắm gọn quanh hai đầu gối của nó, Dick cho rằng nó chưa bao giờ trông thấy một cảnh tượng nào kỳ diệu hơn những ngọn đồi và thung lũng lạ lùng đang sáng lấp lánh một màu sắc lạnh lẽo và yên tĩnh dưới ánh trăng. Chưa bao giờ, ngay cả trong những giấc mơ của nó. Nó tưởng như mình là một người Ả Rập đang lắc lư trên cái bướu của một con lạc đà trong sa mạc Gobi.
Gã khổng lồ tìm ra đường đi một cách dễ dàng. Vì dù có nhiều dấu chân của thú hoang và những con chim có vuốt dài trên mặt tuyết, những dấu chân của Dick vẫn rõ ràng hơn cả. Thỉnh thoảng họ đi qua những khóm cây lớn, những cành khô trơ trụi của chúng chĩa lên bầu trời đầy sao sáng, trông như những đóm củi khổng lồ. Chỉ trong vòng một phần tư thời gian mà Dick đã trải qua trong hành trình tới lâu đài, họ đã đi tới ngọn cây đậu. Dick hét vào tai gã khổng lồ rằng nó muốn được đặt xuống đất.
“Đây rồi,” Dick la lớn, khi nó đứng trên chân mình trở lại. Trong mấy phút vừa qua gã khổng lồ đã rất cảnh giác như thể hắn biết được mình đang ở một tình trạng nguy hiểm. Ngay khi Dick hết tê cứng đôi chân, nó chỉ về phía một mớ  dây lùng nhùng đóng đầy sương giá nhú lên trên rìa một vực sâu. “Hãy nhìn kia!” Nó hét to hết cỡ trong bầu không khí mù sương lạnh. “Đó là cây đậu. Ở dưới kia là nơi tôi đến. Nhưng tôi không biết nó có chịu nổi sức nặng của ông hay không.”
Nó gần như bật cười to khi nhìn thấy Crackel thận trọng bò tới miệng vực để nhìn xuống thế giới bên dưới. Nhưng gã khổng lồ không thể nhìn thấy gì dưới ánh trăng sáng lờ mờ ngoại trừ cây đậu khô queo vặn vẹo chạy dài xuống khoảng không vô tận bên dưới. “Hừm, hừm,” hắn lầm bầm một cách ngớ ngẩn.
Rốt cuộc, Dick đã hiểu vì sao cây đậu không bị phát hiện ra trước đó. Dường như về bản chất những người khổng lồ này là một chủng tộc ngốc nghếch. Grackel tỏ ra rất sợ sệt khi nhìn thấy cái vực sâu đến nỗi hai hàm răng của hắn bắt đầu va vào nhau như hai cái máy nghiền đá, còn mặt hắn thì trắng bệch như một tờ giấy. Dick rất hân hoan. Có vẻ như hắn sẽ không bao giờ dám đặt chân lên cây đậu.
Grackel nhìn nó. “Vậy đây là nơi mà ông cố ta đã trèo xuống khi ông rượt theo tên trộm Jack lang thang đó! Ta không thể nhìn thấy đáy của nó!” Hắn nói.
Dick lắc đầu. “Không thể, và tôi cho là cả ông ấy cũng thế! Dù tôi không thể nghĩ ra vì sao ông lại thích ông cố của vợ mình đến thế!”
“Hừ,” gã khổng lồ liếc mắt nhìn nó, “giả sử như cô ấy và ta là anh em họ và ông ấy là ông cố của cả hai thì sao nào?”
“Chà,” Dick nói, “tôi không biết gì về chuyện đó. Nhưng dù có Jack hay không có Jack, đây không chỉ là con đường xuống duy nhất tôi biết mà còn là con đường tôi đã trèo lên. Tôi cho là trước đây nó từng xanh tươi và đầy nhựa sống. Bây giờ nó đã héo khô. Và cứ mỗi mét leo lên tôi lại tưởng chừng như nó sắp đổ ập xuống đầu tôi.”
“Vậy sao,” gã khổng lồ nói. “Nhưng cậu muốn lên đây vì cái gì?”
“Ồ, chỉ để nhìn,” Dick nói với vẻ thờ ơ. Gã khổng lồ đứng lên với một tiếng thở dài.
“Được rồi,” hắn nói, ‘ta không nặng bằng ông cố của ta, ít ra là theo bức tranh chân dung của ông trong phòng khách. Và nếu ông ấy có thể trèo xuống an toàn khi cái thang này còn trẻ và xanh tươi, thì giờ đây dù nó đã già và khô héo, có gì ngăn ta làm điều tương tự chứ?”
Nói xong , hắn thò cánh tay dài mảnh khảnh ra bờ vực, nắm chặt những ngọn chồi khô héo và lắc mạnh cây đậu. Nó rung lên như một cái mạng nhện với toàn thể mọi sợi tơ, và Dick có thể nghe thấy những quả đậu khô xào xạc rụng khỏi cuống và rơi xuống mặt đất bên dưới.
“Vâng,” nó nói, “chuyện gì có thể sẽ có thể. Nỗi sợ duy nhất của tôi là khi đã xuống đó rồi, ông có thể nhận ra rằng không thể leo lên trở lại. Hoặc giả sử nó có thể đứt ở giữa chừng.”
Grackel nhìn chòng chọc vào mặt nó, rồi nhìn xuống mặt tuyết. “Hắn đang suy nghĩ về con gà mái nhỏ,” Dich nghĩ bụng, “và cây đàn hạc.”
“Phải, đây là một điều đáng sợ,” Dick lặp lại, “nếu như nó đứt giữa chừng.”
“Phải,” gã khổng lồ liếc mắt, “và có thể như thế. Nhưng còn ông cố của ta thì sao? Nó đã không đứt giữa chừng với ông ấy.” Dick không trả lời câu hỏi này. Nó muốn duy trì hòa bình.
“Chúng ta không còn lời nào để nói về nó,” gã khổng lồ nói. “Ta chưa bao giờ quá ngốc như mọi người hay nói. Cậu sẽ xuống trước, vì cậu chỉ bé tẹo, và ta sẽ theo sau. Ta sẽ không chờ thêm nữa.”
Nói xong, hắn vất cái gậy tày xuống vực và bắt đầu xắn tay áo. Dick lắng nghe một cách vô ích tiếng va chạm của cái gậy tày ở mặt đất bên dưới. Nó sợ cho con Jock khốn khổ.
Chờ đợi thêm cũng chẳng ích chi. Vì vậy, Dick bắt đầu trèo xuống cây đậu, và gã khổng lồ trèo theo sau nó với đôi chân vòng kiềng gầy gò, gần đến mức Dick phải né đầu để tránh đôi giày to tướng có những cái móc kim loại lấp lánh thay vì những sợi dây buộc của hắn. Những trái đậu bắt đầu rơi xuống đầu và vai Dick như những giọt mưa đá. May cho nó là chúng rỗng và khô.
Cuối cùng Dick nói, khi họ đã xuống tới gốc cây và nó đã nhìn thấy cái gậy tày cắm vào mặt đất phía ngoài bức tường đổ, “Giờ chúng ta đã tới nơi. Đây là nơi mà từ đó tôi đến. Đây là nước Anh. Và ông sẽ muốn đi ngay để tìm ngôi mộ ông cố của ông. Đó là con đường mà ông nên đi theo. Tôi đi con đường này. Cha tôi đang mong đợi tôi và tôi phải về nhà càng sớm càng tốt.”
Nó nói thế với hy vọng sẽ thoát nợ. Nhưng ít nhất Grackel cũng khá ma mãnh về điều đó. Hắn đứng, chống đôi cùi chỏ xương xẩu lên cái mái đổ nát của ngôi nhà, liếc nhìn đăm đăm Dick đến nỗi nó sợ rằng gã khổng lồ có thể nhận ra chỗ lồi lên của cái xương cẳng chân của ông cố hắn trong lớp cỏ bị thỏ gặm trơ trụi của khu vườn.
“Không, không, cậu nhóc của tôi,” cuối cùng hắn nói. “Thật công bằng và dễ dàng! Những người bạn tốt luôn đi cùng nhau. Cậu đã ăn uống ở nhà tôi, giờ cậu phải đãi tôi một bữa ở nhà cậu. Và có thể cha cậu có nghe nói về Jack. Tiếng cục tác của con gà mái của ông cố tôi, chưa kể tới tiếng bập bùng của cây đàn hạc, có thể vọng rất xa trong những ngọn đồi bé tẹo ở một đất nước nhỏ xíu như thế này! Nước Anh!”
Ánh sáng rạng đông hồng hồng và xam xám đang lấp ló ở chân trời phía đông. Dù rất giận, Dick cố hết sức nói lý lẽ với gã khổng lồ, nhưng cái gã to xác đần độn này cứ nhất quyết đòi đi cùng với nó. Vào lúc sáng tinh mơ này, trời lạnh tê người, và Dick rất mong báo cho cha nó biết không có chuyện xấu gì xảy ra với nó.
“Được,” cuối cùng nó nói, “Tôi đã nói với ông tới chín lần rằng không có một du khách nào đi theo đường này. Những thành phố lớn nằm ở phía kia.” Và nó chỉ về hướng tây. “Nhưng nếu ông phải tới, thì cứ tới! Và tôi chỉ hy vọng rằng cha tôi sẽ vui lòng khi gặp ông.”
Nó đưa hai ngón tay vào miệng và huýt lên một tiếng. Có tiếng ngựa hí đáp lại. Rồi từ sau một đống nhà đổ nát nơi nó đã dùng làm nơi ẩn náu qua đêm và kiếm chút cỏ khô để gặm, con Jock chạy tới bên chủ của nó. Lần này Grackel không còn lý do gì để phàn nàn về việc sự chậm lụt của Dick. Con Jock chạy nước kiệu lên mé trên thung lũng với chủ nhân của nó trên lưng, còn gã khổng lồ thì chạy bên cạnh họ như một con ngựa xứ Gallows.
Rốt cuộc, khi họ về tới một cánh rừng gần nông trại, Dick xuống ngựa; sau khi chỉ tay về phía những chiếc ống khói của các nông trại trong thung lũng bên dưới, nó bảo gã khổng lồ nấp sau những thân cây, trong lúc đó nó sẽ chuẩn bị tư tưởng cho cha nó gặp vị khách mà nó đã đưa về. Thế là Grackel cố hết sức nép mình giữa những hàng cây, còn Dick thì nắm dây cương dẫn con Jock đi về nhà.
Dù trời rất lạnh, cánh cửa vẫn để mở hé, và Dick bắt gặp cha nó đang thiu thiu ngủ trên một cái ghế sofa cũ nhồi lông ngựa đặt bên cạnh lò sưởi. Cái đèn lồng mà ông đã dùng khi ra ngoài tìm kiếm nó trong đêm vẫn còn đang cháy. Dick khẽ gọi ông và nắm lấy tay ông. Cha nó cựa quậy, lẩm bẩm trong những giấc mơ của ông; rồi ông mở hai mắt ra. Khi nhìn thấy Dick, ánh sáng bừng lên bên trong chúng như thể ông đã tìm thấy một kho báu vô giá.
Vì đã an toàn trở về nhà, chẳng bao lâu Dick được tha thứ cho tội đã ở ngoài quá lâu. Nó nhanh chóng kể cho cha nó nghe về chuyến phiêu lưu. Nhưng khi người trại chủ nghe thấy rằng gã khổng lồ đang thật sự nấp cách căn nhà không đầy một dặm, và đang thèm được ăn và ngủ, ông trợn tròn đôi mắt lên.
“Thế à?” cuối cùng ông nói. “Cao sáu mét và các thứ! Ái chà! Được, được! Và ông cố của anh ta cùng các thứ! Có vẻ như không xa lắm, phải không nào? Nếu anh ta đã tới, con trai ạ, chúng ta phải làm hết sức mình. Và vì cha không biết con đã ở đâu và làm gì,” ông nói thêm, liếc nhìn gương mặt khốn khổ của Dick, “có thể con đã làm nhiều chuyện khác. Nhưng ai có thể đoán được chứ? Ai có thể? Cây đậu đó!”
“Cha ạ, tệ nhất là người đàn bà trên đó,” Dick nói. “Thậm chí chỉ cần nhìn thấy bà ta thôi, máu của ta có thể đông lại. Cái mà bà ta muốn là con gà mái. Và nếu bà ta cũng xuống đây thì…”
“Cáo hay chồn, mỗi lần chỉ giải quyết một thứ, con trai ạ,” người trại chủ nói. “Bạn con đang ở ngoài trời lạnh, nếu chúng ta bắt anh ta chờ, có thể anh ta đang rất bồn chồn. Thế nên chúng ta nên ra đó ngay để xem chúng ta có thể làm gì. Rồi sẽ tính tiếp những chuyện khác.”
Ánh nắng mùa đông đã tràn lên khắp những cánh đồng băng giá khi họ trở về cùng với gã khổng lồ. Và họ phát hiện ra hắn đang bực mình, cáu kỉnh. Hắn chỉ cau mày khi nghe lời chào buổi sáng nhã nhặn của người chủ trại và càu nhàu rằng hắn đói gần chết và muốn ăn sáng. “Thật nhiều vào!” Hắn lẩm bẩm, liếc mắt nhìn Dick.
Người chủ trại nhìn hắn từ đầu tới chân hai mươi lần, rồi ao ước hơn bao giờ hết rằng giá mà Dick có thể thuyết phục được hắn ở lại quê hương của hắn. Ông không thích cả gương mặt xanh nhợt cáu kỉnh lẫn thái độ của hắn. Và máu ông sôi lên khi nghĩ tới việc Dick bị cột như một con khỉ vào một cái chân bàn. Tuy vậy, nguyên tắc của ông trong cuộc sống là biến một việc xấu thành việc tốt nhất. Điều sai chỉ đưa tới sự tệ hại nhất, ông có thể nói vậy. Vì thế ông quyết định thu xếp cho gã khổng lồ ở trong cái kho thóc lớn của ông, và giữ cho hắn luôn ở trong một tâm trạng tốt với thật nhiều thức ăn. Nếu họ có thể tống khứ hắn đi càng sớm chừng nào thì càng tốt chừng ấy. Nhưng họ phải thận trọng.
Thế là Dick và cha nó dẫn gã khổng lồ ra kho thóc, mấy con chó chăn cừu đi theo họ. Họ mở rộng những cánh cửa đôi, và Grackel khom người thấp, bước vào và nằm duỗi dài đôi chân ra phía đầu kia kho thóc, bên trên lớp cỏ khô. Sau đó họ đóng cửa lại và vội vã trở về nông trại để làm bữa ăn sáng cho hắn.
May mắn là không chỉ có một góc thịt lợn xông khói mà còn có cả một cái đùi cừu quay đã nguội trong tủ chạn được chuẩn bị cho bữa ăn trước đó, tuy nhiên người chủ trại không còn bụng dạ nào để ăn. Cùng với hai thứ trên, họ còn có một bình cháo đặc, nữa tá ổ bánh mì, một giỏ đầy trứng gà luộc và hai xô trà. Họ quay lại kho thóc. Gã khổng lồ khiến họ phải đi về hai ba chuyến trước khi hắn liếm nốt lần cuối cái lọ mật ong vỡ, chùi miệng bằng lưng bàn tay và bảo rằng hắn đã no. Thật sự, hắn đã nhồi nhét đầy bụng một cách vô tư.
“Con trai tôi bảo,” người chủ trại nói oang oang, “rằng anh đã có một đêm không ngon giấc. Bạn của nó cũng là bạn của tôi. Có lẽ bây giờ anh muốn chợp mắt trong lớp cỏ khô. Hãy tự nhiên thoải mái, chúng tôi sẽ sớm quay lại.”
Họ khép mấy cánh cửa kho thóc lại, rồi quay về dùng bữa sáng, vừa nhai nhóp nhép vừa trò chuyện và thỉnh thoảng lại lắng nghe tiếng gì đó như sấm động ở xa xa, nhưng Dick đã giải thích với cha nó rằng đó chỉ là tiếng ngáy của gã khổng lồ.
Trong một hai ngày sau đó, vị khách của họ tỏ ra khá vui tính và dễ chịu, nhưng cũng giống như những kẻ tự cao tự đại có thân hình chưa bằng phân nửa của hắn, hắn có bản tính vừa xảo trá vừa ngốc nghếch. Và vì giờ đây hắn phát hiện ra mình đang cư ngụ ở một nơi chẳng cần phải làm gì cả, chẳng có bà vợ nào khiến hắn nhức đầu và bận rộn, lại còn có thể ăn uống, ngủ nghê và rảnh rỗi suốt cả ngày dài, hắn không hề muốn lên đường đi tìm ông cố của hắn hay quay trở về nhà.
Hắn biết rất rõ, cái gã ma mãnh đó, rằng ngay cả khi vợ hắn nhờ mấy người chú đi tìm hắn và họ phát hiện ra cây đậu, chẳng ai trong số họ dám đặt chân lên nó. Điều đó có nghĩa là cái chết chắc chắn! Vì đó là những người khổng lồ có thân hình bình thường, trong khi đó bản thân hắn bị chế nhạo tại ngay chính quê hương của hắn là là một gã ốm yếu nhỏ con và bị đặt biệt danh là Grackel Tí hon. Nhưng về sau này Dick mới biết điều đó.
Khi chiều xuống, và những nông phu đã rời đồng áng quay về nhà, Grackel thường thả bộ dạo chơi trong những cánh đồng, dù cha của Dick, sau một lần cùng đi với hắn, không làm điều đó nữa. Ông đã mang những quả bí ngô và những củ cải lớn ra khỏi đồng vì đó là mùa cừu đẻ. Nhưng ông điên tiết lên khi nhìn thấy những dấu chân thô kệch của Grackel trong đồng lúa mì vụ đông của mình và những đống rơm trong sân phơi của ông bị phá hỏng vì Grackel ngồi dựa vào chúng để nghỉ lưng. Ông thậm chí càng nổi điên hơn khi có lần giữa đêm khuya gã khổng lồ bò vào nhà và nhìn chòng chọc vào ông khi ông đang nằm trên giường, và đã đá ngã thùng chứa nước trên đường đi của hắn. Cái gã to xác vụng về này đã càng ngày càng tai quái hơn.
Chưa đầy một tuần, cả Dick lẫn cha nó đã trở nên vô phương kế không biết phải làm gì với gã khách của họ. Người phụ nữ tốt bụng nấu ăn cho họ đã phải làm việc như trâu suốt ngày để chuẩn bị thức ăn cho hắn. Đối với hắn, một cặp vịt bầu hay ba bốn con gà mái béo mập chẳng hơn gì một bữa ăn qua loa. Hắn thường ngốn tới nửa con cừu quay trong một bữa ăn và còn đòi thêm. Thật sự cái dạ dày của hắn to hơn thân hình của hắn rất nhiều, và dường như hắn chẳng nghĩ tới cái gì khác ngoài cái bao tử của mình.
Ngoài chuyện này và những thùng bia và rượu táo ủ tại nhà đã lãng phí vì hắn ra, hắn còn nằm trong tâm trí họ như một đám mây đen u ám. Khi hắn đã nốc căng bụng, có vẻ hắn ít nhăn nhó và hiểm ác hơn. Nhưng trong vòng năm phút, hắn có thể gây ra thiệt hại nhiều hơn một con bò mộng giận dữ trong nửa giờ. Và khi đang bực bội hắn thường làm điều đó một cách chủ tâm. Bên cạnh đó, những lời đồn đại bàn tán về hắn ngày càng nhiều hơn trong các làng xung quanh. Người chăn cừu than phiền rằng cừu của anh ta bắt đầu bị mất. Vợ người thợ cày thì bảo hai đứa con nhỏ của cô ta không dám ló mặt khỏi nhà suốt cả tuần nay. Người ta kể rằng người chủ trại đã bắt được một con yêu tinh ác độc và phàm ăn trong những cánh đồng của ông, và đã xích hắn trong kho thóc. Một số khác bảo nó không phải là yêu tinh mà là một quái vật có tiếng rống như voi và có móng vuốt như một con chim.
Dù những cánh cửa lớn của kho thóc thường giữ gã khổng lồ ở trong đó suốt cả ngày cho tới khi trời nhập nhoạng, và người chủ trại đã trám kín mọi cái lỗ mà ông có thể tìm ra trên mái và trên các bức vách gỗ - và Grackel dễ say như bất kỳ một người phái yếu nào – người ta có thể nghe thấy tiếng ngáy ồn ào của hắn ở cách đấy tròn một dặm đường, và khi hắn cười – may là điều này khá hiếm hoi – nó nghe giống như tiếng một ngôi nhà đang sụp xuống. Ít nhất mọi chuyện là như vậy, dù có lẽ Dick còn gây ra nhiều tai hại hơn so với sự thật. Nó còn chưa gặp những người chú của gã khổng lồ.
Với bất kỳ giá nào, không còn có thể hy vọng giữ bí mật về sự có mặt của gã khổng lồ. Vì một lý do nào đó, luôn có những đàn chim – quạ đen, quạ gáy xám, sáo đá và đại loại – bay lơ lửng qua lại trên mái kho thóc. Những con ngựa và gia súc, ngay cả lũ heo, không bao giờ thấy yên ổn khi gã khổng lồ ở gần bên. Chúng gõ móng xuống đất, rống, hí và kêu la ỏm tỏi suốt cả ngày dài. Và bất kỳ con heo nào cũng kêu la ủn ỉn, vì Grackel có thể nuốt chửng nó trong một bữa ăn.
Kết quả của tất cả những chuyện này là giờ đây người chủ trại thường phát hiện ra những người lạ lẩn lút trong những cánh đồng của ông. Họ đến với hy vọng sẽ trông thấy gã khổng lồ. Và dù họ có thành công hay không, những lời đồn về kích thước, sự phàm ăn, sức mạnh và sự điên cuồng của hắn cũng lan truyền xa rộng. Thậm chí còn tệ hơn thế: hai đứa nhóc nhỏ ở làng bên đã tìm cách ẩn nấp trong một cái mương cho tới tối để bò tới kho thóc và nhìn qua một cái lỗ trên vách nơi một mớ giẻ đã bị rơi xuống, và chúng nhận ra đôi mắt to tướng trong như nước của gã khổng lồ đang dán vào chúng trong lúc hắn nằm trong đống cỏ khô. Lạnh toát cả người vì kinh hoảng, chúng chạy trối chết về nhà mẹ chúng, ngất xỉu và một trong hai đứa suýt chết vì sợ.
Dick gần như không có một giấc ngủ ngon vì mải suy nghĩ về gã khổng lồ và cách tống khứ hắn đi. Việc nhìn thấy vẻ khổ sở và sự lo lắng trên gương mặt nhân hậu của cha khiến lòng  nó tràn ngập sự ăn năn. Nó tìm đi tìm lại trong những quyển truyện nhưng không tìm thấy một sự giúp ích nào từ chúng. Nó cũng không phát hiện ra một lời khuyên nào, dù chỉ là một từ duy nhất, về những tên khổng lồ trong những cuốn sách của cha nó như Những người bạn của nhà nông hay Người bạn đường của nông dân.
Vào chiều Chủ nhật kế tiếp, cha nó đi bộ tới tòa thánh, cách đó sáu dặm đường mòn, để xin một lời khuyên của vị cha xứ già. Ông ta là người có hiểu biết nhất mà người chủ trại biết. Nhưng dù cụ già lắng nghe ông rất chăm chú, và rất tiếc cho sự rắc rối mà ông đang vướng phải, nỗi sợ hãi chính của ông cụ là gã khổng lồ có thể tìm ra đường đi tới nhà thờ. Một khi đã tới đây, làm sao hắn lại không tiếp tục gây thêm thiệt hại?
Thuở xưa, có những người khổng lồ – ông cụ nói với người chủ trại – họ sống suốt nhiều thế kỷ, và vào tuổi một trăm hoặc hơn, trông họ vẫn tráng kiện và đầy sức sống như một người bình thường chưa tới bốn mươi. Một gã như thế ở Carmarthenshire đã đánh cắp tất cả những cái cối xay đá trong phạm vi ba mươi dặm xung quanh và giải trí tìm vui bằng cách ném chúng xuống biển. Và dân chúng đã bị thiếu ăn suốt nhiều tháng trời. Những gã khổng lồ có thể gian xảo như một con cáo – vị cha xứ già bảo với ngưòi chủ trại - gắt gỏng như một con gấu, và là những kẻ háu ăn. Nhưng người chủ trại đã biết trước điều này.
Cuối cùng, một đêm nọ, gần tròn nửa tháng kể từ khi trèo lên cây đậu, Dick ngủ thiếp đi sau nhiều giờ suy nghĩ một cách phí công. Nó chợt giật  mình thức giấc với một ý tưởng tươi sáng trong đầu được gợi lên từ một giấc mơ.
Không thể chờ đến sáng. Nó lập tức tới phòng ngủ của cha nó, đánh thức ông dậy. Sau khi đã chắc ăn rằng gã khổng lồ không đứng rình nghe ngoài cửa sổ, nó chia sẻ với cha ý tưởng của mình. Người chủ trại cũng đã nghĩ tới một ý tưởng gần giống với ý của Dick. Họ cùng ngồi ở đó. Dick trùm một tấm chăn ngồi ở chân giường và bàn thảo kế hoạch với cha trong suốt một giờ. Họ lật ngược lật xuôi kế hoạch, và không thể nghĩ ra điều gì tốt hơn nữa.
Thế là ngay từ tờ mờ sáng hôm sau, Dick leo lên lưng ngựa, cho con Jock chạy trên lớp cỏ mềm một lúc để giảm bớt tiếng vó, rồi phi nước kiệu về phía con đường mà trước đó nó đã đi qua.
Lần này, nó mang theo một đôi găng tay da cũ và những cái móc trèo cây bằng sắt và nó đã leo lên tới ngọn cây đậu vào trước buổi trưa. Nó đi tới cổng lâu đài lúc trời vẫn còn sáng. Cho tới lúc này mọi chuyện vẫn êm xuôi trót lọt, dù nó không muốn bỏ mặc cha một mình gánh vác mọi rắc rối trong ngày.
Nhưng lúc này, khi Dick sắp nhảy lên tóm lấy sợi dây chuông, một tiếng kêu o o từ xa lọt vào tai nó – một  tiếng động ầm ầm đùng đục như tiếng những thùng rượu rum khổng lồ lăn trên nền đá của một căn hầm. Nó không nghe lâu lắm vì đoán ra đây phải là giọng của những người chú của Grackel đang trò chuyện với nhau. Khi nghĩ tới họ, nó run lên. Tệ hơn nữa, có vẻ như họ đang trong tâm trạng xấu. Nhưng những giọng nói đó đang trong cơn giận dữ hay chỉ là tranh luận, âm điệu của chúng không cho phép Dick đoán ra!
Cuối cùng những âm thanh đó tắt hẳn, và Dick (lúc này đang tê cóng người, vì một gió lạnh như băng đang lướt qua những bức tường của tòa lâu đài) quyết định chỉ giật mạnh chuông một cái. Rồi nó nấp ra sau một trụ ốp tường của lâu đài. Ngay sau đó người đàn bà nhìn ra từ cánh cửa xép trên cổng lớn. Dick theo dõi, và khi thấy rằng chỉ có một mình bà ta, nó ló ra và bước tới gần.
“À há,” bà ta kêu lên khi nhìn thấy nó, “vậy là cậu đã quay lại! Được, và trễ nửa tháng! Còn chồng của ta đâu, chàng trai trẻ? Trả lời ta ngay! Grackel!” bà ta gọi lớn, “Anh ở đâu? Anh ở đâu, Grackel?”
“Không có ở đây, hả!” Bà ta nói tiếp, đôi mắt đen quan sát thật kỹ Dick như con mèo quan sát một con chim. “Thế thì cậu quay lại để…” nói tới đây bà ta nhảy xổ vào Dick, nắm chặt thắt lưng chiếc áo khoác của nó, và khom lưng xuống nhìn vào mặt nó. “À, à! Giờ thì ta đã tóm được cậu rồi, cậu bé xinh đẹp.” Hai hàm răng của bà ta kêu lập cập khi bà ta nói. “Hãy bước vào đây, rồi cậu sẽ thấy cái mà cậu phải thấy!”
Dick gần như không còn hơi để nói. Nó cho rằng cuối cùng nó đã tới ngày tận mạng. Và rồi, đột nhiên người đàn bà lùi lại, buông nó ra, quay đầu đi và bắt đầu khóc.
Lúc này Dick biết rằng cái vẻ trông như nổi giận chủ yếu chỉ là nỗi đau khổ, có lẽ bà ta cho rằng chồng mình đã chết và không bao giờ quay lại. Nó mừng rỡ. Kế hoạch của nó hóa ra còn tốt hơn là nó từng hy vọng. Nó cố hết sức an ủi người đàn bà tội nghiệp. Nó nắm lấy bàn tay dài buông xuôi xuống của bà ta, cam đoan rằng chồng bà ta đang ở trong tình trạng sung sức nhất, khỏe hơn lúc hắn lên đường nhiều, và đang sống một cách tiện nghi thoải mái trong nông trại của cha nó đến nỗi không có gì thuyết phục nổi hắn tiếp tục hành trình tìm kiếm con gà mái và cây đàn hạc, hay dụ dỗ hắn quay về nhà. “Bà có khóc cũng chẳng ích gì,” nó nói, “điều đó không mang ông ta quay lại được.”
Cuối cùng người đàn bà lau mắt rồi bắt đầu lắng nghe nó. Bà ta đưa nó vào một căn phòng nhỏ rộng cỡ căn bếp, treo đầy những xác súc vật hong khói dành cho các bữa ăn. Một căn phòng lạnh lẽo và bí mật.
“Tôi cứ bảo chồng bà,” Dick nói, “là ông ta cần gửi lời nhắn cho bà rằng ông ta vẫn ổn, vẫn thoải mái. Tôi nghĩ đến bà, ma-đam ạ, và cứ nói mãi. Vì dù tôi chưa có vợ, tôi biết họ cần tin tức của chồng họ. Mẹ tôi cũng thế đối với cha tôi, nếu như bà không chết vào lúc tôi lên năm tuổi. Nhưng chồng bà trở nên quá béo tốt và không buồn chân bước ra khỏi nhà ngay cả để vận động chút đỉnh. Ông ta cứ ăn, ăn mãi, và chỉ nổi giận đùng đùng khi nghe nhắc tới từ nhà.”
Tôi bảo ông ta, “Nhưng vợ ông sẽ khóc mong ông quay về!” Tất cả những gì ông ta trả lời là đòi mang tới thêm một xô rượu táo. Vì vậy tôi tới đây một mình, suýt chết và rất đói vì lạnh.”
Tất cả những điều này đều do Dick bịa ra, và nó nói một cách khá trâng tráo. Nhưng người đàn bà quá vui mừng với các tin tức đó và tin lời nó. Ý nghĩ duy nhất của bà ta là đưa ngay chồng mình trở về nhà và nén lại cơn giận đối với hắn cho tới khi đó.
Bà ta bảo Dick rằng bà ta sẽ đi đánh thức các ông chú ngay lập tức. “Họ đang chợp mắt một tí,” bà ta nói. Rồi nó sẽ đi cùng với họ, và họ sẽ sớm thuyết phục được chồng bà ta quay về nhà. “Nếu hắn không chịu về, họ sẽ cưỡng chế hắn,” bà ta nói.
Nhưng Dick không thích kế hoạch này chút nào. Nó hỏi bà ta những ông chú sẽ ngủ bao lâu và nằm ở phòng nào. “Tôi mệt quá nên không thể nói chuyện với họ ngay bây giờ,” nó nói, “tôi lạnh cóng. Tôi không chịu nổi tiếng ồn ào của họ. Hãy để cho họ yên một lúc và đưa tôi đến nhà bếp, ma-đam, nếu không tôi sẽ sớm nghẻo vì lạnh. Hãy cho tôi chút thức ăn và một ca sữa, rồi tôi sẽ nói cho bà nghe một kế hoạch tốt hơn, tốt hơn nhiều so với kế hoạch của bà. Nhưng hãy im lặng!”
May mắn là lúc đó những gã khổng lồ đang nằm ngủ trong một căn phòng ở đầu kia của tòa lâu đài nơi họ thường chơi đánh bài và các trò chơi xưa cũ khác. Thế là Dick lại ngồi một lần nữa lên cái ghế đẩu kế bên bếp lò. Sau khi đã tỉnh người, nó giải thích cho người đàn bà nghe kế hoạch của nó.
“Điều tôi muốn nói là thế này,” nó nói. Rồi nó kể cho bà ta nghe rằng mọi người ở quê hương nó hoàn toàn kiệt sức với việc ông chồng lười nhác của bà ta cứ rong chơi khắp và chẳng thèm làm việc gì. “Ở dưới đó, họ cũng nhỏ như tôi,” nó nói, “và dù cha tôi – người không động tới một con ruồi – đã cố hết sức để tạo sự thoải mái cho chồng bà, cho ông ta ăn và giữ cho ông ta vui vẻ, tất cả đều phí công. Ông ta chẳng có lòng biết ơn hơn một con bọ chét.
“Ông ta đi quanh quẩn, làm những người đàn bà và lũ trẻ con sợ chết khiếp, lấy trộm đồ trong các cửa tiệm, và la hét, ca hát om xòm vào ban đêm khi tất cả những người dân lương thiện đang ngon giấc. Và lúc này lính của nhà vua đang tới. Và ngay khi họ bắt được ông ta, ma-đam ạ, họ sẽ lôi ông ta tới một căn ngục lớn nằm sâu dưới lòng đất, và ông ta sẽ không bao giờ thấy lại ánh mặt trời nữa. Vì dù chúng tôi nhỏ bé, ở quê hương chúng tôi có một cái chuồng to có thể nhốt chín, mười người khổng lồ chung với nhau, mỗi người bọn họ đều to gấp đôi chồng bà, và mỗi người đều rên rỉ vì bị xiềng xích. Bà thấy đó, ma-đam, chúng tôi không có ý làm hại họ, nhưng không thể giữ cho họ an toàn bằng cách khác được. Vì thế tôi tới để báo với bà.” Nó nhấp thêm một ngụm sữa béo rồi liếc nhìn ngọn lửa.
“Vậy nếu hai người chú của chồng bà,” nó nói tiếp, “những người mà bà nói là rất to khoẻ, dám mạo hiểm đi theo con đường của tôi, có đến ba ngàn mét từ ngọn tới gốc, họ sẽ khốn khổ. Họ có thể té xuống và gãy hết xương trên người. Và ngay cả khi họ trèo xuống an toàn và đi tới quê hương tôi, chuyện gì sẽ xảy ra cho họ? Tôi đồng ý rằng về mặt kích thước hình dáng họ to hơn những người dân ở chỗ chúng tôi. Nhưng về trí khôn, sự nhanh nhẹn và xảo trá, sao chứ, họ không hơn gì những con thỏ!
“Cứ suy nghĩ đi, ma-đam, dù tôi không muốn làm bà bị tổn thương. Giả sử khi chồng bà đi khỏi, một thằng nhóc nhỏ bé và trẻ tuổi cỡ tôi cứ  hết lần này tới lần khác lẻn vào lâu đài rồi trốn ra với những bảo vật truyền từ đời ông cố của bà mà không mất một sợi tóc trên đầu thì sao nhỉ? Tôi đồng ý rằng chuyện này không công bằng cho mấy, như bà có thể nói. Tôi đồng ý rằng Jack đã mượn cây đàn hạc mà không trả lại. Nhưng khi so một đứa bé trai với một người khổng lồ, ma-đam ạ, bà không thể không đồng ý rằng nó có trí thông minh và không hề hèn nhát.
“Ngoài ra, ở dưới đó chúng tôi có một một khẩu đại bác lớn và một thứ gọi là thuốc súng, có thể thổi tung năm mươi người khổng lồ thành từng mảnh trước khi họ có thể hắt hơi. Tôi muốn nói là,” Dick la lên, “sẽ có một tiếng động như thế này,” nó vỗ hai bàn tay vào nhau, “và tiếp sau đó là không còn thấy một mảnh nhỏ nào của các ông chú của chồng bà. Ngoại trừ một cái nút áo ở nơi này và một thứ khác ở cách đó mười dặm. Bà phải đưa cho tôi một vật gì đó để chứng minh là tôi đã gặp bà.”
Dick nói với một vẻ nghiêm trang đứng đắn tới mức một lần nữa người đàn bà tội nghiệp này bắt đầu sợ rằng bà ta không thể gặp lại chồng mình, dù còn sống hay đã chết, vì bà ta rất yêu chồng. Ngay cả khi hắn đã thề nguyện với bà và không giữ lời. Bà ta sẽ nói với hắn về chuyện đó, tất cả, khi thích hợp.
“Bây giờ hãy nghĩ xem,” cuối cùng Dick nói, “chồng bà đã nốc quá nhiều thức ăn và bia rượu đến nỗi ông ta gần như là ngu ngốc, không còn có thể nghe ra lý lẽ. Đúng là tôi có thể kiếm được một gia tài với việc dẫn ông ta đi vòng vòng từ thành phố này tới thành phố khác và thu tiền một đồng bạc cho mỗi lần nhìn ông ta. Nhưng tôi không có tâm địa xấu xa như thế, ma-đam ạ; và nếu bà muốn chồng bà quay về, chỉ có một điều duy nhất phải làm.”
Sau khi họ trò chuyện về vấn đề này thêm một lúc, người đàn và lấy từ trong ngực áo ra một sợi ruy băng có gắn mề đay trong đó có một bện tóc của chồng bà lúc hắn còn bé. Dù bện tóc này rất thô kệch, nó lóng lánh như vàng. Và ở lưng mề đay có một tấm gương mà – người đàn bà bảo – bạn có thể nhìn thấy người thân yêu nhất của mình trong đó. Nhưng bản thân bà ta không tin vào điều này lắm, vì khi nhìn vào bà ta chỉ nhìn thấy chính mình.
Thế là Dick nhìn vào, và trông thấy một người rất giống cha nó. Đôi má nó đỏ lên và nó cười với tấm mề đay; và cha nó dường như đang nhìn lại nó. “Còn ở mặt này là cái gì?” Dick nói với người đàn bà và lật chiếc mề đay lại.
“Ồ, cậu có thể nhìn thấy điều mà cậu đang mơ trong đó. Nhưng với tôi thì chỉ có những giấc mơ màu đen.” Bà ta nói.
Dick nhìn vào, và màu trắng đục trở nên trong veo như gương ngay lập tức. Nó nhìn thấy một hình ảnh bé tẹo của cây đậu thần của Jack, nhưng còn tươi và xanh ngắt. Nó bỏ món trang sức này vào túi áo khoác và bảo người đàn bà rằng đây sẽ là một chứng cớ rất tốt để chồng bà ta biết rằng nó đã gặp và nói chuyện với bà ta. “Vì bà thấy đó,” nó nói, “nếu tôi không có gì để đưa ra cho ông ta xem, ông ta sẽ không tin tôi.”
Thông điệp người đàn bà gửi cho Grackel là bà ta đã nghe thấy với niềm vui rằng hắn đang sống hạnh phúc ở nơi hắn tới, rằng hắn phải nhớ cư xử đúng mực và rằng các ông chú của hắn sẽ không tới tìm hắn miễn là bà ta biết hắn vẫn an toàn. Tất cả những gì bà ta mong muốn là được nhìn thấy hắn, và hắn nên quay về ngay trong một đêm, vì có một bữa tiệc đang được chuẩn bị.  Đây là bữa tiệc hàng năm để ghi nhớ ngày sinh nhật của ông cố đã qua đời từ lâu của họ.
“Hắn sẽ nhớ điều này,” người đàn bà bảo Dick. “Hãy nói với hắn rằng các ông chú và cháu và anh em họ, láng giềng và bạn bè của hắn ở mọi nơi xa đều về dự tiệc, và sẽ không bao giờ tha thứ cho hắn nếu hắn vắng mặt. Bảo hắn rằng ta không nhớ hắn nhiều lắm dù ta nghĩ ta nên như thế. Bảo hắn ta có khóc chút ít khi nghĩ rằng hắn đã chết, rồi cười to khi biết hắn vẫn an toàn. Nếu hắn nghĩ ta không muốn hắn quay về nhiều cho lắm, hắn sẽ quay về. Nếu hắn ở lại quê hương cậu mãi mãi, ta là một người đàn bà mất chồng.”
“Ồ, để việc đó cho tôi. Nhưng tôi sẽ có gì để đền bù lại sự vất vả của mình?”
Người đàn bà đề nghị một túi tiền. Nó đang nằm trong tủ đồ.
“Quá nặng,” Dick nói.
Bà ta mang ra Đôi hia Bảy dặm của gia đình.
Dick cười to. Nó hầu như có thể chui vào ngủ được trong một chiếc của đôi hia đó. Bà ta đưa ra cái cốc của chồng mình. Dick lại cười phá lên. Nó nói chiếc cốc quá to để làm chậu rửa bát và chưa đủ to để làm một bồn tắm. “Ngoài ra,” nó nói, “nó chỉ làm bằng bạc.”
Cuối cùng, như Dick hy vọng, bà ta nhớ tới cái đồng hồ bỏ túi của chồng mình – cái đồng hồ đã từng thuộc về một trong các bà cô của hắn. Tất nhiên đây chỉ là một cái đồng hồ nhỏ xíu so với cái đồng hồ của ông bố khổng lồ, đang an toàn trên gác. Nước bọt của Dick ứa ra khi nó cầm sợi dây và nhấc cái đồng hồ ra khỏi bàn tay của người đàn bà. Những thứ mà nó đã cho là ngọc bích và ngọc lục bảo không phải là những loại đá quý thông thường đó. Có một viên ngọc cóc[7], một viên ngọc sấm[8], một viên pha lê Ả Rập và một viên ngọc “blagroon”[9] – dù Dick thậm chí không biết tên của chúng.
“Nhưng tôi đã hy vọng,” nó nói nhìn vào cái đồng hồ và giả vờ thất vọng, “rằng nó không phải là một cái đồng hồ bỏ túi thông thường, mà là cái đồng hồ có chút ít phép màu trong đó. Tôi nghĩ, có lẽ, nói cho cùng, tôi nên kiếm tiền bằng cách đưa chồng bà đi biểu diễn ở khắp các hội chợ vùng quê. Bà thấy đó, như tôi đã nói, ông ta không muốn quay về nhà.”
Nhưng người đàn bà chỉ cho nó rằng nếu nó ấn vào một cái nhíp bí mật ở rìa cái đồng hồ nó có thể làm cho thời gian chậm lại – nghĩa là vào bất kỳ lúc nào nó cảm thấy thật sự hạnh phúc; và nếu nó ấn cái nhíp bí mật bên trái nó có thể làm cho thời gian đi nhanh hơn, khi nó cảm thấy khốn khổ, hay mệt mỏi vì đang chờ đợi một việc gì đó hay một người nào đó. Và không chỉ có thế, còn có một cái nhíp thứ ba. “Nếu cậu ấn vào nó,” bà ta nói, “cậu có thể biết chuyện gì sắp xảy ra.”
Dick rất hài lòng với cái đồng hồ, và để thử nghiệm, nó ấn vào cái nút bên trái, và dường như không có một khoảnh khắc nào trôi qua cho tới khi khi đột ngột có tiếng ồn ào ầm ĩ phát ra từ phía sau tòa lâu đài, và nó biết rằng hai người chú của Grackel đã thức giấc. Tiếng ồn do họ tạo ra lớn đến nỗi nó nghe như thể một cái núi lửa đang phun, và nó làm Dick sợ hãi. Thế là, dù nó giả vờ như đang vội, nó để cho cái nhíp tiếp tục phát huy tác dụng, đeo cái đồng hồ quanh eo nó, và nhét cái đồng hồ vào dưới quần của nó.
“Nếu chồng bà không về với bà trước hoàng hôn ngày hôm sau,” nó nói với người đàn bà, “hãy cử hai người chú đi tìm tôi. Tất nhiên cây đậu có thể chịu được sức nặng của họ, và dù có thể họ không bao giờ trở về nữa, ít nhất họ cũng có cơ hội xử tội tôi.”
“Nếu bây giờ cậu đi với tôi,” người đàn bà nói, “cậu sẽ nhìn trộm họ một cái, và họ sẽ không trông thấy cậu. Nhưng hãy giữ im lặng! Họ có đôi tai thính như ngọn gió đông!”
Thế là rón rén như một con mèo, Dick đi theo người đàn bà. Bà ta dẫn nó lên một cái cầu thang rất dốc như thể nó đang leo lên một tòa kim tự tháp, rồi đưa nó vào một căn phòng nhìn sang căn phòng mà những người khổng lồ đang ngồi. Dick bò tới trước, hơi tựa vào giữa những cái chân lan can của căn phòng, nhìn vào trong. Họ đang chơi say mê một trò chơi nào đó trông như cờ đô-mi-nô thông thường, dù những quân cờ to như những tấm bia mộ. Trong những cuốn sách mà Dick từng đọc chưa bao giờ nói tới những người giống như hai gã khổng lồ này. Họ ngồi như hai quả núi, và tiếng va chạm của những quân cờ đô-mi-nô nghe như tiếng những cỗ xe của vua Pharaoh. Và khi một trong hai người đặt một quân cờ xuống bàn và lẩm bẩm. “Gấp đôi!”, nó nghe như tiếng ho của một con sư tử. Dick không cần ngắm nhìn họ lâu hơn. Nhưng vừa khi nó ra khỏi tầm nghe của họ, nó giả vờ cười phá lên.
“Thật hay,” nó bảo người đàn bà, “tôi xin nói với bà. Họ là những người to lớn, hai ông chú của chồng bà, và không cây đậu nào có thể chịu nổi một nửa sức nặng như thế. Tôi sẽ giữ cho chiếc mề đay an toàn, bà có thể tin tôi, ma-đam, và nếu cha tôi cho phép, có thể tôi sẽ quay lại đây cùng chồng bà để dự bữa tiệc.”
Người đàn bà này có bản tính bần tiện và bủn xỉn, nhưng vì đã biết Dick ăn chẳng được bao nhiêu, bà ta nói nó sẽ được hoan nghênh. Thế là nó chào từ biệt bà ta và lên đường.
Khi nó về tới nhà, trời đã tối đen như mực, nhưng cha nó vẫn còn thức đợi nó. Họ nôn nóng muốn tống khứ ngay gã khổng lồ đến nỗi không thể chờ cho tới sáng. Họ cùng ra khỏi nhà với một chiếc đèn lồng và đi tới chỗ kho thóc. Khi đã vào bên trong, họ hét to hết mức vào tai của Grackel. Cuối cùng họ cũng đánh thức được hắn và trao cho hắn lời nhắn của vợ hắn. Hắn rất khờ khạo sau giấc ngủ chưa đủ và một bữa no căng trước đó, nên nói chuyện với hắn chẳng khác nói chuyện với một con la. Ngay cả khi đã hiểu ra điều họ đang nói, hắn vẫn ngồi nhấp nháy mắt, mặt mày ủ ê và sưng sỉa vì bị quấy rầy.
“Làm sao ta biết,” hắn nói, “những gì cậu nói là có thật? Một câu chuyện rất hay, rất khá, nhưng ta không tin một lời nào trong đó cả.”
Nhưng khi Dick nói với hắn về bữa tiệc đang được chuẩn bị, rằng tất cả những gì vợ hắn muốn là được gặp lại hắn; rằng nếu không thì các ông chú của hắn có thể sẽ tới đây tìm hắn; và cuối cùng, khi nó đưa cho hắn xem tấm mề đay của vợ hắn (còn cái đồng hồ thì Dick giấu biệt), Grackel tin những gì hắn đã nghe. Sáng hôm sau, cả hai cùng lên đường đi tới chỗ cây đậu. Và người chủ trại tiễn chân họ với những nụ cười long lanh trong đôi mắt.
Đó là một buổi ban mai rạng rỡ và đẹp trời. Một ít tuyết đã rơi trong vài giờ và phủ trên những thảm cỏ như những tảng bột cọ sago[10]. Những cái ao đóng băng cứng như thủy tinh. Trong khi Dick cưỡi con Jock phi nước kiệu, đôi chân ốm lêu nghêu của gã khổng lồ bước bên cạnh nó như hai cánh quạt của một chiếc cối xay gió. Dick rất vui sướng với ý nghĩ rốt cuộc đã tống cổ được gã khách đến nỗi nó huýt sáo luôn mồm như một con chim sáo.
Grakel hỏi, “Vì sao cậu huýt sáo?”
“Vì sao ư?” Dick đáp, “vì nghĩ tới một bữa tối vui vẻ mà ông sắp sửa trải qua, và việc vợ ông sẽ vui sướng thế nào khi gặp lại ông, và một bữa tiệc cực kỳ đang chờ ông ở đó. Gần như tôi có thể ngửi thấy mùi bò mộng quay để làm thức ăn nguội cho bữa tiệc; và hẳn phải có tới một tá lợn béo được mổ để làm bánh pu-đinh đen.”
Lời đáp này chỉ khiến cho Grackel thêm nôn nóng đi nhanh hơn.
Khi họ tới chỗ gốc cây đậu phủ đầy sương giá đang tan chảy vào giữa buổi sáng, Dick nói, “Bây giờ chúng ta sẽ tạm biệt ở đây một thời gian. Khi ông đã lên tới ngọn cây, hãy gọi to một tiếng để cho tôi biết ông đã tới nơi an toàn. Sau đó tôi sẽ cưỡi ngựa trở về, và tôi sẽ đến để gặp ông ở đây vào ngày mốt, khoảng hai giờ.”
Dù đó là một điều rất dại dột, Dick không thể cưỡng nổi ý muốn mang theo bên mình cái đồng hồ của Grackel. Nó đã móc sợi dây quanh eo nó bên dưới lưng quần. Và lúc này cái đồng hồ lồi ra như một cái bướu không đúng chỗ. May mắn là gã khổng lồ đang nhìn tới một phía khác nên không nhận ra cái bướu này. Nhưng bấy giờ, vì họ đứng yên, và tất cả đều im lặng, hắn phát hiện ra tiếng tích tắc của cái đồng hồ.
“Tiếng mà ta nghe thấy là tiếng gì thế?” Hắn hỏi.
“Đó là tiếng tim tôi đập,” Dick đáp.
“Sao nó lại đập lớn thế?” Grackel hỏi.
“À,” Dick nói, với một giọng buồn bã, “hẳn đó là vì nỗi buồn phải tạm chia tay với ông, dù chỉ một thời gian ngắn! Chúng ta từng có chút ít bất đồng, giữa tôi và ông, về những con cừu, tiếng ngáy và rượu táo. Nhưng bây giờ chúng ta là bạn bè, và tất cả những chuyện đó đã qua đi. Có một món gì đó nho nhỏ mà ông có thể tặng để tôi nhớ tới ông cho tới khi ông quay trở lại không?”
Nghe thấy thế, gã khổng lồ chúm môi lại, và từ tốn thò tay vào túi. Cuối cùng, hắn rút ra từ bên dưới cái nắp túi bằng da một mẩu nến trắng đựng trong một cái hộp.
“Chả có gì đáng để nhìn,” hắn lầm bầm, “nhưng khi được đốt lên, nó sẽ không bao giờ tắt cho tới khi cậu nói, Tắt, nến, tắt! thậm chí dù cho nó được để cháy trong một cơn bão lớn suốt một trăm năm.” Dick đã giữ mẩu nến này cho tới khi nó gặp người trong mộng của nó mới đốt lên. Nhưng đó là chuyện về sau này.
“Này,” Grackel nói, “hãy chú ý giữ gìn nó, và cậu phải trả lại ta khi chúng ta gặp lại nhau. Phải, và lúc này chắc chắn là ta đói bụng rồi. Có nhiều món ngon đang chờ ta ở nhà – những cái giò heo nhồi táo, và heo sữa lăn bột, và bia rượu ê hề! Và ta sẽ gom thật nhiều cỏ khô, chăn và da ngựa. Đêm qua ta gần như không ngủ được vì lạnh.”
Dick gật đầu và cười to. Gã khổng lồ bắt đầu trèo lên cây đậu. Dick dõi nhìn theo cho tới lúc hắn chỉ còn nhỏ bằng một người bình thường, rồi tiếp đến không to hơn một chú lùn, và chẳng bao lâu sau đó hắn biến mất khỏi tầm mắt. Khoảng một giờ sau đó, vì Grackel gầy gò và gân guốc như một vận động viên leo núi, Dick nghe thấy một tiếng đùng đùng ở trên cao. Nó biết rằng đó là tiếng hú gọi của Grackel; rằng hắn đã đến nơi an toàn. Khi đó, nhanh như chớp, nó bắt đầu gom lại một đống to những cành lá dương xỉ chết khô hồi năm ngoái, những cành khô và cỏ khô, rồi chất chúng xung quanh gốc cây đậu. Xong xuôi, nó thò tay vào túi tìm viên đá lửa và hộp mồi lửa mà cha nó đã đưa cho nó hồi đêm. Nó sờ soạng sờ soạng mãi; và tim nó đập nhói lên một cái to rồi hầu như đứng im hẳn. Trong lúc vội ra đi, nó đã để quên cả hai thứ đó lại trên bàn nhà bếp!
Dick rút cái đồng hồ của Grackel ra để xem giờ. Đã mười hai giờ kém bảy phút. Bây giờ, nó không thể về nhà trước khi đêm xuống và quay lại đây trước lúc rạng đông. Đó là một hành trình dài, và con đường sẽ khó đi trong bóng tối. Và chuyện gì sẽ xảy ra nếu gã khổng lồ về tới lâu đài và phát hiện ra rằng cái đồng hồ của hắn đã biến mất, hắn có trèo xuống cây đậu để lấy lại nó không? Dick ấn vào cái nút bên phải của cái đồng hồ, vì dù nó đang nhức đầu nhức óc, nó muốn suy nghĩ thật kỹ và làm cho thời gian chậm lại. Và khi đang suy ngẩm ủ ê bên gốc cây đậu, nó nhìn vào chiếc kim thứ hai, dù nó không to hơn một cây kim mạng, nó đang di động chậm chạp tới mức Dick có thể đếm đến hai mươi giữa hai lần kim nhảy. Lúc này mặt trời đã lên tới giữa đỉnh đầu, và đang lấp lánh như một ngọn lửa nhỏ trong lớp vỏ kính của chiếc đồng hồ, nhảy múa một cách cuồng loạn trong đôi mắt nó đến nỗi cuối cùng nó gần như không thể nhìn thấy được.
“Sao chứ,” đột nhiên Dick nghĩ ra, “kính phóng đại. Nó là một mảnh thấu kính hội tụ.”
Ngay lập tức, sau một cái liếc mắt nhanh lên  ngọn cây đậu, nó lôi ra con dao bỏ túi và nạy lớp vỏ kính ra. Nó rọi mảnh kính lên lớp lá khô dưới những tia sáng nóng rực của mặt trời ban trưa. Trong giây lát, với nỗi vui mừng lớn lao của nó, một làn khói xám mong manh uốn éo xuất hiện trên bề mặt của lớp lá dương xỉ vàng. Rồi một chấm tròn đen nhỏ bằng đầu mũi kim bắt đầu lan rộng ra. Rồi một màu đỏ xuất hiện ở rìa vòng tròn. Lúc này Dich bắt đầu thổi thật nhẹ trong lúc vẫn giữ mảnh kính rọi thẳng những tia nắng vào đó. Phía trên bắt đầu cháy âm ỉ, và ngọn lửa âm ỉ bắt đầu lan rộng, và lúc này Dick thổi với hết sức của nó.
Ngay sau đó, một luồng hơi nước dầy đặc xuất hiện, và lớp cỏ khô bùng cháy thành những ngọn lửa. Khi những lớp cành lá khô này đã cháy mạnh, bản thân cây đậu cũng bắt đầu bốc cháy. Những ngọn lửa – và âm thanh của chúng là một thứ âm nhạc lạ lùng – gầm lớn trong cơn gió mùa đông. Những tia sáng màu đỏ, màu xanh xanh, màu đồng hun và vàng – đang táp và phóng từ sợi này sang sợi khác, cuốn lên cao, trong lúc một cột khói bắt đầu cuồn cuộn bốc lên trên bầu trời xanh thẳm của buổi trưa.
Dick nhìn đăm đăm những ngọn lửa với niềm hân hoan và kinh hãi. Chưa bao giờ trong đời, nó nhìn thấy một cuộc bắn pháo hoa huy hoàng như thế. Ngay cả con Jock, đang lặng lẽ nấp sau một bức tường đổ, cũng ngẩng đầu lên và cất tiếng hí vang. Thật sự, mọi người trong bảy quận lân cận của Gloucestershire đều có thể nhìn thấy ngọn lửa của cây đậu. Và ngọn lửa càng lúc càng cuốn lên cao, những quả đậu và hạt đậu rơi như mưa xuống, cùng với những cuộn lửa và khói. Tiếng gầm của lửa dần dần trở nên xa xăm hơn, cho tới khi cuối cùng ngọn lửa bên trên chỉ còn là một chấm đỏ lập lòe, như một mặt trời bé xíu thứ hai, ở trên bầu trời cao tít. Rồi nó mờ dần và biến mất.
Dick thở một hơi dài, phần vì nuối tiếc và phần vì nhẹ cả người, biết rằng cây đậu thần của Jack đã ra đi mãi mãi. Ít ra thì cũng có thể là như thế, vì nó đã khá khôn ngoan khi nhặt vài ba hạt đậu khô bỏ vào túi trước khi gom những nhiên liệu lại cho ngọn lửa. Nó có ý định một ngày nào đó sẽ gieo những hạt đậu này; hãy chờ xem.
Nó đập vỡ lớp băng trên một dòng suối nhỏ đóng băng gần ngôi nhà đổ, uống vài ngụm nước lạnh buốt người nằm bên dưới, rồi vẫy nước lên đôi má và đôi mí mắt nóng rẫy của nó. Sau đó, nó huýt sáo gọi con Jock, rồi nhảy lên yên. Một lần nữa nó rút cái đồng hồ của Grackel ra, ấn cái nhíp bên trái, rồi sau khi ngoái lại sau lưng lướt mắt nhìn quanh lần cuối, nó phi ngựa trở về nhà. Và cha nó vui mừng không còn lời để tả khi gặp lại nó.





[1] Gloucestershire (đọc là Glos-tə-shər) là một quận ở vùng Tây Nam nước Anh., bao gồm dãy đồi Cotswold Hills, một phần của thung lũng trù phú của con sông Severn, và toàn bộ khu rừng Forest of Dean.
[2] Fatima: người vợ thứ tám của Râu Xanh, đã thoát chết khi các anh của cô giết chết Râu Xanh. (theo tuyển tập truyện cổ của Charles Perrault).
[3] Old Mother Hubbard: nhân vật trong một bài hát ru con dân gian phổ biến ở Anh.
[4] Molly Whuppie: một nhân vật trong câu truyện thần tiên cùng tên  phổ biến của nước Anh.
[5] Sir Richard Whittington: (1354–1423) Thị trưởng London và là một Thành viên của Quốc hội Anh.
[6] Cây đậu thần của Jack: đây là một truyền thuyết dân gian Anh, còn có tên khác là “Jack, người giết những gã khổng lồ”. Được xuất bản dưới dạng sách in lần đầu tiên năm 1807 do tác giả Benjamin Tabart sưu tầm và tuyển chọn.
[7] Toadstone: là một loại đá quý có tính chất huyền thoại được cho là có trong đầu của những con cóc già và có tác dụng giải độc. Tuy nhiên, về cơ bản nó được hình thành từ hóa thạch của Lepidotes, một giống cá vây tay đã tuyệt chủng sống vào thời kỳ kỷ Jura và kỷ Phấn trắng. Cái gọi là ngọc cóc thật ra là bộ răng của loài cá nói trên đã hoá thạch và có bề ngoài rất giống đá quý. Ở một thời điểm nào đó, loài người bắt đầu gắn liền những hóa thạch này với những loại châu báu mà một số người tin là được hình thành trong đầu của những con cóc vì những nguyên nhân siêu nhiên nào đó. Các chi tiết về Toadstone xuất hiện trong ghi chép lịch sử về triều đại của Pliny the Elder (23-79 sau CN). Theo Paul Taylor ở Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, ngọc cóc được xem là chất giải độc và đồng thời là dược liệu trị chứng động kinh. Từ đầu thế kỷ 14, mọi người bắt đầu tô vẽ về những khả năng mầu nhiệm của những viên ngọc cóc. Theo truyền thuyết dân gian, ngọc cóc phải được lấy ra từ một con cóc già còn sống và theo hướng dẫn của nhà tự nhiên học Edward Topsell sống vào thế kỷ 17, con cóc phải được đặt trên một mảnh vải đỏ trong khi lấy ngọc. (Theo wikipedia.com)  
[8] Thunderstone: một loại đá quý có tính huyền thoại khác, về cơ bản là một mẫu đá quý có hình chữ V, giống như một lưỡi rìu, được tương truyền là rơi từ trên trời xuống. Những câu chuyện dân gian về ngọc sấm có thể tìm thấy trong nhiều nền văn hóa trên thế giới , từ Hy Lạp tới Trung Quốc, và thường gắn liền với một vị thần sấm chớp. Gần đây, chúng ta biết rằng những loại đá này thường là kết quả của một tia sét chạm vào mặt đất. Dưới sức nóng cực độ của tia sét, cát trong đất tan chảy và kết tự thành một khối thạch anh. Đó là lý do vì sao ngọc sấm ở các sa mạc thường to hơn và có hình trụ nhiều hơn, trong khi ở những vùng đồng cỏ, chúng thường có hình dáng một lưỡi rìu và mỏng hơn rất nhiều. (Theo wikipedia.com)  
[9] Hiện người dịch chưa tìm ra được nguồn gốc và nghĩa của từ này, nên tạm ghi nó theo nguyên bản tiếng Anh. Rất mong độc giả nào có thông tin về từ này vui lòng giúp đỡ để chúng tôi có thể điều chỉnh lại bản dịch trong lần tái bản. Xin chân thành cảm tạ.
[10] Thức ăn bột dưới dạng viên cứng màu trắng, dùng làm bánh putđinh, thu được từ vỏ xốp của một loại cây cọ.