Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013

Không phải


hơi men dậy
đau vừa đầy
không men đau chìm đáy
có men ngàn bão khơi

ngày xa tôi
em nói gì em...
ngày trôi... trôi...
tôi hứa gì em...


ngày tình mềm
như ngàn cỏ níu trời xanh
ngày tình mình
vẫn tin sẽ có ngày lành

tiếng gọi ngày xưa
tưởng chừng...
gầm gào hơn bão tố
giờ biết rồi
chỉ những hư âm

tiếng gọi ngày thương
suốt con đường
từ đó ta đi
suốt mối tình
thành cõi thiên thu
suốt miền trần
thành nỗi đau... ơi dài.... dài miên viễn

em.... gọi EM thôi...
em tên gì tôi cũng quên rồi
em... gọi EM thôi
đầy vơi gì cũng bấy nhiêu thôi

đầy vơi gì.... tôi đã mệt rồi
chỉ xin được
nằm chết im lìm
như một
đứa trẻ nghẹt thở
trong nôi





Thứ Tư, 12 tháng 6, 2013

Xung đột tình yêu



không muốn  (nghe về em)
không muốn  (biết về em) 
không muốn  (nghĩ về em)
không muốn  (nhớ về em)
nhưng...
không muốn... quên em

không muốn,

anh không muốn đâu
không muốn
anh không bao giờ muốn

em hãy tự hỏi lại mình
và em hãy đến
hãy trở về...
anh vẫn chờ em

bay về Nam đi
con chim côi
xa tổ lìa cành
bay về Nam đi
con chim non
thương tích đầy thân

anh ít nhất
một cành khô
còn đó....

về đi em
về đi em
về đi lúc mắt còn hoen lệ chờ








Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013

HAI BẢN DỊCH BÀI HÁT EM LÀ HOA HỒNG NHỎ CỦA TRỊNH CÔNG SƠN


Cách  đây vài hôm, tôi nhận được một e-mail từ một người bạn thơ văn đã lâu không liên lạc, thư viết: "Anh 2 ơi, bé cần dịch bài nhạc này sang English mà bé dịch không hay bằng anh 2, bé không biết anh 2 có thời gian giúp bé k, bé định cho bé Nhã hát trong buổi lễ ra trường, bài hát này hay và rất ý nghĩa bé muốn share với người nước ngoài! :) Tuần tới là lễ ra trường rồi không biết trong 2 ngày anh 2 có rảnh không ? :)
bé cám ơn anh 2 trước nhé!"

Bài hát được yêu cầu giúp dịch là bài Em là hoa hồng nhỏ của NS Trịnh Công Sơn. Người bạn thơ này còn là một cô em gái rất đỗi thân tình từ lâu, nên tôi khó lòng từ chối, và tôi phải bắt tay ngay tắp lự, vì hạn chót cực kỳ khẩn cấp! Sau khoảng một tiếng đồng hồ vò đầu bứt tai, tôi cho ra lò bản dịch như sau:

I would be my Mom’s springtime      
I would be my Dad’s sunshine
In classroom I learn new things
And flowers show up in smiles

My pillows are little verses
I’m sleep sound on my pink book
I think I’m a little rose
Flying high and the sky’s blue

The sky’s huge, the earth’s low
I walk on my little toes
To the immense human love

Trees are the little bird’s nests
Rivers comes from little springs
Each one’s heart is little homes
And love’s as warm as the sun

Đừng hỏi tôi vì sao the sky's huge mà the earh lại low bạn nhé :) để cho nó có vần với câu sau í mà, dzí lại ai cũng biết hình ảnh trời cao đất thấp rồi, mình chơi một câu đối chệch khái niệm cho nó "ấn tượng"!

Dịch xong tôi vuốt râu đọc đi đọc lại hổng biết mấy lần, nhưng không sửa chữa gì thêm được hết. Thế là, a lê hấp, copy vào trang reply, ấn nút "send". Nhiệm vụ đã được hoàn thành oanh liệt! :)

Không lâu sau đó, tôi nhận được một bản dịch khác, do người bạn thơ đó gửi, đề nghị tôi edit lại. Bản dịch này cô nhờ một người bạn khác thực hiện, vì e tôi không rảnh để dịch kịp thời. Còn phải có thời gian cho nhân vật chính (một bé gái 5 tuổi) tập hát để trình diễn trước đông đảo bà con thật xôm tụ chứ!

Thú thiệt, tôi đọc bản dịch mới này, thấy hơi hơi mắc cỡ. Bản dịch đó thật thơ mộng, giàu hình ảnh, từ cũng dễ hát hơn vì theo đúng trọng âm. Tôi rất khoái từ melodies và lullabies, nghe là muốn lăn ra ngủ một giấc quên trời đất rồi. Tôi bèn a lê hấp reply rằng bản dịch đã quá OK rồi, tôi không dám bày đặt edit edo gì nữa.

Bản dịch của tôi thì được dịch sát rạt, hầu như "word by word", có liều lắm cũng chỉ fantasy đôi chỗ như "trời to đất thấp" nên bài dịch nghe ra thật là khô khốc, lại còn bóp méo giọng Mỹ của người ta nữa! Khi dịch, tôi cũng thử hát lên coi nó ra răng, nghe hơi quái quái, nhưng tự an ủi mình rằng, ừ thì ráng hết mức, nhưng dịch ca từ là một việc cực kỳ, cực kỳ khó nhai. Ngay ông Phạm Duy là bực tổ sư dịch ca khúc, ổng cũng chỉ lấy đại ý chứ đâu tài nào rinh nguyên xi từng câu từng chữ của bản gốc. Mình làm thế này cũng đã ráng sức lắm rồi mà!!! :)

Thôi, không dám phân bua biện bạch nữa, chỉ muốn giới thiệu với bạn đọc bản dịch mà tôi thấy hay hơn bản của mình này. Và rất mong con bé cháu tôi nó hát làm sao cho toàn thể khán thính giả trong buổi lễ phải vỗ tay rần rần như sấm! 


BẢN DỊCH CỦA TK:

I AM A MINI ROSE

I'll be your spring,Mama
I'll be your sunshine, Papa
In school, I learn things and stars
and our smiles are flowers, ahah

All melodies in my dream
are lullabies for me to lean
Wishing me as a mini rose
bringing fresh air for time to flow

The sky is big; the earth is gentle
Walk me in very softly
Embrace me, oh lovely

From the forest are bird's nests
From the springs, rivers are flowing
There's a home in one's heart
with warm love like sunshine.


Và, xin thay lời kết, cái vụ điếc không sợ súng, dám liều mạng dịch ca khúc của một người quá ư nổi tiếng như ông Trịnh này, tôi ngẫm lại thấy cũng hay hay nên xin mạo muội ghi lại làm kỷ niệm. (Đã xin phép người bạn và được "duyệt!"). 

PS: Mong sao người nhà của NS Trịnh Công Sơn không kiện chúng tôi vi phạm tác quyền. Nhưng cũng phải nhấn mạnh, ví dụ như trời xui đất khiến có ai xài bản dịch của tôi để hát mà có thu lợi nhuận, xin vui lòng liên hệ với người nhà của tác giả bản ca khúc gốc tiếng Việt về vụ tác quyền. Còn với tôi thì nô xì ta que, cứ thoải mái!!! Cái PS này có mặt là vì tôi vừa đọc xong một bài viết của một tiểu thuyết gia người Anh muốn sử dụng hai ca khúc của một nhạc sĩ Mỹ cho cuốn tiểu thuyết của mình. Theo ông nhà văn, mọi chuyện đều thuận lợi, và ổng chỉ phải trả 100 đô Mỹ lệ phí,(rẻ rề!!!, theo ổng), nhưng với tôi thì bao nhiêu đó cũng quá nhiêu khê, nào là truy tìm tung tích tác giả, người đại diện pháp luật của tác giả, mail đi mail lại điều đình, giải trình, còn cả việc thanh toán bằng tiền bảng Anh hay đô Mỹ nữa. Rắc rối thế thì tôi chịu chết. Em hổng đám đâu!

Walter de la Mare - Nàng Myfanwy xinh đẹp

Nguyễn Thành Nhân dịch
từ nguyên tác Collected Stories For Children








Cách nay đã lâu, Owen ap Gwythock, lãnh chúa xứ Eggleyseg, sống trong một tòa lâu đài xưa cũ nằm bên dưới những rặng núi có rừng cây của vùng biên giới xứ Wales. Ông là một người hơi gù, thấp nhưng vạm vỡ, với một mái tóc đen dày, đôi vành tai lớn, và đôi mắt nhỏ bồn chồn. Ông sống một mình trong tòa lâu đài to lớn, ngoại trừ cô con gái độc nhất của ông, nàng Myfanwy xinh đẹp.
Nàng thật sự rất xinh. Mái tóc nàng óng ánh như vàng đỏ, được thắt bím và thả dài xuống tận gót chân. Khi nàng cười lớn, nghe như thể đó là tiếng chuông đang ngân lên ở một gác chuông nào đó xa xăm. Khi nàng hát, Tiếng vọng quên đáp lại. Và tâm hồn nàng dịu dàng nhìn ra từ đôi mắt xanh biếc như những con chim bồ câu bay ra khỏi cái tổ nằm trong một bụi trường xuân của chúng.
Myfanwy hạnh phúc với hầu hết mọi điều. Mọi thứ mà cha nàng cho nàng để làm nàng vui và dễ chịu đều là của nàng – thật sự là mọi thứ, trừ sự tự do của nàng. Nàng có thể ca hát, nhảy múa, suy nghĩ và nói năng; ăn, uống và hưởng thụ bất kỳ thứ gì nàng ao ước hay mong muốn. Cha nàng yêu mến nàng đến nỗi ông thường ngồi hàng mấy giờ liền với nàng chỉ để ngắm nhìn nàng – như bạn có thể ngắm nhìn gió lướt trên những thảm lúa mì vàng óng, những hình ảnh long lanh phản chiếu trên mặt nước, hay những đám mây trắng xốp trên bầu trời. Miễn là nàng được an toàn và đơn độc, với ông mọi thứ đều tốt đẹp.
Nhưng ngay từ khi Myfanwy còn là một em bé, một linh cảm bất hạnh đã ám ảnh tâm trí ông. Giả sử nàng sẽ lìa bỏ ông một ngày nào đó? Giả sử nàng đi lạc hay bị dụ dỗ đi mất? Giả sử nàng ngả bệnh và chết? Lúc ấy sẽ ra sao? Nỗi sợ này ám ảnh tâm trí ông suốt ngày đêm. Đôi lông mày rậm của ông cau lại khi nghĩ tới điều đó. Nó khiến cho ông trở nên buồn rầu ủ rủ. Nó khiến cho ông trở nên câm lặng ít lời.
Chính vì lý do này, ông đã có lời ngăn cấm Myfanwy thậm chí không được bước ra khỏi khu vực có tường của tòa lâu đài vài bước. Ông không thể tin vào ai hết. Ông không thể chịu được việc nàng khuất khỏi tầm mắt của ông. Ông theo dõi, ông quan sát, ông đi trong giấc ngủ, ông lắng nghe và nhìn trộm; tất cả đều vì nỗi sợ đánh mất Myfanwy.
Vì thế, dù nàng có thể kết bạn với những chú chim bồ câu, chim thiên nga và chim công, với những con ong và bươm bướm, với những con chim nhạn, chim én và quạ gáy xám, và vô số loài chim với đủ màu lông, tiếng hót thường hay lui tới tòa lâu đài đó, nàng không có con người nào làm bạn, ngoại trừ cha nàng. Lũ chim và bướm có thể bay tùy ý thích tới bất cứ nơi nào đôi cánh chúng có thể mang chúng tới. Ngay cả những con cá trong những ao cá và trong những đài phun nước còn có những con đường hẹp bằng cẩm thạch và thạch cao mà qua đó với bộ vây nhanh nhẹn cuối cùng chúng có thể quay trở lại dòng sông lớn. Chỉ có Myfanwy thì không thể.
Nàng là tù nhân không thể chuộc ra của cha nàng; nàng là một con chim bị nhốt trong lồng. Nàng có thể say mê nhìn ngắm những cánh rừng ở phía chân trời mà mé ngoài của nó là biển cả, nhưng biết rằng nàng không thể lên đường tới đó. Còn đối với vùng thị trấn lân cận, với những đường phố và chợ búa tấp nập đông vui – chỉ cách đó không hơn bảy dặm đường quê – nàng chỉ có thể mơ tới những chuyện lạ lùng kỳ diệu của nó một cách vô vọng. Vào những lúc như thế, một bóng tối lạ lùng che phủ lên đôi mắt của nàng, và tâm hồn nàng khi nhìn ra từ chúng không giống như một con chim bồ câu mà giống như một con chim họa mi câm lặng bay ra khỏi tổ - một con chim họa mi mà lưỡi của nó đã bị cắt đi để làm thành một thứ cao lương mỹ vị phục vụ cho một ông hoàng tham ăn tục uống.
Trái tim con người thật ngoắt ngoéo làm sao. Chỉ vì vị lãnh chúa này quá thương yêu con gái nên nếu có khi nào nàng tỏ ra đang tìm cơ hội hay muốn mạo hiểm, ông ta sẽ như một con vật thồ đứng ì ra đó và từ chối không chịu nhúc nhích một phân. Ông sẽ cau đôi lông mày rậm lại và nhìn đăm đăm vào những lọc tóc xoăn óng ánh của nàng như thể chỉ cần nhìn như thế cũng có thể giữ cho nó được an toàn; như thể trái đất không hề biết tới những con bướm đêm, sự han rỉ, sự thay đổi và cơ hội, và chưa bao giờ sợ hãi và run rẩy với tiếng bước chân không dứt của Thời gian.
Tất cả những gì ông có thể nghĩ ra để giữ nàng lại cho riêng ông là những thứ mà nàng không cần phải yêu cầu: những bộ quần áo đẹp, những thứ món ăn ngon, những thứ hoa quả lạ lùng, những món đồ chơi, những trò tiêu khiển mang về từ chốn xa xôi, và nhiều sách đến mức đủ để phục vụ cho một học giả hạnh phúc trong suốt một cuộc đời dài.
Ông không bao giờ mệt mỏi với việc nói cho nàng biết ông yêu quý nàng nhiều như thế nào. Nhưng trái tim có một cơn đói mà không có một vật gì trên đời có thể thỏa mãn được, vì thế Tyfanwy chỉ lắng nghe và thở dài.
Ngoài chuyện đó ra, Myfanwy ngày càng trưởng thành và lớn hơn như một cây liễu xanh lớn lên từ một chồi non. Bấy giờ, khi đã lên mười tám, nàng xinh xắn đáng yêu không thể tả. Điều này chỉ góp phần mài sắc thêm nỗi sợ và linh cảm xấu trong tâm trí của cha nàng. Nó ngồi như một bộ xương ở bàn của ông vào bất cứ lúc nào ông bẻ một mẩu bánh hay nhấp một ngụm rượu vang. Ngay cả tiếng kêu ríu rít của một con chim nhạn hạnh phúc đến từ châu Phi xa tít cũng nhắc cho ông nhớ tới nó như một hồi chuông báo tử. Nó là điều này: một ngày nào đó, một gã tình nhân, một kẻ cầu hôn, sẽ đến và mang nàng đi mất.
Bởi vì, chỉ đơn giản trông thấy nàng, ngay cả khi nàng quay lưng đi – chỉ một thoáng nhìn vào đôi vai thanh mảnh của nàng, vào mái đầu của nàng đang cúi xuống một khóm hoa hồng cũng đã đủ rồi. Cứ để nàng cười – hai tiếng – và bạn lắng nghe! Không một ai – hoàng tử hay nông phu, hiệp sĩ hay điền chủ, dũng cảm, ngốc nghếch, trẻ trung hay già yếu – có thể cưỡng lại nàng. Owen ap Gwythock biết điều này tận trong xương tủy của mình. Chỉ cần một cái nhìn, và ngay lập tức quả tim của kẻ nhìn sẽ bị tước đoạt khỏi thân thể của anh ta. Anh ta sẽ yêu nàng – yêu sâu sắc và không thể thay đổi như làn nước tối tăm cuộn bọt lấp lánh vỗ lên chân đèo Modwr-Eggleyseg, chỉ nằm cách mé ngoài những bức tường lâu đài một tầm tên.
Và giả sử như có một kẻ cầu hôn nào đó nói với Myfanwy rằng anh ta yêu nàng, nàng có quên hết mọi sự quan tâm chăm sóc và tình thương yêu trìu mến của ông, bị  thuyết phục để bỏ trốn đi xa và bỏ lại ông trong cô đơn quạnh quẽ? Sự cô đơn quạnh quẽ - giờ đây cái tuổi già đó đã sát cạnh bên ông rồi! Khi nghĩ tới đây ông cảm thấy sợ hãi và thường thở dài hay thầm rên lên trong đầu: Ông sẽ yêu cầu người thợ làm ổ khóa làm những chiếc ổ khóa, then cửa và chấn song to gấp đôi. Ông sẽ ngồi suốt hàng nhiều giờ quan sát con đường lớn chạy qua những bức tường của ông, và quắc mắt lên khi nhìn thấy một kẻ xa lạ nào bước ngang qua con đường đó. 
Cuối cùng, ông cấm Myfanwy đi dạo trong vườn trừ phi phải đội trên đầu một cái nón hình nấm tròn to tướng, một cái nón có vành rộng đến nỗi nó che kín nàng trước bất kỳ một kẻ lén lút trèo lên tường nhìn trộm nào, thậm chí dù chỉ một tia phản chiếu từ mái tóc của nàng. Mọi thứ của nàng, ngoại trừ đôi giày nhung bên dưới mép váy của nàng khi chúng lần lượt bước đi, mềm mại như hai con chuột chũi, chiếc này nối tiếp chiếc kia, từ lối đi nở đầy hoa này sang lối đi khác, và từ thảm cỏ này sang thảm cỏ khác.
Vì Myfanwy cũng yêu mến cha nàng gần như tình cảm của ông đối với nàng, nàng cố gắng hết sức để tỏ ra vui vẻ và hạnh phúc, để không cáu kỉnh than phiền hay trở nên xanh xao, gầy guộc và mòn mỏi. Một con chim bị nhốt trong lồng với một người chủ tốt bụng có thể nhảy nhót, hót líu lo sau những chiếc nan lồng như thể nó đang hạnh phúc, thế nhưng nó ốm yếu trong tim vì mong nhớ rừng cây hoang dã và những vòm lá xanh rì. Đối với Myfanwy cũng vậy.
Giá như nàng có thể, dù chỉ một lần, có cơ hội đi vào thị trấn, nàng sẽ nghĩ tới bản thân mình; chỉ cần nhìn thấy mọi người trên đường phố, những người bán rong trong khu chợ, những thứ bánh mứt, những lọ mật ong trong các cửa hàng, những người xa lạ qua lại xôn xao, và ánh mặt trời trên những đầu hồi cao tít, và giọng nói, tiếng cười, tiếng mặc cả qua lại và những điệu khiêu vũ. Những con ngựa, những người du khách, những quả chuông, và ánh sao đêm.
Trên hết thảy mọi điều khác, tim nàng đau nhói khi nghĩ rằng cha nàng ắt hẳn có quá ít niềm tin vào bổn phận và tình yêu của nàng đối với ông đến nỗi ông không bằng lòng cho phép nàng đi lang thang dù chỉ bằng quãng cách du hành của một chú ốc sên ra khỏi tầm mắt của ông. Và sau khi dùng xong bữa tối, lúc nàng nghiêng người về phía chiếc ghế lớn của cha mình - ông ngồi đó, mái tóc đen xõa xuống đôi vai, bộ râu rũ xuống ngực – để hôn ông chúc ngủ ngon, ý nghĩ này sẽ hiện lên trong mắt nàng ngay cả khi nó không nằm trên đầu lưỡi của nàng. Và vào những lúc như thế bản thân ông – như thể ông biết tận trong thâm tâm điều mà ông không bao giờ dám thú nhận – luôn luôn khép đôi mí mắt lại hoặc khóa kín nội tâm theo một cách khác.
Những người hầu cận thường nhiều chuyện lắm lời, và lời đồn lan truyền từ nơi này sang nơi khác như những hạt bông gòn bay theo gió. Đơn giản vì Myfawy chưa bao giờ ra ngoài, tiếng tăm về vẻ đẹp của nàng từ lâu đã truyền khắp mọi vùng. Những người hát rong hát về nó, thậm chí còn mang những khúc ballad của họ tới những đất nước, vương quốc và lãnh địa xa xôi khác ngoài biên giới xứ Wales. 
Thật ra, dù cho những con người có liên quan tới sắc đẹp hay lòng tốt có bí mật và im lặng đến đâu, bằng cách nào đó tin tức về nó sẽ tự lan đi khắp thế giới. Một vị thánh có thể ngồi trong hang động hay nơi trú ẩn của ông, hiếm khi được đôi mắt người đời nhìn thấy, lặng lẽ như ánh nắng trong một thung lũng rừng cây hay những con chim biển trong những cái hốc đá trên bờ Đại Tây Dương, thực hiện những việc từ thiện và cầu nguyện những câu kinh im lặng. Và ông ta có thể sống cho tới khi trở thành một ông cụ già nua nhăn nheo, hốc hác, với một bộ râu dài trắng xóa, rồi chết đi và thi hài được an táng trong một ngôi mộ. Nhưng dù sao đi nữa, dần dần tiếng tăm về lòng từ ái của ông, và về những phép màu của lòng trắc ẩn của ông sẽ lan tỏa ra ngoài, và cuối cùng thậm chí bạn có thể tình cờ biết tới hình ảnh của ông ở một nơi cách xa chốn ẩn dật nơi ông đã sống và chết đi nhiều ngàn dặm xa xôi, hay nhiều thế kỷ sau khi ông đã ra đi trên con đường của mình.
Vẻ đẹp và sự dịu dàng của Myfanwy cũng giống như vậy. Đó là lý do vì sao khi lãnh chúa xứ Eggleyseg cưỡi ngựa qua những đường phố của thị trấn kế bên, qua khóe mắt của mình, ông nhận ra những người lạ dưới những lớp quần áo cải trang kỳ dị. Ông đoán ngay lập tức rằng họ có thể là những vị hoàng tử và quý tộc từ những miền đất hải ngoại đến đó chỉ để tìm cơ hội chiêm ngưỡng con gái của mình. Đó là lý do vì sao đường phố tràn ngập âm nhạc và tiếng hát đến nỗi vào một chiều hè bạn gần như không thể nghe thấy tiếng gầm của những dòng thác lớn. Đó là lý do vì sao cư dân thị trấn luôn tiêu khiển với những kẻ nhào lộn, leo dây, những gã thầy bói, những nhà tiên tri và những người kể chuyện quanh năm suốt tháng. Thật ra, luôn có những nhà quý tộc ghé đến nơi đó mà không cải trang gì cả. Họ ở lại đó nhiều tuần, trong những ngôi nhà cổ cao to, với những đoàn tùy tùng, những con chim ưng, những bầy chó săn và ngựa. Và hy vọng, khát khao duy nhất của họ là được thoáng trông thấy dù chỉ một lần nàng Myfanwy nổi tiếng.
Nhưng cũng như khi đến, họ lại ra đi. Dù họ có bày mưu đặt kế thế nào để đặt một chân vào tòa lâu đài, tất cả đều uổng công vô ích. Cái khung lưới sắt luôn luôn hạ xuống. Những người canh gác liên tục đứng trên những trạm gác trong những tháp canh của lâu đài. Và những cánh cổng của khu vườn được trang trí bằng những sợi dây xích nặng nề. Trên những bức tường cổ nghiêm nghị của lâu đài không có một cửa sổ nào thấp hơn sáu mét tính từ mặt đất mà không được bảo vệ bằng những chấn song dày, han rỉ, an toàn.
Dù sao, thỉnh thoảng Myfanwy cũng chợt nhận ra rằng nàng ở ngoài vườn một mình. Thỉnh thoảng nàng lẻn ra nếu có chút tự do, vốn ngọt ngào hơn nhiều đối với những kẻ khao khát nó hơn cả hoa cẩm chướng, bạc hà, hoa lài hay mật ong. Và vào một buổi chiều tháng Năm như thế, khi cha nàng – đã ngủ gật gù do mệt mỏi với quá nhiều theo dõi, nghe ngóng, dò la và dòm ngó – đang ngáy pho pho trong một nhà hóng mát, nàng đi tới những cánh cổng phía tây, và sau khi nhấc cái nón vành rộng lên để ngắm ánh hoàng hôn, nàng bâng khuâng nhìn một lúc qua dãy song sắt ra rừng cây xanh ngắt ở bên ngoài.
Những cành lá trong ánh sáng hồng hồng nằm yên như những bức tranh dưới lòng nước sâu. Bầu không gian trông như một túp lều bằng lụa xanh thẳm màu biển cả. Những con nai đang gặm cỏ trên mặt đất sẫm; và tiếng hót véo von mê hồn của lũ chim vang lên từ những cánh trảng và lùm cây của khu rừng.
Nhưng cái mà lúc này Myfanwy đang dán mắt vào không phải là những thứ đó, mà là hình dáng của một thanh niên đang say ngủ, lưng tựa vào một gốc sồi to lớn, cách cánh cổng nơi nàng đang đứng chưa đầy hai chục bước chân. Anh ta hẳn đã, nàng đoán, ở đó quan sát trong một lúc. Mí mắt anh ta thẫm lại vì đã nhìn chăm chú. Gương mặt anh ta hơi xanh xao. Trông anh ta có vẻ thanh tú và hiền lành; những con chim đã quên mất sự có mặt của anh ta; và trên đầu anh ta, cách không đầy một mét, một con sóc đang cố cắn vỡ quả hạch mà nó giữ bằng những móng vuốt của hai bàn chân trước.
Trước đó, Myfanwy chưa bao giờ nhìn thấy người lạ trong cái thung lũng bên ngoài những cánh cổng này. Những người hầu của cha nàng là những người rất già, đã phục vụ trong lâu đài nhiều năm trước khi nàng chào đời. Chàng trai này, nàng tưởng tượng, trông như một tiều phu, một kẻ sống trong rừng, hay một người chăn lợn. Nàng đã đọc về họ trong một cuốn sách chép tay về những câu chuyện lạ thường mà nàng tình cờ bắt gặp trong số những đồ vật của mẹ nàng.
Và khi Myfanwy, tay giữ vành nón, đang đứng nhìn chăm chú, một giọng nói trong trái tim nàng nói với nàng rằng dù chàng trai đó là ai hay làm gì, anh ta là người mà nàng đã chờ đợi từ lâu, thậm chí còn mơ tới, ngay từ khi nàng còn là một đứa bé. Mọi thứ khác biến mất khỏi tâm trí và ký ức của nàng. Như thể đôi mắt nàng đang tập trung vào một trong những câu chuyện cổ đó, một câu chuyện mà nàng biết rất rõ. Kẻ xa lạ đang say ngủ này là câu chuyện đó. Thế nhưng anh ta – bất động như một khúc gỗ tựa vào cây sồi, như thể anh ta thật sự bị đóng đinh vào đó – vẫn tiếp tục ngủ ngon.
Anh ta có thể tiếp tục ngủ say như thế cho tới khi nàng biến mất. Nhưng ngay lúc đó, con sóc đang xoè đuôi như cái dù ngay trên đầu anh ta đột nhiên nhìn thấy Myfanwy ở bên kia hàng song sắt của cánh cổng. Trong cơn kinh ngạc, nó đánh rơi quả hạch, và chàng trai – như nghe thấy một tiếng gõ lên cánh cửa tâm trí anh ta – chợt mở mắt ra.
Đối với Myfanwy, điều đó giống như việc mở một cánh cửa để đi vào một ngôi nhà lạ lùng và kỳ diệu. Tim nàng như ngưng đập. Nàng run bắn cả người. Và cả người lạ đó cũng đang tiếp tục nhìn Myfanwy đăm đăm – như vừa thoát ra khỏi một giấc mơ.
Nếu mọi chuyện có thể diễn tả thành lời thì chính cái nhìn lặng lẽ giữa họ đã nói cho Myfanwy nghe về những điều lạ lùng thế nhưng dường như lại quen thuộc với nàng hơn những viên sỏi trên con đường mòn, những cái gai trong các khóm hoa hồng và tiếng hót của lũ chim trong không gian và những giọt sương đầu tiên rơi xuống lúc chiều hôm, và sẽ cần có một cuốn sách dài hơn gấp mười lần cuốn sách này để ghi lại những điều đó.
Nhưng ngay trong lúc đang nhìn, Myfanwy sực nhớ tới cha nàng. Nàng thở dài. Những ngón tay của nàng buông rơi chiếc vành nón rộng xuống. Và thật kỳ lạ, chính nhờ cái nón rộng kỳ cục đó, cha nàng, đã thức dậy trong nhà nghỉ mát vài phút trước, và lúc này đang vội vã đi dọc theo con đường mòn trổ đầy hoa hồng để đuổi theo nàng, không hề nhìn thấy chàng trai lạ dưới cây sồi. Thật sự, trước khi con sóc có thể lao vào chỗ nấp, bản thân chàng trai cũng đã biến mất sau thân cây như một con rắn luồn vào cỏ.
Tuy nhiên, anh ta chỉ giống một con rắn trong trường hợp này thôi. Vì chiều hôm ấy, vào giờ ăn tối, cha Myfanwy bảo nàng rằng có một lá thư được gửi tới lâu đài, từ một tên Vô danh đáng nguyền rủa nào đó, xin phép được cầu hôn với nàng. Cơn giận của ông không còn lời để tả. Ông đánh đổ cốc rượu và làm vỡ vụn miếng bánh mì. Gương mặt ông là một cơn bão tối tăm. Đôi mắt ông đỏ rừng rực như than hồng.
Myfanwy ngồi tái mặt và run rẩy. Trước đó, những lá thư như thế, dù thậm chí đến từ những vị hoàng tử của những đất nước lừng danh hay từ những xứ sở phương Đông, cũng chẳng có chút ý nghĩa nào đối với trái tim nàng hơn một tiếng gáy của chim cu, hay tiếng gió thì thầm. Thật ra, tiếng chim cu gáy ở những dãy núi vùng biên giới xứ Wales này và ngọn gió đến từ những biển khơi xa là những giọng nói của một ngôn ngữ dù bí mật nhưng không phải là thứ mà trái tim không thấu hiểu. Những lá thư khoa trương đó không giống như vậy. Myfanwy thường cười nhạo chúng – như thể cười nhạo những cử chỉ nhảy nhót vụng về của một con gấu. Nàng thường nắm lấy tay cha, mỉm cười nhìn vào mặt của ông để cam đoan với ông chúng chẳng có ý nghĩa gì, rằng nàng vẫn an toàn như mọi lúc.
Nhưng lá thư này thì khác. Chưa một phút giây nào gương mặt của chàng trai đó rời khỏi tâm trí của nàng. Nỗi khát khao và tuyệt vọng duy nhất của nàng là tự hỏi không biết có khi nào trong đời mình nàng có thể nhìn thấy lại anh ta hay không. Nàng ngồi im như đá.
“Nè, con gái cưng,” cuối cùng cha nàng nói, đặt bàn tay vuông to bè lên tay nàng khi nàng ngồi bên cạnh ông trong chiếc ghế nhung có lưng tựa cao. “Nè, con gái dịu dàng của cha. Lá thư này lại một lần nữa cho chúng ta thấy cái thế giới này đầy những đứa xấc láo và những gã phiêu lưu. Đây là một sự chia rẻ, một sự báo động, một sự cảnh báo, con gái yêu của cha. Cha nguyền rủa hắn ta! Chúng ta phải cảnh giác hơn gấp mười lần. Chúng ta phải thận trọng. Chúng ta phải trở thành mèo rừng, cáo và thần trăm mắt Argus, với tất cả những con mắt đó! Và hãy nhớ, con gái yêu quý báu của ta, con hãy nhớ điều này, rằng trong khi ta, cha của con, còn sống, không một tổn hại, không một đe dọa nào có thể tới gần hay chạm vào con. Hãy chỉ tin vào tình yêu của cha thôi, con yêu dấu, và tất cả sẽ ổn với chúng ta.”
Đôi môi lạnh giá của nàng từ chối trả lời. Myfanwy không thể tìm ra lời nào để đáp lại ông. Với gương mặt ngoảnh đi, nàng ngồi trong một giấc mơ tỉnh thức u buồn, tay nắm lấy ngón tay cha mình, và chỉ lơ đãng lắng nghe những lời giận dữ và yêu thương, thù hằn và yêu mến của ông. Vì giờ đây tâm trí nàng, trái tim nàng quá rối bời với những ý nghĩ, những niềm hy vọng, những nỗi sợ hãi và u sầu đến nỗi nàng không tìm ra cách nào khác hơn cái nắm tay câm lặng này để thể hiện rằng nàng cũng yêu mến cha nàng. 
Cuối cùng, cơn thịnh nộ của ông chẳng dịu bớt chút nào. Ông rời khỏi ghế, và sau khi xé nát lá thư xấc láo thành ba mươi hai mảnh vụn, ông ném chúng vào ngọn lửa đang cháy bừng bừng trong lò sưởi đá. “Ta sẽ trừng trị tên tự cao tự đại vô liêm sỉ này.” Ông lẩm bẩm với chính mình. “Ta sẽ… ta sẽ cắt rời cái lưỡi của nó ra!”
Bây giờ, điều đầu tiên Myfanwy sẽ làm khi cơ hội cho phép là vội vã đi ra cánh cổng phía tây để cảnh báo cho chàng trai xa lạ về cơn thịnh nộ và những lời đe dọa của ông, và van nài anh ta hãy đi trốn thật xa và đừng bao giờ, đừng bao giờ quay lại nữa.
Nhưng khi một lần nữa nàng tới gần những hàng song sắt của cánh cổng, lũ nai vẫn đang gặm cỏ trong rừng, con sóc vẫn đang gặm một quả hạch khác, cây sồi đã vươn dài thêm một tí những cành lá của nó vào ánh chiều yên ả, nhưng không hề có một dấu hiệu nào của chàng trai lạ. Nơi anh ta đã ngồi giờ trống trơn, như là một sự bảo đảm rằng anh ta đã thật sự ra đi mãi mãi. Và Myfanwy quay lưng rời khỏi quang cảnh lặng lẽ của khu rừng,  rời khỏi ánh hoàng hôn nhạt nhòa của nó, rời khỏi mọi vẻ đẹp tạo ra từ sự hiu quạnh của nó. Trong những ngày sau đó, dù nàng cố gắng hết sức để giữ cho tâm trí và những ý nghĩ của mình gắn vào cây kim và những mảnh lụa, vào cây đàn luýt và quyển thánh thi, nàng không thể nhìn thấy thứ gì khác ngoài niềm mong mỏi gặp lại anh ta.
Bây giờ, thân hình của nàng đã thật sự tiều tụy héo hon do bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi thường xuyên rằng chàng trai đó đã gặp phải một tai ương. Và do cha nàng yêu nàng một cách ghen tuông, ông biết ngay loại sâu nào đang ở trong tâm trí của nàng. Ông luôn quan sát và dò xét nàng, và đi theo nàng trong mọi lúc.
Phòng ngủ của Myfanwy nằm ở tòa tháp hướng nam của tòa lâu đài, bên dưới đó là một con đường chạy từ thị trấn về hướng đông lượn vòng tới những khu rừng và những dãy núi xa. Và vì nó ở cách mặt đất rất xa, cửa sổ phòng không cần phải lắp chấn song. Dù từ những cánh cửa sổ này Myfanwy không thể nhìn thấy gì ngoài đỉnh đầu của những khách bộ hành trên mặt đất, chúng khá rộng và cao để ánh hoàng hôn có thể rọi lên những bức tường phòng, những bức tranh và cái giường Ả Rập có che rèm. Nhưng những bức tường đá rất dày, nên để nhìn ra ngoài phòng, nàng cần phải tựa người vào ngưỡng cửa lạnh lẽo bên trong và dõi mắt ra vùng đồng quê xanh ngắt như thể nhìn qua ô cửa sổ của một con tàu. 
Một chiều nọ, khi Myfanwy đang ngồi may nối hai mảnh vải và ngâm nga nho nhỏ một điệu nhạc, chỉ để ngăn những ý nghĩ của nàng khỏi sự mong chờ khắc khoải, nàng nghe thấy tiếng rì rầm của nhiều giọng nói. Và, dù lúc đầu nàng không biết vì sao, trong chốc lát trái tim nàng như ngừng đập. Nàng đặt mảnh vải linen xuống, đứng lên, rón rén đi trên tấm thảm phủ nền sàn đá, rồi khẽ khàng vươn đôi vai nhỏ về phía trước, nhìn ra khỏi cửa sổ tới thế giới bên dưới. Và đây là điều mà nàng nhìn thấy: Ở đó, trong ánh hoàng hôn bên dưới cửa sổ, có một nghệ sĩ tung hứng vai khoác chiếc áo choàng nhung cũ, mái tóc đen xõa xuống vai. Anh ta đứng trong một vòng người đang há hốc mồm, bao gồm những thôn dân, những kẻ nhàn rỗi và bọn trẻ con, một số người trong bọn ắt hẳn đã đi theo anh ta từ thị trấn. Và tất cả bọn họ đều say sưa với sự duyên dáng và tài nghệ của anh ta. 
Myfanwy thật sự không thể tưởng tượng tới những điều như thế, và nàng ngắm nhìn anh ta mê mải đến nỗi không hề nghe thấy một tiếng thở dài bí mật ở lỗ khóa cửa phòng của nàng. Nàng cũng không nghe thấy tiếng chân của cha nàng khi ông rón rén đi xuống cầu thang để vào lại căn phòng bên dưới.
Thật ra, chỉ cần một cái nhìn thoáng qua, đôi mắt không còn u buồn của Myfanwy đã soi thấu qua lớp quần áo cải trang – bộ tóc giả, cái áo choàng, cái nón và đôi bít tất dài – của người nghệ sĩ tung hứng. Và khi đang ngắm nhìn anh ta nàng không thể ngăn được tiếng cười vui. Ai có thể tưởng tượng được rằng cái chàng trai xa lạ đó, người nàng từng nhìn thấy tựa lưng vào gốc sồi, mù, câm và say ngủ lại có thể can đảm, khôn ranh và khéo léo như thế này!
Lúc đó đầu anh ta đang được bao quanh bởi một vầng hào quang làm bằng thép lấp lánh. Anh ta tung những con dao găm từ tay này sang tay một cách lanh lẹ. Đột nhiên, vòng tròn quanh anh ta vỡ òa ra trong một tiếng hét thất thanh, vì khi liếc lên phía trên, anh ta đã bắt trượt một con dao. Nó đang rơi – đang rơi: nhưng không, trong chớp mắt anh ta hất gót giày lên, và mũi dao găm đang run run cắm vào gót giày của anh ta trong lúc anh ta tiếp tục tung những con dao khác lên không trung óng ánh vàng.
Tuy nhiên, trong khoảnh khắc đó, cái nhìn lên trên của anh ta đã phát hiện ra một thứ mà anh ta đến đây với hy vọng được nhìn thấy – Myfanwy. Anh ta ném những con dao sang một bên và lấy từ cái hộp đi đường ra một tấm lưới đựng nhiều quả bóng màu. Sau khi thốt ra một tràng từ lắp bắp lạ lùng với mọi người, anh ta bắt đầu tung hứng những quả bóng. Bảy quả bóng ngày càng bay lên cao hơn trong không gian êm dịu, nhưng quả bóng màu vàng còn bay cao hơn số còn lại. Thật sự rất cao, cho tới khi mọi người không còn nhìn thấy nó nữa vì ánh hoàng hôn làm cho họ hoa mắt. Ngay sau đó, nó bay vút lên tới một nơi mà Myfanwy chỉ cần thò tay ra ngoài ngưỡng cửa sổ để bắt lấy nó khi nó ngưng lại lơ lửng ở đó trong một khoảnh khắc rất ngắn trước khi rơi xuống.
Trong lúc nàng quan sát nó, một giọng thì thầm trong nàng la lên, “Hãy bắt lấy nó!” Nàng hít sâu một hơi, nhắm mắt lại, ngưng lại một giây, và giây kế tiếp nàng giơ bàn tay ra. Quả bóng đã là của nàng.
Một lần nữa, nàng nhìn xuống, và một lần nữa nhà nghệ sĩ đang biểu diễn. Lần này với cái gì đó trông có vẻ như là nhiều loại trái cây khác nhau – quả lựu, mộc qua, thanh yên, chanh, cam và xuân đào, và bay vút lên khỏi chúng, là một thứ quả rất bình thường, một quả táo nước Anh. Một lần nữa tiếng thì thầm trong đầu Myfanwy la lên, “Hãy bắt lấy nó!” Nàng đưa tay ra và cũng bắt được quả táo.
Thế nhưng nàng lại nhìn xuống một lần nữa, lần này dường như nhà nghệ sĩ tung hứng sắp tung những con rắn vào không khí, vì chúng co duỗi, quằn quại và cuộn mình quanh anh ta khi chúng nhẹ nhàng bay từ tay này sang tay kia. Có cả tiếng rắn huýt gió xì xì, mọi người lùi lại một chút, và có vài đứa bé nhút nhát hơn chạy sang phía bên kia đường. Và lần này lại giống như trước, một trong những con rắn vút lên cao hơn, cao hơn bên trên những con còn lại. Và Myfanwy có thể nhìn thấy từ chỗ đứng thuận lợi của mình đó không phải là một con rắn sống mà chỉ là một sợi dây bằng lụa. Và lần thứ ba, tiếng thì thầm lại cất lên, “Hãy bắt lấy nó!” Nàng lại đưa tay ra và cũng bắt được cả sợi dây.
Lúc này, có vẻ như một đám mây nhỏ đang lướt qua mặt trời, vòng người bên dưới đã thật sự nhìn thấy con rắn bay lên cao nhất biến mất một cách bí mật và họ hét lên như chỉ với một giọng duy nhất, “Biến mất rồi!” “Biến mất rồi!” “Ma thuật, ma thuật!” Và những đồng xu bay tới tấp vào cái trống lục lạc của nhà tung hứng trong những giây phút sau đó đủ biến anh ta thành người giàu nhất trên thế giới trong một phút.  
Bấy giờ nhà nghệ sĩ trang trọng nhấc nón lên chào mọi người. Anh ta kéo sát tấm áo choàng vào người, cất những con dao găm, bóng, trái cây, rắn và tất cả những thứ khác vào một cái hộp dẹp, dài, màu xanh lá. Rồi anh ta khoác sợi dây đeo của cái hộp qua vai, cởi nón ra, cài cái trống lục lạc dưới khuỷu tay và vớ lấy cây gậy, quay người đi về hướng những rặng núi tràn ánh nắng chiều hôm. Thế rồi trời bắt đầu sụp tối. Chẳng bao lâu vòng người đã giải tán và bỏ đi hết. Những người hầu gái và các cậu bé giúp việc quay trở về với công việc của họ. Bọn trẻ chạy về nhà để kể cho mẹ chúng nghe về những điều kỳ diệu đó và để bắt chước những trò biểu diễn của nhà nghệ sĩ khi chúng đã ăn ngấu nghiến xong món bánh mì bữa tối và đã được lùa về giường.
Trong sự tĩnh lặng sau khi nhà nghệ sĩ đã lên đường, Myfanwy nhận ra mình đang quỳ gối trong phòng giữa ánh chiều vàng nhập nhoạng bên cạnh một cái ghế gỗ, đôi bàn tay nằm trên đùi nàng và đôi mắt đen của nàng nhìn vào quả bóng, trái táo và sợi dây bằng lụa một cách kinh ngạc và băn khoăn. Trong khi đó, trong một căn phòng đá khác bên dưới chỉ cách đó mười hai bậc cầu thang, cha nàng cũng đang nép mình bên cửa sổ, run lên vì giận dữ, và nhìn thấy trong trí tưởng tượng của ông những món quà kỳ lạ trong không khí cũng rõ ràng gần như không kém gì Myfanwy có thể nhìn chúng với đôi mắt trần.  
Vì dù mặt trời cũng làm hoa mắt ông như những người ở trên đường, ông đã tập trung nhìn kỹ những trò diễn của người tung hứng, và đã đếm từng quả bóng màu, từng trái cây và từng con rắn khi chúng bay lên rơi xuống trong những chu kỳ mê hồn trận trong không trung. Và khi trò tung hứng tuyệt diệu đã qua, ông biết ngay trong lần tung hứng đầu có một quả bóng đã bị mất, và lần sau, một quả gì đó trông như quả táo Anh cũng mất, và trong lần thứ ba một sợi lụa có gắn một cái móc sắt trông như đầu của một con rắn đã được tung lên không trung và không bao giờ rơi xuống đất trở lại. Và khi những người dân và lũ trẻ con đang hò reo, cười lớn và hoan hô bên dưới những bức tường, những giọt lệ phẫn nộ và tuyệt vọng tuôn ra từ đôi mắt của ông. Myfanwy đã lừa dối ông. Cái giờ phút đáng sợ của ông đã tới.
Nhưng ông đã mắc sai lầm thêm một lần nữa. Sự thật là đôi mắt ông quá xanh vì ghen tức, còn trái tim ông lại quá đen với sự phẫn nộ đến nỗi trí thông minh của ông đã trở nên gần như vô dụng. Và không chỉ trí khôn, mà cả tâm hồn và phép lịch sự của ông. Vì kế đó, ông lại lần mò ròn rén xuống từng bậc thang thêm lần nữa như một tên trộm, và sau đó đã một lần nữa quỳ gối bên ngoài cửa phòng con gái yêu dấu của ông và dán một trong hai con mắt xanh thẫm của mình qua cái lỗ khóa nhỏ xíu. Và ông đã nhìn thấy một cảnh tượng lạ lùng.
Buổi chiều đang trôi nhanh, và ánh sáng hoàng hôn yếu ớt chỉ còn là một vệt mờ xuyên qua những khe cửa sổ hẹp. Myfanwy đã thắp hết bảy cây nến cắm trên cái giá nến (nàng yêu ánh sáng hơn hết thảy mọi thứ khác) và đặt nó lên cái bàn nằm bên cạnh một tấm gương hẹp và cao. Vào lúc vị lãnh chúa dán mắt vào lỗ khóa, nàng đang đứng, hơi khom xuống, nhìn vào quả táo trên bàn tay, rồi vào tấm gương đang phản chiếu lại hình ảnh của nàng đang cầm quả táo. 
Vì thế lúc này người ta có thể trông thấy hai Myfanwy – chính nàng và hình ảnh của nàng trong gương. Và ai là người đáng yêu hơn thì ngay cả nhà nghệ sĩ tung hứng cũng không thể xác định được. Nép mình bên cánh cửa, cha nàng có thể nghe những lời nàng khe khẽ lặp đi lặp lại trong lúc nhìn vào quả táo trong gương: “Mình có nên, có nên không? Mình có nên, có nên không?” Và rồi đột nhiên – ông không dám nhúc nhích hay kêu lên – nàng đưa quả táo lên môi và cắn vào lớp vỏ của nó.
Ông không thể nói được chuyện gì đã xảy ra lúc đó, vì cái phần bí mật và thần kỳ nhất nằm sâu trong chính con người của Myfanwy. Thứ nước ngọt ngào của quả táo dường như tỏa khắp các huyết mạch của nàng như những con cá đang vùng vẫy trong mấy cái đài phun nước và ống dẫn nước. Như thể niềm hạnh phúc bắt đầu nhẹ nhàng rơi xuống từ không gian quanh nàng như những bông tuyết chói lọi. Chúng đáp xuống tóc nàng, vai nàng, đôi bàn tay nàng, và khắp cả người nàng. Thế nhưng đó không phải là tuyết, vì trời không lạnh, mà là một cảnh tượng của rừng cây râm mát lúc giữa trưa, hay của một khu vườn dưới cơn mưa lắc rắc. Đôi mắt sáng của nàng như càng sáng long lanh hơn; một ánh sáng tỏa ra từ đôi má của nàng; và đôi môi nàng hé nở một nụ cười.
Và giả sử như Myfanwy là một chàng hoàng tử của bất kỳ nơi nào trên thế giới, hẳn lúc này nàng sẽ – giống như khi Narcissus khom người nhìn xuống hồ nước đầy những đóa hoa loa kèn – yêu chết mê chết mệt chính bản thân nàng. “Thật kỳ diệu khôn lường!” nàng kêu lên trong lặng lẽ; “nhưng nếu đây là điều mà chỉ cần cắn một cái vào quả táo có thể tạo ra thì không cắn thêm nữa sẽ là một điều khôn ngoan.” Và nàng đặt quả táo xuống.
Vị lãnh chúa hau háu nhìn qua cái lỗ khóa, quan sát nàng khi nàng đứng sững sờ như một cây hoa xinh đẹp đang mọc lên trong sự quạnh vắng im lặng tột cùng của một cánh rừng và đang nở hoa ngay trước mắt ông.
Thế rồi, như vừa sực nghĩ ra, Myfanwy quay sang và cầm quả bóng vàng lên. Như nàng đã ngờ vực và bây giờ phát hiện ra, nó không phải là một quả bóng, mà là một cái hộp nhỏ hình cầu làm bằng những mảnh gỗ quý ghép vào nhau, phủ bên ngoài bởi một lớp chỉ vàng. Khi nàng ấn vào cái nhíp ở giữa, cái nắp hộp mở bật ra, và Myfanwy đưa ngón cái và ngón trỏ vào trong, kéo ra một chiếc khăn choàng bằng lụa, nhưng là loại lụa mỏng như tơ được dệt khéo đến mức khi nó tự bung xuống tới sàn nhà, tấm khăn trông như thể một lớp sương xám bạc dưới ánh nến.
Nó rũ xuống từ những ngón tay của nàng đến nền nhà bên dưới, hầu như cũng nhẹ như lớp không khí bao quanh. Điều kỳ diệu phi thường là một chiếc khăn có thể che kín nàng từ đầu tới gót chân lại có thể nhét gọn vào trong một khoảng trống nhỏ xíu của quả bóng mà đường kính chỉ có bốn phân! Nàng nhìn một cách ngưỡng mộ món đồ thủ công thanh tú này. Rồi, với một cái hất nhẹ ngón tay, nàng đã choàng nó lên vai như một lớp mây mềm mỏng.
Và, lạ thay! – khi vị lãnh chúa tiếp tục quan sát – đột nhiên nơi Myfanwy đã đứng không còn vật gì khác ngoài bảy ngọn nến đang cháy trên giá và bảy ngọn khác trong gương. Nàng đã biến mất.   
Tuy nhiên nàng không đi xa lắm. Vì ngay sau đó ông nghe thấy – như từ trên trời rơi xuống – một tràng cười khúc khích như tiếng trẻ con mà dù muốn dù không đã thoát ra khỏi đôi môi của nàng khi nhìn thấy Chiếc Khăn Vô Hình làm trống hẳn tấm gương. Nàng nhìn chăm chú vào khoảng trống rõ ràng ở đó, lòng đầy kinh ngạc. Không còn chút gì của con người nàng được phản chiếu ở đó! – Không còn cái chóp mũi của nàng, không một ngón tay cái, không còn cả một cái nút áo hay một mẩu bạc trên mép giày. Myfanwy đã biến mất; thế nhưng, như nàng biết rõ, nàng đang thật sự ở đây trong thân hình của chính mình, dù đã bị che khuất bên dưới lớp khăn, và đang hạnh phúc như những đàn chim trên dãy đồi tháng Tư, hay những nàng tiên cá trong lòng biển thẳm. Đây đúng là một điều kỳ diệu, ở đó thế nhưng lại không ở đó; nghe thấy chính mình thế nhưng lại trong suốt như nước.
Dù nàng đứng bất động, những ý nghĩ lúc ấy đang xoay chuyển như những con chim nhanh nhẹn trong tâm trí nàng. Cả tấm khăn choàng này cũng là món quà của nhà nghệ sĩ  -  anh chàng xa lạ nằm ngủ dưới gốc sồi trong lớp quần áo ngụy trang. Và nàng có thể đoán ngay anh ta mong muốn nàng sử dụng nó để làm gì, dù khi nghĩ tới điều đó trái tim của nàng trở nên phiền muộn. Giây lát sau, nàng lại hiện ra, cũng nhanh như lúc biến mất – tấm khăn nằm trong những ngón tay nàng. Vừa cười khe khẽ với chính mình, nàng vừa gấp nó lại và cất nó vào cái hộp tròn. Rồi nàng quay lại, lấy từ ghế sợi dây lụa, và như thể do lơ đãng quấn nó hai vòng quanh cần cổ thanh tú của nàng. Dường như sợi dây trở nên sống động, và lạ chưa, hiện ra trong tấm gương lúc này, là Myfanwy, đứng yên như một bức tượng ngà; và nép bên trên thái dương trái của nàng là cái đầu đu đưa của Thần Rắn Khôn Ngoan đang thì thầm vào tai nàng.
Owen ap Gwythock không thể nhìn thêm nữa. Dò dẫm đường đi với những ngón tay run lẩy bẩy qua màn đêm tối mịt của cầu thang, ông lần mò xuống phòng đại sảnh nơi người quản gia của ông đang chờ ông tới để báo rằng bữa tối đã được chuẩn bị xong.
Cứ nghĩ mà xem, đứa con xinh đẹp của ông, viên ngọc quý tự hào của ông, Myfanwy dịu dàng ngây thơ của ông – cái mà ông trân quý nhất trên đời, và nổi tiếng vì sự dịu dàng và vẻ đẹp của nàng ở mọi quốc gia trên thế giới – chỉ trong khoảnh khắc đã quên đi tình yêu của ông, quên đi bổn phận của nàng, đang có nguy cơ sẽ ra đi và từ bỏ ông mãi mãi! Trong cảm giác ghen tuông và tuyệt vọng, những giọt lệ của ông lăn tròn xuống đôi má nhăn nheo. Ông nghiến chặt răng, suy nghĩ về tên kẻ thù gian xảo đang dụ dỗ nàng bỏ đi.
Tệ hại nhất là ông hiểu rõ rằng trên đời này có một số điều mà với chúng ngay cả kẻ có quyền lực nhất cũng trở thành bất lực. Ông biết rằng mọi cưỡng kháng, mọi thủ đoạn, mọi mánh khóe chống lại tình yêu đích thực rốt cuộc chỉ luống công vô ích. Nhưng trong nỗi đau và tuyệt vọng này, cay đắng nhất trong tất cả những ý nghĩ đang khuấy động bộ não của ông lúc này là ý nghĩ rằng Myfanwy đang dối gạt ông, đang cố tình đánh lừa ông khi giữ bí mật về những thứ mà lẽ ra nàng phải nói với ông ngay lập tức. 
Đầu óc của ông thật sự tối tăm và u ám. Khi không tin tưởng một con người đáng yêu như thế! – điều đó có thể tha thứ được. Nhưng khi lén lút theo dõi nàng như một con chồn; khi rình rập nàng như một tên gián điệp; khi tin rằng nàng có tội trước khi nàng có thể chứng minh nàng vô tội! Điều đó có thể tha thứ được hay không? Và thậm chí ngay chính lúc này đây kẻ báo thù đã ở sát gót ông.
Vì đây chính là bản thân Myfanwy. Đáng yêu như một dây bìm bìm đang quấn quanh một cái cọc héo khô, nàng đang nhìn ông từ cửa ra vào, quan sát nét mặt ông. Nàng nhắm mắt lại giây lát như thể đang thì thầm cầu nguyện, rồi bước vào phòng, và với chính bàn tay của mình, nàng đặt lên cái bàn gỗ sồi, bên cạnh cái đĩa bạc của ông, đầu tiên là quả táo đã bị gặm, rồi tới quả bóng vàng, rồi cuối cùng là sợi dây lụa. Và nhìn ông với tất cả tình yêu thường ngày trong đôi mắt và trong giọng nói, nàng kể cho ông nghe những vật này đã biến hóa như thế nào trong tay nàng, và chúng tới từ đâu.  
Cha nàng lắng nghe; nhưng không dám nhấc đôi mắt của mình khỏi cái đĩa. Nếp nhăn trên trán ông ngày càng sậm lại; thậm chí cả chòm râu của ông dường như cũng trở nên cứng đờ. Nhưng ông im lặng nghe nàng cho tới cuối.
“Cha yêu, cha thấy đó,” nàng nói, “con có thể làm gì khác ngoài việc biết ơn với cả tấm lòng đối với một người đã nghĩ nhiều tới con đến thế? Và nếu cha nhìn thấy vẻ ngoài nhân hậu và nhã nhặn của chàng, ngay cả bản thân cha cũng không thể nổi giận. Như cha biết rõ, chưa bao giờ có một ai khác trên toàn thế giới mà con muốn nói chuyện ngoài cha. Và bây giờ cũng không có ai khác hơn cha ngoài chàng trai lạ đó. Con không biết gì khác ngoài điều đó. Cha có thể thật sự đoán ra ý định của chàng khi tặng những món quà kỳ diệu này cho con không? Và tại sao cho con mà không phải là ai khác, hở cha yêu dấu? Và cha khuyên con nên làm thế nào với chúng đây?”
Owen ap Gwythock cúi đầu xuống thấp hơn. Ngay cả ánh sáng trong mắt ông cũng mờ đi. Những cây đuốc nổ lách tách nho nhỏ trong các đế cắm, những cây nến trên bàn vẫn cháy đều đều.
Cuối cùng, ông nghiêng mặt sang một bên như một con chó đang gầm gừ. ‘Con cưng,” ông nói, “cha đã sống đủ lâu trên đời này để biết những hiểm nguy vây quanh những người trẻ tuổi và xinh đẹp. Cha thừa nhận với con rằng cái gã khoác lác lừa người hèn kém này phải là một kẻ khéo léo vô cùng. Cha thừa nhận với con rằng các mưu mẹo của hắn, nếu vô hại, cũng đáng với một vài xu bố thí. Nghĩa là, nếu hắn chỉ là kẻ mà hắn có vẻ là thế. Nhưng không phải vậy. Vì kẻ xa lạ nguy hiểm nhất này là một tên lừa đảo và bịp bợm. Hang ổ của hắn, theo cha đoán, là ở phương Đông huyền bí và tàn nhẫn, và mong mỏi cũng như mưu mẹo duy nhất của hắn là nhằm quyến rũ con đi theo hắn. Khi đã nằm trong móng vuốt của hắn, những tên nô lệ bỉ ổi của hắn sẽ vồ lấy con và mang con di tới một con tàu ma quỷ nào đó đang bỏ neo trên sông. Con yêu, dường như vẻ đẹp dịu dàng của con đã được lan truyền tới cái thế giới xấu xa này. Ngay cả vẻ đẹp của một loài hoa dịu dàng nhất trong những loài hoa cũng có thể bị bôi nhọ bởi những cái lưỡi nhàn rỗi. Nhưng khi con đã lọt vào tay của tên lang băm hung ác đó, hắn sẽ lên đường tới Barbary, có lẽ thế, hay những miền đất khủng khiếp của bọn người Thổ, có lẽ thế, và ở đó chúng sẽ đưa con ra chợ và bán con làm nô lệ. Con bé bỏng của ta, mối nguy này rất lớn và sắp xảy ra. Hãy xóa bỏ ngay tên ma quỷ độc ác đó khỏi tâm trí con và để cho những thứ đồ chơi nguy hiểm và ghê tởm của hắn bị ném vào ngọn lửa. Trái táo chỉ là ảo giác đơn thuần; cái khăn choàng mà con mô tả chỉ là một thứ đồ chơi đơn giản; còn sợi dây là một công cụ của quỷ dữ.”
Myfanwy nhìn cha nàng, đang cúi đầu ở đó, với nỗi u sầu trong đôi mắt, bất chấp niềm vui đang lấp lánh và nhảy múa trong tim nàng. Tại sao, nếu ông ấy nghĩ rằng tất cả những gì ông ấy nói là sự thật, tại sao ông ấy không ngước mắt lên và mặt đối mặt nhìn nàng?
“Ổ, thế sao, cha thân mến,” cuối cùng nàng nói khẽ, “và cha biết về thế giới của Thượng đế này mười ngàn lần nhiều hơn là con có cơ hội để biết, bất chấp mong ước của con là gì, con phải yêu cầu cha một chuyện nhỏ này. Cha có hứa với con rằng sẽ không hủy ngay những thứ đồ này, ý con là, trước khi cha đã suy nghĩ thêm một lần nữa về con? Nếu con lừa dối cha, khi đó con thật đáng chịu đau đớn ngoài sức chịu đựng. Nhưng dù con đã cố hết sức để suy nghĩ tăm tối về chàng, ánh sáng vẫn luồn vào, và con thấy trong chính tim mình rằng người lạ này không có thể bất kỳ khả năng nào về bản chất để làm tất cả những điều mà cha nói về anh ta. Nhiều khi trong con có một giọng nói thì thầm với con là Phải hay Không: và con tuân theo. Và về chàng nó chỉ nói Phải. Nhưng con còn trẻ, những bức tường của ngôi nhà này thì hẹp, và cha, cha thân yêu, như cha thường nói với con, là người khôn ngoan. Vậy thì cứ mời chàng trai đó tới gặp cha! Tra vấn chàng, kiểm tra chàng, nhìn kỹ chàng, lắng nghe chàng. Và khi làm xong điều đó, cha sẽ tin vào chàng như con. Vì con biết con đang hạnh phúc, con biết chàng trung thực. Con sẽ đau khổ tột cùng khi đi chệch khỏi sự tuân phục cha dù chỉ với chiều rộng của một sợi tóc. Nhưng, ôi chao, nếu con không bao giờ gặp lại chàng, con sẽ khô héo và chết. Và đó – phải không nhỉ…” nàng mỉm cười nói thêm, “đó sẽ là sự bất tuân tồi tệ nhất phải không? Vậy nếu cha yêu con, như từ giờ phút đầu tiên của con trên thế giới này con biết rằng cha yêu con và con cũng yêu cha, con cầu xin cha hãy nghĩ tới con với lòng chiếu cố, lòng tốt và cả lòng trắc ẩn.”  
Nói xong những lời này, không cố chùi đi những giọt nước mắt đã trào lên đôi mắt, và để lại ba món quà của nhà nghệ sĩ nằm giữa những bông hoa và trái cây trên cái bàn dài trước mặt cha nàng, Myfanwy bước vội ra khỏi phòng, quay về phòng của mình, bỏ ông lại một mình.
Những lời của nàng nằm như những giọt sương tươi mát trên những cỏ cây tăm tối trong tâm trí ông một lúc. Thậm chí ông còn ngẫm nghĩ về chúng một lúc. Trong lúc đó những chuyện bịa gớm ghiếc của chính ông hiện ra với tất cả những sai lầm xấu xa của chúng.
Nhưng than ôi, vì chính bản thân ông, vì sự kiêu hãnh và cố chấp của ông, những suy tư dịu dàng đó chẳng bao lâu đã biến mất. Khi nghĩ một lần nữa về nhà nghệ sĩ tung hứng – về kẻ mà những cuộc rình mò của ông đã cuốn ông vào những cơn thủy triều xa hơn mức ông có thể ngờ - sự giận dữ, lòng căm ghét, lòng ghen tỵ lại một lần nữa sôi lên trong ông và nhấn chìm mọi thứ khác. Ông quên mất sự lịch thiệp của ông, tình yêu của ông đối với Myfanwy, thậm chí niềm mong mỏi giữ được tình yêu của nàng đối với ông. Thay vì thế, ông cứ nhấm nháp rượu, nhấm nháp mãi, và ngồi giận dỗi, bày mưu tính kế với một ý tưởng duy nhất trong đầu – bằng đủ trăm phương nghìn kế để đánh bại gã nghệ sĩ tung hứng này và giết chết tình yêu của Myfanwy vô tội của ông.  
“Nào,” cuối cùng một giọng nói nhỏ rít lên trong đầu ông. “Nào, bây giờ nếu mi nếm trái táo ma thuật, có lẽ nào nó không cho mi lòng dũng cảm và khả năng để chống lại hắn ta, và do đó phá tan mọi hy vọng của hắn ta? Hãy nhớ chỉ cần cắn một miếng ngoài lớp vỏ, Myfanwy của mi đã trở nên kỳ diệu ra sao!”
Và con người ngu xuẩn lắng nghe một cách khao khát cái giọng nói gian xảo đó, không nhận ra rằng phẩm chất duy nhất của quả táo là khiến cho bất kỳ con người nào nếm phải nó sẽ giống với chính bản thân anh ta hơn bao giờ hết. Ông ngồi đó – nắm tay đưa lên miệng – nhìn chăm chú vào quả táo trông có vẻ vô hại. Rồi ông rón rén băng qua căn phòng và lắng nghe ở cửa ra vào. Rồi sau khi rót ra thêm một cốc rượu vang và nốc cạn một hơi, ông thận trọng đưa ngón trỏ và ngón cái nhón lấy cái cuống quả táo nhấc nó lên, một lần nữa nhìn kỹ cái màu đo đỏ, xanh xanh của nó, và nơi mà hàm răng bé nhỏ của Myfanwy đã cắn tróc lớp vỏ.
Đó là một khoảnh khắc mà các thành phố sụp đổ trong cơn động đất, những vì sao va chạm nhau trong khoảng không gian, và những người đàn ông chọn lựa giữa cái tốt và cái xấu. Đột nhiên – ông đã quyết định, gương mặt ông chuyển sang màu đỏ tím – vị lãnh chúa ngu xuẩn này nhấc quả táo lên miệng và cắn hẳn nửa trái. Ông nhai nhóp nhép, nhóp nhép, nhóp nhép.
Tuy nhiên, ông chỉ nhai chưa được bao lâu thì một sự biến đổi đáng sợ bắt đầu xảy ra trên người ông. Dường như toàn thân ông bị dần mạnh, bị xoắn lại và vặn bóp y như cách mà người ta nhồi bột để làm bánh mì, hay như đất sét trong tay một người nắn tượng. Không biết những cơn đau đớn, nhói lên và giật mạnh đó có nghĩa là gì, ông quỵ xuống, như thể theo bản năng, trên đôi tay và đôi đầu gối, và cứ quỳ như thế nhai nhóp nhép, trong lúc đưa mắt nhìn một cách trống rỗng, mù quáng, chìm đắm trong một nỗi kinh hoàng nào đó, vào ngọn lửa trong lò sưởi.
Trong lúc đó, dù ông không biết hết mọi chuyện, mái tóc xám thô cứng của ông chợt mọc dài ra. Một cái đuôi cũng thò ra với một cái chót đuôi bóng mượt đu đưa; hai lỗ tai dài lông lá nhô lên trên hai bên thái dương. Gương mặt đỏ tía chuyển thành màu xám, kéo dài ra mãi cho tới khi nó dài ít nhất bốn mươi phân, với một cái quai hàm to và đôi hàm răng lớn. Và đôi bàn tay, đôi bàn chân của ông biến thành những chiếc móng guốc, và lạ thay! – đứng đó, ở chỗ của chính ông trong tòa đại sảnh – ông già khốn khổ bị đánh lừa Owen ap Gwythosk, lãnh chúa xứ Eggleyseg, đã bị biến hình thành một con lừa!



Suốt nhiều phút, sinh vật sững sờ này đứng trong sự bàng hoàng tột độ - bản ngã bên trong không thể nhận ra ngay sự thay đổi đã đến với hình dáng bên ngoài của nó. Nhưng khi duỗi cái cổ bờm xờm và lạ lẫm về phía trước một chút, ông  nhìn thấy hình ảnh của chính mình trong một bộ áo giáp đã được cọ rửa và đánh bóng đứng ở một bên lò sưởi. Ông lắc đầu, cái đầu con lừa đáp lại. Ông lắc lư thân người mình, hai cái tai dài vỗ vào nhau như đôi cánh của một con chim câu xanh. Ông đưa bàn tay lên – một cái móng guốc giơ lên lơ lửng!
Tới đây, lớp thịt của con vật khốn khổ dường như bò lên từng đoạn xương của ông khi ông quay lại trong nỗi kinh hoàng và mất hết tinh thần để tìm một sự giải thoát khỏi định mệnh đã ập lên ông. Ông là con lừa đó? Nó là chính bản thân ông? Trí khôn khốn khổ của ông nỗ lực một cách vô ích để giữ bình tĩnh. Một cơn kinh hãi bao trùm lên ông. Đúng vào lúc này, đôi mắt lừa to, sáng, có hàng lông mi dài của ông tình cờ lướt qua quả bóng vàng đang nằm hé mở trên bàn bên cạnh cốc rượu – Chiếc Khăn Vô Hình sáng lấp lánh như một tấm lưới của loài nhện đỏ từ bên trong. 
Không phải con lừa nào cũng ngu như lừa như cái vẻ bề ngoài của nó. Và Owen ab Gwythock, dù bây giờ hoàn toàn câm nín trong cái thân hình lông lá cục mịch, nhưng trí óc của ông không còn là trí óc của gã ngu như lừa lúc trước. Lúc này, ý nghĩ duy nhất của ông là che đậy cái tình trạng đáng sợ của ông khỏi bất kỳ người hầu nào có thể đến đó vào lúc ấy, trong khi ông có thể tự mình tìm ra một góc hoàn toàn hẻo lánh trong bóng tối để trốn ở đó và tìm cách thoát ra khỏi hình dáng con lừa, trở lại nguyên vẹn hình hài quen thuộc của ông. Và chiếc khăn nằm ở đó! Còn có gì ngọt ngào hơn là đánh bại tên nghệ sĩ với chính công cụ của hắn ta.
Tóm lấy chiếc khăn với hai cái răng cửa to tướng, ông lôi nó ra khỏi quả bóng và tung nó càng xa càng tốt lên trên đôi vai lông lá lởm chởm của mình. Nhưng than ôi, cái mõm lừa của ông còn kém quá xa so với những ngón tay khéo léo của Myfanwy. Chiếc khăn chỉ che được phân nửa người ông. Cái đuôi, mông và đôi chân sau lúc này biến mất, nhưng cái đầu, cần cổ, đôi vai và hai chân trước vẫn còn hiện ra. Ông lôi kéo một cách vô ích; ông uốn éo vặn vẹo thân hình một cách vô ích. Những chiếc móng guốc nện ầm ầm lên lớp đá lót nền nhà rỗng bên dưới. Một nửa của ông vẫn ngoan cố hiện ra trong mắt; phần còn lại biến mất. Loay hoay mãi ông vẫn không là gì khác hơn một nửa con lừa.
Cuối cùng, mệt nhoài hết cả hơi với những nỗ lực này, run lẩy bẩy và rùng mình, và chẳng còn chút tàn tích nào của lý trí trong cái đầu lừa khốn khổ của ông, ông tự xoay quanh mình một lần nữa và đưa răng cắn lấy sợi dây lụa. Nó là hy vọng cuối cùng của ông.
Nhưng sợi dây này được dệt từ trí thông minh – thật ra nó chính Rắn thần Khôn ngoan cải trang – khi bị răng của ông chạm vào, nó lập tức biến thành một sợi dây thòng lọng chắc chắn, và trước khi ông có thể lùi lại để thoát khỏi cái thòng lọng của nó hay thậm chí kêu be be cầu cứu, nó đã cột ông vào một cái móc thép lớn trong bệ lò sưởi.
Dù sao thì ông cũng đã hí lên: “Hee-haw! Hee-haw!! Hee-ee-ee-ee haw-aw-aw!!!” Tiếng kêu thê thảm kéo dài của ông đã phá vỡ sự im lặng một cách thô bạo đến nỗi âm thanh đó vút lên khỏi những bức tường đá vang vọng và thậm chí xuyên vào cả phòng ngủ của Myfanwy khi nàng đang ngồi trong bóng tối bên cửa sổ, nhìn ra những vì sao, lòng nửa buồn bã nửa hạnh phúc không nói nên lời.
Hoàn toàn chấn động với tiếng kêu gọi đáng sợ này, trong giây lát nàng đã xuống tới chân những bậc thềm đá uốn quanh, và đôi mắt nàng bắt gặp một cảnh tượng lạ lùng.
Ở đó, trước mặt nàng, trong ánh sáng đỏ hừng của những khúc gỗ đang cháy trong lò sưởi và những cây đuốc trên tường, là hai chân trước, cái cổ, cái đầu, và đôi tai của một con lừa xinh đẹp đã trưởng thành, và ở phía sau nó khoảng một mét không có gì cả. Chỉ một khoảng trống không!
Myfanwy tội nghiệp – nàng chỉ có thể xiết chặt đôi bàn tay trong nỗi đớn đau và tuyệt vọng; vì trong đầu nàng không có chút ngờ vực nào về kẻ đang thật sự đứng trước mặt nàng – người cha yêu dấu của nàng. Và trên mặt ông là một nét giận dữ, van nài, xấu hổ và sững sờ mà không bao giờ con người từng thấy trên vẻ mặt của loài lừa trước đó. Khi nhìn thấy nàng, con vật càng lôi một cách giận dữ sợi dây thòng lọng và lắc lư đôi vai bờm xờm; nhưng vẫn phí công vô ích. Miệng của ông há ra và một giọng nói mà ngôn từ không thể diễn tả be be lên trong không gian im lặng những lời sau: “Ồ, Myfanwy, hãy nhìn xem những thứ ma thuật phù thủy và sự lừa bịp của con đã làm gì ta đây!”
“Ồ, cha yêu của con,” nàng khóc trong nỗi kinh hoàng, “đừng nói nữa. Con van cha – không một lời nào – nếu không chúng ta sẽ bị phát hiện. Hoặc nếu cha muốn nói, thì hãy nói thầm thì.”
          Trong chớp mắt, nàng tới bên cạnh ông, vòng tay ôm lấy cổ ông, và thì thào vào cái lỗ tai dài lông lá của ông tất cả những lời an ủi, động viên và trấn an mà một trái tim yêu thương và dịu dàng có thể nghĩ ra. “Nghe này, nghe này, cha thân yêu,” nàng van nài ông, “con thấy cha đã thật sự dính dáng tới quả táo, quả bóng và sợi dây. Và con cam đoan với cha, với cả trái tim và linh hồn con, rằng con không nghĩ tới điều gì khác ngoài cách làm thế nào để giúp đỡ cha trong cái tai họa đã ập xuống chúng ta. Hãy kiên nhẫn. Đừng cố gắng đấu tranh nữa. Tất cả sẽ ổn thôi. Nhưng ôi, cha yêu dấu, có hoàn toàn công bằng không khi nói về sự lừa gạt của con?”
Đôi mắt sáng của nàng tràn ngập lòng trắc ẩn khi nàng nhìn vào kẻ mà nàng đã yêu thương kể từ khi nàng có thể nhớ, giờ đã bị biến hình một cách thê thảm như vậy.
“Làm sao con có thể chần chừ, con bé vô ơn kia?” Giọng nói ồ ề một lần nữa vỡ ra. ‘Hãy giải thoát ta khỏi cái hình thù đáng sợ này, hoặc ta sẽ bị treo cổ trên cái lò sưởi của chính mình trong sợi thòng lọng này.” 
Nhưng, chao ôi, lúc bấy giờ những tiếng chân đã xuất hiện ở ngoài cửa. Không một giây phút ngần ngừ, Myfanwy kéo chiếc khăn mỏng manh trùm kín hoàn toàn đầu, cổ, và phần thân trước, và do vậy, đã hoàn toàn che giấu ông khỏi con mắt mọi người. Vì vậy - dù điều này không đến quá nhanh – khi người quản gia của lãnh chúa xứ Eggleyseg xuất hiện ở cửa, không có gì thay đổi bên trong, ngoại trừ việc chủ nhân của ông ta không còn ngồi trên chiếc ghế quen thuộc, Myfanwy đứng một mình ở bàn, và một sợi dây bí ẩn giăng ra giữa tay nàng và cái móc trong lò sưởi.
“Cha tôi đã rút lui được một lúc,” Myfawy nói. “Người đang khó ở, và bảo tôi nói với ông rằng ngay cả một tiếng thì thầm cũng quấy rầy sự nghỉ ngơi của người. Hãy chuẩn bị ngay một liều thuốc chữa cảm lạnh, và nhìn xem cái phòng bên dưới còn để trống hay không.”
Khi người quản gia vừa đi khỏi để thực hiện lệnh của nàng, Myfanwy quay ngay sang cha mình, vén tấm khăn lên, thì thầm vào tai ông một lần nữa rằng ông phải vui lên. “Vì cha thấy đó, cha thân yêu, bây giờ điều duy nhất cần làm là chúng ta phải lên đường ngay để tìm chàng nghệ sĩ tung hứng, người không hề có ý xấu khi tặng cho con những món quà lạ lùng đó. Chỉ mình chàng ta có thể và sẽ, con bảo đảm, đưa cha trở lại hình dáng cũ. Vì thế con cầu xin cha hãy im lặng tuyệt đối – không một lời, không một tiếng lầm bầm nào – trong lúc con đưa cha đi vào rừng. Khi đã tới đó, con chắc chắn sẽ có thể tìm tới nơi của chàng ta. Thật ra có lẽ chàng đã sẵn sàng chờ mong con đến.”
Dù vị lãnh chúa có ngu xuẩn và cố chấp đến đâu, ngay cả trong hình dáng hiện tại, ông nhận ra rằng đây là con đường khôn ngoan duy nhất. Thế là sau khi tháo đầu dây khỏi cái móc, Myfanwy lặng lẽ dẫn con vật lúc này vô hình tới cửa, và cứ thế nhè nhẹ đi xuống những bậc cầu thang uốn lượn. Bộ vó nặng nề gõ lên những phiến đá nghe như tiếng gõ trống bung bung. 
Căn phòng rộng bên dưới không còn người cư ngụ, và không khó khăn gì, cả hai cha con đã nhanh chóng ra bên ngoài dưới ánh trăng lờ mờ mà nhờ vận may đang rọi xuống con đường mòn hẹp dẫn vào rừng.
Trước đó, chưa bao giờ Myfanwy bước ra khỏi những bức tường của tòa lâu đài; chưa bao giờ nàng đứng bàng hoàng bên dưới khoảng tối mênh mông của bầu trời đầy sao. Nàng hít sâu không khí ban đêm tươi mát trong lành, trái tim nàng bừng nở như một cây hoa anh thảo ban chiều, không hề thấy e sợ. Vì nàng biết rõ rằng sự an toàn của cả hai – con vật run rẩy tội nghiệp này và chính nàng – giờ đây chỉ tùy thuộc vào lòng can đảm và sức mạnh tiềm tàng của chính nàng, rằng sợ hãi sẽ chỉ đưa họ từ tai họa này đến tai họa khác.
Tuy nhiên, vì một con lừa vô chủ một mình lang thang dưới ánh trăng mờ của khu rừng sẽ là một cảnh tượng ít lạ lùng hơn một cô gái lẻ loi như nàng, một lần nữa nàng ghé môi vào sát tai của cha mình và thì thầm vào đó, giải thích với ông rằng bây giờ chính nàng mới là người cần khoác tấm khăn, và nếu ông tha thứ cho sự cả gan của nàng – vì nói cho cùng, ông từng thường xuyên cõng nàng trên vai khi nàng còn bé – nàng sẽ cưỡi lên lưng ông và theo cách này họ sẽ cùng nhau đi nhanh hơn trong cuộc hành trình.
Cha nàng không dám cho lời nàng là sự xúc phạm, dù cảm giác thầm kín của ông có thế nào đi nữa. “Nếu con gấp, con của cha,” ông nói cộc lốc, cố gắng một cách vô ích để giữ cho giọng nói của mình không quá lớn., “cha sẽ tha thứ cho con tất cả.” Giây lát sau, trên con đường mòn, khi hiện ra dưới ánh trăng, khi khuất trong bóng tối, một con lừa đẹp mã béo tốt với một sợi thòng lọng vắt ngang trên mũi xoảy bước đều, không dừng chân để gặm những túm cỏ đẫm sương bên vệ đường, rõ ràng là theo ý thích của chính nó.
Tình cờ đêm đó có một nhóm sơn tặc cắm trại trong khu rừng. Và khi đột nhiên con vật lạ lùng và đẹp mã vô tình ngoặt ra từ một lùm cây, lọt vào vùng ánh sáng của ngọn lửa trại và nhìn ngọn lửa của chúng một cách kinh hoàng với đôi mắt như hai viên ngọc lục bảo long lanh, chúng cùng phá ra cười. Ngay lập tức một tên trong bọn chồm dậy để tóm lấy sợi thòng lọng của con vật.
Tuy nhiên, niềm vui của bọn cướp nhanh chóng biến thành sự khiếp đảm khi chúng nhìn thấy con vật kỳ lạ đó đang được dẫn dắt một cách rõ ràng bởi một bàn tay vô hình bí ẩn. Nó quay sang bên này, quay sang bên khác, với một sự thông minh rõ ràng không phải của chính nó và không có tính chất tự nhiên đối với giống lừa, và do vậy đã tránh được mọi cố gắng tóm lấy sợi dây thừng của tên cướp, bộ răng và đôi mắt của nó lấp lánh trong ánh lửa.
Khi thấy thế, bọn cướp kinh ngạc và sợ hãi. Chắc chắn chỉ có một ma thuật mới có thể lý giải cho những cử động không giống loài lừa lạ kỳ như thế. Chắc chắn có một thần linh nào đó đang chiếm hữu con vật và dính dáng vào nó chỉ tổ thiệt thân.
May mắn là bàn chân phải của Myfanwy, do sơ suất ló ra khỏi tấm khăn, lại nằm ở phía hông quay về phía ngược với ánh lửa trại của con vật. Vì chắc chắn nếu bọn hung đồ này nhìn thấy những viên đá quý lấp lánh trên cái khóa cài của chiếc giày, sự mê tín của chúng sẽ tan ngay như sương mù buổi sáng, nỗi sợ của chúng sẽ được thay thế bằng máu tham. Chúng sẽ nhanh chóng tóm lấy con lừa và bắt cả người cưỡi để đòi một món tiền chuộc thật cao.
Dù sao đi nữa, khi vầng trăng chưa di chuyển nhiều lắm trên hành trình ban đêm của nó, Myfanwy và con lừa có một không hai của nàng đã khuất khỏi tầm mắt an toàn, và bọn cướp cũng đã quay lại với cuộc chè chén của chúng. Myfanwy không thể nói được cái gì đã thôi thúc nàng phải chọn đường này hay đường khác trong những đường ngang nẻo tắt rối rắm của khu rừng. Nhưng mặc dù cha nàng – không dám cất giọng giữa sự im lặng sâu thẳm – thỉnh thoảng lại bướng bỉnh cưỡng lại sợi dây thừng với niềm tin rằng những người khách du hành đã chọn sai đường và đi lạc lối, Myfanwy vẫn giữ nguyên hướng đi của mình.
Với một cái cọ nhẹ bằng gót chân hay một cái vỗ bằng bàn tay lên cần cổ lông lá của cha mình, nàng cố hết sức để cam đoan và vỗ về ông, “Hãy tin vào con, cha thân yêu, con chắc chắn là mọi chuyện sẽ ổn thôi.”
Thế nhưng lòng nàng lại chất đầy nghi ngại. Vì thế khi một ánh lửa lấp lánh hiện ra lấp ló giữa những tàng cây trong khu rừng, tim nàng như mở hội. Nàng đang tiến tới điểm cuối của chặng hành trình. Như thể có một giọng nói quen thuộc trong cõi miền bí ẩn của tim nàng đang thì thầm, “Suỵt! Chàng đang ở gần đây!”
Nàng rời khỏi tấm lưng lông lá của người cha ngay lúc đó và một lần nữa nói khẽ vào tai ông. “Cha thân mến, hãy kiên nhẫn ở lại đây một lát,” nàng van xin ông, “đừng rời nửa bước khỏi nơi cha đang đứng, vì mọi thứ đều nói với con rằng người khách lạ của chúng ta giờ đây không còn xa lắm, và không có người nào trên trái đất, thậm chí không có một sinh vật đang sống nào được nhìn thấy cha trong lớp cải trang đáng buồn và khó coi này. Con sẽ đi nhanh để chắc chắn rằng ánh lửa mà con nhìn thấy qua bụi rậm đằng kia là của chàng ta chứ không phải của ai khác.Và con sẽ mang theo tấm khăn để phòng trường hợp rủi ro. Trong lúc đó xin cha ở yên bên dưới bóng cây sồi này, đừng nhúc nhích trừ phi cha mệt quá sau chuyến đi dài và muốn nằm nghỉ một lúc trên thảm cỏ mềm hơn trong bóng râm dưới bụi hoa hồng đằng kia, hay để tắm táp cho khoẻ ở con suối mà con nghe tiếng chảy róc rách ở cái thung lũng nhỏ kia. Trong trường hợp đó, con cầu xin cha hãy quay trở về đây kiên nhẫn chờ đợi và câm nín như đá. Vì dù cha có giọng nói nhỏ nhẹ, cha thân yêu, cái cổ dài và và bộ răng to đó sẽ không thừa nhận nó.”
Và cha nàng, như không thể chịu đựng những bất hạnh của mình lâu hơn nữa dù với bộ lông dày đang khoác trên người, há miệng ra như muốn rên to một tiếng. Nhưng rồi ông tự kềm chế được và chỉ thở dài, trong lúc một con cú chợt rúc lên tiếng gọi ban đêm của nó như để đáp lời. Vì đã trải qua giờ cuối cùng trong một cơn mơ màng sâu sắc và đau khổ, con lừa tội nghiệp giờ đây đã có lại phần nào lý trí và sự minh mẫn của con người. Nhưng dù ánh mắt thật đáng thương, ông vẫn nở một nụ cười theo kiểu của giống lừa như thể để hứa với Myafanwy, lúc này đang đứng cạnh ông, tấm khăn mỏng trong tay, nét mặt sáng ngời như tuyết bên dưới ánh trăng.
Sau khi đã chắc chắn rằng mọi sự đều ổn thỏa cho tới khi mình quay lại, Myfanwy hôn lên đôi lông mày của cha nàng, và với tấm khăn trong tay, nàng nhẹ nhàng đi về hướng ánh lửa bập bùng.
Chao ôi, dù vị lãnh chúa thật sự khao khát dòng nước mát đang reo lên bài ca róc rách từ cái thung lũng bên dưới, ông không thể tự kềm chế bản thân khi nàng vắng mặt, và không lưu tâm tới lời hứa câm lặng của mình, ông đi theo con gái ở một khoảng cách xa xa khi nàng đang tới gần ánh lửa, bộ móng guốc của ông hầu như không phát ra tiếng động trên nệm cỏ. Khi đã tới gần, bằng cách nhìn qua những bụi cây rậm vây quanh nơi trú ẩn ban đêm của người nghệ sĩ tung hứng, ông có thể nhìn thấy và nghe thấy mọi thứ xảy ra.
Ngay khi Myfanwy đã chắc chắn rằng người lạ đang ngồi bên ánh lửa thật sự là nhà nghệ sĩ tung hứng chứ không phải ai khác, nàng trùm khăn che kín người một lần nữa, len lén tới gần phía sau anh ta, khi anh ta đang cúi người bên trên lớp than hồng. Rồi dừng lại, nàng gọi với giọng thật khẽ, “Tôi van xin chàng, hỡi người xa lạ, hãy thương xót một người đang gặp tai ương lớn.”
Nhà nghệ sĩ tung hứng ngẩng gương mặt mơ màng lên nhìn khắp xung quanh một cách cảnh giác nhưng cũng đầy vẻ kinh ngạc và vui mừng.
“Tôi van xin chàng, hỡi khách lạ,” giọng nói từ kẻ vô hình lại cất lên, “hãy thương xót một người đang gặp tai ương lớn.”
Khi nghe thấy thế, dường như lúc này có một luồng băng chạy qua huyết mạch của người khách lạ, rồi kế đó là lửa. Vì anh ta biết rõ rằng đây là giọng nói của một người mà so với nàng, tất cả những người khác trên thế giới đối với anh ta chỉ là con số không. Anh ta cũng biết rằng nàng phải đứng gần đó, dù trở nên vô hình do khoác tấm khăn choàng của chính anh ta.
“Tới gần đây, khách bộ hành. Đừng sợ,” anh ta hướng vào bóng tối khẽ kêu lên. “Mọi chuyện sẽ ổn thôi. Hãy nói xem tôi có thể giúp gì cho nàng.”
Nhưng Myfanwy không nhích tới gần thêm nửa bước. Trái lại, nàng hơi chuyển người về phía cánh trảng, và lúc này giọng nàng vẳng tới anh ta từ ngọn gió thổi về nam, trở nên xa xăm hơn.
“Có một người đi với tôi,” nàng đáp, “người này đã bị biến hình thành một con vật, và con vật đó là một con lừa đáng thương. Hãy nói cho tôi biết, hỡi phù thủy, làm sao tôi có thể đưa ông ấy trở về hình dáng tự nhiên, và tôi sẽ mang ơn chàng mãi mãi. Vì người mà tôi nói chính là cha của tôi.”
Giọng nàng ngắt quãng và ngập ngừng. Nàng gần như muốn hé lộ bản thân mình ra trước con người xa lạ này, tin tưởng không chút nghi ngờ hay e sợ rằng anh ta sẽ giúp đỡ nàng một cách chân thành mọi điều nàng đã yêu cầu.
“Nhưng, tiểu thư hiền dịu ạ,” người nghệ sĩ đáp, “điều đó không nằm trong khả năng của tôi, trừ  phi người mà nàng nói tới gần đây để cho tôi thấy. Dù giọng nói của nàng đối với tôi ngọt ngào hơn tiếng hạc cầm thánh thót trong không trung, tôi cũng không có khả năng hứa với một giọng nói không hình thể. Vì làm sao tôi chắc được rằng người thốt ra những lời đó không phải là một quỷ thần nào đó của bóng tối đang muốn chế nhạo tôi, đánh lừa tôi, và sẽ dùng ma thuật hại tôi?”
Trong cánh trảng im lìm một lúc. Thế rồi nhà nghệ sĩ tung hứng kêu lên, “Không, không! Đây chính là người đáng yêu nhất và can đảm nhất, tôi không cần nhìn thấy hình dáng của nàng để biết nàng. Nàng chắc chắn phải là Myfanwy xinh đẹp, người mà tôi đã từng, đang và sẽ sẵn sàng phục vụ mãi mãi. Vậy hãy nói cho tôi biết, con lừa tội nghiệp từng là người cha cao quý của nàng ở đâu?”
Nghe thấy thế, ngay lập tức Myfanwy kéo tấm khăn ra khỏi đầu và vai mình, để lộ thân hình xinh đẹp đứng trong quầng ánh sáng đỏ hồng của ngọn lửa đang bừng cháy. Từ bụi rậm gần đó cũng phát ra một âm thanh phẫn  nộ và đau đớn – qua cái cổ họng khàn khàn và ít thực hành của kẻ nghe trộm – đến nỗi người ta có thể cho rằng tiếng kêu đó không là gì khác hơn ngoài giọng đồng ca của những tên quỷ sứ, dù thật ra đó chỉ là chú lừa khốn khổ của chúng ta đang than van cho số phận của mình.
“Ồ, chàng ơi” Myfanwy thở dài, “tôi e là cha tôi trong nỗi đau khổ và lo lắng của mình đã lắng nghe những gì xảy ra giữa hai chúng ta. Nhìn kìa, ông ấy đang đi tới.”
Lúc này tiếng vó chạy nước kiệu nghe rõ mồn một khi lãnh chúa xứ Eggleyseg trong bộ da và hình dáng lừa lao tới để giáng sự báo thù lên chàng phù thủy trẻ. Nhưng lúc ấy, trong cơn giận và sự điên rồ cố chấp mang tính chất lừa nhiều hơn tính chất người, việc nhìn thấy đám lửa khiến cho ông chựng lại mất tinh thần, và ông không thể làm gì khác hơn là giơ chân trước cào xuống đất, ngẩng cái mũi mềm và nhe bộ răng lấp lánh lên bầu không khí ban đêm, chấm dứt cơn thịnh nộ và sự thách thức của mình ở cách đống lửa khoảng hai chục bước chân.  
Chàng phù thủy trẻ, vốn có bản tính lịch thiệp cũng như can đảm, không làm gì ngoài việc quay đầu nhìn con vật đang giận dữ, rồi lại quay nhìn Myfawy lần nữa. Nàng đứng hơi cúi đầu, lệ rưng rưng trên khoé mắt; một phần vì đau khổ vì sự thất hứa của cha nàng và sự nhục nhã mà ông ta tự chuốc lấy cho mình, phần vì vui mừng rằng sự bất hạnh của họ sẽ chóng qua và bây giờ nàng đã trở thành đồng bạn với người khách lạ, kẻ vô tình là nguyên nhân của tất cả mọi chuyện này.
“Đừng sợ,” anh ta nói, “ma thuật đã biến đổi người cha cao quý của nàng thành một sinh vật có bản tính dễ bảo, kiên nhẫn và nhún nhường hơn bất kỳ loài nào khác trên thế giới cũng có thể nhanh chóng khôi phục lại hình dáng tự nhiên của ông ấy.”       
“Ồ, vậy thì, chàng ơi,” cô gái đáp, “chắc chắn rằng cha tôi sẽ mong muốn tặng cho chàng một món quà nhỏ bất kỳ nào trong khả năng của chúng tôi để ghi nhận lòng tốt của chàng. Bởi vì, như ông ấy biết rõ, ông ấy đã tự mình ăn trái táo xanh bùa chú chứ không do ai thúc giục hay lừa dối. Ngoài ra, tôi cầu xin chàng hãy tha thứ cho tôi vì trước tiên đã đánh cắp trái táo đó, rồi sau đó là quả bóng vàng và sợi dây lụa từ không trung.”
Nhà nghệ sĩ tung hứng quay lại và nhìn Myfanwy một cách lạ lùng. “Tôi chỉ ao ước một điều duy nhất trong toàn thể vũ trụ đầy sao này,” anh ta đáp. “Nhưng tôi sẽ không hỏi xin ông ấy, vì đó không phải là thứ ông ấy có thể cho. Đó là cầu xin sự tha thứ của chính nàng, tiểu thư ạ.”
“Tôi tha thứ cho chàng!” nàng kêu lên. “Ôi chao, cha tội nghiệp của tôi!”
Nhưng khi nàng nói thế, một nụ cười mơ hồ hiện lên trên nét mặt của nàng, và đôi mắt nàng hướng về con vật đang đứng một vài bước bên ngoài rìa của quầng ánh sáng do đống lửa phát ra. Lúc ấy nó đang đánh hơi bầu không khí, và lắc lư một cách buồn rầu bộ lông bờm xám thô kệch giữa hai tai. Vì bây giờ cha nàng đã sắp hiện lại nguyên hình, trái tim non trẻ của nàng lại trở nên hoàn toàn hạnh phúc, và tương lai dường như sẽ ngọt ngào với lời hứa như những bông hoa dại tháng Năm.
Không nói thêm lời nào nữa, chàng nghệ sĩ tung hứng lôi ra khỏi cái túi nhỏ - như thể anh ta luôn luôn mang theo bên mình một ít hoa quả riêng tư – một củ cà rốt chín thon thon. 
“Tiểu thư ạ, đây là phép thuật duy nhất của tôi,” anh ta nói. “Tôi không hề mặc cả. Tình yêu tôi dành cho nàng sẽ không bao giờ phai nhạt, ngay cả khi tôi không bao giờ làm tươi mới lại đôi mắt không ngủ của mình với sự hiện diện của nàng trong cánh trảng quạnh hiu này. Hãy để cha nàng, lãnh chúa xứ Eggleyseg tới gần đây với niềm tin. Có thể tưởng tượng rằng ít có gì khác biệt giữa một trái táo và một củ cà rốt. Nhưng khi nói về tất cả, nói chung có rất ít sự khác biệt giữa bất kỳ sinh vật này với sinh vật khác trong cái thế giới lạ lùng này. Có những sinh vật trên thế giới mà số phận của chúng bất chấp sự dịu hiền, khiêm tốn, bổn phận tầm thường và sự vâng lời để phải đi trên bốn chân và phải phục vụ cho những chủ nhân không hề xứng đáng, trong lúc có những người ở vị trí cao mà lẽ ra vị trí đó phải đảo ngược lại mới là đúng đắn. Đó là một bí mật ngoài khả năng hiểu biết của tôi. Nhưng bây giờ tất cả những gì tôi đề nghị là nàng hãy bảo con lừa, kẻ mà nàng nói với tôi là đang lắng nghe tất cả những gì trao đổi giữa chúng ta, cắn vào cái rễ cây khiêm tốn nhưng hữu ích này. Nó sẽ ngay lập tức phục hồi lại nguyên hình cho ông ấy. Đồng thời, nếu nàng ra lệnh, bản thân tôi sẽ đi ngay.”
Không nói thêm lời nào giữa họ, Myfanwy nhận lấy củ cà rốt ma thuật và tới đi gần con lừa.
“Cha thân yêu,” nàng kêu khẽ, “đây là một cái rễ cây trông như một củ cà rốt, nhưng ăn nó vào cha sẽ ngay lập tức trở lại hình dạng cũ, và sẽ quên rằng cha từng là – như lúc này. Trong nhiều ngày sắp tới con e rằng cha sẽ không muốn nhìn thấy đứa con gái đã từng là nguyên nhân không mong muốn của sự trải nghiệm đau buồn đêm nay. Như con nghe nói, có một ẩn sĩ sống trong một túp lều cỏ ở khu rừng đằng kia. Con thật sự tin chắc rằng chàng phù thủy trẻ này sẽ chăm sóc cho con một thời gian cho tới khi mọi đau khổ giữa chúng ta đã được quên đi. Cha sẽ bằng lòng chứ, cha thân yêu?” Nàng van nài.
Một tiếng hí dài vang dội lại trong những thung lũng của cánh rừng. Lãnh chúa xứ Eggleyseg đã nói xong.
“Thật sự, cha ạ,” Myfanwy mỉm cười, “trước đó con chưa bao giờ nghe cha nói “Đồng ý” một cách vui vẻ đến thế. Có cần phải nói thêm gì nữa? 
Thế là con lừa, với sự khẩn trương hơn là lòng biết ơn, nhai nhóp nhép củ cà rốt, và trong vài giờ, Owen ap Gwythock, đã trở lại nguyên hình, dù hầu như có một hình dáng cân xứng hơn, an toàn về tới tòa lâu đài của ông. Ở đó, suốt nhiều ngày ông than vãn về sự hiu quạnh đáng buồn của mình, nhưng cũng hiểu rằng ông đã đối xử tệ thế nào với cô con gái rất mực chân thành và trung thực, và sự điên rồ của một tình yêu bị rào quanh bởi sự không tin tưởng và ngờ vực và bị đầu độc bởi tính ghen tuông.
Và khi tháng Năm lại quay về, một chàng hoàng tử, không còn dưới lớp quần áo cải trang của một nghệ sĩ tung hứng lang thang, cùng với Myfanwy yêu dấu của vị lãnh chúa xứ Eggleyseg đã trở về tòa lâu đài cổ. Và Owen ap Gwythock, già hơn chút ít nhưng khôn ngoan hơn nhiều, chào đón họ với đủ mọi kiểu hội hè vui chơi, đủ loại tiệc tùng, khiêu vũ, ca hát tưng bừng vui vẻ mà trước đó chưa ai từng nghe nói tới. Thật sự, nếu ông làm khác đi, ắt hẳn ông hoàn toàn đúng là một con lừa.