Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

CÂU CHUYỆN ĐỜI TÔI - HELEN KELLER - PHẦN IV (Chương X & XI)


Nguyễn Thành Nhân dịch







CHƯƠNG X


          Ngay trước khi Học viện Perkins đóng cửa nghỉ hè, nhà trường bố trí cho cô giáo và tôi trải qua kỳ nghỉ ở Brewster, trên Mũi Cá Thu (Cape Cod) với người bạn thân mến của chúng tôi, bà Hopkins. Tôi rất vui sướng, vì tâm trí tôi tràn ngập những trò vui sắp tới và những câu chuyện tuyệt vời tôi từng nghe về biển.
          Hồi ức sống động nhất của tôi về mùa hè đó là đại dương. Tôi luôn sống sâu trong đất liền, và chưa bao giờ hưởng nhiều bầu không khí nồng nàn mùi muối; nhưng tôi đã đọc một cuốn sách lớn tựa là “Thế giới của chúng ta”, một mô tả về đại dương khiến tâm hồn tôi tràn ngập sự diệu kỳ và một khao khát khôn tả được chạm vào biển cả mênh mông và cảm nhận tiếng gầm của nó. Vì thế quả tim bé nhỏ của tôi như nhảy chồm lên vì nôn nao phấn khích khi tôi biết rằng ao ước của mình rốt cuộc sẽ trở thành hiện thực.
            Vừa khi tôi được giúp mặc bộ đồ tắm vào người, tôi chạy vù ra bờ cát ấm và không chút e sợ lao mình vào lòng nước mát. Tôi cảm thấy những làn sóng lớn rung chuyển và chìm xuống. Chuyển động sôi nổi của nước khiến lòng tôi tràn ngập một niềm vui to lớn, xôn xao. Đột nhiên trạng thái mê ly của tôi nhường chỗ cho nỗi kinh hoàng; vì bàn chân tôi va mạnh vào một tảng đá và giây phút kế tiếp, một làn sóng lớn ập xuống đầu tôi. Tôi quờ tay để tìm một thứ gì đó chở che, tôi chộp vào nước và những chùm rong biển mà sóng hất vào mặt tôi. Nhưng mọi nỗ lực điên cuồng của tôi chỉ luống công vô ích. Dường như những đợt sóng đang đùa cợt với tôi, nhồi dập tôi từ đợt này sang đợt khác trong trò đùa hoang dại của chúng. Điều đó thật đáng sợ! Mặt đất vững chắc, tốt lành đã trượt khỏi đôi chân tôi, và mọi thứ dường như bị khép kín khỏi môi trường lạ lùng, bao trùm tất cả cuộc sống, bầu không khí, hơi ấm và tình yêu này. Tuy nhiên, cuối cùng như thể đã thấm mệt với thứ đồ chơi mới của nó, biển ném trả tôi lên bờ cát, và khoảnh khắc kế tiếp tôi được ôm chặt trong vòng tay của cô tôi. Ôi, sự an ủi của cái ôm kéo dài, hiền dịu! Ngay khi tôi tỉnh hồn lại sau cơn hoảng loạn đủ để nói bất cứ điều gì, tôi hỏi: “Ai đã bỏ muối vào nước vậy?”
          Sau khi tôi đã hồi phục từ trải nghiệm đầu tiên trong lòng nước, tôi nghĩ thật là vui thú khi ngồi trên một tảng đá lớn trong bộ đồ tắm và cảm nhận hết lượn sóng này tới lượn sóng khác vỗ vào tảng đá, bắn tung những đợt mưa bụi nước bao trùm lấy người tôi. Tôi cảm thấy những hòn sỏi kêu lạo xạo khi những lượn sóng ập mạnh vào bờ cát; toàn bộ bãi biển dường như bị cuốn trôi trước sự tấn công khủng khiếp của chúng, và bầu không khí rung chuyển vì những nhịp đập của chúng. Những đợt sóng lớn cuộn lại, gom tụ để phóng vọt lên cao hơn, và tôi bám vào tảng đá, căng thẳng, bị mê hoặc, khi cảm thấy sự rung chuyển và tiếng gầm của biển cả đang cuộn sóng!
          Tôi không thể ở đủ lâu trên bờ biển. Sự rung ngân của bầu không khí biển trong lành và tự do giống như một ý nghĩ lặng lẽ trầm tư, và những vỏ sò, những hạt sỏi và rong biển với những sinh vật bé xíu bám vào chúng không bao giờ khiến tôi hết thích thú. Một hôm, cô Sullivan hướng sự chú ý của tôi tới một đối tượng lạ lùng mà cô bắt được khi nó đang phơi nắng trong lòng nước mát. Nó là một con sam – con đầu tiên tôi từng thấy. Tôi sờ nó và nghĩ thật lạ khi nó vác cái nhà của nó trên lưng. Đột nhiên tôi nảy ra ý nghĩ rằng nó có thể trở thành một con thú cưng thú vị; vì thế tôi tóm lấy cái đuôi của nó với cả hai tay và xách nó về nhà. Kỳ công này khiến tôi rất đỗi hài lòng, vì cơ thể nó rất nặng, và tôi phải dốc hết sức để lôi nó đi suốt nửa dặm đường. Tôi không để cho cô Sullivan yên cho tới khi cô đặt con sam vào một cái máng nước gần giếng, nơi tôi chắc rằng nó sẽ được an toàn. Nhưng sáng hôm sau khi tôi tới chỗ cái máng nước, thì trông kìa, nó đã biến mất tăm! Không ai biết nó đã đi đâu, hoặc nó tẩu thoát bằng cách nào. Nỗi thất vọng của tôi lúc ấy thật là cay đắng; nhưng dần dà tôi nhận ra rằng không phải là điều khôn ngoan khi ép buộc sinh vật lặng câm tội nghiệp này tách khỏi môi trường của nó, và sau đó ít lâu tôi cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ có lẽ nó đã quay về biển cả.

 

 

CHƯƠNG XI


          Vào mùa thu, tôi quay trở về ngôi nhà miền Nam của mình với một quả tim tràn ngập những hồi ức vui tươi. Khi tôi nhớ lại chuyến đi miền Bắc ấy, tôi rất kinh ngạc với sự phong phú và đa dạng của những trải nghiệm trong chuyến đi. Dường như đó là sự khởi đầu của mọi sự. Những kho báu của một thế giới mới mẻ, xinh đẹp được đặt dưới chân tôi, và tôi thu thập niềm vui và thông tin ở từng bước ngoặt. Tôi hòa nhập vào mọi sự vật. Tôi không bao giờ tĩnh lặng trong một phút giây nào; cuộc đời tôi tràn đầy chuyển động như những côn trùng nhỏ bé gom toàn bộ sự tồn tại vào một ngày ngắn ngủi. Tôi đã gặp nhiều người trò chuyện với tôi bằng cách viết vào tay tôi, và ý tưởng trong bản hòa âm hân hoan nhảy lên để gặp gỡ ý tưởng, và một phép lạ đã được hoàn thành thế đó! Những nơi chốn khô cằn giữa tâm trí tôi và tâm trí của những người khác bừng nở như một đóa hoa hồng.
          Tôi trải qua những tháng mùa thu với gia đình tôi ở ngôi nhà nghỉ hè của chúng tôi, trên một ngọn núi cách Tuscumbia chừng mười bốn dặm. Nó được gọi là Mỏ đá Dương xỉ, vì ở gần đó có một mỏ đá vôi, đã bị bỏ hoang từ lâu. Ba dòng suối nhỏ vui nhộn chảy qua đó từ những khe suối trong những tảng đá bên trên, vọt lên ở chỗ này và nhào xuống ở chỗ khác trong những thác nước reo vui ở những nơi các tảng đá cố chặn đứng con đường của chúng. Khu đất trống mọc đầy những lùm dương xỉ phủ kín toàn bộ những mảng đá vôi và ở đôi chỗ che kín những dòng suối. Phần còn lại của ngọn núi là rừng cây rậm rạp. Ở đây có những cây sồi to lớn và những loài cây xanh quanh năm tuyệt diệu có thân giống như những cây cột đầy rêu, và từ những cành cây rủ xuống những chùm dây thường xuân và tầm gửi; và những cây quả hồng, với mùi hương lan tỏa khắp mọi ngóc ngách của khu rừng – một thứ mùi thơm huyền ảo khiến quả tim vui sướng. Ở nhiều chỗ, những dây nho xạ và nho dại trải từ cây này sang cây khác, tạo thành những cái giàn luôn có đầy lũ bướm và những côn trùng vo ve. Thật là vui thú khi đắm mình vào những khoảng trống xanh um của khu rừng rậm rạp đó vào chiều muộn, và ngửi những mùi thơm tinh tế, tuyệt vời xông lên từ mặt đất khi ngày khép lại.
          Ngôi nhà của chúng tôi là một loại trại thô sơ, tọa lạc một cách xinh đẹp trên đình núi, giữa những cây sồi và thông. Những căn phòng nhỏ được bố trí ở mỗi phía của một cái sảnh trống dài. Quanh nhà là một hàng hiên rộng, nơi những cơn gió núi thổi qua, ngọt ngào với đủ loại hương rừng. Chúng tôi ở ngoài hiên trong hầu hết thời gian - ở đó chúng tôi làm việc, ăn và chơi đùa. Ở cửa sau có một cây óc chó trắng to lớn, quanh nó là những bậc thềm, và tôi đứng trước những cây cối này, sát đến độ tôi có thể chạm vào chúng và cảm thấy gió lay động những cành lá của chúng, hay những chiếc lá đang xoay tròn rơi xuống trong ngọn gió thu.
          Có nhiều khách tới viếng thăm Mỏ đá Dương xỉ. Vào chiều tối, bên cạnh bếp lửa trại, những người đàn ông chơi đánh bài và giết thì giờ bằng cách chuyện trò về những môn thể thao. Họ kể những câu chuyện về các chiến công tuyệt vời của mình với lũ chim, cá và thú bốn chân – họ đã bắn được bao nhiêu con vịt trời và gà tây, họ đã bắt được những con cá hồi “hung tợn” nào, và họ đã săn được những con cáo xảo quyệt nhất, đánh lừa những thú có túi thông minh nhất, và đuổi kịp con nai chạy nhanh nhất ra sao, cho tới khi tôi nghĩ chắc chắn là loài sư tử, cọp, gấu và số còn lại của muông thú chốn rừng hoang sẽ không thể nào đứng trước những tay thợ săn mưu mẹo này. “Mai đi săn nhé!” là câu hét chào buổi tối của họ khi cái vòng tròn vui vẻ của những người bạn tản ra để về ngủ tối. Những người đàn ông ngủ trong cái sảnh ở mé ngoài cửa của chúng tôi, và tôi có thể cảm thấy hơi thở sâu của lũ chó và những tay thợ săn khi họ nằm trên những cái giường tạm bợ của họ.
          Vào rạng đông, tôi bị đánh thức bởi mùi cà phê, tiếng sột soạt của những khẩu súng, và những bước chân nặng nề của những người đàn ông khi họ đi lại quanh quẩn, tự hứa với mình sẽ gặt hái được may mắn lớn nhất của mùa săn. Tôi còn có thể cảm thấy tiếng gõ móng của những con ngựa mà họ đã cởi tới từ thị trấn và đang cột cạnh những gốc cây, nơi chúng đứng suốt đêm, hí vang lừng, nôn nao muốn lên đường. Cuối cùng những người đàn ông lên ngựa, và trong lúc họ hát vang những bài ca cũ, đàn chiến mã phi xa dần với tiếng reo của dây cương và tiếng roi vụt, đàn chó săn chạy dẫn đầu, và đoàn thợ săn vô địch xa dần “với tiếng hò reo, thúc ngựa và suỵt chó sôi nổi!”
Sau đó một chút, chúng tôi chuẩn bị cho bữa nướng thịt ngoài trời. Một đống lửa được đốt lên trong một cái hố đào sâu xuống đất, những chiếc que lớn được đặt chéo ngang qua miệng hố, và thịt được xiên và trở trên ngọn lửa. Những người da đen ngồi xổm quanh đống lửa, xua lũ ruồi bằng những nhánh cây dài. Mùi thịt thơm ngon khiến tôi thấy đói từ lâu trước khi bàn ăn được dọn ra.
          Khi công việc chuẩn bị nhộn nhịp và phấn khích lên tới cao trào, đoàn thợ săn xuất hiện, đi thành từng nhóm hai hoặc ba người, những người đàn ông nóng nực và mệt nhoài, những con ngựa sủi đầy bọt mép, và lũ chó săn kiệt sức thở hổn hển và chán nản – và chả có một con mồi săn nào hết! Mỗi người đều tuyên bố rằng ông ta đã nhìn thấy ít nhất một con nai, và con vật đã tới rất gần; nhưng tuy đàn chó đã đuổi theo con mồi sát nút, tuy những khẩu súng đã hướng vào mục tiêu rất chuẩn, khi họ bóp cò, chẳng có con nai nào trong tầm mắt hết. Họ khá may mắn khi cậu trai nhỏ bảo cậu ta đã hầu như nhìn thấy một con thỏ - cậu ta thấy dấu vết của nó. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau đó hội thợ săn quên đi nỗi thất vọng, và chúng tôi ngồi xuống, không phải để chén thịt thú rừng săn được, mà là một bữa tiệc thịt bê và lợn nướng.
          Một mùa hè nọ ở Mỏ đá Dương xỉ tôi có một con ngựa nhỏ. Tôi gọi nó là Ngựa ô Xinh đẹp, vì tôi vừa mới đọc xong cuốn sách, và nó giống với chú ngựa cùng tên ở mọi khía cạnh, từ bộ lông đen mượt cho tới cái ngôi sao trắng ở trán. Tôi đã trải qua nhiều giờ hạnh phúc trên lưng nó. Thỉnh thoảng, khi hoàn toàn an toàn, cô giáo của tôi sẽ buông sợi dây cương hướng dẫn, và chú ngựa nhỏ thong thả bước hay dừng lại để gặm cỏ hay gặm lá của những cây cối mọc bên cạnh con đường mòn hẹp.
          Vào những buổi sáng khi tôi không quan tâm tới việc cởi ngựa, cô giáo và tôi sẽ đi dạo chơi trong rừng sau bữa điểm tâm, và tự cho phép mình lạc lối giữa những cây cối và những dây nho, và chẳng có con đường nào để đi theo trừ những lối mòn do lũ bò và ngựa tạo ra. Thường thường chúng tôi bắt gặp những chỗ rậm không thể vượt qua buộc chúng tôi phải đánh một cái vòng qua chúng. Chúng tôi luôn luôn quay về nhà với cả ôm nguyệt quế, cúc dại, dương xỉ, và những bông hoa đầm lầy rực rỡ chỉ mọc ở miền Nam
          Đôi khi tôi cùng đi với Mildred và những đứa em họ nhỏ của tôi để nhặt quả hồng. Tôi không ăn chúng; nhưng tôi yêu mùi thơm của chúng và thích săn tìm chúng trong những lớp lá và cỏ. Chúng tôi cũng đi nhặt quả hạch, và tôi giúp chúng mở những lớp vỏ quả có gai và đập vỡ lớp vỏ của những quả hạch và quả óc chó – những quả óc chó to, ngọt ngào!
          Ở chân núi có một đường thiết lộ, và lũ trẻ con quan sát những con tàu chạy vèo qua. Đôi khi một hòi còi kinh khủng giục chúng tôi ra chỗ những bậc thềm, và Mildred nói cho tôi biết trong niềm phấn khích rằng một con bò hay con ngựa đã đi lạc vào đường sắt. Cách khoảng một dặm có một cái giàn cầu bắt ngang qua một hẽm núi sâu. Rất khó đi qua đó, những mối nối cách nhau xa và hẹp đến độ người ta cảm thấy như thể đang đi trên những lưỡi dao. Tôi chưa bao giờ băng ngang qua nó cho tới một hôm nọ, Mildred, cô Sullivan và tôi bị lạc lối trong rừng, và sau suốt nhiều giờ lang thang chúng tôi vẫn không tìm thấy một lối mòn nào.
          Đột nhiên Mildred chỉ bàn tay nhỏ nhắn của nó và kêu lên: “Có một cái giàn cầu!” Chúng tôi thà chọn bất kỳ đường nào khác còn hơn con đường này; nhưng đã muộn và trời sắp tối, và cái giàn cầu là một con đường tắt về nhà. Tôi phải cảm nhận những thanh đường ray bằng ngón chân của mình; nhưng tôi không sợ, và đi rất tốt, cho tới khi đột ngột có một tiếng “phụt phụt” mơ hồ từ xa.
“Em nhìn thấy con tàu!” Mildred kêu lên, và một khoảnh khắc sau đó hẳn nó đã cán lên chúng tôi nếu chúng tôi không trèo xuống khỏi cái giàn trong lúc con tàu lướt qua trên đầu chúng tôi. Tôi cảm thấy hơi nóng của máy tàu trên mặt mình, và bụi khói hầu như khiến chúng tôi nghẹt thở, Khi con tàu lao qua, cái giàn cầu rung động và đu đưa cho tới khi tôi nghĩ có lẽ chúng tôi sẽ bị hất xuống cái vực bên dưới. Với sự khó khăn lớn nhất, chúng tôi tiếp tục con đường. Rất lâu sau khi trời tối chúng tôi mới về tới nhà và phát hiện ra cả ngôi nhà trống rỗng; cả nhà đã ra ngoài để tìm kiếm chúng tôi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét