Orlando, A Biography xuất bản lần đầu vào ngày 11/10//1928 (cũng là
thời điểm ở đoạn kết của tiểu thuyết). Virginia Woolf xem tác phẩm này như một
sự thư giãn tinh thần, một “writer’s
holiday” sau những tác phẩm đòi hỏi khắt khe hơn về cấu trúc, chủ đề như Căn phòng của Jacob, Bà Dalloway, Tới ngọn hải đăng… Tuy
nhiên, dù chính tác giả không kỳ vọng, Orlando
lại chính là tác phẩm được đọc nhiều nhất của bà, và ngay trong lần tái bản
thứ hai, số lượng bản in bán ra là 6.000, gấp đôi so với Tới ngọn hải đăng. Thủ pháp dòng ý thức trong tác phẩm này cũng đi
tới chỗ cực kỳ điêu luyện và tinh tế. Và có lẽ chính vì được viết với tình yêu
và cảm hứng tột cùng, có thể những vấn đề sâu thẳm nhất về ý nghĩa của cuộc
đời, tình yêu và sáng tạo được thể hiện trong Orlando, ở một số khía cạnh nhất định, vượt xa hơn rất nhiều so với
các tác phẩm khác của Virginia.
Cho tới nay, nhiều tiểu luận, phê bình và luận
văn tiến sĩ cũng đã soi rọi nhiều ánh sáng khác nhau lên tác phẩm, và những
tranh luận vẫn còn tiếp diễn, dù nói chung tất cả các văn bản này đều xem Orlando là một tác phẩm “avant-garde” về
nữ quyền và tình dục đồng giới nữ.
Trước khi đọc Orlando, một tiểu thuyết hay tiểu sử giả
cách (fake biography), có lẽ các độc giả cũng cần biết qua hai yếu tố sau:
Thứ nhất, tác phẩm này
được đề tặng cho V. Sackville-West,[1] (sau
đây viết tắt là VSW) bạn thân và người tình của Virginia Woolf.[2]
Theo lời của Nigel Nicholson[3],
con trai của VSW, đây là “lá thư tình dài
nhất và dễ thương nhất trong văn học, trong đó [Virginia] khám phá Vita… đẩy bà
từ giới tính này sang giới tính khác… buông một màn sương mù xung quanh bà.”[4]
VSW cũng là nguyên mẫu của nhân vật chính Orlando, với một số chi tiết đời thật
của bà được hư cấu hóa.
Thứ hai,
các chi tiết trong tác phẩm dựa trên lịch sử của gia tộc Sackvilles, và có
bối cảnh chủ yếu dựa trên các thực tế về Knole
House[5],
một trong số ít gia thự cổ và lớn nhất hiện còn tồn tại ở Hạt Kent, Anh Quốc. Knole House được thiết kế theo niên lịch
của một năm, gồm 365 phòng (365 ngày), 52 cầu thang gác (52 tuần), 12 cổng vào
(12 tháng) và bảy sân trong (bảy ngày trong tuần). Những phần lâu đời nhất của
ngôi nhà này do Thomas Bourchier, Tổng Giám mục xứ Canterbury xây dựng vào
khoảng giữa 1456 và 1486. Sau nhiều lần đổi chủ, năm 1566, nó thuộc quyền sở
hữu của Thomas Sackville[6],
em họ của Nữ hoàng Elizabeth I,[7] cụ
kỵ của VSW.
Khi viết về Orlando, hầu
hết những nhận định của các nhà nghiên cứu và phê bình văn học Âu Mỹ đều nhấn
mạnh tới sự táo bạo và đi trước thời đại của Virginia khi xóa nhòa ranh giới
của giới tính trong tình yêu; hoặc sự sáng tạo đậm nét trào phúng của bà khi
pha trộn giữa phong cách viết tiểu sử và tiểu thuyết, pha trộn giữa hiện thực
và những ảo tượng. Những lý luận đó đều na ná như nhau và đều không có gì mới
mẻ hay khai phá. Tuy nhiên, Ted Gioia[8] có
một cách nhìn mà người dịch thấy khá mới mẻ và thú vị, ông cho rằng Orlando
nhìn xa hơn nhiều vào tương lai so với bất kỳ tác phẩm nào trong lĩnh vực khoa
học viễn tưởng. Và ông cũng nhấn mạnh tới dòng văn xuôi đẹp như thơ của tác
phẩm: “Nhưng không tóm lược cốt truyện
nào có thể đánh giá đúng những phẩm chất đặc biệt của cuốn tiểu thuyết này. Cái
mà độc giả sẽ nhớ tới là những tình tiết ly kỳ, sắc thái và bầu không khí. Tôi
đọc cuốn sách của Woolf lần đầu trong những năm đại học, sau khi tới tham quan
Knole House, một trong những thái ấp miền quê lớn nhất ở Anh Quốc… Trong ký ức
của tôi, kết cấu của cuốn tiểu thuyết nhòa vào những sắc màu và hình ảnh của
các bức tranh và những tấm thảm thêu ở Knole House. Tràn ngập các trang sách là
một không khí huyền thoại, thể hiện một dạng tồn tại được cách điệu và nâng
cao, không phải cuộc sống thật sự chúng
ta vẫn sống, mà giống như một ảo ảnh hay một giấc mơ. Nhưng ngày nay, khi đọc
lại tác phẩm, tôi thu lượm được rất nhiều so với hồi ở lứa tuổi hai mươi. Giờ
đây tôi khá quen thuộc với các tác phẩm khác của Woolf, và quay lại với bà vì
vẻ đẹp đích thực trong ngôn ngữ của bà cũng như chính bản thân câu chuyện.
Trong lịch sử ngôn ngữ Anh, có rất ít nhà văn viết hay hơn, trên nền tảng câu
nối tiếp câu, hay đi xa hơn trong việc xóa nhòa các ranh giới giữa văn xuôi và
thơ. Nhưng trên hết, ngày nay Orlando nổi bật lên với tư cách một tác phẩm đi
đầu, tiên báo cho rất nhiều tiểu thuyết sau này – từ The Left Hand of
Darkness cho tới Middlesex – những tác phẩm thể hiện giới tính với sự thay
đổi không ngừng thay vì cố định, và đã biến nữ tính và nam tính thành những chủ
đề bề mặt thay vì những giả đoán bất định trong tiểu thuyết đương thời.”[9]
Ở đây, nhân tiện, từ gợi
ý của Ted Gioia, người dịch chợt nghĩ có khi nào Orlando cũng là tác phẩm đầu tiên đã mở đường cho dòng văn học hiện
thực huyền ảo (magic realism) với đại diện lẫy lừng nhất của nó là García Márquez hay chăng?
Ở các tác phẩm khác của
Virginia Woolf, thời gian và cái chết thường là một nỗi ám ảnh, một yếu tố can
thiệp thô bạo vào đời sống hàng ngày, nhưng với Orlando, bà đã phá tan quyền lực tuyệt đối của thời gian và cái
chết. Diễn tiến của tiểu thuyết này trải dài qua ba thế kỷ, từ 1588 đến 1928.
Với nhân vật chính là Orlando, ban đầu là nam giới, rồi biến thành nữ giới sau
một giấc ngủ dài, ở tuổi ba mươi, và dừng lại ở tuổi ba mươi sáu vào thời điểm
tác phẩm kết thúc.
Tiểu thuyết này cũng đặt
ra những câu hỏi và lời giải đáp cực kỳ tế vi và sâu sắc về ý nghĩa của cuộc
sống, tình yêu và sáng tạo. Tình yêu và Sáng tạo hiện ra, song song như hình
với bóng, với từng khía cạnh say đắm, chán chường, ê chề, lố bịch, và cuối cùng
là sự chấp nhận, sự tuân phục theo sức mạnh vô hình của “thời đại” trong cuộc
đời kéo dài dằng dặc hơn ba trăm năm của Orlando.
TÌNH YÊU
Chàng, với tư cách một
người đàn ông, đã yêu đắm đuối Sasha, Công chúa nước Nga, và bị phụ tình. Chàng
bỏ chạy khỏi nước Anh, sang làm Đại sứ ở Constantinople để thoát khỏi sự theo
đuổi của Harriet, một nàng công chúa người Roumania vô duyên, kệch cỡm.
Sau một giấc ngủ dài,
chàng bỗng biến thành phụ nữ, và sống lang thang phiêu bạt cùng một bộ lạc dân
du mục (quãng thời gian này khoảng chừng một thế kỷ).
Rồi tình yêu quê hương
trỗi dậy, nàng quay lại Anh. Sau một thời gian ẩn dật, nàng cảm thấy phải trở
lại London. Ở đây, nàng lại bị theo đuổi lần nữa bởi Hoàng tử Harry (tức Công
chúa Harriet), kẻ trước kia đã cải trang thành phụ nữ để tán tỉnh nàng, vì lúc
đó nàng còn là một nam thanh niên. Tình yêu với nàng trở thành một trò đùa,
nhưng nàng vẫn cần có tình nhân, bất kể nam hay nữ, vì thỉnh thoảng nàng lại
cải trang thành đàn ông để du hí tìm vui. “Cuộc
sống và một tình nhân,” đó là ý nghĩa của đời nàng. Sau đó, chán những mối
tình hời hợt, có cũng như không, nàng lại trở về ngôi nhà ở quê hương. Rồi cuối
cùng nàng nhận ra mình phải tuân theo thời đại, phải có một ông chồng. Nàng gặp
Shelmerdine, một gã khoái lãng du giữa trùng khơi sóng dữ; hai người yêu nhau
nhanh hơn chớp giật. Nàng kết hôn với chàng. Nhưng gió Tây nam nổi lên, chàng
lại nổi máu hải hồ, dong buồm đi rong ruổi ở khu vực Mũi Sừng. Nàng lại sống
một mình, có chồng cũng như không. Rồi một đêm chồng nàng quay trở lại, đó cũng
là kết thúc của câu chuyện hơn ba trăm năm trôi nổi với tình yêu của Orlando.
SÁNG TẠO
Ở đầu câu chuyện, chàng
thiếu niên mười sáu tuổi đã nhận ra sự khác biệt giữa ngôn ngữ và thực tại: “Tuy nhiên, cuối cùng chàng dừng bút. Chàng
đang mô tả thiên nhiên, như tất cả mọi nhà thơ trẻ tuổi xưa nay luôn mô tả, và
để tìm một sắc xanh chính xác, chàng nhìn vào (và ở đây chàng tỏ ra táo bạo hơn
hầu hết mọi người) chính bản thân sự vật đó; ấy là một bụi nguyệt quế mọc bên
dưới cửa sổ. Sau đó, dĩ nhiên, chàng không thể viết nữa. Màu xanh thiên nhiên
là một chuyện, màu xanh trong văn chương lại là chuyện khác. Dường như thiên
nhiên và những con chữ có một ác cảm tự nhiên với nhau; cứ đưa chúng tới gần
nhau và chúng sẽ xé nhau thành từng mảnh. Sắc xanh lúc này Orlando trông thấy
đã phá hỏng mất vần và nhịp của chàng.” (Chương I)
Sau khi bị Nick Greene
mang ra làm trò cười trong một bài thơ trào phúng, Orlando, lúc này là một
thanh niên, cảm thấy chán ghét giới văn nghệ sĩ tiếng tăm. Giờ đây những mộng
tưởng của chàng về tình yêu, về thi ca đã tan hoang sụp đổ:
“Như
vậy, ở tuổi ba mươi, hay khoảng đó, chàng quý tộc trẻ tuổi này không chỉ có mọi
kinh nghiệm mà cuộc sống đã mang tới, mà còn nhìn thấy sự vô giá trị của tất cả
những kinh nghiệm đó. Tình yêu và tham vọng, phụ nữ và những nhà thơ, tất cả
đều hão huyền như nhau. Văn học là một vở hài kịch trớ trêu. Cái đêm sau khi
đọc tác phẩm “Tới thăm một quý tộc ở miền quê” của Greene, chàng gom năm mươi
bảy sáng tác thơ đốt trong một đống lửa lớn, chỉ giữ lại “Cây Sồi”, vốn là giấc
mơ trẻ con của chàng và rất ngắn. Giờ chỉ còn lại hai thứ mà chàng đặt hết mọi
niềm tin vào đó: những con chó và thiên nhiên; một con chó săn Na Uy và một bụi
hoa hồng. Thế giới, trong toàn bộ sự đa dạng của nó, cuộc sống trong toàn bộ sự
phức tạp của nó, đã thu nhỏ thành hai thứ đó. Lũ chó và một bụi hoa là toàn thế
giới.”
Sau rất nhiều suy tư và
tự vấn, cuối cùng chàng đã đi tới một kết luận cho mình:
“Suốt một hồi lâu chàng chìm vào những ý nghĩ sâu xa như giá trị của sự
vô danh, và niềm vui của việc không có tên tuổi, giống như một lượn sóng quay
về với thân thể sâu thẳm của biển khơi; suy nghĩ về cách thức sự vô danh giải
thoát tâm hồn khỏi sự quấy rầy của lòng ganh ghét và thù hằn; cách thức nó tạo
ra trong huyết mạch dòng chảy tự do của sự khoan dung và lòng cao thượng; và
cho phép người ta cho đi hoặc đón nhận mà không cần tới những lời cảm tạ hay ca
ngợi; hẳn đó phải là cách thức của tất cả những thi sĩ lớn, chàng nghĩ (dù kiến
thức của chàng về Hy Lạp không đủ để chàng khẳng định), bởi lẽ, ắt hẳn
Shakespeare phải viết như thế, những người thợ xây dựng nhà thờ đã xây dựng như
thế, không cần lời cám ơn hay tên tuổi, mà chỉ cần công việc của họ vào ban ngày
và có lẽ một cuộc chè chén vui vẻ lúc đêm về… ‘Đó thật là một cuộc sống đáng
ngưỡng mộ biết bao!’ Chàng nghĩ, duỗi thẳng tứ chi ra bên dưới táng sồi. ‘Và vì
sao không tận hưởng nó ngay khoảnh khắc này?’ Ý nghĩ này xuyên qua chàng như
một viên đạn. Tham vọng rơi xuống như một hòn chì ở đầu dây dọi. Thoát khỏi quả
tim bỏng cháy vì tình yêu bị khước từ, thoát khỏi sự trách móc của thói phù
hoa, và tất cả mọi gai góc dưới cái đáy tổ cuộc đời từng châm chích chàng đau
buốt khi chàng còn giữ lòng tham danh vọng, nhưng không thể nào động chạm tới
một kẻ không màng tới vinh quang; chàng mở mắt ra, vốn dĩ chúng vẫn mở to trong
mọi lúc nhưng chỉ nhìn thấy những ý nghĩ, và nhìn thấy ngôi nhà, nằm trong
thung lũng nhỏ bên dưới chân chàng.”
Trong cuộc nổi dậy ở Constantinople,
chàng ngủ một giấc dài và khi tỉnh lại nhận ra mình đã trở thành một phụ nữ,
một cách thản nhiên và lãnh đạm.
Nàng đi theo một ông già
du mục, rời khỏi thành phố và tới sống với những người dân du mục lang thang, tiếp
tục sửa chữa, bổ sung cho tập thơ “Cây Sồi” với phương tiện vô cùng hạn hẹp:
mực làm từ quả mọng, không có giấy nên nàng buộc phải viết bên lề và chen vào
giữa những dòng đã viết trước đó. Tình yêu đối với thi ca là đốm lửa chập chờn
nhưng không hề tắt trong quả tim nàng. Sau đó, khi đã trở lại Anh, nàng sống ẩn
dật một thời gian, rồi lại trở lên London hòa nhập vào xã hội thượng lưu, tiếp
xúc với giới quý tộc và nghệ sĩ, rồi lại quay trở về quê nhà, sống một cuộc đời
bình thản, vẫn luôn suy tư trăn trở với ý nghĩa của cuộc sống, thi ca. Rồi một
hôm nàng hoàn thành tập thơ, kết thúc một tác phẩm đã được bắt đầu và viết đi
viết lại suốt hơn ba trăm năm. Văn phong của nàng đã trưởng thành chín chắn,
tài năng của nàng rốt cuộc đã lên tới đỉnh điểm của nó trong tập “Cây Sồi”, và
nàng chợt nhận ra một điều:
“Cuốn bản thảo thơ nằm bên trên quả tim nàng bắt đầu cựa quậy và đập
thình thịch như thể nó là một sinh vật, và điều kỳ lạ hơn nữa, cho thấy có một
sự đồng cảm tuyệt vời giữa họ, Orlano, bằng cách nghiêng đầu sang bên, có thể
đoán ra ý nghĩa của những gì nó nói. Nó muốn được đọc. Nó phải được đọc. Nó sẽ
chết trong lòng nàng nếu nó không được đọc. Bởi đây là lần đầu tiên trong đời
mình nàng quay sang chống lại tự nhiên bằng bạo lực. Lũ chó săn Na Uy và những
bụi hoa hồng đang quây quần xung quanh nàng. Nhưng không cá thể nào trong số
những con chó săn và những bụi hoa hồng có thể đọc. Đây chính là sự sơ sót đáng
tiếc của Đấng Hóa Công, điều mà nàng chưa bao giờ nhận ra trước đó. Duy chỉ con
người được phú cho khả năng này.”
Nàng trở lên London, gặp
lại Greene, giờ đã trở thành một quý ông với nhiều tước vị. Nàng không định đưa
tập thơ cho ông ta, nhưng tình cờ tập thơ rơi khỏi ngực áo nàng, Greene đề nghị
được đọc, và đã giúp nàng xuất bản nó. Tập thơ được trao giải. Quá trình sáng
tạo của nàng chấm dứt. Nhưng thi ca và sáng tạo vẫn quay đi quay lại trong
những mộng tưởng của nàng.
Thi ca là cơn mộng mị
của nàng, và giống như hình ảnh con ngỗng trời ở cuối truyện, thi ca mãi mãi là
cái gì đó sẽ bay ngang qua đời sống và mất hút. Hình ảnh ẩn dụ này rất tiếc
không được nhiều nhà phê bình chú ý tới:
“‘Bị ma ám!’ Nàng kêu lên, đột ngột nhấn ga. ‘Bị ma ám! Ngay từ lúc
mình còn là một đứa nhóc. Con ngỗng trời bay tới đó. Nó bay ngang qua cửa sổ để
ra biển. Mình đã nhảy lên (nàng xiết chặt bánh lái) và với tay theo nó. Những
con ngỗng trời bay nhanh quá. Mình đã nhìn thấy nó, ở đây… ở đó… ở đó – Anh, Ba
Tư, Ý. Nó luôn bay nhanh ra biển và mình luôn ném theo nó những từ giống như
những tấm lưới (tới đây nàng vung tay ra) co rúm lại vì mình đã từng nhìn thấy
những tấm lưới co rúm lại trên boong tàu, bên trong chỉ toàn rong biển; và đôi
khi có một phân bạc – sáu từ – ở đáy của tấm lưới. Nhưng không bao giờ có con
cá to sống trong những rặng san hô.’ Tới đây nàng cúi đầu, trầm ngâm rất mực.”
Và rốt cuộc nàng cũng
nhận chân được một điều:
“Lúc đó nàng đã nghĩ tới cây sồi trên đỉnh đồi này, và cây sồi có liên
quan gì tới việc này, nàng đã tự hỏi. Sự ca tụng và danh vọng có liên quan gì
tới thi ca? Bảy đợt xuất bản (cuốn sách đã bán hết sạch) có liên quan gì tới
giá trị của nó? Không phải làm thơ là một công việc ẩn mật, một tiếng nói đáp
lại một tiếng nói hay sao? Vậy là tất cả những câu nói rối ra rối rít, ca tụng,
trách móc và việc gặp những người hâm mộ lẫn những người không hâm mộ đều không
ăn nhập gì với bản thân sự việc – một tiếng nói đáp lại một tiếng nói. Cái gì
có thể ẩn mật hơn, nàng nghĩ, chậm chạp hơn, và giống với sự trao tặng nhau của
những cặp tình nhân hơn câu trả lời ấp úng mà nàng đã thực hiện suốt bao năm
nay để đáp lại bài ca lao xao xưa cũ của cánh rừng, của những nông trại, và lũ
ngựa nâu đang đứng ở cổng, cổ kề bên cổ, và lò rèn, nhà bếp, và những cánh đồng
đang nhọc nhằn nuôi dưỡng những cây lúa mì, những cây cải củ, cỏ, và những đóa
hoa diên vĩ và bối mẫu đang bung nở trong vườn?”
Người dịch xin được kết
thúc phần giới thiệu tại đây. Rất mong các bạn đọc tìm được nhiều giá trị khác
của tác phẩm Orlando từ bản dịch này.
Trân trọng.
Sài Gòn, tháng 03/2016
Nguyễn Thành Nhân
Tham khảo:
·
Orlando: A
Biography (Annotated and edited by Mark Hussey- 2006)
·
http://www.tetterton.net/orlando/orlando95_talk.html
·
http://marywhipplereviews.com/virginia-woolf-orlando-2008/
[1] Victoria Mary
Sackville-West, Phu nhân Nicolson (1892 – 1962), tên thường gọi là Vita Sackville-West,
thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà thiết kế vườn người Anh.
[2]
Trong một lá thư gửi cho con trai là Nigel Nicolson, VSW viết rằng trong mối tình giữa
bà và Virginia Woolf, cả hai chỉ ngủ chung với nhau hai lần, và ngay cả khi ấy,
họ vẫn mặc quần áo (engaged in “bundling”), vì VSW nhận thức được sự yếu ớt cực
kỳ về cảm xúc của Woolf và không muốn gây ra cho bà một cú sốc tâm thần với một
quan hệ tình dục mãnh liệt. Tham khảo Nigel Nicolson, Portrait of a Marriage
(Chicago: University of Chicago).
[3] Nigel
Nicholson (1917-2004), nhà văn, chính khách, chủ nhà xuất bản người Anh.
[4] Nguồn: https://www.brainpickings.org/2013/10/11/virginia-woolf-orlando-lesbian-readings/
[5]
Năm 1922, VSW xuất bản tác phẩm Knole
House and The Sackvilles, được xem là một tác phẩm cổ điển về lịch sử gia thự
ở Anh.
[6]
Thomas Sackville, Đệ nhất Bá tước xứ Dorset (1536-1608)
[7] Xem chú
thích trong Chương I.
[9] Nguồn: http://www.conceptualfiction.com/orlando.html