Thứ Năm, 19 tháng 4, 2018

VÀI CẢM GIÁC TẢN MẠN KHI DỊCH CĂN PHÒNG CỦA JACOB - VIRGINIA WOOLF



“Biết dùng lời rất khó để mà nói rõ…”
(Love Story- Ca từ tiếng Việt: NS Phạm Duy)

1. Đọc Căn phòng của Jacob (1922), tôi cứ tưởng như mình đang xem một cuốn phim, những hình ảnh loang loáng chảy trôi, không gian và thời gian chuyển đổi không ngừng, hiện tại và quá khứ đan xen xáo trộn. Biên độ của không gian, thời gian và cảm xúc trải rộng mênh mông, dường như vô tận; và chúng chồng chất lên nhau, tạo nên những chiều kích đa phương. Quá mông lung, dẫn tới quá khó hiểu. Khác biệt, độc đáo so với hai tác phẩm theo phong cách truyền thống là The Voyage Out (1915) và Night and Day (1919); nhưng tôi không nghĩ văn phong này hoàn toàn hữu dụng cho tác phẩm, vì nó buộc người đọc phải rất nhẫn nại để rung động cùng một nhịp với tác giả. Dù sao, thể nghiệm đầu tiên đương nhiên có những khiếm khuyết, và may thay Woolf không lặp lại những sơ sót này trong Bà DallowayTới ngọn hải đăng.
2. Tôi cũng có cảm tưởng như đang ngắm những bức tranh ấn tượng của Claude Monet, với những màu sắc sống động, rực rỡ, lung linh, đồng thời rất mơ hồ. Những nét cọ nhạt nhòa theo cảm xúc; sắc màu chảy loang từ chương đầu tới chương cuối sách:
Chậm chạp tuôn ra từ đầu ngòi bút bằng vàng, giọt mực xanh tan ra thành dấu chấm hết.” (Chương Một)
Những giọt lệ khiến mọi bông thược dược trong vườn rập rình trong những làn sóng đỏ.” (Chương Một)
“…với một khuynh hướng thay đổi giữa màu vàng và màu đen, nổi lên trên ánh hoàng hôn chói chang này, sức sống và trạng thái trộn lẫn lạ lùng này của màu sắc; nó khuấy động lòng bà, khiến bà nghĩ tới trách nhiệm và nguy cơ.” (Chương Một)
Hoặc, nếu những chi tiết như thế thoát khỏi mắt bà, bà có thể để cho trí tưởng tượng của mình chơi đùa với sắc vàng của biển vào lúc hoàng hôn, và nghĩ dường như nó phủ những đồng tiền vàng lấp lánh lên lớp đá cuội. Những con tàu nhỏ đáng yêu lướt ra khơi; cánh tay đen đúa của cái cầu tàu bổ sung thêm cho quang cảnh. Toàn thành phố có màu hồng và vàng; có mái vòm; sương mù giăng kín; âm vang; lanh lảnh. Tiếng đàn băng-giô bập bùng; lớp nhựa đường chảy nhẻo dinh dính dưới gót chân; lũ dê đột ngột phi nước kiệu, kéo những cỗ xe qua những đám đông. Bà nhận thấy Công ty đã bố trí rất khéo những luống hoa. Đôi khi một cái mũ rơm bị gió thổi bay. Những đóa hoa uất kim hương cháy bùng trong nắng. Một số quần dài có túi chống thấm được trải ra thành hàng. Những cái mũ tím viền quanh những gương mặt mềm mại, hồng hào, cáu kỉnh, trên những cái gối trong các chiếc ghế tắm nắng. Những tấm pa-nô hình tam giác được chở đi bằng xe ngựa bởi những tay xà ích mặc áo khoác trắng.” (Chương Một)
“…những hàng cây cúi đầu, những ngọn tháp xám mềm lại trong màu xanh lơ, những giọng nói lướt qua và dường như dừng lại giữa không trung, bầu không khí mùa xuân của tháng Năm, bầu không khí náo nức với những phân tử của nó – cây hạt dẻ nở hoa, thụ phấn; bất kể nó là gì, cái mang tới quyền lực cho bầu không khí tháng Năm đang làm mờ đi những hàng cây, trao nhựa cho những chồi non, tô màu xanh lên cây cối. Và dòng sông chảy ngang qua, lặng lẽ, chậm rãi, quyện quanh chiếc mái chèo nhúng vào nó và thả rơi những giọt trắng, trở nên xanh thẳm và sâu bên trên những bụi cói nghiêng ngả, như thể vuốt ve mơn trớn chúng.” (Chương Ba)
Và còn rất nhiều ví dụ tương tự ở mỗi chương.

3. Hình ảnh của Betty Flanders mở ra từ dòng đầu Chương I: Betty Flanders viết, ấn đôi gót chân sâu hơn vào lớp cát…” và đọng lại ở dòng cuối của Chương 14, chương kết thúc: “ ‘Tôi phải làm gì với thứ này đây, cậu Bonamy?’ Bà giơ ra đôi giày cũ của Jacob.” gợi lên ý tưởng về sự trường tồn của phái nữ; trong thời bình cũng như thời loạn. Jacob Flanders tham chiến và hy sinh, như bao nhiêu thanh niên Anh khác trong Thế Chiến I. Họ sinh ra, sống, đeo đuổi những đam mê, trượt ngã từ mối tình này sang mối tình khác, và chết. Rốt cuộc chỉ còn lại người mẹ. Mênh mang, sâu thẳm; truyện nhưng không phải truyện; cuộc đời được tái hiện trong sự phức tạp, khó hiểu, mơ hồ đích thực của chính nó. Thông qua câu chuyện hầu như không có cốt truyện này, dường như Woolf muốn khẳng định một điều: “Mỗi chúng ta là một thực thể vô cùng phức tạp; chúng ta không thể hiểu được nhau, dù có thể biết khía cạnh này hay khía cạnh khác của nhau.” Bà viết:
“Dường như nam và nữ đều ngang nhau về sự khiếm khuyết. Dường như một ý kiến sâu sắc, vô tư, và tuyệt đối công bằng về những đồng loại của mình hoàn toàn chưa được biết tới. Chúng ta là đàn ông hoặc đàn bà. Chúng ta lãnh đạm hoặc đa cảm. Chúng ta còn trẻ hoặc đang già đi. Trong bất kỳ trường hợp nào, cuộc đời chỉ là một cuộc diễu hành của những cái bóng, và chỉ có Trời biết vì sao chúng ta rất nôn nao ôm chầm lấy chúng, rồi nhìn chúng lìa xa với một niềm thống khổ, những cái bóng hiện tồn. Và vì sao, nếu điều này – và hơn cả điều này – là đúng, vì sao chúng ta vẫn cứ ngạc nhiên trong góc cửa sổ với một viễn tượng rằng chàng trai ngồi trong ghế này là kẻ có thật nhất, đáng tin nhất, được biết rõ nhất trong tất cả mọi thứ trên đời đối với chúng ta – thật vậy, vì sao? Bởi khoảnh khắc sau đó chúng ta không biết gì về anh ta cả.
Đó là cung cách nhìn nhận của chúng ta. Đó là các điều kiện của tình yêu của chúng ta.” (Chương Năm)
4. Cuộc đời có thể như thế này dưới mắt người này, cũng có thể như thế kia dưới mắt người khác. Cuộc đời quá buồn đối với Fanny:
“ ‘Mẹ đỡ đầu của một người nên nói cho người đó biết,’ Fanny nói, nhìn về phía cửa sổ của tiệm bản đồ Bacon trên phố Strand – nói cho người ta biết làm ầm lên cũng chả ích lợi gì; đây là cuộc đời, hẳn nhiên họ nên nói, như Fanny vừa nói lúc này vừa nhìn quả địa cầu lớn màu vàng được đánh dấu với những hải trình của tàu hơi nước:
‘Đây là cuộc đời. Đây là cuộc đời.'
…Đường xích đạo nhòe đi sau những giọt lệ.” (Chương Mười Ba)
Với Rose Shaw thì:“Cuộc đời thật xấu xa – cuộc đời thật đáng ghét.”(Chương Tám)

Với Jacob Flanders thì: “Thế giới tuyệt diệu – thế giới sống động, lành mạnh, sôi nổi…(Chương Chín)
Và với chính tác giả thì: Điều lạ lùng ở cuộc đời là dù bản chất của nó ắt hẳn phải hiển nhiên với mọi người trong nhiều trăm năm, không ai để lại bất kỳ lý giải tương xứng nào về nó. Những đường phố của London có bản đồ của chúng; nhưng những đam mê của chúng ta chưa được ghi trên bản đồ. Bạn sẽ gặp cái gì nếu bạn quẹo ở góc phố này?...”

“Chao ôi, cuộc đời thật đáng nguyền rủa, cuộc đời thật xấu xa, như Rose Shaw đã nói.” (Chương Tám)
            5. Dù tác phẩm nói về một thanh niên người Anh tên là Jacob Flanders, con người và tính cách của anh rất mơ hồ, phụ thuộc vào cảm nhận của những người từng tiếp xúc với anh. Một điểm đáng lưu ý: tên của tác phẩm là “Căn phòng của Jacob” chứ không phải là “Jacob Flanders”. Căn phòng của anh, một biểu tượng cũng rất mơ hồ, được mô tả ba lần:
Căn phòng của Jacob có một cái bàn tròn và hai cái ghế thấp… Không sinh khí, bầu không khí trong một căn phòng trống rỗng chỉ khiến những bức màn phồng lên; những đóa hoa trong lọ lay động. Một thớ sợi trong cái ghế bành đan bằng cành liễu gai kêu cọt kẹt, dù không có ai ngồi ở đó.” (Chương Ba)
Con đường chạy qua bên dưới. Chắc chắn phòng ngủ nằm ở phía sau. Đồ nội thất – ba cái ghế đan bằng cành liễu gai và một cái bàn xếp – đến từ Cambridge. Những ngôi nhà này (con gái của bà Garfit, bà Whitehorn, là chủ của ngôi nhà này) được xây dựng khoảng một trăm năm mươi năm trước. Những căn phòng rộng rãi, những trần nhà cao; trên khung cửa gỗ có khắc hình một bông hồng hoặc đầu cừu đực. Thế kỷ mười tám có sự khác biệt của nó. Ngay cả những tấm ván cửa, sơn màu tím quả mâm xôi, cũng có sự khác biệt.” (Chương Năm)
“Thế kỷ mười tám có sự khác biệt của nó. Những ngôi nhà này đã được xây dựng cách đây chừng một trăm năm mươi năm. Căn phòng rộng rãi, trần nhà cao; trên khung cửa gỗ có chạm hình một bông hồng hoặc một cái đầu cừu. Ngay cả những tấm ván cửa, sơn màu tím quả mâm xôi, cũng có sự khác biệt của chúng... Không khí trong một căn phòng trống rỗng rất uể oải, chỉ làm tấm màn cửa phồng lên; những bông hoa trong lọ hơi lay động. Một thớ sợi trong chiếc ghế bành đan bằng cành liễu gai kêu cọt kẹt, dù không có ai ngồi ở đó.” (Chương Mười bốn)

         6. Trong một đoạn nhật ký ngay sau ngày sinh nhật của mình, ngày Thứ hai, 26/1/1920, khi Virginia Woolf tròn 28 tuổi và bắt đầu khởi thảo Căn phòng của Jacob, bà viết: “Tôi… đã có một ý tưởng về một hình thức mới cho một cuốn tiểu thuyết mới. Tôi nhận ra rằng cách tiếp cận lần này sẽ hoàn toàn khác hẳn: không một sườn giàn giáo nào; hầu như không viên gạch nào ló dạng; tất cả đều mờ ảo mơ hồ, nhưng con tim, sự mê đắm, tâm trạng, mọi thứ đều sáng tỏ như ánh lửa giữa màn sương.”
(“I ... arrived at some idea of a new form for a new novel. I figure that the approach will be entirely different this time: no scaffolding; scarcely a brick to be seen; all crepuscular, but the heart, the passion, humour, everything as bright as fire in the mist. – Writer’s Diary, biên tập Leonard Woolf, NXB Hogarth Press, 1953)

7. Không phải là tác phẩm hàng đầu của Virginia Woolf, nhưng với ý nghĩa và giá trị của nó, Căn phòng của Jacob là bước chuyển biến đột phá cực kỳ quan trọng để sau đó hình thành nên Bà DallowayTới ngọn hải đăng. Nó cũng là đối tượng của hàng ngàn luận văn cao học và tiến sĩ, nhiều gấp bội so với hai tác phẩm nói sau.



Sài Gòn, 19/4/2018
Nguyễn Thành Nhân


           







Thứ Bảy, 14 tháng 4, 2018

Sách mới ra: NHÀ VĂN GIÀ và EM MỌI NHỎ


Sách vừa được ấn hành. Bạn đọc có thể đặt mua theo link sau:

NHÀ VĂN GIÀ VÀ EM MỌI NHỎ

Xin chân thành cám ơn sự ủng hộ của các bạn.

Trên đồi cỏ úa


Vì sơ suất ngoài ý muốn, minh họa của truyện này trong tập truyện  Nhà văn già và Em Mọi nhỏ không đúng như tác giả muốn thể hiện. Xin lỗi các bạn đã mua sách và xin xem nguyên bản minh họa tại đây.

(
Trên đồi cỏ úa


            Đã năm năm rồi, anh mới trở lên Đà Lạt. Thành phố giờ đây có nhiều thay đổi. Đồi Cù đã bị san bằng, trở thành một sân golf nhạt nhẽo. Hồ Xuân Hương ngập đầy rác rưởi. Du khách đến nhiều hơn, đến rồi đi, khuấy động sự tĩnh lặng êm ả của nếp sống vùng cao, du nhập thêm những lề thói xấu xa cho người dân bản địa. Và thành phố này cũng đã đánh mất rất nhiều nét buồn buồn thơ mộng thầm lặng của ngày xưa.
            Ngôi mộ nằm trên một ngọn đồi nhỏ ở hướng Đông thành phố. Một nghĩa trang Công giáo có nhiều cây hoa anh đào, và cũng thật nhiều những cụm dã quỳ vàng một màu luyến nhớ. Anh lên Đà Lạt đêm qua, lúc hơn mười hai giờ khuya. Và sáng nay, khi sương mù còn giăng khắp các đỉnh thông già, anh đã ngồi lặng lẽ trước nấm mộ của Ngọc Anh. Mùa xuân vẫn còn nán lại trên hoa cỏ, trong không khí man mác lạnh, nhưng giờ đây, lòng anh là một trời thu hoang vắng. Nắng đã phai, cỏ đã úa, và gió đã ngưng thổi trong lòng.
            Anh ngồi bó gối, nhìn những lượn khói hương bay lẫn quất trên mấy cành hoa dại đặt trước tấm mộ bia mà lúc nãy anh vừa hái ở ven đường, đôi mắt rưng rưng. Bé ơi! Đã lâu rồi tôi mới lại đến thăm em. Đừng giận tôi nha. Lúc nào tôi cũng nhớ đến em, thật đó. Luôn luôn. Mãi Mãi. Hương hồn em giờ đang ở nơi đâu? Hãy quay về đây hội ngộ.
            Chuyện xưa qua đã lâu rồi, sao bây giờ chợt quay về, mồn một trong ký ức, như thể mới hôm qua...

                                               ***

            Con dốc đỗ dài đến tận đầu đường Hai Bà Trưng. Hai bên đường là những căn nhà vườn xinh xắn mọc đầy hoa cỏ trước sân. Và những thảm dã quỳ vàng rực trải dài trong nắng. Ngày nào anh cũng đi qua con dốc ấy. Buổi sáng ra đi, lang thang khắp những ngọn đồi, những khoảnh rừng thông vắng lặng. Rồi khi mặt trời sắp khuất sau ngọn đồi Cù, anh lại quay trở về căn nhà trọ nằm ở gần cuối con dốc.
            Anh lên xứ cao nguyên này đã hơn một tuần. Để vẽ tranh, để thư giãn sau những tháng ngày bon chen vật lộn ở Sài Gòn náo nhiệt, hay để đi tìm một cái gì đó mà chính anh cũng chưa thật hiểu. Phải chăng anh đang tìm kiếm tình yêu?... Mấy đứa bạn học cũ hay nửa đùa nửa thật trêu anh: "Lấy vợ cho rồi đi ông ơi! Già rồi mà cứ long nhong hoài nguy hiểm lắm nha... Hay để tụi này làm mai cho một mối ngon lành há." Những lúc đó, anh chỉ lặng lẽ mỉm cười đáp lễ với tụi nó. "Ba mươi tuổi, có phải mình đã bước sang lứa già nua?", nhiều khi anh lẩn thẩn tự hỏi mình như vậy, rồi lại bật cười tự đáp, "Có lẽ mình già thật, 'Hỡi ơi, tôi chưa bao giờ được trẻ. Ngay từ lúc tóc còn xanh tôi đã già cả ngàn tuổi hơn một cụ già", hình như  Kierkegaard đã từng nói vậy."
            Cuộc sống của anh trầm lặng, hơi buồn và tẻ nhạt, ít những cuộc vui phù phiếm, ít những tiếp xúc xã giao hời hợt bâng quơ. Thế giới của anh là những bản vẽ thiết kế công trình, những con số vô hồn, những tháng ngày dằng dặc chán chường, lặp đi lặp lại, hoặc ở trong phòng, hoặc ngoài công trường đầy nắng gió. Đôi khi, anh tự nhủ cuộc đời sao đáng chán vô nghĩa quá đi. Có lẽ cuộc đời sẽ thật sự đáng chán, nếu anh không còn một niềm vui duy nhất: vẽ tranh. Vứt lại sau lưng mọi công việc làm ăn, mọi suy tư tính toán, mỗi năm một lần anh đeo chiếc ba lô đựng vài bộ quần áo, mớ cọ, màu và xách chiếc giá vẽ dã chiến đi ra bến xe, tới một thị trấn ở một tỉnh xa heo hút nào đó dăm tuần, một tháng, lang thang khắp các xó xỉnh, vẽ nguệch ngoạc những bức tranh lãng đãng mà sau đó anh tặng lại đám bạn bè hay chất thành đống dưới gầm giường. Vẽ với anh là một thú vui, không có gì ràng buộc, cũng không cần ai khen chê, đánh giá.



            Anh gặp Ngọc Anh lần đầu ngay tại nhà cô. Ngôi nhà cổ kính, mái ngói rêu phong, nằm giữa lưng chừng con dốc, phía trước hàng hiên thật dài là một luống đất trồng nhiều loại hoa cỏ, và những gốc liễu già thật đẹp rải rác trong sân. Một dãy dâm bụt ken dày tạo thành bức tường rào tự nhiên phía trước, và một chiếc cổng gỗ nho nhỏ, cao ngang tầm ngực, hình như sơn màu xanh ngọc bích nhưng nắng gió phôi pha đã biến nó sang một màu xanh thẫm hơi vàng ố. Anh để ý thấy một điều là chiếc cổng đó luôn luôn hé mở, như để đón chờ ai vậy. Toàn bộ khung cảnh ngôi nhà toát lên một vẻ bình yên và thơ mộng lạ lùng. Mỗi lúc đi ngang, anh thường dừng lại một chút để ngắm nhìn nó. Anh đã tự nhủ một hôm nào đó sẽ xin phép chủ nhân để vẽ ngôi nhà, nhưng không biết sao cứ dần dà trì hoãn lại. Cho tới chiều hôm đó, anh đang trên đường trở về, sắp tới chỗ ngôi nhà thì trời chợt đổ mưa. Quãng đường này ít nhà, căn này cách căn kia cũng vài trăm mét. Khi anh kịp lách người qua chiếc cổng hé mở, chạy đến nép dưới hàng hiên, quần áo anh đã ướt sũng nước mưa. Anh đứng run lập cập, tự trách mình sao đãng trí, đi ra ngoài vào mùa mưa mà cứ quên mang áo mưa theo.
            Anh đang loay hoay giũ những giọt nước mưa bám trên lớp sơn của bức vẽ chợt giật bắn mình khi nghe thấy một giọng nói con gái sau lưng, thật nhẹ: "Trời, anh ướt hết trơn rồi!"
            Anh quay lại. Ánh sáng cuối ngày trong cơn mưa mờ mờ nhoà nhạt làm anh không thể nhìn rõ gương mặt của cô gái đó. Nhưng những tia chớp loé lên trong khoảnh khắc và giọng nói trong veo cũng đủ cho anh nhận biết cô gái còn rất trẻ. Một mái tóc dài thoáng nét liêu trai, một thân hình thanh tú, và đôi mắt long lanh sáng nổi bật trong bóng chiều vàng vọt. Cô bé nói tiếp, trên môi thoáng một nụ cười hiền:
"Anh hãy vào trong nhà sưởi ấm, em sẽ lấy quần áo của ba em cho anh thay tạm, không anh sẽ bị cảm lạnh mất thôi."
Anh ngạc nhiên. Và cảm động. Sau một lúc, anh mới có thể lúng túng đáp lời cô:
"Rất cám ơn em. Nhưng tôi sẽ không sao đâu mà."
Anh nói anh sẽ không sao đâu, nhưng giọng anh run rẩy, người anh run rẩy, không tài nào che giấu được. Cô bé lại nói, giọng nằn nì:
"Vào đi anh, đừng ngại. Em biết anh là người tốt. Mấy hôm rồi, em thường gặp anh xách giá vẽ đi ngang nhà. Anh là họa sĩ phải không?"
Cơn mưa chiều hôm đó thật dài, đến gần mười giờ đêm mới dứt. Và anh được cô bé đó cho mượn một bộ pijama thay tạm, được cô giúp hong khô bộ quần áo ướt, được mời ăn một bữa tối thật đạm bạc, nhưng sao ngon miệng lạ lùng. Cả ngôi nhà rộng chỉ có mình cô đêm ấy. Ba cô đã sang Di Linh thăm một người bạn thiết, có lẽ đến mai mới về nhà. Khi hai người trò chuyện, cô nhiều lần lặp lại với anh, rằng cô rất vui khi được gặp anh, giúp anh, vì cô đang cảm thấy cô đơn và buồn lắm. Trong suốt mấy giờ đồng hồ ngồi thoải mái bên ngọn lửa ấm nồng, bên một cô gái dịu hiền xinh đẹp, anh cứ ngỡ như mình đang lạc vào một câu chuyện liêu trai nào đó. Anh vừa trò chuyện với cô bé, vừa lắng nghe tiếng mưa đêm rào rào đổ trên mái ngói, tiếng sấm ì ầm vang động, tiếng củi nổ lách tách trong lò sưởi, thầm tự nhủ rằng cuộc đời không hề đáng chán. Cuộc đời thật huyền ảo kỳ diệu biết bao. Chỉ cần được một lần nếm trải niềm hạnh phúc an bình như thế này thôi, cuộc đời đã không còn vô nghĩa.
            Sau hôm ấy, anh đã trở thành một người bạn thiết của gia đình. Ba của Ngọc Anh là một ông giáo về hưu hiền lành trung thực. Ông lập gia đình hơi muộn. Vợ của ông, một hoa khôi của trường trung học Đà Lạt, học trò của ông khi trước, đã thầm yêu người thầy tài năng nhưng khiêm nhường lặng lẽ của mình từ năm cuối cấp, nhưng chỉ rất lâu về sau ước mơ của bà mới thành sự thật, vì những định kiến và dư luận cản ngăn. Hạnh phúc của ông bà cũng thật là ngắn ngủi. Bà mất sau một cơn đột quỵ tim khi Ngọc Anh vừa lên tám. Từ đó, người thầy giáo một mình gà trống nuôi con. Khỏi phải nói ông yêu Ngọc Anh đến mức nào, và cô đối với ông cũng vậy. Ngọc Anh đã kể cho anh nghe mấy chuyện đó trong những lúc anh cùng cô lang thang rong ruổi khắp các đồi thông, anh vẽ tranh, cô vừa tung tăng hái hoa, nhặt những quả thông khô rơi rụng, vừa hát véo von những bài hát lạ lùng, buồn buồn dịu nhẹ, chắc là do tự cô ứng tác. Có những buổi chiều, sau khi đi vẽ về, anh tạt vào nhà, ngồi với hai cha con một lát, bỗng thấy chốn cao nguyên này đã trở thành một cái gì thật là gần gũi, thấy hai người bạn vong niên của mình, một già, một trẻ, sao quá đỗi thân thương. Có một điều anh không hiểu lắm, là nhiều khi trong những lúc đàm đạo chuyện thơ văn nghệ thuật với ba của Ngọc Anh, anh chợt thấy trán ông hằn xuống những nếp nhăn sâu, đôi mắt ông chợt đăm chiêu tư lự khi nhìn Ngọc Anh đang ríu rít nói cười. Dù sao, đó chính là những ngày vui và hạnh phúc nhất mà anh từng biết, nên anh cũng không suy nghĩ gì nhiều về sự việc hơi kỳ lạ đó, dù đôi khi thắc mắc.[P1] 
            Rồi một chiều kia, mọi chuyện trở nên sáng tỏ. Lúc ấy, anh đang đứng ngắm nhìn cô, cố sửa lại một chi tiết nào đó trong bức tranh mà anh chưa vừa ý lắm. Ngọc Anh nghiêng người ngắt một đóa mimosa mọc gần bên, đưa lên môi hôn nhẹ, những sợi tóc loã xoã bay trong gió. Khuôn mặt thiên thần chợt xanh xao thật lạ, dù đôi môi xinh xắn vẫn còn một chút ánh hồng.
"Ngày mai em không tới đây đâu. Ngày mốt cũng vậy. Ngày kia cũng vậy", cô bé nói, ánh mắt trôi về một chốn xa xôi, "Em không biết em có còn tới đây được nữa hay không... Anh đã vẽ xong chưa?"
            Bức tranh hãy còn dang dở. Còn thiếu một điều mà mấy hôm rồi anh chưa nắm bắt được. Đó chính là cái vẻ xa vời, lẻ loi nhưng thanh thoát của cô. Hình như cô là một thiên thần bé bỏng đi lạc xuống chốn trần gian. Hình như cô không thuộc về cõi người ta quá nhiều hệ lụy này. Điều đó toát lên từ thân hình thanh tú, từ mái tóc đen mềm như một loài mây lạ, từ đôi mắt nâu trong veo ngơ ngác, từ từng cử chỉ đi đứng cười nói dịu dàng thiên bẩm của cô.


Ngay từ lần đầu gặp gỡ, và trong những lúc đứng vẽ cô sau này, thỉnh thoảng anh lại bất chợt ngây người chết lặng vì cái dáng vẻ lạ lùng thoát tục ấy. Những lúc như thế, hầu như anh không thể cưỡng lại một lời thở than thầm kín: "Tại sao tôi không trẻ đi mười tuổi, hoặc em lớn hơn mười tuổi, hở Ngọc Anh?"
            "Em phải vào bệnh viện, em sắp phải chia tay với cuộc đời rồi, anh có biết không", cô bé đột ngột nói thêm, đôi mắt thật buồn.
Anh giật mình chết lặng. Phải, từ lần đầu gặp cô, anh đã thấy cô có chút gì đó thật mong manh yếu ớt. Nhưng anh không thể ngờ cô lại ốm nặng thế này. Anh lắp bắp hỏi cô, dù khi vừa thốt ra đã thấy ngay sự vô lý của câu hỏi đó: "Nhưng... nhưng tại sao như vậy?... Em chỉ mới mười bảy tuổi, em còn quá trẻ mà bé…" Cổ họng anh bỗng dưng ứ nghẹn, anh ngưng một lúc, thật lâu, để có thể lại nói nên lời: "Em không thể chết đâu mà!"
            "Em bị bệnh tim đã mấy năm nay, không biết có phải di truyền từ mẹ hay không nữa... Vị bác sĩ là bạn học của ba thời trung học ở thành phố này đã làm hết sức mình để cứu em. Lẽ ra, em đã ra đi cách đây năm tháng. Em còn sống đến lúc này, được gặp anh, cũng đã may mắn lắm rồi, anh ạ".
Cô ngước lên nhìn anh, ánh mắt vẫn buồn buồn nhưng nét mặt giờ đây bỗng thanh thản lạ lùng. Những tia nắng chiều rơi xuống áo cô, như những sợi tơ vàng lóng lánh, chợt nhòa đi trong mắt của anh. Anh đã khóc từ lúc nào không biết.
               
            Anh rời ngọn đồi vào lúc chiều chạng vạng. Nắng cuối ngày đang luyến tiếc buông rơi những sợi cuối cùng lên những vạt cỏ úa khô trên từng nấm mộ. Trong tiếng thông reo xa xa vẳng lại, trong tiếng gió réo vi vu, anh nghe như mơ hồ có tiếng ai đó hát, thật buồn: "Người hãy đến tìm một ngày nào đó. Người hãy ngắt giùm một sợi cỏ úa. Cỏ úa khô, đang ngủ vùi, trên đồi này. Rồi thả, cho cuốn bay, bay về quê hương mặt trời. Rồi thả, cho gió đưa, đưa về ...mịt mùng xa…" Anh thì thầm nói với một cơn gió thoảng qua: "Bé ơi, tạm biệt. Rồi tôi sẽ đến thăm em, một ngày nào đó."

            Trên đường trở về, anh ghé vào ngôi nhà cổ, thăm ba của Ngọc Anh. Mái tóc của người thầy giáo già năm năm về trước hãy còn đen nhánh giờ đã hầu như bạc trắng. Anh ngồi im lặng nhìn ông, rồi nhìn lên tường, nơi bức tranh dở dang ngày cũ đang nằm trơ trọi. Đôi mắt của Ngọc Anh trong bức tranh đăm đăm nhìn thẳng vào anh. Đôi mắt mà dạo đó anh cố công mấy vẫn chưa thể hiện được vẻ xa vời khó tả, bây giờ lại hoá hay. "Đôi mắt này dịu hiền ấm áp, không quá xa cách lạnh lùng. Ba em quá cô đơn, Ngọc Anh ạ. Trái tim già khô héo của ông chỉ còn tìm được chút niềm an ủi khi nhìn thấy em mãi mãi bên ông, trẻ thơ, trong trắng. Còn tôi, tôi sẽ không sao đâu mà. Tôi chẳng cô đơn một chút nào đâu. Tin không em?... Tôi sẽ chẳng cô đơn một chút nào đâu."