Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013

Walter de la Mare - Sambo và Núi Tuyết



Dịch từ nguyên tác
Collected Stories for Children [1947]
của Walter de la Mare 
Dịch giả giữ bản quyền bản Việt ngữ
Copyright © Nguyễn Thành Nhân 2009
 




Ông cố của Sambo từng là một vị vua ở quê hương của nó, dù đó chỉ là một nước nhỏ. Ông nội của Sambo đã được một nhà truyền giáo, cha Silas Makepeace Grimble, đưa tới Đất của Người da trắng. Cha Grimble sinh trưởng ở Aberdeen. Cha của Sambo, sau khi làm người hầu và đánh xe cho con trai đầu của cha Grimble, đã đứng ra kinh doanh nghề cắt tóc. Nhưng dù rất vui vẻ gắng hết sức mình, ông vẫn không kiếm đủ khách, dù là để cắt tóc, sấy tóc, gội đầu hay cạo râu. Đôi khi ông ngồi suốt mấy giờ liền bên chậu nước trong cái tiệm vắng tanh của mình, nhìn ra ngoài đường phố ngập tràn ánh nắng. Cuối cùng, ông buộc phải buông màn, hạ cánh cửa sập xuống và lấy cái cọc chống ra; chẳng bao lâu sau đó ông qua đời và không để lại gì cho người con trai yêu quý Dinah, tức Sambo của ông.
Sambo là người hầu của bác sĩ Grimble. Ông này là cháu họ của đức cha Grimble. Ông sống trong một ngôi nhà cao bằng gỗ màu nâu. Ở phía trước nhà có ba cây dương Lombardy, còn trên bậc cổng vòm thì mọc đầy kim ngân hoa. Sambo có nhiều nhiệm vụ. Với hai mươi cái nút áo bằng bạc ở phía trước bộ chế phục và cái đuôi tóc ở phía sau lưng bên trên cái quần ống chẽn, nó thường mở cửa cho các bệnh nhân của ông chủ và hướng dẫn họ vào phòng đợi. Đó là một căn phòng nhỏ nhưng vui vẻ, có những tấm mành chống muỗi trên các cửa sổ, nền trải vải dầu trắng đen, có một bức tranh trên lò sưởi và một tấm màn sáo xinh xắn bằng lông ngựa đủ màu rũ xuống trước vỉ lò trong suốt mùa hè.
Tấm màn sáo này che đi những chấn song xấu xí của cái vỉ lò. Vì thế vào mùa hè Sambo không cần phải đánh bóng chúng.
Sambo cũng giúp ông chủ pha chế các loại thuốc. Khi ông bác sĩ đã cho thuốc vào một cái chai, Sambo đổ thêm nước vào; khi ông bác sĩ vo xong những viên thuốc, Sambo cho chúng vào những cái hộp đựng thuốc viên. Nó dùng một cái triện đóng sáp màu đỏ và một cái đèn hàn nhỏ màu xanh để đóng dấu lên lớp giấy bao sau khi đã gói những cái chai và cái hộp. Nó thích công việc đóng niêm phong hơn nhiều so với việc súc chai trong một một cái bồn vuông bằng chì bên dưới cái vòi nước bằng đồng nhỏ xíu.
Tất cả mọi công việc diễn ra lúc xế trưa. Khi các chai thuốc đã được gói lại gọn gàng và đánh số xong, Sambo thường đặt chúng vào giỏ rồi mang đến giao cho các bệnh nhân của ông chủ. Đôi khi nó phải đi bộ một dặm đường, đôi khi tới ba hoặc thậm chí năm dặm, tới những vùng quê. Vì thế, thời gian đi đường phụ thuộc vào việc trên đường có bao nhiêu tiệm bán kẹo, bao nhiêu đứa nhóc, bao nhiêu con vật diễn trò, bao nhiêu nhạc công đường phố, bao nhiêu vụ chó cắn nhau, và bao nhiêu những thú vui hoặc nguy cơ khác mà nó gặp phải trong lúc đi về. Miễn sao nó trở về nhà trước sáu giờ thì mọi chuyện vẫn ổn. Vào chiều tối, nó chờ ông bác sĩ cùng ăn tối, và ông bác sĩ ăn rất nhanh.
Khoảng chín giờ, Sambo mang cho ông một ly rượu nặng pha nước rồi đi ngủ.
Nói chung, Sambo hạnh phúc, dù nó chưa bao giờ nhận ra điều này cho tới khi nó bắt đầu cảm thấy khổ sở. Dù nó phải chạy vắt giò lên cổ khi nghe ông bác sĩ gọi, nó ngưỡng mộ mái tóc đỏ hoe trên đầu, đôi kính gọng vàng và sợi dây đồng hồ xinh xắn của ông. Nó được ăn uống đầy đủ, có thời gian để biếng lười chút chút, một cái giường gầm với một cái gối bông trong một căn phòng nhỏ dưới mái nhà. Chỉ có một điều duy nhất chống lại nó. Nó có nước da đen. Nó đen như tất cả mọi tổ tiên của nó. Nó đen như một kiện nhung đen, như một căn hầm không có một cánh cửa sổ nào, như một cái ống khói đầy bồ hóng.
Bản thân nó ít khi nhận ra nếu như bọn nhóc mặt mày nhợt nhạt của thị trấn không luôn luôn nhắc nhở nó điều đó – đặc biệt là một thằng mũi hếch tên là William, người hầu của một nha sĩ có cái tên kỳ cục: ông Tooth. Bất cứ lúc nào gặp nó, cái thằng William này luôn hét lên: “Ê, thằng da đen! Ê! Mặt hắc ín! Ê, thằng nhãi nhỏ bé chân vòng kiềng ốm nhách kia! Cút khỏi đường phố đi! Đường phố dành cho người da trắng!” Nó cứ hét lên như vậy phần vì ganh tị với những cái nút áo của Sambo (làm bằng bạc), thậm chí cả với cái giỏ hai nắp trên có phủ vải Mỹ sọc vằn, nhưng phần lớn là vì nó không biết làm gì hơn thế.
Khi nghe thấy tiếng nó, Sambo luôn vờ như không nghe và băng qua bên kia đường ngay lập tức. Trắng, đen hay màu cà phê,  nó tự nhủ, chỉ thấp kém nếu như người ta nhìn thấy nó đánh nhau với người hầu của ông nha sĩ. Nhưng trong thâm tâm, nó biết rằng nó sợ William, và nó băng qua bên kia đường. Tuy nhiên, giờ đây tâm trí nó chỉ nghĩ tới màu da đen đúa của mình. Và bây giờ điều đó làm cho nó khó chịu, không chỉ vì những kẻ thù, lũ nhóc trên đường phố, mà ngay cả vì sự riêng tư của chính nó. Nói cho cùng, nó biết phần còn lại của bản thân mình, cái nằm ở bên trong, rất ít khác biệt ngay cả với phần bên trong của ông chủ nó! Thậm chí, nước da của nó đâu phải là do lỗi của nó. Thế nhưng càng nhìn kỹ gương mặt mình trong tấm gương nhỏ ở phòng ngủ, dường như nó càng thấy mình đen hơn.
Ở quê hương nó, điều này không thể xảy ra. Ở đó, có nước da đen là một niềm hạnh phúc. Như nó biết, ông cố của nó là một vị vua của đất nước đó và chính những thằng nhóc da trắng mới là kẻ đáng bị chế nhạo ở đó. Thật sự khi lần đầu tiên cha Silas Grimble xuất hiện ở Poojooboo, những người đàn bà và lũ trẻ con da đen đã cười với nhau rất nhiều về cái mũ cao, gương mặt trắng nhợt và chòm râu bạc của ông khi cho rằng quần áo của ông là một phần của ông cũng như những cái đốm là một phần của một con báo cho tới khi họ trở nên thân thiện với ông. Họ thích ông vì trông ông rất vui vẻ. Nhưng ngay cả họ, thậm chí cả những thanh niên da đen, cũng không bao giờ cười nhạo thẳng vào mặt ông. Đó không phải là cung cách xử sự của họ. Nếu như cái thằng William người nhà ông nha sĩ đó đáp tàu tới Poojooboo và phát hiện ra Sambo đang ngồi trên ngai vàng, những thằng bé trên đường phố dưới những hàng cây cơm nguội cũng có thể chế nhạo nó, nhưng sẽ không la lối om xòm như thế.
Sambo biết khá rõ về tất cả những điều này. Nó hay trầm ngâm suy nghĩ về chúng khi ở một mình, chỉ để thấy thêm khó chịu và nhớ quê hương. Như vậy, nó không chỉ đơn giản muốn trở thành một người da trắng. Nó không bao giờ muốn trở thành một người giống như nhiều thằng bé da trắng nó nhìn thấy chút xíu nào. Không, nó chỉ ngày càng buồn bã vì vẫn cứ đen thui đen thủi. Nó muốn tất cả đều trắng và chính bản thân mình cũng thế. Nỗi buồn này xuất hiện trong nó theo những cách rất lạ lùng.
Ví dụ, sáng sớm khi thức dậy, nếu như có chút ánh sáng nào đó để trông thấy chính mình, nó thường nhớ lại nó đen đến mức nào giữa những tấm ra trải giường. Hoặc là sau khi thổi tắt nến để lên giường - bác sĩ Grimble chỉ cho nó đốt một phân nến mỗi lần để phòng khi nó ngủ quên – nó thường nhận ra rằng nếu không có cái áo ngủ, người ta không thể nhìn thấy nó trong bóng tối. Thật sự không có gì đáng buồn hay đáng sợ trong những thực tế này; nhưng chúng nằm lại trong đầu óc nó. Chúng ám ảnh nó như một hồn ma ám ảnh một bãi trồng cây. 
Có lẽ nếu Sambo không quá chậm hiểu nó sẽ sớm hiểu ra để ít suy nghĩ vẩn vơ hơn. Nhưng chưa bao giờ có ai nói với nó rằng đau khổ vì một điều gì đó cũng vô ích như cười ngớ ngẩn vì một điều gì đó. Người ta ít khi nói cho nó biết điều gì. Vì thế hàng đêm và mỗi buổi sáng Sambo lại nhìn mình trong tấm gương. Gương mặt tròn, bóng loáng, nghiêm nghị nhìn lại Sambo, và, chao ôi, nó đen như hắc ín!
Nhưng dù Sambo chậm hiểu, dù chủ của nó luôn phải nói với nó tới hai lần về một việc gì đó cho chắc ăn, dù nó vẫn thường đi xa hơn mức cần thiết trong những chuyến đi về vì nhầm lẫn trong việc sắp xếp những ngôi nhà mà nó cần phải tới, Sambo rất kiên trì, thậm chí ngoan cố. Đã bắt tay vào việc gì thì nó nhất định phải hoàn thành. Giá như chỉ cần cố gắng mà nó có thể trắng ra, chẳng bao lâu nó sẽ có màu da sáng như một người mắc chứng bạch tạng. Nó thật sự đang gánh chịu những nỗi đau to lớn.
Đầu tiên nó cầu nguyện để được trắng ra, gần như khóc nức nở trên giường, mong đợi một cách vô ích vị thiên thần mà nó hy vọng sẽ hiện ra từ bầu trời đầy sao để đáp lại lời nguyện cầu ngay lập tức. Rồi nó thôi không ăn những lát bánh mì đen vốn dành cho nó, và sống bằng những mẩu bánh mì trắng của Pháp mà ông chủ nó ăn còn thừa. Chế phục của ông bác sĩ có màu xanh thẫm viền vàng. Nhưng Sambo được phép mặc một cái áo khoác trắng vào buổi sáng – sau mười một giờ. Nó giặt và ủi phẳng cái áo này mỗi tuần ba lần và mặc lên người bất cứ lúc nào ông chủ nó ra ngoài, nhất là những hôm ông tới thăm bà cô Clara của ông và ở lại nghĩ đêm ở đó. Sambo thường ngủ với tấm chăn trùm kín đầu vì e bóng đêm sẽ làm tối thêm ngay cả nước da đen đúa. Nhưng tất cả những cố gắng kiểu đó chỉ là vô ích.
Cuối cùng một sáng nọ – nhưng không phải là lần đầu tiên – nó nghe ông bác sĩ nói tới chứng sốt ban đỏ, và ngay chiều hôm ấy chính nó phải mang một chai thuốc lớn tới người bệnh đang mắc phải chứng sốt đáng buồn này. Quý ông này sống trong một ngôi nhà vuông xung quanh phủ đầy dây trường xuân và các loại dây leo, và Sambo có thể nhìn thấy những cái cửa sập khép kín những cánh cửa sổ mà bên trong đó là người bệnh đang nằm trên giường, đỏ ửng từ đầu tới chân – Sambo cho là thế.
Việc này nhắc nó nhớ tới một bệnh nhân khác của ông bác sĩ – một phu nhân quê ở Mễ Tây Cơ bị bệnh sốt vàng da; và một cô bé có những lọn tóc nâu vàng đã suýt chết vì bệnh đó, và sau đó đứa em trai bé nhỏ của cô bé đã được mang tới cho ông bác sĩ vì chứng đau mắt đỏ. Cả ông chủ nó cũng có lần thuê một bà đầu bếp da đen mà khi trăng tròn luôn bị ám ảnh bởi cái mà bà ta gọi là “chứng sốt xanh”. Và không phải là thuốc của ông bác sĩ đã chữa khỏi cho tất cả bọn họ hay sao? Sambo tự nhủ, nếu thuốc men có thể loại bỏ những thứ ban đỏ, vàng da, mắt đỏ và da xanh, chắc chắn nó cũng có thể tẩy được nước da đen lắm chứ?
Sambo để mắt tới những kệ đựng chai lọ của ông chủ và hầu như không thể kiên nhẫn chờ cho tới khi nó còn lại một mình. Nó thường được cảnh báo là đừng dây dưa với chúng. Nhưng nếu một sáng nào đó nó xuất hiện trong phòng ngủ của ông bác sĩ để kéo những tấm màn che lên với nước da trắng như của chính bản thân ông ta thì đó sẽ là một niềm vui bất ngờ lớn lao đến chừng nào đối với ông ta. Thậm chí ông ta có thể tăng cho nó gấp đôi tiền lương.
Thế là Sambo lần lượt thử từng loại thuốc trên kệ, ngoại trừ những loại thuốc độc cất trong một cái tủ nhỏ có khóa. Nó chỉ uống mỗi lần một ngụm nhỏ từng loại thuốc. Nếu sau khi mở cái nắp thủy tinh mà loại thuốc đó có mùi quá hăng hay tanh thì nó còn uống ít hơn nữa. Nó cũng thử uống những loại thuốc bột và thuốc viên hệt như đối với những chai thuốc thoảng mùi nước hoa và mùi cồn. Nó chỉ uống thử mỗi lần không hơn nửa muỗng cà phê thuốc bột, vừa đủ che kín ngón tay út của nó với mỗi lần chấm và chỉ phân nửa những viên thuốc đủ loại và đủ cỡ.
Hầu hết những thứ thuốc này đều chẳng mang tới khác biệt nào, nhưng vì còn ngây thơ hơn cả một đứa bé, lúc đầu Sambo không dám nếm nhiều hơn số đó mỗi lần. Có những loại thuốc khiến nó chóng mặt, nóng bừng, thở không ra hơi hay rủ cả người ra, trở nên kích động, bơ thờ, nói nhiều, khát nước hay đói bụng; có một hai loại làm nó muốn bệnh. Sau những lần thử này mặt nó trông xanh xao hơn một chút, nhưng ngay cả lúc ấy đó cũng chỉ là một màu xanh đen và sớm biến mất. Bất chấp mọi đau đớn và khó chịu đó, Sambo vẫn đen hệt như trước, nếu không phải là đen hơn thêm chút xíu.
Có lẽ khá là kỳ lạ khi ông bác sĩ không bao giờ nhận ra rằng những thứ thuốc của ông đang ít dần đi, hay rằng đôi khi trông Sambo có vẻ khác thường. Nhưng vì ông không chỉ là một người không giỏi quan sát mà còn bị cận thị nữa. Ngoài ra, đối với ông ta, dù Sambo không biết điều này, nó chẳng có gì khác biệt dù có trở nên xám hay nâu, cởi trần, có đốm hay có khoang gì đi nữa. Nghĩa là miễn sao nó vẫn làm tốt công việc của mình. Mặt khác, ông bác sĩ lại rất nhanh chóng nhận ra khi Sambo mắc phải một sai lầm – để cho bồn nước bị tràn, giao thuốc nhầm nhà, bỏ nhầm loại thuốc viên này vào loại hộp khác hay ngược lại. Nhưng Sambo luôn giữ nguyên tắc là lấy thật ít thuốc từ bất kỳ chai lọ nào.
Khi Sambo đã nếm tất cả mọi loại thuốc trong phòng pha chế của ông chủ – ngọt, chua, mặn, đắng, khô, có dầu, dầy hay mỏng, thậm chí kể cả một hai loại thuốc mà ông bác sĩ dành cho những con thú cưng của những thân chủ tốt nhất hay những con chó dùng làm thí nghiệm, những loại giúp cho mắt sáng, mọc tóc hay sạch răng, bóng móng tay – và không có thứ nào tỏ ra có tác dụng, nó trở nên buồn bã hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, nó không hề tuyệt vọng, và đây là một phúc lành Trời ban, vì nếu thế, trái tim tội nghiệp của nó cũng sẽ trở thành đen đúa như gương mặt nó. Thay vì tuyệt vọng, nó bắt đầu đọc những cuốn sách của ông bác sĩ. Nhưng vì trong mỗi trang lại có 20 -100 từ mà nó phải tra tự điển để biết nghĩa rồi sau đó lại quên ngay, nó chẳng tiến xa hay tiến nhanh gì cho lắm.
Thế rồi một hôm nọ, khi Sambo mang khay đựng rượu mạnh pha nước vào cho ông bác sĩ, nó đánh liều hỏi ông.
“Nếu ngài vui lòng thưa bác sĩ,” nó nói, “giả sử ngài muốn trở thành một người rất đen như Sambo tội nghiệp thì ngài sẽ dùng loại thuốc gì?”
Không may là ông bác sĩ hơi bị lãng tai, cũng giống như chứng cận thị, nên tất cả những gì ông nói là: “Không, không, tối nay mọi chuyện sẽ ổn thôi.”
Khi nghe thấy thế, Sambo rất vui mừng. Nó cho rằng ông chủ có ý nói là ngay tối hôm đó, sau khi lên giường, ông sẽ thử biến bản thân mình thành da đen. Điều này gần như không thể xảy ra, nhưng Sambo rất tin tưởng. Và nó đợi cho tới khi ngủ gật lúc ba giờ sáng khi quỳ gối ở lỗ khóa cửa phòng ông bác sĩ với hy vọng nhìn thấy điều đó xảy ra.
Nó chỉ hỏi ông chủ của mình thêm một câu hỏi nữa, và đó cũng là câu hỏi cuối cùng mà nó cần phải hỏi. Nó đã suy nghĩ mãi về câu hỏi đó trong suốt ba ngày trước. Đó là một việc thậm chí còn liều lĩnh và can đảm hơn cả việc đáp trả lại thằng nhóc người hầu của ông nha sĩ: “Ê, mặt phấn! Ê! Miếng bánh mì chấm sữa của Mẹ già! Cút khỏi đường phố ngay! Đường phố dành cho những người lịch sự!”
Như thường lệ, vào chín giờ đêm tối hôm sau nó vào phòng của ông bác sĩ với cái khay bạc đựng rượu trong tay, nhưng không có gì bên trên hết. Tình cờ khi đó ông bác sĩ đang ngủ gật trên ghế với cái mồm há rộng. Vì thế Sambo phải gõ cái khay lên bàn để đánh thức ông dậy. Điều này khiến cho ông bác sĩ bực mình.
Khi nhận ra cái khay trống rỗng, ông nói, “Cái khay đó để làm gì thế?’
Sambo trả lời, “Không còn rượu rum thưa ngài” –  rượu rum là loại rượu mà ông bác sĩ ưa thích.
“Thế nó biến đi đâu?” Ông bác sĩ hỏi.
“Tôi đã dùng nó hết, thưa ông chủ,” Sambo nói.
“Cậu!” Ông bác sĩ kêu lên. “Để làm gì?”
“Ồ, thưa ông chủ,” Sambo quỳ xuống, “để làm cho Sambo khốn khổ mất đi màu đen. Để rửa cho nó bớt đen, thưa ông chủ, rồi sẽ trắng ra như những con cừu bé bỏng, như chính bản thân ông chủ. Ồ, thưa ngài, tôi đã rửa đi rửa lại, chà đi chà lại, và rượu rum chỉ khiến cho cái mũi của Sambo bóng lên và làm mắt nó nhức nhối.  Tất cả những gì nó xin chỉ là một viên thuốc thôi, để làm mất đi nước da đen như mực, và giúp nó làm việc nhanh hơn.”
Một cách chính xác, Sambo đã dành ra tám giờ đồng hồ để sáng tác và học thuộc lòng đoạn thơ đáng thương đó. Nó nghĩ ông chủ sẽ hiểu rằng nếu nó phải chịu khốn khổ nhiều đến thế thì hẳn là nó phải rất nôn nóng khát khao. Nó nghĩ ngay giây phút ông chủ biết rằng rượu rum không thay đổi chút nào màu đen của Sambo ông sẽ bảo nó điều cần thực hiện. Thay vì thế, ông bác sĩ, đang thất vọng về món rượu mạnh của mình, bấy giờ nổi cơn thịnh nộ, đưa tay kéo nó đứng lên, nắm lấy tai nó kéo tới cửa, mở cửa ra và tống nó té nhào lên tấm thảm bên ngoài. Thế là Sambo tội nghiệp lại thất bại một lần nữa.
Tuy nhiên, ông bác sĩ không phải là một người xấu bụng, và sáng hôm sau ông đã quên hết mọi thứ về khoản rượu rum. Tuy nhiên, vì sợ ông có thể nhớ lại, Sambo đã khá khôn ngoan khi bôi nhọ đen lên cái chóp mũi bóng loáng vì bị chà xát quá nhiều của nó. Nhưng thật sự không cần thiết phải làm điều đó. Ông bác sĩ đã hoàn toàn quên hết, và ngay trong ngày hôm đó một thùng rượu rum Jamaica loại thượng hảo hạng đã được đưa xuống hầm rượu của ông. 
Nhiều ngày và thậm chí nhiều tuần cứ thế trôi qua. Sambo không dám hỏi ông chủ thêm một câu nào nữa. Thay vì vậy, với một trái tim rời rã nó thử trộn lẫn hai ba loại thuốc bột và thuốc nước với nhau và đưa tay bóp chặt mũi lại, nó nuốt những thứ đó xuống cổ. Vào dịp nghỉ lễ giữa năm thậm chí nó còn đi xa hơn khi nuốt một viên thuốc mà nó đã trộn với dung dịch amoniac và thuốc phiện rồi sấy thành một viên to hơn với một ít xà bông y học và một nhúm keo. Đó là một viên thuốc to tướng và nó suýt bị mắc nghẹn khi cố nuốt viên thuốc trong lúc đang ngồi trong vườn dưới một cây lê đang trổ hoa. Nhưng dù trở nên tái nhợt, ít nhất đôi má nó cũng khác xa đến hai mươi lần so với màu trắng của những bông hoa trên đầu nó. Chiều hôm đó, khi Sambo đã thấy khá hơn, toàn bộ màu đen tự nhiên của nó lại quay về.
Cuối cùng, đôi mắt nó liếc dọc theo hàng lọ được gọi là Thuốc độc bị khóa kín trong phòng của ông bác sĩ. Có thể một loại nào đó trong số chúng là thuốc độc chỉ vì chúng có thể biến một người da trắng thành da đen hay không, nó tự hỏi. Và ông bác sĩ có sợ rằng chính ông sẽ uống nhầm một loại nào đó hay không? Có thể là thế không? Nhưng Sambo không dám đụng đến cái ống khóa.  
Thế nhưng nó vẫn mong mỏi. Đôi khi nằm thao thức giữa những tấm ra trải giường trắng toát, vầng trăng rằm rọi sáng mái tóc xoăn và lóng lánh trong đôi mắt đen sẫm, nó nhìn mặt trăng cho tới khi thấy nhức cả đầu. Ở trên đó, nó nghĩ, có lẽ… Nhưng thông thường trước khi có thể theo đuổi ý tưởng này xa hơn nó đã ngủ thiếp đi.
Một chiều nọ, khi ra ngoài giao thuốc, nó lại gặp thằng bé người hầu của ông nha sĩ. Tim nó đập thình thịch, nó đặt cái giỏ xuống vỉa hè, đưa hai tay lên bưng kín đôi tai để ngăn những tiếng kêu “Ê! Ê!” đáng ghét và chờ cho tới khi William tới gần. Thế rồi, cả người run rẩy, với một giọng cao rung rung, nó hỏi cái thằng nhãi mũi hếch ấy rằng da đen thì có vấn đề gì kia chứ.
“Có vấn đề gì?” William the thé hỏi một cách chế giễu, “sao chứ, là thế đó,” nó tát vào một bên má Sambo, “và thế đó!” nó tát vào má bên kia. Rồi nó hét lên “Ê! Ê!” và bỏ đi.
Vì thế, Sambo ngày càng buồn hơn. Thế nhưng cho tới lúc đó nó chắc chắn rằng nó đã biết về việc khám chữa bệnh và bốc thuốc không kém gì ông chủ của mình. Và nó đã đọc đi đọc lại nhiều đến mức cuốn tự điển bị rách toang. Sau khi rửa sạch ba bậc thềm bước ra phố, đánh bóng cái vòng gõ cửa và cái tay kéo chuông, dọn dẹp quét tước phòng đợi và pha cà phê cho ông chủ, một trong những công việc hàng ngày của nó là xếp những thư từ do người đưa thư mang tới vào một cái khay. Sau đó nó mang những lá thư này cùng với cốc cà phê vào phòng ngủ của ông bác sĩ.
Một hôm, có một lá thư trên ghi địa chỉ của ông chủ với nét chữ viết tay rất đẹp. Sambo chưa bao giờ nhìn thấy những nét chữ mỏng manh và những nét cong thanh nhã đến thế. Ngoài ra, lá thư còn tỏa ra một mùi nước hoa thơm ngát mũi. Nó đưa phong bì lên và cứ ngửi mãi. Loài mèo thích mùi cây nữ lang thế nào thì nó cũng thích mùi thơm của cái phong bì đó thế ấy. Nó ước gì lá thư đó là của riêng nó.
Dường như lúc đó con quỷ Satan của Sambo ắt hẳn đã hiện diện ở đó, dù bản thân nó không thể tưởng tượng được bằng cách nào Satan có thể rỗi hơi để cám dỗ một thằng bé da đen bé nhỏ như nó. Sambo đưa mắt nhìn quanh. Nó không thấy một ai gần đó. Thế là thay vì mang ngay lá thư tới cho ông chủ, Sambo cởi ba cái nút áo ra và nhét lá thư vào bên dưới cái áo chế phục. Lá thư nằm ở đó suốt buổi sáng – một sự khó chịu nhất mà nó từng trải qua. Chiều hôm đó, khi tới một bức tường cao bên dưới những cây đoan rậm rạp, nó ngồi xuống bên cái giỏ dưới bóng râm, mở lá thư ra và bắt đầu đánh vần. 
Đầu tiên là là địa chỉ của nơi gửi tới: Dốc Trắng, Núi Tuyết. Và sau nửa giờ cố gắng một cách nhẫn nại, Sambo đọc được nội dung sau:
Cô Bleech cuối cùng của dòng họ gửi lời thăm tới bác sĩ Grimble và muốn nói rằng hiện nay bà ấy là một phụ nữ rất già và đang nằm ốm trên giường. Bà ấy buộc phải mời ông bác sĩ mang thuốc men tới và thăm bệnh cho bà càng sớm càng tốt.
Sambo đánh vần lại cả lá thư một lần nữa trong mười phút. Nó không hiểu vì sao lá thư này không bắt đầu với chữ “Thưa ngài,” như tất cả những lá thư ít oi khác mà nó từng thấy mà lại viết theo một cung cách lạ lùng: Cô Bleech cuối cùng của dòng họ. Thế nhưng chính cái tên đó đã giúp cho nó nhìn thấy bà cụ với đôi mắt trong tâm trí, cũng rõ ràng như bà ta đang nằm trên cái giường ngay bên dưới những cây đoan trước mặt nó! Nét mặt bà ta hiện lên những nụ cười nhân hậu nhất. Nhưng địa chỉ của bà ta còn khiến cho nó bị mê hoặc nhiều hơn. Giống như một con rắn đang thôi miên một con chim hoàng yến. Đột nhiên cái màu trắng tinh của băng giá hiện lên lấp lánh trong tâm hồn buồn bã của nó với một ánh sáng chói chang mà nó hầu như không chịu đựng nổi. Giá mà nó có cánh! Ở đây, đường phố thường tối tăm ảm đạm với mưa gió, còn ngôi nhà của ông bác sĩ thì đúng là một chốn cư trú ảm đạm, và những gương mặt trắng của mọi người mà nó nhìn thấy ít khi nhìn nó với lòng thiện cảm. Không hề có một sự giúp đỡ hay hy vọng nào ở bất cứ nơi đâu để mang tới sự thay đổi mà nó khao khát. Giá mà ông chủ nó cử nó đi chuyến này, bảo cho nó biết cần phải làm gì, và sẽ mang theo những thứ thuốc men gì để thay thế cho ông ta!
Sambo biết rõ là điều này không thể xảy ra. Lẽ ra nó nên gạt bỏ cái ý nghĩ đó ra khỏi đầu mình. Nhưng ngay cả bên dưới những hàng cây đoan xanh ngắt con quỷ Satan mà nó sợ hãi hẳn đã đứng bên cạnh nó. Nó nhét lá thư trở lại vào dưới áo, móc cái giỏ lên cánh tay và hoàn tất chuyến giao thuốc. Nó đã quyết định sẽ không nói gì về lá thư này. Nó sẽ tự gói ghém những thứ thuốc men. Khi đã tới nơi mà lá thư nói, nó sẽ bảo với bà cụ đó, cô Bleech cuối cùng, rằng ông bác sĩ đã cử nó tới. Và chắc chắn đó sẽ là nơi chấm dứt những nỗi khốn khổ của nó. Kế hoạch tội lỗi này đã phát triển trong đầu nó nhanh như dây bầu của Jonah[1]. Sampo trở về nhà, đầu nóng bừng như lửa đốt với ý tưởng đó và chỉ chờ cho tới khi ông bác sĩ đi thăm bà cô Clara của ông để thực hiện nó.
Sambo khốn khổ. Ông chủ của nó đã không nói nhiều về những điều nó nên làm; và dù nó biết rằng mượn tiền mà không trả lại là sai, nó không biết rằng việc đó gần như cũng xấu xa như việc ăn cắp. Nó đã bị “bóng tối” giam giữ. Nhưng nó không biết rằng đường đi tới Núi Tuyết rất xa, rằng nó phải tới đó bằng tàu hỏa, và nếu đi tàu hỏa thì bạn phải ra nhà ga để mua một tấm vé. Giữa đêm hôm đó, khi ông bác sĩ đã xách cái túi đen nhỏ rời khỏi nhà vào khoảng ba giờ chiều, nó len lén xuống nhà, mở ngăn kéo của ông chủ nó ra, và lấy gần phân nửa số tiền đô la bạc giấy xanh đựng trong cái hộp thiếc nhỏ bên trong đó. Nó đứng lắng nghe một lúc, đôi mắt lồi của nó sáng lên trong ánh nến, đôi bàn tay của nó run rẩy. Nhưng không có một âm thanh nào xuất hiện từ bóng đêm trống vắng.
Số tiền nằm an toàn trong túi nó, nó lẻn lên một căn phòng nơi bà mẹ già của ông ta thường nằm ngủ lúc bà còn sống. Lúc trước, đôi khi nó hay liếc nhìn vào đó với nỗi sợ nhìn thấy hồn ma của bà cụ, và có lần với sự tò mò và trong ánh sáng ban ngày sáng sủa, nó đã nhìn vào cái tủ ngăn đứng đối diện với cái giường. Với cây nến thắp sáng trong tay và đôi chân trần, hàm răng trắng như ngà của nó va vào nhau lập cập, nó lẻn vào căn phòng không một tiếng động, đen hơn cả một cái bóng. Nó mở cánh cửa tủ ra. Trên mỗi cái móc treo bất động những bộ quần áo cũ của bà cụ – những tấm áo choàng, khăn choàng và áo khoác; màu nâu và tím nhạt, hoa cà và tím thẫm; và trên một cái móc là một cái áo lót nhỏ bằng vải satin, đáng yêu hơn tất cả với một màu đỏ son đã phai, mà hẳn là khi còn trẻ bà cụ đã từng mặc nó. Sambo thở hổn hển vì vui thích khi nhìn thấy những màu sắc, những thứ lụa là và gấm vóc đó. Nó khẽ giơ ngón tay ra như để sờ vào chúng. Ông chủ nó, dù có tính tình nóng nảy, lại rất yêu quý mẹ mình, và không thể chịu được việc chia tay với những thứ quần áo của bà.
Trong số đó có một cái áo choàng không tay làm bằng lông chồn. Đây là món quà mà ông bác sĩ tặng mẹ mình vào ngày sinh nhật thứ bảy mươi của bà, và hẳn phải khá đắt tiền. Vì tình yêu đối với con trai và niềm tự hào, sau đó bà luôn mặc nó khi ra ngoài vào ban đêm để nghe nhạc hay ăn tối với bạn bè, dù điều này rất hiếm hoi.
Sambo cẩn thận đặt giá nến lên cái bàn trang điểm nằm trước tấm gương lớn rồi đứng lên trên một cái ghế để tháo cái áo choàng ra khỏi móc áo. Nó không chỉ lấy cái áo xuống mà còn khoác nó lên người. Sau đó nó trèo lên một cái ghế đẩu và ngắm nghía chính mình trong gương dưới ánh nến. Từ chiều sâu lặng lẽ của nó, tấm gương cho thấy cái đầu tròn với mái tóc đen loăn xoăn, đôi mắt sẫm, hàm răng lấp lánh và đôi bàn tay bé nhỏ của Sampo, còn từ cằm cho tới gót chân nó là lớp lông trắng mềm mại óng ánh như bạc.
Sambo chưa bao giờ trông thấy một vật kỳ diệu đến thế. Nó hầu như không thể ngăn nổi một tiếng thở dài xúc động. Đây mới chính là cháu nội của một ông vua! Chỉ còn một rắc rối nhỏ trong đầu nó – những chỏm lông đen.  Và lạ chưa, ngay trên cái bàn trang điểm là cây kéo may của bà cụ, với hai cái cán bằng bạc và xà cừ, và hai mũi thép thon thon. Sambo ngồi xuống nền nhà, không chú ý tới việc những giờ khắc của đêm khuya lạnh lẽo đang trôi qua như thế nào, dùng kéo cắt bỏ mọi chỏm lông đen trên chiếc áo choàng. Nó gom chúng lại, bỏ vào một cái hộp bìa cứng, cuộn cái choàng lại thành một bó, cầm lấy cây nến rồi quay lại phòng của ông bác sĩ. Ở đó, vì cây nến đã chảy hết, nó thắp cái đèn khí đốt rồi vặn nó nhỏ lại. Vì không thể mượn hết, nó lấy từ mỗi cái kệ mọi lọ thuốc bột thứ ba và thứ bảy – vì cái đầu đen thui bé nhỏ của nó đang tối đi vì những niềm mê tín – và nó cho một ít mỗi loại thuốc bột vào một số hộp đựng thuốc viên. Nó chỉ lấy thuốc bột vì nó e rằng những chai thuốc có thể bị vỡ trong chuyến hành trình dài. Bác sĩ Grimble bỏ những loại thuốc viên trong những cái hộp có màu khác nhau, tùy theo mục đích của từng loại. Vì thế Sambo lấy đi tất cả mười hộp, trong đó có hai hộp cùng màu, vì có năm cái kệ cả thảy. Nó bỏ những hộp thuốc vào giỏ. Trong những hộp khác nó cho vào một số loại thuốc mà nó thích, và nó không thể không lấy thêm một chai nước đường Nicey-Nicey, như cách ông bác sĩ gọi. Với cái thứ nicey-nicey này, nó trộn vào các loại thuốc để làm cho chúng ngọt hơn. Nó cũng bỏ vào giỏ một hai con dao nhỏ sáng loáng, vài cây kéo dài, một cái ống nghe mỏng manh bằng gỗ, và một đôi kính gọng mai rùa màu sẫm. Thế là xong.
Khi nó gói ghém xong cái giỏ, ánh bình minh nhợt nhạt đã xuyên qua những khe hở của các cánh cửa sập. Đôi má của nó gần như cũng nhợt nhạt như thế, dù nó không biết. Nó len lén đi xuống thang. Cái giỏ ở một bên hông và một cái gói ở hông kia – bao gồm số tiền, hai cái áo ngủ và hai cái khăn tay cũ. Nó ngồi xuống ăn sáng. Trời vẫn còn rất sớm khi nó ăn xong cả phần điểm tâm của ông bác sĩ và của nó. Nó rời khỏi nhà, len lén đi qua những hàng cây dương đang vi vu trong gió, rồi chạy vụt đi. Đó là một việc làm tồi tệ, nhưng có lẽ nếu thằng nhóc người hầu của ông nha sĩ nói cho nó biết là có vấn đề gì với nước da đen thì có lẽ nó không bao giờ phải bỏ đi như thế.
Nhưng nó đã lên đường, và trọn ngày hôm ấy, cho tới xế chiều, nó nằm nấp trong một cái máng cỏ chuồng ngựa của mội ngôi nhà bỏ hoang mà nó đã chú ý tới trên những chuyến giao thuốc. Khu vườn của ngôi nhà mọc um tùm những cỏ và đầy những lũ chim rối rít. Nó ngủ được một chút, nhưng trong hầu hết thời gian đó nó ngồi với đôi tay lạnh ngắt và cái miệng hé mở để lắng nghe một cách sợ hãi tiếng những con chó săn đang đánh hơi, tiếng gọi của quỷ Satan, nhưng hơn tất cả là tiếng gọi của Núi Tuyết mà nó chưa từng đặt chân tới. Có một lần duy nhất nó mạo hiểm rời khỏi nơi ẩn nấp để xem có còn trái táo nào còn sót lại trên lớp cỏ hay không. Nó chẳng tìm thấy trái nào và phải lên đường bụng đói.
Trong ánh hoàng hôn chạng vạng, với cái giỏ và chiếc áo choàng lông chồn trên tay, nó len lén lên đường tới nhà ga và hỏi mua một tấm vé tới nhà ga gần Núi Tuyết nhất.
“Ai cần nó?” Người bán vé hỏi.
“Ông chủ tôi, thưa ông,” Sambo nói.
“Nếu ông ấy cần một tấm vé tới Núi Tuyết, sao ông ấy không nói thế?” Người đàn ông hỏi.
“Tôi không biết,” Sambo đáp, và người đàn ông trao cho nó một tấm vé. Sambo không dám hỏi bất kỳ ai khác một câu nào nữa, mà chỉ nhìn quanh cho tới khi nó trông thấy một cây sào gỗ cao trên treo một tấm bảng chỉ đường. Trên tấm bảng này có một dòng chữ viết bằng chì than: “Tới Núi Tuyết”. Nó chỉ tới một chiếc tàu hỏa – đang đậu trong bóng tối ảm đạm của một đường tránh tàu.  Đó là một chiếc tàu hỏa trông có vẻ rất cũ kỹ, bạc màu, rệu rã.
Ở đây chẳng có một bóng người nào cả, và cũng chẳng có dấu hiệu gì của bất cứ một ai, ngay cả người lái tàu. Cuối cùng, khi Sambo rụt rè hỏi một hình dáng đang ngồi co ro trong bóng tối chừng mấy giờ nữa con tàu sẽ khởi hành, chẳng có tiếng nào đáp lại, và nó nhận ra nó đã hỏi một cái bao tải lớn đựng cám! Thế là nó trèo lên một trong những toa tàu. Bên trong rất tối và hôi mốc. Nó nằm xuống một cái ghế gỗ, trùm tấm áo choàng lên người và ngay sau đó ngủ thiếp đi.
Nó giật mình thức giấc sau một cơn ác mộng, không biết mình đang ở đâu, và cho là đang có một trận động đất. Khi quỳ gối lên và nhìn ra cửa sổ, nó nhận ra con tàu đang lắc lư chạy dọc trên một con đường rất hẹp dưới ánh trăng, và ở hai bên đường chẳng có gì ngoài những lớp băng tuyết trắng toát lấp lánh trải rộng. Cánh đồng hoang đầy tuyết đóng băng đó chạy dài đến mút tầm mắt. Thật lạ lùng khi một con tàu lại có thể lao nhanh về miền bắc đến như vậy. Nhưng vì Sambo ngủ, nó không biết con tàu đã chạy bao lâu. Và chỉ một cái nhìn duy nhất vào ánh sáng rực rỡ của tuyết cũng có tác dụng với nó hơn là việc giả sử nó nốc hết mọi loại thuốc của ông bác sĩ, kể cả những thứ thuốc độc.
Con tàu tiếp tục rầm rập chạy. Thậm chí Sambo có thể nghe thấy tiếng răng rắc của băng vỡ. Vầng trăng vẫn sáng và lúc này tuyết lại bắt đầu rơi, nhưng rất thưa thớt. Sambo thò đầu hết mức ra khỏi cánh cửa sổ hẹp để nhìn tới những toa tàu phía trước và phía sau. Dường như cả hai đều trống rỗng. Thỉnh thoảng nó nhìn thấy một ngôi nhà, nhưng luôn luôn đó là một ngôi nhà nhỏ xíu và ở rất xa. Có một lần con đường ngoặt gắt đến nỗi thậm chí nó có thể trông thấy ánh lửa lập lòe trong đầu máy và cái gì đó trông như một người da đen đang khom người ở đó, dù nó không thể chắc. Và khi con tàu vẫn lướt vùn vụt, Sambo lại cảm thấy buồn ngủ do việc nhìn mặt tuyết, nó nằm xuống cái ghế cứng trong cái áo choàng ấm áp và một lần nữa ngủ thiếp đi.
Khi nó thức giấc, con tàu đã dừng. Sambo nghe thấy có tiếng chuông kêu và nhìn ra cửa sổ. Trời đã sáng rõ. Nó nhìn thấy một sân ga thấp ngập dưới lớp tuyết dầy và một cái kho để mở. Trên cái kho nó đọc thấy hàng chữ: “Núi Tuyết. Chuyển tàu!” Gần như nó chỉ có đủ thời gian để vơ lấy cái giỏ, gói đồ và cái áo choàng và nhảy xuống trước một tiếng còi dài buồn thảm từ đầu máy, và trong khoảnh khắc con tàu đã chạy vụt đi.
Tuy nhiên, vẫn chẳng có một bóng người nào cả. Vì thấy lạnh, Sambo mặc áo choàng vào, treo cái giỏ lên cánh tay, cầm gói đồ và đi tới cánh cổng xoay của nhà ga. Một ông lão có bộ râu cằm đang đứng đó với một cái đèn lồng đang cháy trong tay, dù mặt trời đã lên. Sau khi đưa vé, Sambo hỏi ông ta cô Bleech sống ở đâu. “Tên của chỗ đó là Dốc Trắng,” nó nói.
“Cậu đi theo con đường đó,” ông lão lầm bầm, chỉ tới một con đường hẹp quanh co ở bên ngoài nhà ga, “cho tới khi bắt đầu lên dốc. Cứ lên dốc mãi theo những hàng cây.”
Sambo cám ơn ông ta rồi cất bước. Dù đã ngủ một giấc dài trên tàu, đôi chân của nó đau nhói và nó thấy rất mệt. Cái giỏ ngày càng nặng, cái áo choàng ngày càng nóng và con đường ngày càng dốc. Mặt trời rọi nắng xuống mặt tuyết trắng làm đôi mắt nó hoa lên. Từ nhiều giờ trước, nó không còn đếm xuể những cây thông bên đường. Thậm chí nó không thể đoán nó đã lê chân được bao nhiêu dặm qua mặt tuyết khi một cái dốc đứng của dãy đồi đột ngột hiện ra và nó vui mừng nhìn thấy cái mà nó chắc chắn phải là Dốc Trắng. Vì đó là ngôi nhà lạ lùng nhất trên đời. Những mái nhà rộng và hẹp, dốc cao và thoai thoải phủ đầy tuyết sáng lấp lánh bên trên những bức tường và cửa sổ. Đó không phải là một ngôi nhà mà là một tòa dinh thự lớn. Sambo trèo lên những ngọn đồi hiu quạnh, đi theo những hàng thông đánh dấu con đường mòn hẹp, cuối cùng đây là nơi mà nó đã mong mỏi tới. Kế tiếp nó sẽ làm gì nữa?
Trước khi lên đường nó nghĩ nó sẽ bảo bà cụ rằng ông chủ đã cử nó tới. “Ông bác sĩ bị ốm và ông ấy nói: cử Sambo tới.” Nó sẽ nói như thế. Rồi sau đó nó sẽ trộn một chút thuốc bột từ mỗi cái hộp màu với một ít nicey-nicey và chút nước, và sẽ cho bà ta uống mỗi ngày một muỗng cà phê. Bây giờ nó đã thuộc nằm lòng từng loại thuốc. Và dù chúng chẳng có ích gì đối với niềm mong mỏi của nó, chúng cũng chẳng gây chút tổn hại nào.
Nó cảm thấy chắc chắn là bà cụ sẽ cho phép nó ở lại đó chừng nào các thứ thuốc vẫn còn. Khi bà ta khoẻ lại, có lẽ nó sẽ hỏi xin làm người giúp việc cho bà ta. Điều đó thật tuyệt vời! Sambo tội nghiệp cảm thấy chắc chắn là nếu nó có thể ở lại đủ lâu trong tòa dinh thự trắng lóng lánh giữa những ngọn núi, giữa màu tuyết sáng chói bất tận đó, chắc chắn là nước da đen của nó sẽ dần dần biến mất. Không phải là những màn che cửa của ông chủ nó, dù ở đó ánh mặt trời không mạnh mẽ và sáng chói như thế này, đã biến từ màu xanh trời thành màu trắng bạc phếch đó sao?
Một cơn gió nhẹ thở dài trong không trung. Nhẹ đến nỗi hầu như không làm động đậy những lớp tuyết lóng lánh dưới chân Sambo. Nó rùng mình. Và những ý nghĩ của nó trở nên u ám hơn. Giả sử khi nó xuất hiện trước giường, bà cụ không tin là ông chủ nó đã cử nó tới thì sao? Giả sử bà ta dò hỏi nó và phát hiện ra rằng nó đã lấy trộm những thứ thuốc; rằng nó là một thằng bé da đen dối trá thì sao?
Một lần nữa, nó nhìn ngôi nhà lạ lùng đang nhô cao một cách cô quạnh dưới bầu trời xanh thẳm giữa những dốc núi chập chùng. Nó tưởng như từ khoảng cách đó nó có thể nhìn thấy những hành dáng sống động đang di chuyển trước sân, dù nó không thể biết chúng là gì. Nếu vậy thì sao? Nó lại tự hỏi mình và bắt đầu thấy sợ hãi. Và dù bản thân nó không thể tin rằng quỷ Satan sẽ không dám liều lĩnh tới một nơi đầy ánh sáng và an bình như thế này, một ý nghĩ thậm chí còn xấu xa hơn đang len lỏi trong đầu nó. Tại sao nó không giả làm chính ông chủ nó, giả làm ông bác sĩ? Trong lá thư không có một lời nào nói rằng cô Bleech cuối cùng biết ông chủ nó. Không một lời nào cả. Có lẽ vì thế mà bà ta đã không bắt đầu lá thư với từ “thân mến”. Có lẽ nếu nó chỉ cho bà ta uống phân nửa số liều thuốc mà nó dự định lúc đầu, bà sẽ khoẻ lại chậm hơn phân nửa thời gian. Khi đó nó có thể ở lại mãi, không bao giờ quay về nữa. Không, không bao giờ.
Trong lúc nó đang ngồi đó với ý nghĩ này trong đầu, ở mé bên dưới nó đột nhiên hiện ra một con thỏ rừng trắng, với đôi mắt như than cháy. Ít nhất Sambo cũng nghĩ rằng đó là một con thỏ, dù nó to hơn bất kỳ con thỏ nào mà Sambo từng thấy trước đó. Nó đứng bất động như một cái cột trên mặt tuyết và nhìn chòng chọc vào Sambo khoảng một phút, không hề có vẻ dữ tợn nhưng vì đôi mắt nó sáng lóng lánh.
Thế rồi, như thể đã chắc chắn rằng Sambo không có ý làm hại nó, nó phát ra một tiếng kêu nho nhỏ gần như là một tiếng cười và cào hai chân sau lên mặt tuyết thật nhanh. Những sinh vật khác giống nó đáp lại. Và chẳng bao lâu cả một khoảng rộng bên dưới Sambo – đó là một cái hồ đóng băng vây quanh bởi những thân cây phủ tuyết – đã đầy những thỏ rừng. Hàng mấy trăm con thỏ rừng to nhỏ đủ cỡ. Chúng chẳng để ý tới Sambo chút nào như thể nó cũng trắng toát như chúng. Có lẽ, Sambo nghĩ, chúng không chú ý tới đôi bàn tay hay gương mặt nó. Nhưng bà cụ thì sẽ chú ý. Khi thấy nó đen, bà ta không chỉ không tin rằng nó là một bác sĩ mà còn có thể run lên với sự khinh bỉ và căm ghét. Nếu vậy thì sao? 
Nó mệt và đói tới mức không thể suy nghĩ thêm được nữa. Vì thế, nó khoác cái giỏ vào cánh tay rồi lên đường, và một lúc sau tới phía sân sau của ngôi nhà. Ngoài những bóng râm trên mái và tường, toàn bộ ngôi nhà trắng toát. Đây đó là nhiều căn nhà phụ nhỏ xíu như những cái tổ ong phủ tuyết, và dường như tất cả đều vừa mới quét vôi trắng. Sambo nhìn quanh và trông thấy ở một góc nhà có một cái chậu lớn như để hứng nước mưa. Nó len lén tới gần và nhón chân nhìn vào. Cái chậu đầy phân nửa một chất lỏng dầy màu trắng, giống như nước vôi. Nó đu cả người lên và khom xuống, đập vỡ lớp băng mỏng trên bề mặt rồi nhúng đầu ngón tay vào đó. Nó trở thành trắng như sữa. Nếu đầu ngón tay mà như thế, thì sao cả thân hình của nó lại không thể như thế? Chắc chắn đây là điểm kết thúc mọi bất hạnh của nó!
Nó không ngần ngừ thêm nữa. Nó cởi chiếc áo choàng lông, cái áo chế phục nút bạc, sơ mi, giày, mọi thứ trên người ra. Rồi trần truồng và run bắn người vì lạnh, nó đu lên cái chậu, buông người xuống, và nhúng ba lần từ đầu đến chân vào cái lòng nước màu kem lạnh như băng – mặt, tay, mái tóc xoan và tất cả. Khi đã ra khỏi chậu an toàn, nó chạy quanh cho tới khi khô ráo hoàn toàn rồi mặc lại quần áo. Dường như không có ai nghe thấy tiếng quẫy nước của nó; không có ai nhìn thấy nó. Nhưng khi đang móc cái khóa cổ bạc của chiếc áo choàng, nó nghe thấy một tiếng động nhỏ. Một con nai xinh xắn đang đứng trên mặt tuyết nhìn nó. Con nai không có sừng và cũng trắng toát như nó và cũng không lùi lại hay vội vã bỏ chạy khi nó tới gần. Nó đưa bàn tay nhuộm trắng ra vuốt nhẹ cái đầu xinh đẹp của con nai. Và nhờ sự thân thiện của con nai, nó không còn sợ nữa. Nó đi vòng ra phía trước ngôi nhà, bước lên thềm và nghiêm trang gõ vào cánh cửa lớn.
Người quản gia mở cửa. Sambo đoán ông ta là quản gia vì nó đã từng thấy nhiều người quản gia. Nhưng nó chưa thấy người nào già nua và kỳ lạ đến thế. Bên ngoài cái áo gi-lê là cái áo đuôi tôm sạch bóng gần như quét lên nền nhà. Mũi ông ta còn rộng hơn và bẹp hơn mũi nó, đôi môi cũng dầy và mái tóc cũng xoăn không kém môi và tóc nó, chỉ trừ gương mặt của ông ta, ông ta có nước da trắng. Ông ta có vẻ buồn bã và thận trọng. Và dù đôi môi của Sambo cứng lại, phần vì lớp vôi và phần vì nó đang nói dối, Sambo nói cho ông ta biết nó là ai. Rồi nó hỏi ông ta bà chủ của ông ta ra sao, và có đủ khỏe để gặp bác sĩ hay không.
“Ồ, thưa ông,” người quản gia già đáp, đôi tay giơ lên trong nỗi đau khổ, “ngày càng tệ hơn!” Và không nói thêm lời nào nữa, ông ta dẫn Sambo đi lên một thang lầu rộng màu trắng, dọc theo một hành lang có những cánh cửa sổ trông ra dãy núi. Rồi ông ta gõ vào một cánh cửa.
Khi Sambo nhìn thấy cô Bleech cuối cùng trên cái giường lớn, với cái đầu bạc trắng trên gối và đôi mắt xanh nhìn đăm đăm vào cánh cửa sổ trước mặt bà ta, nó biết bà không còn sống lâu trên cõi đời này nữa. Nó trầm ngâm suy nghĩ. Có vẻ bà phải đến chín mươi tám nếu không phải là chín mươi chín tuổi. Giọng của bà nhỏ và trầm đến nỗi nó hầu như không nghe được những gì bà nói với nó. Nhưng khi người quản gia nói cho bà biết người khách này là ai, bà mỉm cười với Sambo. Bà rất vui được gặp nó, dù bà chỉ có thể lờ mờ nhìn thấy nó. Tuy nhiên, không mờ đến mức đây không chỉ là người bác sĩ trắng nhất từng đến chữa bệnh cho bà mà còn là người trắng nhất trong tất cả mọi người. Tất cả các bác sĩ khác của bà, dù bà ít khi cần tới họ từ khi còn bé, đều mặc những bộ áo khoác đen nghiêm trang để phù hợp với mũ và quần của họ; và bà không ưa màu đen nhất trong tất cả mọi thứ trên đời. Hay nói đúng hơn, bà thích nhất màu trắng; dù lúc đó Sambo không biết điều này.
Nhưng trước tiên bà chỉ nghĩ tới sự tiện nghi của nó. Bà lệnh cho người quản gia chỉ cho nó phòng của nó. Căn phòng đã được chuẩn bị để đón tiếp vị khách mà bà rất mong mỏi được gặp, và nó nằm kế bên phòng bà. Bà bảo Sambo khi nó đứng đó – bé nhỏ - ánh mắt chăm chú và bất động ở chân giường – rằng bà biết chuyến hành trình của nó lạnh và mệt mỏi thế nào. Bà bảo rằng bà sẽ không làm phiền nó lâu lắm. Hy vọng duy nhất của bà là nó có thể ở lại với bà càng lâu càng tốt.
Do thường nhại lại lời nói và cung cách của chủ nó, giờ đây Sambo cố hết sức bắt chước theo chúng. Nó bảo bà cụ rằng nó nghĩ trông bà đã khá hơn chút ít, và rằng nó sẽ cố hết sức để giúp bà khoẻ lại. Miễn trong người còn hơi thở, nó nói, là còn có hy vọng. “Chăm sóc, thuốc men và ngủ,” nó nói, giơ một ngón tay lên. Nhưng nó quay đôi kính khỏi ánh sáng từ cửa sổ trong lúc nói vì sợ rằng bà có thể nhìn kỹ vào gương mặt nhúng vôi của nó và biết rằng nó đang lừa bịp.
Khi còn lại một mình trong căn phòng cao đã được chuẩn bị sẵn, nó nhìn quanh vào cái giường cao treo màn nhung trắng, cái ghế sofa, tấm thảm – dầy và sâu như một lớp rêu, nhưng lại trắng như tuyết. Nó ngồi lên một cái ghế đẩy và khóc òa. Nó còn trẻ, nó cô độc, nó mệt mỏi; nhưng chính hành vi xấu xa của nó là gánh nặng nặng trĩu nhất. Tuy nhiên, nó chỉ khóc trong giây lát, rồi vội vã tới trước tấm gương to trước bàn trang điểm để xem nước mắt nó có để lại dấu trên mặt hay không. Không; nó đã nhúng sâu vào nước vôi, và không có một vết ố nào. Thật sự, khi nhìn vào chính nó lần đầu – gương mặt trắng bệch như giấy, đôi bàn tay trắng, một chú lùn trong chiếc áo lông chồn – nó kinh hoàng. Như thể nó đã gặp hồn ma của chính nó. Rồi nó thở dài. Thậm chí nó còn trắng hơn cả ông chủ nó! Nó nới lỏng cái móc khóa ở cổ, quay lại nhìn ra cửa sổ. 
Bên dưới nó ngọn núi trải rộng những tầng tuyết trắng tới cái thung lũng xa xa dưới kia. Những hàng cây và bụi rậm phủ đầy tuyết và đang lấp lánh trong ánh hoàng hôn hiện ra trước đôi mắt ngạc nhiên của nó. Tiếng kêu ngọt ngào nhưng buồn thảm của những con chim mỏ nhát mùa đông đang bay qua không gian lặng gió vọng tới tai nó. Và bên dưới chúng là những sinh vật lạ rải rác mà nó chưa từng nhìn thấy hay biết tên. Một số có gạc, một số nhỏ bé và nhanh nhẹn, và tất cả đều có một màu lông nhạt đến mức hầu như khó mà nhìn thấy chúng trên mặt tuyết. và dù cảnh tượng nhìn ra từ cửa sổ bao la như thế, những con vật rải rác xa như thế, chúng có vẻ như rất an bình với nhau. Không có một tiếng gọi chế nhạo, không có một tiếng kêu đau đớn hay phẫn nộ nào xuyên qua bầu không khí. Như thể khi đang nhìn ra những dãy núi tuyết và thung lũng êm đềm và sáng chói bên dưới bầu trời xanh đó, Sambo đã được đưa tới một nơi gọi là Không nơi nào cả. Và trong một lúc nó quên rằng nó có nước da đen.
Nhiều ngày sau đó nó chăm sóc bà cụ, cho thật ít thuốc bột và thật nhiều chất ngọt vào những lọ thuốc đến nỗi bà cụ thấy thích thú khi uống thuốc, thậm chí còn nhấm nháp thay vì uống ực một lần. Sambo thường ngồi nhiều giờ bên giường của bà, thỉnh thoảng lại chạm vào tay bà với những ngón tay nhuộm trắng thô kệch của nó, không phải để xem bà có sốt không mà chỉ để an ủi bà, và chứng tỏ rằng nó đang ở đó. Và nó càng ở lâu với bà, bà càng cảm thấy dễ chịu và an ủi với tình bạn của nó, còn nó thì ngày càng buồn hơn: trước hết, với ý nghĩ rằng giờ đây bà đã quá già để có thể trẻ lại, và thứ hai là nó đang lừa dối bà. Và nó cố hết sức, và dù nó thường nằm thao thức nhiều giờ để suy ngẫm về điều này, nó không thể tìm ra lời để nói với bà cụ, người mà giờ đây nó rất đỗi yêu mến. Nó đang nằm trong một tấm lưới dối trá đáng sợ biết bao.  
Có lần khi màu đen bắt đầu lờ mờ hiện ra dưới lớp nước vôi, nó phải lẻn ra mé nhà ngoài để khoác lại lớp da mới. và dù lần này cơn lạnh đột ngột khiến nó mắc phải chứng ho khan, may mắn là nó đã mang theo trong giỏ một gói thuốc bột trị ho, và do bệnh nhân của nó không cần thứ thuốc này, nó tự sử dụng cho chính mình.
Khi chứng ho đã bớt, đôi khi nó hát cho bà cụ nghe với cái giọng the thé những bài hát của dân tộc nó mà khi còn bé nó từng nghe. Trong số những bài bà cụ và chính nó thích nhất là khúc bi ca “Đừng ngủ nữa, hỡi người yêu!” Và khi nó hát bài này, đôi mắt đen của nó thường bắt gặp đôi mắt xanh trời nhạt của bạn nó, và như thể nhờ giai điệu đơn giản của khúc nhạc họ đã chia sẻ với nhau một bí ẩn không thể thấu hiểu được.
Đừng ngủ nữa hỡi người yêu
Thôi đừng ngủ nữa buổi chiều hôm nay!
Chúng ta sẽ hát một bài
Cho quê nhà cũ giờ vời vợi xa…
Và rồi, để vui hơn, Sambo thường hát bài ca rộn rã “Sáng lên, sáng lên đi trăng ơi!” hay bài “Trong buổi sớm mai” dù những lời ca đó khiến ký ức nó quay về với ông chủ nó trong khoảnh khắc, và giọng nó run lên:
Tôi vẫn hay chờ lúc trẻ trung
Trên bàn ăn sáng mỗi bình minh
Để chuyền chai rượu khi ông khát
Và để xua con ruồi tham ăn…  
Cuối cùng, một buổi chiều nọ, sau một lúc lâu im lặng, khi nó đang ngồi trên cái ghế đẩu quen thuộc bên cái giường lớn, nó hỏi bà cụ rằng bà có để ý tới những sự vật trông có vẻ như cái mà chúng thật sự không phải là thế hay không.  Và nó quay toàn bộ gương mặt về phía ánh sáng khi nói điều đó.
“Vì sao chứ, nhưng không, bác sĩ thân mến tốt bụng của tôi,” bà cụ đáp. “Điều quan trọng nhất không phải là việc những sự vật trông như thế nào, mà là chúng là cái gì.” Khi bà còn trẻ, bà nói tiếp – như thể bà đang đọc những ý nghĩ của nó mà không hề hay biết – trước kia, khi bà còn trẻ, bà đã yêu những màu sắc – mọi màu sắc mơ hồ nhất có thể nhìn thấy ở những dải cầu vồng; dù tất nhiên có một số trong đó là những màu mà bà ưa thích hơn. Nhưng tất cả mọi màu sắc, cha bà giải thích với bà, thậm chí khi bà còn là một cô bé gái với những bím tóc ngắn ngủn đong đưa quanh đầu, đều nằm ẩn bên trong màu trắng. “Màu trắng,” cha bà đã nói với bà “không phải là một màu; nó là tất cả các màu.” Bà không bao giờ quên điều đó. Và càng sống lâu, bà nói với Sambo, bà càng trở nên yêu thích màu trắng: những cây hoa giọt tuyết, những cây cỏ chân ngỗng, những cây bìm bìm; sương sớm trước lúc mặt trời lên; sương muối, bọt nước, bụi nước của biển. Vì thế cuối cùng bà đã đến sống ở vùng núi này nơi tuyết phủ hầu như quanh năm, và mọi sinh vật đều chia sẻ sự diệu kỳ của nó.
“Hãy nghe xem, bác sĩ, có phải tôi đã nghe thấy tiếng hót của những con chim hay không? Hãy nhìn ra ngoài, vào những đôi cánh ánh sáng của chúng!”
Sambo ngẩng cái đầu nặng trĩu của nó lên và nhìn ra cửa sổ. Nhưng hẳn là lũ chim chỉ có trong tâm trí của bà cụ. Không có một bóng chim nào trên trời cả.
Thế rồi nó hỏi bà có bao giờ bà du lịch tới vùng đất của người da đen, quê hương của họ. Nó khẩn khoản hỏi bà, “Có phải sinh ra như thế là một điều đáng sợ hay không? Với nước da đen?”
“Sao vậy, không, bác sĩ thân mến ạ,” bà nôn nóng cam đoan với nó. “Với tôi thì không bao giờ. Đó cũng lại là điều mà cha tôi đã nói với tôi. Màu trắng trả lại tất cả mọi màu; màu đen tiếp nhận chúng. Màu đen, đó là cái nằm ở giữa mọi con mắt của loài người, cha tôi thường nói thế. Ngoài ra mọi vật trên đời này đều cho đi và tiếp nhận. Ngay cả một trái táo treo trên cành cũng là vì những hạt của nó. Một người da đen có tâm hồn trong sạch và có trái tim nhân ái thật sự còn trắng hơn bất kỳ những tâm hồn u ám nào.” Và bà mỉm cười với chính mình sau khi nói ra bài thuyết giảng nhỏ bé này với một người hiểu biết như ông bác sĩ; nhưng bà đã nhận ra rằng Sambo đang có điều gì đó vướng bận trong tâm trí.
“Chao ôi,” Sambo nói với một giọng buồn thảm. “Và điều đen tối nhất trong mọi điều, đó là một lời nói dối!” Rồi nó vội vã rời khỏi phòng.
Thật lạ lùng khi một người trẻ tuổi và còn chút ít máu hoàng tộc trong người như nó lại có thể khóc như thế khi nghĩ tới một lời nói dối. Nhưng nó đã khóc.
Đêm đó, sau khi cho bà cụ uống thuốc, và thứ thuốc đó chỉ toàn là nicey-nicey, vì thuốc bột đã hết cả rồi, thấy bà đã yên ổn trên giường, nó thắp cây nến sáp trong cái giá nến cạnh giường, chúc bà ngủ ngon rồi trở về phòng mình.
Bên dưới giường có một cái bồn tắm nông bằng thiếc màu trắng. Nó kéo cái bồn ra trước bàn trang điểm và đổ nước lạnh từ bình vào đó. Chỉ tới không đầy ba phân nước trong cái bồn, còn trên người nó lại có tới ba lớp nước vôi dầy. Vì thế nó phải mất thời gian khá lâu để chùi rửa kỳ cọ để biến thành đen trở lại. Khi xong xuôi và lau chùi khô ráo, nó nằm trên chiếc sofa nghỉ một lúc, vì nó muốn thức dậy vào lúc bình minh. Khi đó nó sẽ nói với bà cụ mọi chuyện về nó. Nó chỉ sợ một nỗi là điều đó có thể làm cho sức khoẻ của bà xấu đi.
Nhưng sáng hôm sau, cô Bleech cuối cùng không thể trở nên tệ hơn được nữa, vì khi Sambo bước vào phòng bà trong ánh bình minh, bà đã qua đời.
Nó đứng ở chân giường, nhìn đăm đăm vào gương mặt bình an trên cái gối, vào đôi tay giống như chân chim trên lớp khăn phủ giường. Và nó gật cái đầu tóc xoăn trong niềm đau khổ, như thể muốn nói: “Đã muộn rồi!” Cuối cùng, nó len lén tới gần hơn và đánh bạo đưa những ngón tay đen đủi ra sờ bàn tay lạnh như băng của bà cụ.
“Phu nhân ơi, Sambo đây,” nó thì thầm.
Nhưng trong đôi mắt nhắm nghiền của người bạn già của nó không có dấu hiệu nào chứng tỏ bà đã nghe thấy nó. Và khi đứng đó trong nỗi đớn đau, nó nhìn thấy một mảnh giấy gấp đôi đặt cạnh giá nến. Trên đó là dòng chữ “Những ý nguyện cuối cùng của tôi và bên cạnh là một phong bì dài có gắn niêm phong. Sambo mang mảnh giấy tới  bên cửa sổ, và dù chữ viết rất ngoằn ngoèo và run rẩy, nó đã quen với nét chữ đó từ lúc ngồi bên dưới bóng những cây đoan, và trong vài phút nó đã đọc xong thông điệp bên trong.
“Bác sĩ, và hơn thế nhiều, bạn thân mến của tôi, với lòng nhân hậu và tốt bụng mà cậu dành cho tôi, vượt khỏi bất kỳ thứ thuốc men nào, tôi muốn để lại cho cậu tất cả những gì tôi có. Cậu sẽ thấy rằng người quản gia và những người giúp việc khác của tôi không bao giờ muốn chúng. Hãy chăm sóc lũ thú vật, và đừng bao giờ mặc bất kỳ thứ gì ngoài màu trắng vì tôi. Cầu Trời phù hộ cậu. Emily Bleech.”
Sambo đọc đi đọc lại, rồi đặt nó lại vào chỗ cũ. Nỗi đau và tình thương mến của nó hầu như lớn hơn sức chịu đựng của nó, nhưng có một điều duy nhất mà nó có thể thực hiện. Sau khi đổ nước trong cái bồn tắm ra cửa sổ, nó vội vã đi xuống lầu. Không có một bóng người nào cả. Như thể những khách lạ ban đêm vừa mới rời khỏi những căn nhà phụ một giây lát trước đó, trả lại sự quạnh vắng hàng ngày của chúng. Sambo nhúng ba lần từ đầu đến chân trong cái chậu lớn và bước ra, trắng như một viên phấn. Nó đã làm điều mà bạn nó muốn nó làm.
Sau vài ngày, khi trái tim Sambo đã bớt khốn khổ hơn, nó thực hiện vài điều mà nó muốn cho chính nó. Khi bỏ trốn khỏi nhà ông chủ, nó không nghĩ gì tới tiền ngoại trừ món tiền đã giúp nó tới được Núi Tuyết. Nó chỉ cần có thời gian để trở nên trắng hơn. Và bây giờ thời gian trải dài trước mặt nó như cát trên sa mạc hay mặt biển mênh mông. Và nó nghĩ lại những gì đã qua. Nó gói một số tiền, gấp đôi số mà nó đã mượn của ông bác sĩ, một tấm chi phiếu với nhiều con số không để trả cho cái áo choàng lông và mấy trăm đô cho số thuốc bị mất. Nó bí mật gửi cái gói này cho ông bác sĩ, trong có ghi Người gửi: Sambo nhưng không ghi địa chỉ. Đồng thời nó cũng gửi năm mươi đô cho tiệm kẹo nổi tiếng nhất trong thị trấn của ông bác sĩ, bảo họ giao cho thằng bé người hầu của ông nha sĩ một thùng lớn đường cây thích, một thùng chà là, một hộp bánh làm từ mật đường rất ngon gọi là bánh nhồi kem, và một hộp đựng thứ gừng ngon nhất của Trung Quốc.
Nói cho cùng, Sambo nghĩ, hẳn nó sẽ không bao giờ đến Núi Tuyết nếu không vì thằng nhãi hay gào thét đó, và từ món quà này nó sẽ biết rằng Sambo đã rời khỏi thị trấn. Còn về phần người quản gia già và những người hầu khác, họ không bao giờ hy vọng có một ông chủ tốt bụng hơn. “Cậu ấy là người tốt nhất trong số các ông chủ.”
Thế nhưng vào năm sau đó, trong lúc đang sống yên bình trong tòa dinh thự trên Núi Tuyết, nó nhìn ra cửa sổ – một việc mà nó chưa bao giờ thấy chán – một niềm khao khát kỳ lạ thỉnh thoảng len vào tâm trí nó. Và nó sợ rằng quỷ Satan lại đang ở gần bên nó. Khi nghĩ tới điều này nó len lén nhìn vào tấm gương, và đối diện với nó, trên gương mặt trắng lốm đốm là đôi mắt bất động và đen như đá bazan. “Ôi dù chỉ một lúc thôi,” một giọng nói kêu lên từ bên trong nó, như thể từ nơi thầm kín nhất của con người nó. “Ôi, dù chỉ một lúc thôi, để được đen trở lại!” Và luôn luôn, để dập tắt giọng nói đó, Sambo thường hái một vài đóa hoa tuyết và tới đặt chúng lên mộ người bạn già của nó. Nó thường đứng ở đó một lúc, lẻ loi một mình trong thung lũng, nhìn lên những dãy đồi yên tĩnh, rồi sau khi chậm rãi và nghiêm trang lắc lắc cái đầu nhuộm nước vôi, nó quay trở về nhà, lòng nhẹ nhõm.     



[1] Theo Kinh Cựu ước, Jonah là một nhà tiên tri, được Thượng đế ban cho một dây bầu để che nắng.

Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013

Đừng hỏi vì sao




Tôi vui được hai hôm, tâm hồn cứ ngân nga những ca từ và giai điệu thật trong sạch, đáng yêu (của bài La Seine). Đừng hỏi vì sao tôi nói nó là "trong sạch"! Đừng hỏi vì sao tôi thích một bài hát tầm thường như vậy. Thật tình, tôi cũng có thể trả lời cho những người bạn hay thắc mắc nhưng thắc mắc vì muốn tìm "chân lý". Nhưng, mới hồi nãy thôi, tôi ghi vào status trên FB của mình là "Chán càng thêm chán", và cảm thấy câu hỏi WHY này tôi sẽ không bao giờ trả lời cho thỏa đáng. Tôi mệt và chán ngán lắm rồi, bạn tôi ơi! Hình như kèm theo mỗi niềm vui hiếm hoi lắm mới nhận được một lần, là biết bao buồn phiền bực dọc. Hơn thế, có nhiều lần tôi ngồi, nước mắt lăn ròng ròng trên mặt, uất ức trào lên chặn ngang cổ họng, khi đọc thấy những câu chữ của những người  mà tôi một thời tin tưởng, ngưỡng mộ, kính trọng. Xem ra, thời buổi này ta chỉ có thể tin được chính bản thân mình. Không, thật vật, THỜI BUỔI NÀY, TA CHỈ CÓ THỂ TIN ĐƯỢC CHÍNH BẢN THÂN MÌNH!
Mới lúc nãy tôi vào một trang mạng của cánh lính, đọc một topic, và thấy những nhận định của các anh trong đó về một người quả thật làm tôi cười, mà cười ra nước mắt. Các anh nhận định về một bài viết của một nhà văn Xuân Đức nào đó, với những lời làm tôi, một người cầm bút dù chỉ nghiệp dư, cũng cảm thấy vô cùng day dứt và khó chịu. Nếu muốn kiểm chứng, bạn có thể vào đây đọc:
Khi tôi vào gu gồ tìm hiểu về ông nhà văn Xuân Đức này rồi, tôi càng không hiểu vì sao ông ta lại có thể viết một bài với quá nhiều chi tiết hàm hồ trên một tờ báo tương đối có tầm cỡ về chính trị như tờ Văn nghệ. 
Có một số bạn bè quen hỏi tôi, Sao cậu "mũ ni che tai dzị"? Sao bọn tớ thấy cậu cứ thơ thẩn với hình bóng em này em khác, khóc thương than thở cho những mối tình mà chỉ có cậu mới biết là có thiệt hay không? Cậu toàn viết những gì dính dáng tới cá nhân mình. Cậu nghĩ cậu có còn  xứng với chức danh một người cầm bút hay không?... Sao cậu không lên tiếng cùng với muôn người về Hoàng Sa, về nhân quyền, về bao bất công trong xã hội hiện nay?....
Có rất nhiều câu hỏi như thế. Và hôm nay, tôi xin trả lời một lần dứt khoát. Đừng có anh chị em nào, nếu chúng ta từng quen biết nhau, dù chưa tường tận về nhau, hỏi tôi những câu hỏi như thế nữa. "I don't know, don't know, so don't ask me why." Tôi khoái bài La Seine có lẽ vì giai điệu, vì tiết tấu, vì giọng hát của V. Paradis. Nhưng trên hết, tôi yêu nó chính vì mỗi một câu này: "I don't know, don't know, so don't ask me why." Một câu mà tôi vẫn ngấu nghiến nhâm nhi trong đầu khi có người đặt cho tôi câu hỏi này câu hỏi nọ. Bạn có lý tưởng của bạn. Cứ sống với lý tưởng đó đi. Nhưng nếu bạn không có tới một trăm gờ ram lý tưởng nào hết, nhưng vì xu thời, vì muốn lòe bịp thiên hạ (Khi bạn có chút danh vọng cỏn con và không đủ khả năng duy trì nó bằng tài năng mà nhờ đó bạn được đời biết đến nên phải "chuyển vùng" để còn được người ta nhắc tới, và bạn lấy thế  làm vinh hạnh, khoan khoái biết bao!) mà bạn phải lên gân lên cốt, thì OK,  bạn cứ sống theo kiểu bạn. Nhưng đừng gieo nọc độc lên tâm hồn của những người thơ dại. 
Tôi từng là một người thơ dại. Nọc độc của "thứ lý tưởng của những kẻ không hề có chút lý tưởng nào trừ lý tưởng danh lợi" mà tôi nhiễm phải, tôi đã phải rửa sạch nó bằng máu, bằng nước mắt của mình, trong từng ngày, cho tới tận hôm nay.
Tôi yêu nước Việt. Nếu cần, tôi sẽ lấy thân tôi đền nợ nước. Nhưng tôi thề với lòng mình, tôi chỉ chết vì TỔ QUỐC của tôi, theo cách của tôi, tôi không muốn là vật tế thần của bất kỳ một ai nữa, dù kẻ đó có nhân danh mọi điều tốt đẹp cao cả nhất trên đời.


Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

Nghe bài nhạc phim The Seine and I





Chiều nay tôi tình cờ xem một bộ phim 3D -- A Monster in Paris (tựa Pháp Un Monstre à Paris); và nghe được một bài hát mà tôi mê tít thò lò ngay từ phiên khúc đầu tiên. Chỉ tiếc một điều là bật TV rất ngẫu nhiên nên tôi chỉ xem được một phần phim, nhưng cũng thật may vì đã nghe được bài ca La Sein and I. Ca từ giản dị nhưng sâu lắng, giai điệu cũng rất giản dị, vậy mà toàn bộ bài ca không có chỗ nào chê được. Bài hát khiến hồn tôi dịu lại những buồn lo. Có lẽ nếu chỉ lắng nghe thôi, không nhìn hình ảnh trong phim, không bị chi phối với những hình ảnh khác, người nghe (ít nhất là tôi) sẽ cảm thụ được bài ca này nhiều hơn nữa.
Một lần nữa, thực tế chứng minh rằng cái đẹp trong nghệ thuật có thể cực kỳ giản dị. Hay nói một cách đao to búa lớn, sự giản dị khi đạt tới độ hoàn mỹ của nó chính là đỉnh cao nghệ thuật.
Nãy giờ lò mò trên google để tìm nghe lại, tôi lại nhặt được một thêm một version tiếng Pháp của bài ca này. Xin nói thêm, nữ ca sĩ hát bài này là Vanessa Paradis, một cô bé mà tôi mê mẩn giọng hát hồi thời nàng mới lớn, với những bài hát và bộ phim như Joe le Taxi, Noce Blanche, Walk On The Wild Side… Xem báo nghe nói mấy năm gần đây nàng xuống dốc thê thảm, tôi thấy buồn và thầm tiếc cho nàng. Nhưng nghe giọng hát trong cuốn phim mới phát hành năm 2011 này, giọng của Paradis vẫn còn trong vắt, thiên thần nhỏ vẫn còn hiện diện đâu đó trong giọng ca tiếng hát. Mừng thay.
Phim hay, nhạc hay, không chỉ riêng bài La Seine and I, nhưng tôi yêu nhất bài ca này.
Xin mời các bạn click hai links dưới đây để thưởng thức bài ca rất đáng yêu này.



(Vanessa Paradis & Sean Lennon)
 
 
She's resplendent, 

So confident
La Seine, La Seine, La Seine
 

I realize 
I'm hypnotized
La Seine, La Seine, La Seine

I hear the moon 
Singing a tune
La Seine, La Seine, La Seine
 

Is she devine? 
Is it the wine?
La Seine, La Seine, La Seine

[Chorus]

I don't know, don't know, 
So don't ask me why
That's how we are, 

The Seine and I
 

I don't know, don't know, 
So don't ask me why
That's how we are, 

The Seine and I

I feel alive 

When I'm beside
La Seine, La Seine, La Seine
 

From this angle 
Like an angel
La Seine, La Seine, La Seine

[Chorus]

I don't know, don't know, 
So don't ask me why
That's how we are, 

The Seine and I
 

I don't know, don't know, 
so don't ask me why
That's how we are, 

The Seine and I

Upon the bridge
My heart does beat
Between the waves
We will be saved
The air we breathe
Can you believe?
Learn to forgive 

Upon the bridge

That's how we are, the Seine and I

That's how we are, the Seine and I

That's how we are, the Seine and I

That's how we are, the Seine and I




(Vanessa Paradis  & Matthieu Chédid)

Elle sort de son lit
Tellement sur d'elle
La Seine, La Seine, La Seine
 

Tellement jolie 
Elle m'ensorcelle
La Seine, La Seine, La Seine

Extralucide 
La lune est sur
La Seine, La Seine, La Seine
 

Tu n'es pas saoul, 
Paris est sous
La Seine, La Seine, La Seine

(refrain)

Je ne sais, ne sais, 

Ne sais pas pourquoi
On s'aime comme ça, 

La Seine et moi
 

Je ne sais, ne sais, 
Ne sais pas pourquoi
On s'aime comme ça 

La Seine et moi

Extra lucille 

Quand tu es sur
La Seine, La Seine, La Seine
 

Extravagante 
Quand l'ange est sur
la Seine, la Seine, la Seine


Je ne sais, ne sais, 
Ne sais pas pourquoi
On s'aime comme ça, 

La Seine et moi

Je ne sais, ne sais, 
Ne sais pas pourquoi
On s'aime comme ça, 

La Seine et moi

(refrain)

Sur le pont des arts
Mon coeur vacille
Entre deux eaux
L'air est si bon

Cet air si pur
Je le respire
Nos reflets perchés
Sur ce pont

On s'aime comme ça 

La Seine et moi


[These are La Seine Lyrics on http://www.lyricsmania.com/]

Thứ Tư, 17 tháng 7, 2013

Ký sự đi Mỹ của Vũ Quốc Hùng - Kỳ 2 (có bổ sung)

KÝ SỰ TỚI MỸ
Vũ Quốc Hùng
(tiếp theo) 


 Chị Dung…. sport.




Chị Dung, Hồng Anh và tôi chuẩn bị…. ra núi.


A. Khánh, C. Dung, chú H. Anh và tôi sắp sửa đi… .tìm cái đẹp.


Chị Dung và chị Khánh Tâm cười. cầu an.

Mỗi cabin chứa khoảng vài chục người bên trong, nó được kết nối với đường cáp treo kéo dài lên đỉnh núi ở mỗi chặng. Tới lưng chừng núi nhìn xung quanh là những mảng núi đá lởm chởm, khô cằn còn ở những khe núi một vải mảng cây xanh trải dài, mọc rải rác như làm cảnh.
Từ  đỉnh núi với một độ cao chưa bao giờ tôi lường đến, tôi nhìn phía dưới chân núi ở tít xa là khu dân cư thành phố  bé tí tẹo dán chặt trên mặt đất nhưng tôi không hề có cảm giác rờn rợn trong người như mọi khi đứng trên cao nhìn xuống.Trên dỉnh núi có nhiều sảnh rộng lớn phục vụ cho khách nghỉ ngơi, ăn uống. Khá đông người qua lại với chiếc máy ảnh cầm tay và tỏa đi các nơi khám phá di sản thiên nhiên, có lẽ đây là chỗ cao nhất ở các rặng dăy núi bao quanh. Ở một nơi khác chắc là nơi cao nhất ở đỉnh núi này, có hàng rào lưới thép bao quanh, mọi người tha hồ nhìn ngắm mải mê những bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ riêng biệt không giống ở bất cứ nơi đâu. Và mọi người không thể quên chụp hình, quay phim. Những cây thông và các loại cây khác mọc vươn cao, cành lá sum sê hòa lẫn với những mỏm đá lớn nhỏ khắp nơi như được bào nhẵn, cháu Kevin thích chạy nhẩy trên đá và chụp hình. Nhiều tấm ảnh ghi dấu ấn “con người với thiên nhiên” thật tuyệt vời, tôi bỗng thấy một khóm hoa vàng rực mọc trong đá, nó nở chùm đơn dại, phất phơ trong cơn gió lạnh chiều về khiến tôi cảm xúc khôn tả.


Khóm hoa vàng rực mọc trong đá…. là hàng độc ở đây.





Một dạng cây thông thuộc “thế hệ sau”  vươn lên trong triền đá.


Chaùu Kevin cười với chính mình và suy tö –“ hoûi ñaù xanh reâu bao nhieâu tuoåi ñôøi”, “hỏi gió phiêu du qua bao đỉnh trời”. Cái này chắc chú Hùng gán ghép cho Kevin quá; Cứ vậy đi nhé;

Nơi đây, thủa hoang sơ có dàn báo trắng và loài sơn dương sinh sống theo luật sinh tồn từng vùng nhưng hiện giờ chỉ còn hình mẫu biểu cảm trong lồng kính ở một sảnh ăn uống . Và cảnh thiên nhiên kỳ bí, sơ khai chợt tới khi bóng chiều tà đổ về cùng những cơn gió thổi mát lạnh. Chúng tôi cảm thấy quá đã với khung cảnh thiên nhiên ở đây trong một độ cao không tưởng, và thầm phục đầu óc tư duy tầm xa của nhũng người yêu thiên nhiên tạo nên khu du lịch này. Chúng tôi thấy sướng rên người vì được “lên đỉnh”.


Chuù H. Anh, chò Dung vaø chaùu Tuaán đang tìm….“Bóng chiều tà”


Anh Khaùnh quay phim… người đẹp, chò Dung vaø chuù Hoàng Anh tìm… cảnh đẹp


Chú sơn dương mê mẩn những quả thông nhưng đôi mắt vẫn cảnh giác những hiểm họa.


Chú báo nổi bật với cặp mắt cú vọ và những móng vuốt hai chân trước chuẩn bị... vồ mồi.

Mỗi cảnh quan mới lạ đều có mỗi niềm thú vị riêng nhưng với tôi “hơn cả thú vị” là có những người thân du hành cùng chuyến, nhớ 3 chị em (chị Dung, chị Hai, Hồng) hay trò chuyện cùng nhau trên núi nhưng chưa thành cái chợ, còn khi chụp hình thì cười toe như thể 3 người đang yêu đời lắm vậy. Anh Khánh quay phim, chụp hình nhiều nhất ở đây với tình cảm số một la mã, anh nói chuyện và xăng xái tới lui như chưa hề biết mệt mỏi hay bệnh tật. Chị Hai Khánh vẫn hiền hòa như thuở nào, cũng cùng nhịp với a. Khánh quan tâm đến mọi người. Cháu Tuấn thì ít nói cứ thủ thỉ với thằng em Kevin rồi cười không thành tiếng. Chú Hồng Anh thì như đầu tàu du hành dn chúng tôi đi từ không gian này đến không gian khác, từ thú vị này đến thú vị khác, chú quả là năng động nhất nhà. Hồng thì hay cười làm duyên, nói chuyện không  đụng chạm đến ai. Chị Dung cũng rất thể thao khi đi đây đi đó và hay nói chuyện. Còn tôi thì nói với mọi người bằng đôi mắt với tình cảm thân thương nhất.
Ở Việt Nam chưa bao giờ tôi được lên núi, cho dẫu một cái núi nhỏ bé nhất ở miền Nam như núi Bửu Long – Biên Hòa hoặc núi Thất Sơn – Châu Đốc, còn núi Lớn, núi Nhỏ ở Vũng Tàu đã “bê tông hóa” nên không kể. Thế nên chuyện lên núi ở San Jacinto với chút lời kể và hình ảnh đã làm tôi mãn nguyện vô cùng. Cám ơn các anh em rất nhiều.
ĐI  BẮN  SÚNG    NÚI  LOS ANGELES
Cháu Long rủ tôi lên núi bắn súng vì nghĩ tôi ở nhà buồn, sau một lúc do dự tôi quyết định đi cho biết nơi bắn súng và bắn như thế nào? Xe chạy một lúc lâu đến một nơi có vài khu nhà rải rác rồi theo đường quanh co lên xuống tới những hàng cây bóng mát.


Đường tới điểm bắn súng quanh co diệu vợi.

  
Văn phòng có bảng hiệu “Angeles Shooting Range”, sau khi mua vé, hai chú cháu được đóng mộc 5 dấu tròn nhỏ màu xanh và ngôi sao trên mu bàn tay có lẽ để phân biệt người chơi. Chúng tôi vào sân bãi không quên mang theo một túi “hàng nóng” cùng nhiều hộp đạn, sân bắn là một hành lang dài có mái che chia ra hai nơi. Chỗ bắn loại súng dài (M.16…) có thể nằm hoặc ngồi trên bàn cố định để nhắm bắn vào bia, chỗ bắn loại súng ngắn (cold 45…) thì với tư thế đứng. Bãi bia trước mặt là khu đất rộng hơi bằng phẳng dược đặt những hàng dãy bia bằng thép với hình thù các loại thú rừng theo khoảng cách gần xa tới tận chân núi. Cháu Long hướng dẫn tôi cách lắp từng viên đạn vào ổ, mở chốt an toàn, nhắm mục tiêu và bắn với hai loại súng cùng đạn thật. Phải đeo tai chụp chống ồn, nếu viên dạn trúng bia sẽ nghe âm thanh sắc gọn còn trật thì sẽ thấy chút bụi đất bốc lên rồi tan biến. Nhìn mọi người bắn trong đó có cả nữ, khuôn mặt ai nấy đều mang nét điềm tĩnh, từ tốn khác lạ chứ không say máu bắn chậm thì chết. Thêm cảm giác mới thật thú vị với… bia và súng đạn. Phần lớn những người đến đây chơi là cựu chiến binh, dân thể thao còn một ít thuộc loại nghiệp dư như… tôi. Cháu Long của tôi cũng là một tay bắn súng thuộc loại cừ đấy nhé;


Sân bắn với hành lang dài cùng nhiều bệ bắn.


Cháu Long nhìn rất chuyên nghiệp


V. Hùng đang bắn… quan tham trong trí tưởng.
Bao nhiêu vỏ đạn là bấy nhiêu thằng.


Bia theo cấp độ chuyên nghiệp của từng xạ thủ.


Cháu Long đang nhắm bắn mục tiêu


Bia hình thú đủ loại chỉ bằng thép vô tri.


V. Hùng bắn súng cold với cánh tay nghiệp dư nhưng đủ dể giết… quan ngu dốt, hống hách.


Cháu Long như đặc vụ C.I.A đang tập bắn.
Tiếp xúc với súng đạn, tôi lại nhớ về anh Thanh cùng bài hát “Cho một người nằm xuống” của Trịnh Công Sơn và mong từ lâu anh đã “thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang”.
 
THĂM HÀNG KHÔNG MẪU HẠM USS MIDWAY
 

Một ngày cuối tuần, gia đình anh Khánh dẫn tôi đi thăm Hàng không mẫu hạm MidWay ở vịnh San Diego. Từ xa đã thấy con tàu cao ngất ngưởng ở bến với lá cờ tung bay. Bước vào khoảng sân rộng, nổi bật lên là bức tượng cao lớn nổi tiếng “Chàng thủy thủ ôm hôn nàng y tá”, và còn có tên “Nụ hôn trên Quảng trường Thời đại”, với dáng điệu chan chứa tình cảm và duyên dáng. Một biểu trưng cho sự tuôn trào tình cảm và biểu tượng cho ngày chiến thắng phát xít Đức.


 Cháu Tuấn và Kevin đứng.. dưới váy. Đừng buồn nhé; Thấy sao nói vậy.

Bố Khánh và chú Hùng cũng đứng… .dưới váy. Có sao đâu nhỉ;

Xếp hàng mua vé 18$/người vào thăm USS Midway, con tàu này đã từng tham gia 2 cuộc chiến: chiến tranh Việt Nam và cuộc chiến vùng Vịnh “Bão cát sa mạc” năm 1991. Sau cuộc hải trình 47 năm (1945-1992) USS Midway ngưng lướt sóng và trở thành nơi du khách tham quan.







Chị Hai Khánh quay phim, cháu Tuấn và Kevin

Anh Khánh muốn bay cùng tiêm kích.

Một loại thứ dữ.

Chị Khánh Tâm và cháu Tuấn

Bên trong trưng bày một số mô hình: máy bay, sơ đồ, phim tư liệu, tourbin cánh quạt máy bay mọi người tản mạn ra khắp nơi tìm hiểu, quan sát. Lên boong mặt sàn, các loại máy bay thời chiến như trực thăng, máy bay tiếp nhiên liệu, trinh sát, y tế cùng phản lực tiêm kích đậu thành một đường cung. Số du khách đi khá đông theo từng nhóm, ai cũng quay phim, chụp hình đến… nóng máy, hết anh Khánh quay phim, chị Hai chụp hình rồi đổi lại anh chụp chị quay nhóm Tuấn, Kevin và tôi. Thật là vui nhưng thiếu cháu Bích Ngọc. Sau khi chán chê nhìn ngắm, đoàn người xếp hàng đi qua những cầu thang gấp khúc và lên nhiều tầng để tới dài chỉ huy. Mọi người được nghe thuyết minh nhưng riêng tôi lẻn ra sau đứng nhìn xung quanh vì có nghe cũng chẳng hiểu gì cả. Những lõi dây điện thông tin bò ngang dọc, tràn đầy trên nóc phòng chỉ huy, nhiều mặt kiếng kèm kim đồng hồ chỉ thông số trải dài trong phòng như đánh đố nhiều người. Tôi phóng tầm mắt xuống mặt sân bay và xung quanh, mọi vật trông rất rõ ràng nếu thêm cái ống nhòm nữa là hết sẩy. Còn các phòng làm việc của xếp, kỹ sư, nhân viên hoặc phòng ngủ, phòng bếp của trên 1000 người tôi chưa thể đến thăm được.


Chụp từ đài chỉ huy.

 Chụp từ đài chỉ huy

 Ảnh chụp từ con tàu USS MIDWAY




Quả là vượt sức tưởng tượng của người bình thường. Con tàu khổng lồ chỉ toàn sắt là sắt (trọng tải 69.000 tấn) mà tất cả được thiết kế, vận hành hiệu quả theo các chuyên gia kỹ thuật thời đó thì thật là phi thường. Tôi lại liên tưởng tới những  con tàu ngầm to lớn đang hoạt dộng trong đại dương và những con thuyền bay vào vũ trụ với mục đích gì đó đều khiến mọi người nể phục.
Ở thành phố San Diego chúng tôi thăm di tích cổ của Mexico – Casa del Pravo 1650 El Prado. Vào thế kỷ 17 các công trình xây dựng như nhà cửa, lâu đài, cổng vòm với hành lang rộng lớn đều mang những nét trang trí họa tiết của nghệ nhân Mexico, cảnh quan kiến trúc hài hòa trong một diện tích khá rộng. Chúng tôi tới Nhà Bảo Tàng San Diego Muset M of Art và chụp hình các khu vực chung quanh.

















Gần đó, chúng tôi tản bộ vào khu công viên rộng lớn, một khoảng đất trồng nhiều cây bông hồng sát bên là hồ nước, chỗ kia rất nhiều loại cây xương rồng: có cây hình tròn lớn nhỏ nằm sát mặt đất, gai mọc tua tủa,có cây mọc cao đứng thành từng khóm, có cây vươn cao mang hình dáng lạ với các nhánh uốn lượn như rắn. Tôi chợt thấy một bọng cây to như có ai khoét rỗng ruột nhưng phía trên cành lá xanh tươi, thấy ngồ ngộ chúng tôi đứng vào bọng cây rồi chụp hình cười khoái tỉ.Từ đây nhìn xuống là đường xa lộ nhỏ xíu ở bên dưới, không ngờ nơi đây có độ cao đến vậy.

 Khu vườn hồng trong công viên


 Cây xương rồng múa điệu… sampa






Chị Khánh Tâm

 Anh Khánh trước bọng cây.



Trên đường về nhà ở Garden Grove, chúng tôi ghé thăm nhà anh Khuê (bạn anh Khánh), gia đình hai bên gặp nhau vui vẻ. Khu vườn sau nhà trồng đủ loại cây hoa kiểng, một hòn non bộ khá lớn do chủ gia tự tạo trông thật đẹp mắt. Một bữa tiệc nhỏ được soạn ra nhanh chóng, trong những mẩu chuyện tán gẫu tưởng chừng không hề dứt, chúng tôi cụng ly và ăn uống ngon miệng. Rồi cũng tới giờ chia tay, tôi rất cảm động vì tình cảm bạn bè lâu năm gặp lại mà vẫn chân tình như thuở nào. Cám ơn gia đình anh Khuê nhiều nhé.

 Anh Khánh, anh Khuê…. quá xá là zui.

Anh Khánh, a. Khuê và V. Hùng

 Anh Khuê và tôi.trong lời cuối chia tay.

Trên đường về Garden Grove

THĂM  KHU  CHỢ  TRỜI    MỸ
Anh Khánh dẫn tôi tới khu chợ trời ở Cali để biết nó khác so với Việt Nam như thế nào; Đây là mảnh đất rộng, nhiều gian hàng được dàn dựng có mái che đơn giản có thể tháo dỡ được, mỗi gian rộng gấp 2,3 lần so với quầy hàng ở VN, phía trước đường lộ chính có những hàng cây bóng mát cao to và là chỗ nghỉ chân, hóng mát lý tưởng. Trong khu chợ trời nắng nóng cả người, hàng hóa trưng bày đa dạng bán những đồ dùng thuộc loại “second hand” hoặc hàng mới rẻ tiền như: các loại đồ chơi máy móc, điện tử, cặp da, các đồ vật linh tinhvà có gian hàng bán các chậu phong lan, cây cảnh nữa. Tôi dự định mua hai chậu phong lan chưng ở nhà cho chị Hai thích nhưng anh Khánh ngại tốn tiền nên thôi. Anh Khánh đã mua vài món đồ lặt vặt mang về. Người xem và mua cũng khá nhiều nhưng không ồn ào và xả rác bừa bãi. Hai anh em đi loanh quanh từ gian hàng này đến gian hàng kia để tìm mua vài món vật cần thiết. Đi một hồi, chưa hết chỗ bán hàng thì đã đủ mệt nhoài vì nắng.

 Khu chợ trời với gian hàng phong lan.

 Anh Khánh với cái nắng chói chang ở khu chợ trời.

THĂM  KHU  PHÚC  LỘC  THỌ
 Anh Khánh và hai người bạn của anh ( a. Đức và a….) rủ tôi đi uống café ở khu Phúc Lộc Thọ. Đây là nơi tập trung người Việt sinh sống dông đảo ở quận Cam, Cali, tôi nghe nói khu Phúc Lộc Thọ rộn ràng và đông vui nhất là vào dịp Tết Nguyên Đán với những sinh hoạt thuần túy của cộng đồng người Việt. Vào trong các cửa hàng cũng bình thường, có nhiều gian hàng bán nữ trang, các quầy hàng ăn uống. Chúng tôi tới quầy mua café rồi mang ra ngoài sân có mái che, chỗ ngồi, hút thuốc và tán gẫu. Xung quanh là những người Việt lớn tuổi, họ nói chuyện to nhỏ tôi nghe thoáng qua cũng toàn là chuyện quá khứ, chuyện phiếm nhưng khuôn mặt mang vẻ trầm ngâm, suy tư. Việc sinh sống ở Mỹ không phải ai cũng hài lòng và thỏa mãn những ước muốn của mình nên người Việt gặp nhau ở đây cũng là dể trút hết nỗi lòng cùng người đồng hương để chia sẻ cảm thông.
ĐI  HỘI  CHỢ  BAN  ĐÊM
Gia đình anh Khánh, vợ chồng chú Hồng Anh và tôi đi chơi hội chợ ban đêm nơi quận Cam.Tới nơi bãi đỗ xe xếp hàng dàn kín, chúng tôi phải vào tuốt bên trong mới có chỗ đậu. Nổi bật bên góc trái là sàn sân khấu ca nhạc ngoài trời, các ca sĩ nữ ăn mặc đẹp tươi trẻ, hát hò tiếng Việt sôi động và nhẩy múa hấp dẫn, song song và bên trong là các quầy hàng ăn uống và hàng hóa bày bán linh tinh. Chúng tôi đi loanh quanh và ăn uống lấy lệ, riêng tôi thấy cũng bình thường nhưng chẳng hiểu sao vẫn đông nghịt người, có lẽ lâu lâu họ mới tổ chức một lần nên đông vui như vầy. Nơi đây rất trật tự, không ồn ào, tôi chẳng thấy bóng dáng một bảo vệ nào trong khu vực hội chợ. Dù vậy dân “hai ngón” cũng không có đất sống ở đây. Nói tới hội chợ, tôi nhớ về những lần tôi cộng tác tại báo Đại Đoàn Kết với vai trò trong Ban tổ chức “Hàng Việt Nam được ưa thích nhất” cùng nhà báo Lê Viết Dương chủ xị chương trình (từ 1997-2001), mỗi năm hội chợ được tổ chức triển lãm các gian hàng tại Dinh Thống Nhất (Dinh Độc Lập trước 75) tới 5 ngày. Rất nhiều mặt hàng được bày bán như: dệt may, lương thực thực phẩm, kỹ nghệ súc sản, dầu ăn, mỹ phẩm, cao su, nhựa, giầy dép, gạch men, bánh kẹo…   và buổi tối có sân khấu trình diễn thời trang  cùng văn nghệ ca múa nên từng dòng  người vào mua sắm thật đông vui. Chúng tôi điều hành vã cả mồ hôi nhưng không thấy mệt vì quá dã với mục tiêu “Người Việt dùng hàng Việt” đã được bà con hưởng ứng nhiệt liệt.
ĐI  UỐNG  RƯỢU    QUÁN BAR
Một buổi chiều tối, cháu Long rủ tôi đi dạo phố phường trên chiếc xe hơi chạy lòng vòng, ngoài trời mát lạnh nhưng trong xe vẫn xả máy lạnh bình thường. Tới một khu thương mại rộng lớn với nhiều tầng, rất nhiều người qua lại dập dìu, chúng tôi bước vào quán bar khá rộng, ánh sáng màu vừa đủ nhìn mọi vật. Quầy bar gần giữa hình bầu dục chiếm gần 1/3 căn phòng cùng các ghế cao ngồi xung quanh, tủ kính đứng chứa đầy các loại rượu và ly, nhiều người thích ngồi ở quầy để tiện kêu bia, rượu các loại, đồ ăn và tán gẫu hoặc xem trên màn hình trận đấu bóng bầu dục sôi nổi. Thoạt tiên khi ngồi chưa ê mông tại quầy, cô phục vụ hỏi độ tuổi của tôi vì thấy tôi nhỏ con quá đỗi, cháu Long cười rồi trả lời: Chú tôi dư tuổi rồi; visa để ở nhà. Thế là xong. Theo gợi ý tôi uống thư thả 4, 5 loại rượu pha chế khác nhau chứa trong ly thủy tinh cao, tôi cũng cảm nhận được hương vị của mỗi loại mỗi khác, và thấy rất đã đời. Lần đầu tiên thưởng thức nên cũng sương sương niềm hưng phấn, khung cảnh có nam thanh nữ tú nhưng không ồn ã náo động như tôi tưởng, tiếng âm thanh, tiếng trò chuyện vừa đủ nghe như những người có văn hóa đúng mực. Lang thang vòng qua những sảnh khác, không khí lạnh về đêm ùa về, vài quán bia, rượu dọc lối đi ở ngoài hiên có lò sưởi phun hơi nóng như sương từ cột đèn trang trí đẹp mắt tỏa xuống nơi chổ ngồi. Hai chú cháu tấp vào, uống thêm một chút men cay trong một khúc tâm tình, trong một khung cảnh thú vị và tuyệt vời. Cám ơn cháu Long nhiều nhé.
ĐI  UỐNG  CAFÉ  THOÁNG  MÁT
Vào buổi sáng cuối tuần, anh Tâm ghé nhà rủ tôi và anh Khánh đi uống café và ăn sáng. Đây là quán café của người Việt với kiểu trang trí quán và bàn ghế đơn giản, phía phải là quầy, sau đó là gian bếp với lửa, hơi nóng. Tôi hơi giật mình vì lần đầu tiên thấy các em phục vụ ăn mặc rất mát mẻ với đồ nội y, đương nhiên thì đẹp hơn bộ bikini ở bải biển. Các vòng 1, 2, 3 đều tương xứng với dáng dấp gần như người mẫu, cộng cùng khuôn mặt thanh tú thì các em ở quán này cũng được gọi là người đẹp chân dài đấy; Chúng tôi kêu café theo ý từng người cho tiếp viên nghe, anh Khánh có tuổi nhất lặng lẽ ngồi đọc báo như không màng nhìn ngó người đẹp, anh Tâm và tôi thì tế nhị “khi nào nhìn được thì nhìn” chứ nếu nhìn chăm chăm thì bất lịch sự. Tôi chỉ nghĩ, đây là chiêu kinh doanh để thu hút khách hàng vì đố ai dám đụng chạm đến người đẹp. Tôi lại nhớ đến quyển truyện “Bức họa Maja khỏa thân”, nội dung thể hiện tâm hồn không dục vọng, biết tôn trọng và tôn vinh vẻ đẹp mà Thượng đế đã ban cho người phụ nữ.

ĐI  MASSA  TOÀN  THÂN

Chị Dung dẫn tôi đi massage body ở một tiệm người Hàn quốc, chỗ này nằm trên lầu của trung tâm thương mại rộng lớn với nhiều cửa hàng ở quận Cam. Có lẽ chúng tôi là người mở hàng đầu tiên vì mới hơn 9 giờ sáng, bên trong thì không có khách hàng nào. Đầu tiên tôi phải tắm rửa dưới vòi sen cho bớt bụi trần rồi bước xuống một hồ nước ấm, ngâm mình khoảng 30 phút trong lúc đùa giỡn với massage thủy lực. Theo chỉ dẫn của phục vụ nam người Hàn to khỏe, tôi bước lên nằm dài trên tấm nệm da vẫn trong tình trạng thoát y. Anh chàng lẳng lặng xối vài xô nước trên người tôi rồi bắt đầu chà khô bằng đôi tay có găng. Từ cổ, cánh tay, bàn tay, kẽ tay, mình mẩy rồi đến đùi và chân, tất cả được anh ta chà mạnh nhưng không gây đau. Thi thoảng anh lại xối vài xô nước cho sạch những chỗ vừa kỳ cọ xong, nằm ngửa hoặc nằm úp cũng thế. Đến phần chà ướt bằng kem xà phòng thì việc dội nước được kỹ càng hơn ở từng công đoạn. Hai người chẳng ai nói với nhau câu nào vì trong bụng nghĩ thầm nếu có nói thì chắc không ai hiểu ai. Tiếp đến tôi vào phòng xông hơi khô (sauna) ngồi đến vã mồ hôi, lau khô người. Tôi lại vào phòng xông hơi ướt (steambath) một lúc nữa. Sau cùng tôi tắm nhanh lại dưới vòi sen với xà bông thơm rồi ra về không quên nói câu ”thank you”. Giá cả là 40$ cộng thêm tiền típ 10$, so với VN là hết bạc triệu đấy. Cám ơn chị Dung nhé;
Ra ngoài trời, tôi có cảm giác chưa bao giờ mình được “sạch sẽ” toàn thân như ngày hôm nay. Người tôi như nhẹ hơn, mát mẻ hơn và da tôi như mỏng, mịn màng hơn. Và tôi như yêu đời hơn.
 (có lẽ còn tiếp vì anh Hùng ở Mỹ tới 2 tháng, đi nhiều chỗ; nhưng hơi lâu, vì vận cả 12 thành công lực ảnh mới viết được tới đây :))