Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2020

GIỚI THIỆU TESS - MỘT TÂM HỒN TRONG TRẮNG VÀ TRÍCH BỐN CHƯƠNG ĐẦU


Bản in toàn tập sẽ được xuất bản trong năm 2020



Thomas Hardy







TESS
Một tâm hồn trong trắng


Nguyễn Thành Nhân dịch



Dịch từ nguyên bản tiếng Anh
Tess of the d’Urbervilles – A Pure Woman Faithfully Presented
Của Thomas Hardy
Dịch giả giữ bản quyền bản tiếng Việt


   
GIỚI THIỆU

Dù không được xếp hạng trong danh mục 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất mọi thời như Jude- Kẻ vô danh – vốn đẩy những phê phán xã hội và tôn giáo của Thomas Hardy lên đến đỉnh điểm, và tạo nên nhiều phê phán tiêu cực đến độ ông dứt khoát từ bỏ văn xuôi và chuyển sang sáng tác thơ cho đến cuối đời – Tess, một tâm hồn trong trắng vẫn được khẳng nhận rộng rãi là một trong số các kiệt tác của ông.
 Có thể nhấn mạnh một điểm đặc biệt khác ở Tess: trong số 14 tiểu thuyết của Hardy, nó là tác phẩm được độc giả thuộc mọi tầng lớp yêu thích nhiều nhất, ngay từ thời điểm được công bố lần đầu, dù có những chỉ trích gay gắt về chủ đề tư tưởng từ phía các nhà phê bình cực đoan, cho tới tận hôm nay. Và các tác phẩm chuyển thể từ Tess sang sân khấu, điện ảnh lên đến một số lượng đáng ngạc nhiên so với các tiểu thuyết khác của ông. Về sân khấu, có tổng cộng tám vở kịch hoặc ca nhạc kịch (opera) của các tác giả khác nhau được trình diễn nhiều lần trên các sân khấu lớn ở London, New York, Stratfort-upon-Avon (quê hương của Shakespeare). Về điện ảnh, có 7 phim màn ảnh rộng (công chiếu lần đầu vào các năm 1913, 1924, 1967, 1979, 2000, 2011, 2013); 4 phim truyền hình (1952, 1960, 1998, 2008), trong đó tôi đã được xem hai phiên bản: năm 1998, do London Weekend Television sản xuất, đạo diễn Ian Sharp, với các diễn viên chính Justine Waddell (Tess), Jason Flemyng (Alec), và Oliver Milburn (Angel); và năm 2008, do BBC sản xuất, đạo diễn David Blair, các diễn viên chính Gemma Artenton (Tess), Hans Matheson (Alec), Eddie Redmayne (Angel); cả hai phiên bản có những ưu điểm và khuyết điểm khác nhau, nhưng nhìn chung đều thể hiện được khá chính xác tính cách của các nhân vật như miêu tả của Thomas Hardy.[1]

Vì sao như vậy, bạn đọc sẽ đặt câu hỏi. Và tôi xin được trả lời vắn tắt: so với Eustacia xinh đẹp theo kiểu hoang dã, có nhiều tham vọng vật chất trong Trở lại cố hương, và Sue xinh đẹp theo kiểu trí thức, tính nết thất thường, với những quan điểm về tôn giáo, đạo đức, hôn nhân cực kỳ mâu thuẫn trong Jude – Kẻ vô danh, Tess Durbeyfield chỉ là một nàng thôn nữ, học hết lớp sáu trường làng. Nàng xinh đẹp một cách dân dã, như một đóa hoa đồng nội. Cả ba nhân vật nữ trong ba tiểu thuyết này đều có số phận không may: Eustacia tự sát; Sue bị mất ba đứa con và sống một cuộc đời tàn tạ héo hon với Philoston; nhưng số phận của Tess còn thảm thương hơn: nàng bị tử hình bằng cách treo cổ do đâm chết Alec. Số phận của nàng đen tối đến mức cùng cực như vậy, dù nàng chỉ có những mơ ước rất tầm thường, nhỏ nhoi, rất con người: có một người chồng mà mình yêu và yêu mình, sống một cuộc sống vừa đủ, sẵn sàng làm bất cứ công việc chân tay vất vả nào. Mặt khác, nàng là một thiếu nữ, và sau là một  phụ nữ có tâm hồn hoàn toàn trong trắng dịu hiền, nhưng  lại bị Alec, một điền chủ trẻ tuổi, phóng đãng quyến rũ và hãm hiếp từ năm nàng mới mười sáu tuổi, rồi sau đó lại dùng sức mạnh vật chất để chi phối, nhằm mục đích sở hữu nàng như sở hữu một món đồ chơi ưa thích lần nữa, khi nàng đã kết hôn với Angel, nhưng hai vợ chồng đang sống xa nhau. (Nàng đã thú nhận với chồng quá khứ của mình vào đêm tân hôn. Do quan niệm quá cứng nhắc về trinh tiết và nghĩ rằng mình bị lừa, Angel đã rời nước Anh sang Brazil để lập nghiệp với tư cách một chủ nông trại, cũng để chờ thời gian lắng lại để suy nghĩ  kỹ hơn về mối quan hệ của vợ chồng anh.)

Ở tựa sách nguyên bản, ngoài tựa chính Tess of the D’Urbervilles, Thomas Harsy chủ tâm đưa thêm một tiểu tựa: A Pure Woman Faithfully Presented, chính là muốn nhấn mạnh đặc tính trong trắng thuần khiết này của Tess. Một nữ nhân vật đáng yêu và đáng thương như vậy, đương nhiên sẽ đi vào lòng người đọc, và khơi gợi ở họ những cảm xúc thật sự khó quên.

Tess còn đáng yêu ở nhiều điểm khác: nàng yêu thiên nhiên, yêu cỏ cây hoa lá trong môi trường xung quanh, yêu các loài động vật nhỏ bé, yếu ớt và vô phương tự vệ như nàng.
Thông qua Tess, Thomas Hardy đã thẳng thắn phê phán những quan niệm cổ hủ và cứng nhắc về tín ngưỡng, đạo đức trong tình yêu và hôn nhân của thời kỳ Victorian. Chính vì lẽ đó mà khi nó được công bố lần đầu vào năm 1891 dưới hình thức đăng nhiều kỳ trên tờ họa báo The Graphic và sau đó xuất bản dưới hình thức sách (ba tập) cũng trong năm 1891, nó đã bị chỉ trích kịch liệt.

Một tác phẩm lớn đương nhiên sẽ có nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau, từ nhiều góc độ. Ở phần giới thiệu này, tôi xin không nêu tóm tắt cốt truyện vì như thế sẽ rất dài dòng, không cần thiết; cũng không đưa ra những phân tích sâu về chủ đề hay về tính cách của các nhân vật, vì mong muốn độc giả sẽ là người tự có những nhận định của chính mình sau khi đọc tác phẩm. Chỉ xin đưa ra một nhận định nhiều cảm xúc của tôi với tư cách một người đọc, và một người dịch: Khi đọc về những cuộc đời, những con người có tâm hồn mộc mạc, thiện lương, với những mơ ước đơn sơ bình dị lại gặp toàn tai ương, hoạn nạn, một mặt chúng ta xót thương, đồng cảm với họ, mặt khác, chúng ta mơ ước một xã hội trong đó những bi kịch đó không còn tái diễn. Có lẽ đó cũng là ước mơ hoài vọng của tác giả khi viết tác phẩm này.

Sài Gòn, tháng 01/2020
Nguyễn Thành Nhân



Phần một:

Trinh nữ

Chương 1 – Chương 11


  
Chương 1


Vào một xế chiều cuối tháng Năm, một người đàn ông trung niên đang từ Shaston đi bộ trở về nhà. Ông ở thôn Marlott, nằm tiếp giáp với Thung lũng Blakemore, hoặc Blackmoor. Đôi chân của ông yếu ớt, và dáng đi của ông có xu hướng hơi nghiêng sang trái. Thỉnh thoảng ông lại gật đầu, như thể xác nhận một ý nghĩ nào đó, dù ông không hề nghĩ tới một điều gì cụ thể. Ông móc lủng lẳng trên tay một cái giỏ đựng trứng trống rỗng, đội một cái mũ nỉ đã sờn,  vành mũ bị rách toạc một mảng to và ông đưa ngón cái lên để giật nó ra. Đúng lúc đó ông nhìn thấy một vị cha xứ lớn tuổi ngồi vắt vẻo trên lưng một con lừa xám, miệng đang ngâm nga một khúc du ca.
“Chúc buổi tối tốt lành.” Ông cất tiếng chào.
“Chúc buổi tối tốt lành, Ngài John.” Vị cha xứ đáp lễ.
Kẻ bộ hành bước thêm một hai bước nữa, rồi dừng chân và quay lại.
“Xin thứ lỗi, thưa ông; chúng ta đã gặp nhau vào phiên chợ lần trước trên con đường này, cũng vào khoảng giờ này, tôi đã nói ‘Chúc buổi tối tốt lành,’ và ông cũng đáp lại ‘Chúc buổi tốt tốt lành, Ngài John,’ như hiện giờ.”
“Đúng thế.” Vị cha xứ đáp.
“Và một lần trước đó nữa, gần một tháng trước.”
“Có lẽ tôi đã chào như thế.”
“Vậy ý của ông là gì khi gọi tôi là ‘Ngài John’ trong những lần này, khi tôi chỉ là Jack Durbeyfield, một người bán dạo quê mùa?”
Vị cha xứ giục lừa tới gần hơn.
“Đó chỉ là sở thích nhất thời của tôi.” Ông đáp; và nói thêm sau giây lát ngần ngừ: “Cách đây ít lâu tôi phát hiện ra một việc, trong lúc đang săn lùng những phả hệ cho một cuốn sách lịch sử mới của hạt. Tôi là cha xứ Tringham, nhà khảo cổ, ở làng Stagfoot Lane. Durbeyfield, chẳng lẽ ông thật sự không biết rằng ông là đại diện của dòng tộc hiệp sĩ cổ xưa d'Urbervilles, vốn là hậu duệ của Ngài Pagan d'Urberville, vị hiệp sĩ lừng danh đến từ Normandy cùng với William Kẻ Chinh phục, như được ghi trong Văn kiện của Tu viện Battle[2] hay sao?”
“Chưa bao giờ nghe nói tới nó, thưa ông!”
“Vâng, đúng thế đó. Hãy ngẩng cằm ông lên giây lát, để tôi có thể ngắm nét mặt nhìn nghiêng của ông rõ hơn. Phải, đó là cái mũi và cằm của dòng họ d'Urberville, dù hơi kém phẩm chất hơn chút đỉnh. Tổ tiên của ông là một trong mười hai hiệp sĩ của Lãnh chúa xứ Estremavilla ở Normandy trong cuộc chinh phục xứ Glamorganshire. Các nhánh gia tộc của ông có điền trang trên toàn bộ vùng này của nước Anh; tên của họ xuất hiện trong Văn kiện vào thời Vua Stephen. Dưới triều Vua John, một người trong số họ đủ giàu để tặng một điền trang cho các Hiệp sĩ dòng Thánh John, và vào thời của Vua Edward Đệ Nhị, tổ tiên Brian của ông được mời tới Westminster để tham gia Đại hội đồng tại đó. Dòng tộc của ông bị sa sút đôi chút vào thời của Oliver Cromwel[3], nhưng không nghiêm trọng lắm, và dưới triều của Charles Đệ Nhị họ được phong làm Hiệp sĩ Cây Sồi Hoàng gia[4] vì lòng trung thành. Phải, đã có những thế hệ các Ngài John trong số tổ tiên của ông, và nếu tước hiệp sĩ có thể kế thừa như thuở trước, khi cha có thể truyền lại tước hiệu này cho con trai, giờ ông sẽ là Ngài John.”
“Ông đừng nói như thế!”
“Nói tóm lại,” vị cha xứ kết luận, vụt nhẹ roi vào chân mình với vẻ quả quyết, “khó mà có một gia tộc khác như thế ở nước Anh.”
“Một thông tin choáng cả người, phải không?” Durbeyfield đáp. “Và tôi đã lăn lóc từ nơi này sang nơi khác, hết năm này sang năm khác, như thể tôi không hơn gì một gã tiều phu tầm thường nhất trong xứ đạo… Tin tức này về tôi đã được biết từ bao lâu rồi, thưa Cha xứ Tringham?"
Vị cha xứ giải thích rằng, trong chừng mực ông biết, thông tin này đã hoàn toàn tuyệt tích từ lâu, và hầu như không ai biết cả. Những điều tra riêng của ông đã được bắt đầu vào mùa xuân năm ngoái, trong lúc truy tìm dấu tích thăng trầm của gia tộc d'Urberville, ông đã nhìn thấy cái tên Durbeyfield trên cỗ xe ngựa của Jack, và từ đó đã tiến hành những điều tra về cha và ông nội của Jack cho tới khi không còn hồ nghi gì về vấn đề này nữa.
“Thoạt tiên tôi quyết định không quấy rầy ông với một thông tin vô ích như thế.” Ông nói. “Tuy nhiên, đôi khi những thôi thúc quá mạnh mẽ so với lý trí của chúng ta. Tôi nghĩ có lẽ lâu nay ông cũng biết đôi điều gì đó về việc này.”
“Vâng, đúng thế, tôi có nghe nói một hai lần, rằng tổ tiên tôi từng có những ngày tháng tốt đẹp hơn trước khi họ tới Blackmoor. Nhưng tôi không chú ý tới nó, nghĩ rằng nó chỉ có nghĩa rằng chúng tôi từng có thời làm chủ hai con ngựa trong khi bây giờ chỉ có một con. Tôi có một cái muỗng bạc, và một con dấu niêm phong ở nhà; nhưng Lạy Chúa, một cái muỗng và một con dấu là gì chứ?... Và hãy nghĩ rằng tôi và những người cao quý họ d'Urbervilles này luôn có chung huyết thống mà xem. Tôi nghe nói ông cố của tôi có những bí mật, và không muốn nói về xuất xứ của mình… Và, thưa cha xứ, xin đánh bạo hỏi hiện giờ dòng họ d'Urbervilles của chúng tôi sống ở đâu?”
“Không ở đâu cả. Dòng họ của ông đã tuyệt tận, với tư cách một gia tộc từng sống trong hạt suốt nhiều thế hệ.”
“Thế thì tệ thật.”
“Phải, đó là cái mà những biên niên sử gia tộc viết sai sự thật gọi là sự tuyệt tự ở phía bên nội, nghĩa là đã chết, đã xuống mồ hết.”
“Vậy chúng tôi nằm ở đâu?”
“Ở Kingsbere-sub-Greenhill, có hàng hàng lớp lớp tổ tiên ông nằm trong những hầm mộ, với những chân dung khắc bên dưới những mái vòm cẩm thạch Purbeck.”
“Thế các dinh thự và thái ấp của gia tộc chúng tôi ở đâu?”
“Không có bất cứ thứ gì cả.”
“Ồ, cả đất đai cũng không?”
“Không; dù họ từng có thừa thãi, như tôi đã nói, vì gia tộc của ông bao gồm rất nhiều nhánh. Trong hạt này từng có một vùng đất của họ ở Kingsbere, một chỗ khác ở Sherton, một chỗ khác ở Millpond, một chỗ khác ở Lullstead, và một chỗ khác ở Wellbridge.”
“Vậy chúng tôi có khấm khá trở lại được không?”
“Chà, tôi không thể nói được điều đó!”
“Vậy tốt nhất tôi nên làm gì về việc này, thưa ông?” Durbeyfield hỏi, sau một giây im lặng.
“Ồ, không gì cả, không gì cả; ngoại trừ tự kềm chế bản thân với ý nghĩ kẻ quyền quý đã suy sụp thế nào. Đây là một thực tế đáng chú ý với sử gia và nhà phả hệ học địa phương, chỉ thế thôi. Có nhiều gia tộc của những nông dân trong hạt này cũng có gốc tích vẻ vang gần như tương tự. Buổi tối tốt lành.”
“Nhưng ông sẽ quay lại và nhấm nháp một vại bia với tôi chứ, cha xứ Tringham? Có một loại bia rất khá ở quán Giọt Trong Lành, dù chắc chắn nó không ngon bằng ở quán của Rolliver.”
“Không, cám ơn, chiều nay thì không, Durbeyfield. Ông đã uống đủ rồi.” Sau khi kết luận như thế, vị cha xứ giục lừa đi tiếp, hơi băn khoăn với quyết định của mình trong việc tiết lộ thông tin về gia tộc huyền thoại này.
Khi ông ta đã đi khỏi, Durbeyfield đi vài bước nữa trong trạng thái mơ mộng say sưa, rồi ngồi xuống bờ cỏ ven lộ, đặt cái giỏ trước mặt. Vài phút sau, một thiếu niên xuất hiện ở phía xa và đang đi về hướng của ông. Khi nhìn thấy nó, ông giơ tay lên, và nó dấn bước tới gần hơn.
“Cậu bé, hãy cầm cái giỏ này lên! Ta muốn cậu làm giúp ta một việc vặt.”
Thằng bé gầy như que củi cau mày. “John Durbeyfield, ông là ai mà ra lệnh cho tôi và gọi tôi là ‘cậu bé’? Ông biết tên tôi rõ như tôi biết tên ông mà!”
“Vậy sao, vậy sao? Đó là điều bí mật… Đó là điều bí mật! Giờ hãy làm theo lời ta, và đón nhận thông điệp ta sẽ nói với cậu… Ờ, Fred, ta không ngại nói với cậu rằng bí mật đó là ta là hậu duệ của một dòng dõi cao quý, ta mới phát hiện ra nó ngay chiều nay.” Trong lúc tuyên bố như thế, Durbeyfield, ngả người ra và thoải mái nằm duỗi người trên bờ cỏ, giữa những lùm cúc dại.
Thằng bé đứng trước mặt ông, và ngắm nghía ông từ đầu tới chân.
“Ngài John d'Urberville, đó chính là ta,” người đàn ông đang nằm nói tiếp, “nếu tước hiệu hiệp sĩ có thể kế thừa, mà đó là lẽ đương nhiên. Toàn bộ những điều về dòng dõi của ta đã được ghi chép trong sử sách. Cậu bé, cậu có biết một nơi gọi là Kingsbere-sub-Greenhill không?”
“Có. Tôi đã tới Hội chợ ở Greenhill.”
“Ờ, bên dưới nhà thờ của thành phố đó là…”
“Nơi tôi muốn nói không phải là một thành phố; ít ra là khi tôi tới đó. Nó là một địa điểm nhỏ xíu.”
“Đừng bận tâm tới điều đó, cậu bé, đó không phải là vấn đề quan trọng. Nằm bên dưới ngôi nhà thờ của giáo xứ đó là những tổ tiên của ta, hàng trăm người, trong những bộ áo giáp đính đầy châu báu, trong những cỗ quan tài bằng chì nặng hàng tấn. Không kẻ nào trong hạt South Wessex có những bộ xương tiên tổ vĩ đại và cao quý hơn ta.”
“Ồ?”
“Giờ hãy cầm lấy cái giỏ đó, và tới thôn Marlott, và khi cậu tới quán Giọt Trong Lành, hãy bảo họ hãy lập tức cho một cỗ xe ngựa tới để chở ta về nhà, trong thùng xe phải có thêm một chai rượu rum nhỏ. Và khi làm xong việc đó, cậu hãy mang cái giỏ tới nhà ta, và bảo vợ ta hãy ngưng việc giặt giũ, vì bả không cần hoàn thành nó, và chờ cho tới khi ta về nhà, vì ta có tin tức cần nói với bả.”
Trong lúc cậu bé đứng phân vân, Durbeyfield thò tay vào túi và móc ra một siling, một trong số vài đồng ít ỏi mà ông có.
“Đây là tiền công của cậu, cậu bé.”
Việc này tạo nên một khác biệt trong suy đoán của cậu bé về địa vị của ông.
“Vâng, Ngài John. Cám ơn. Tôi có thể làm gì khác nữa, thưa Ngài John?”
“Bảo với vợ ta rằng ta muốn ăn bữa tối với thịt cừu rán nếu bả có thể kiếm được, còn nếu không có thì dồi tiết heo, và nếu không có món này thì phèo heo cũng được.”
“Vâng, thưa Ngài John.”
Thằng bé cầm lấy cái giỏ, và khi nó cất bước, một điệu kèn đồng vang lên từ hướng ngôi làng.
“Gì thế?” Durbeyfield nói. “Không phải vì ta đó chứ?”
“Đó là đám rước của hội phụ nữ, Ngài John. Con gái của Ngài là một trong số các hội viên của nó.”
“Chắc vậy rồi. Ta quên bẳng việc này vì đang nghĩ tới những điều lớn lao hơn. Được rồi, hãy tới Marlott và gọi cỗ xe ngựa, có lẽ ta sẽ đánh xe đi một vòng và kiểm tra cái hội đó.”
Thằng bé lên đường, và Durbeyfield nằm chờ giữa những bụi cỏ và cúc dại dưới ánh nắng chiều. Suốt một hồi lâu không có ai đi ngang qua đó, và những điệu kèn đồng văng vẳng là những âm thanh con người duy nhất giữa những dãy đồi xanh.




Chương 2


Thôn Marlott nằm giữa những vùng đất nhấp nhô của Thung lũng xinh đẹp Blakemore, hoặc Blackmoor, như đã nói, một khu vực tách biệt với đồi núi bao quanh, hầu hết đều chưa từng có một khách lãng du hoặc họa sĩ phong cảnh nào đặt chân tới, dù chỉ cách London một chặng đường chưa tới bốn tiếng đồng hồ.
Người ta có thể nhận biết tốt nhất về nó bằng cách ngắm nhìn nó từ đỉnh của những ngọn đồi bao quanh – ngoại trừ trong những đợt hạn hán mùa hè. Một cuộc dạo chơi trong những vùng hẻo lánh của nó khi thời tiết xấu có thể mang tới sự bất mãn do những con đường nhỏ hẹp, ngoằn ngoèo và lầy lội.
Vùng quê màu mỡ và được chở che này, trong đó những cánh đồng không bao giờ ngả sang màu nâu và những dòng suối không bao giờ cạn, tiếp giáp với dãy núi đá phấn sừng sững ôm ấp những ngọn đồi Hambledon, Bulbarrow, Nettlecombe-Tout, Dogbury, High Stoy, và Bubb Down ở phía nam. Khách bộ hành từ bờ biển, sau khi tiến về phía bắc hai mươi dặm qua những vùng đất thấp và đồng lúa, sẽ đột nhiên chạm trán rìa của một trong những vách núi này và ngạc nhiên, thích thú khi nhìn thấy một vùng quê mở ra bên dưới như một tấm bản đồ, hoàn toàn khác với vùng đất mà y đã đi qua. Phía sau y là những ngọn đồi, mặt trời tỏa nắng xuống những cánh đồng rộng lớn như chỉ rõ đặc tính phơi mở của phong cảnh; những lối mòn trắng xóa, những bờ rào thấp và dày, bầu không khí trong veo. Tại đây, trong thung lũng, thế giới dường như được xây dựng trên một tỷ lệ nhỏ bé hơn và tinh tế hơn; những cánh đồng chỉ là những mảnh đất nhỏ, bị giảm thiểu đến mức từ độ cao này những bờ rào của chúng hiện ra như một mạng lưới những sợi chỉ xanh thẫm trên nền xanh nhợt nhạt hơn của cỏ. Bầu không khí bên dưới nặng nề, và nhuốm một màu xanh trời dịu vợi mà những họa sĩ gọi là sắc độ của khoảng xa, trong lúc chân trời mé ngoài thẫm một màu xanh biếc sâu thẳm nhất. Đất có thể canh tác rất ít và hạn chế; trừ những ngoại lệ hiếm hoi, toàn cảnh là một tấm thảm rộng xum xuê cây cỏ, che phủ những ngọn đồi và thung lũng nhỏ nằm bên trong nó. Đó chính là Thung lũng Blakemore.
Huyện này đáng chú ý cả về mặt lịch sử lẫn địa hình. Hồi thời trước, Thung lũng được biết tới dưới cái tên Bạch Lộc Lâm (Forest of White Hart), từ một truyền thuyết vào thời Vua Henry III trị vì. Một người tên là Thomas de la Lynd đã giết chết một con hươu trắng mà nhà vua từng nuôi và đã thả đi khi nó già yếu. Ông ta phải chịu một khoản tiền phạt nặng. Vào thời đó, và đến tận thời gian tương đối gần đây, vùng này là rừng rậm. Thậm chí hiện giờ, người ta vẫn nhìn thấy dấu vết của nó ở những cụm sồi già và những khu vực cây thân gỗ còn sót lại trên những sườn đồi, và những cây to rỗng ruột che mát cho nhiều đồng cỏ.
Cánh rừng đã mất, nhưng một số phong tục cũ chịu ảnh hưởng của nó vẫn còn sót lại. Tuy nhiên, nhiều trong số đó chỉ lay lắt tồn tại dưới một hình thức đã biến đổi hoặc trá hình. Chẳng hạn như cuộc khiêu vũ May Day[5] chiều hôm đó, dưới cái vỏ ngụy trang một cuộc lễ hội, hoặc đám rước của hội phụ nữ, như tên gọi của nó ở đó.
Đó là một sự kiện thú vị đối với thôn dân ở Marlott, dù những kẻ tham gia lễ hội không nhận ra sự thú vị thật sự của nó. Tính chất đặc biệt của nó nằm ở chỗ những thành viên đều là nữ hơn là ở chỗ tập tục đi bộ trong đám rước và khiêu vũ vẫn còn lưu giữ được. Trong các hội của đàn ông, những cuộc lễ lạc như thế, dù vẫn kéo dài lay lắt, kém phổ biến hơn nhiều; nhưng sự e thẹn của giới tính yếu mềm hơn, hoặc một thái độ mỉa mai của đám đàn ông, đã tước khỏi một vài hội của phụ nữ còn lại (nếu còn bất cứ hội nào) điều từng là niềm vinh dự và sự toàn bích của chúng. Chỉ còn duy nhất hội của thôn Marlott duy trì tập tục lễ hội Cerealia[6] của địa phương. Nó đã tồn tại suốt nhiều trăm năm, nếu không phải là một hội vì lợi lộc thì cũng là một dạng hội mang tính chị em tương trợ, và nó vẫn còn tồn tại.
Toàn bộ đoàn diễu hành đều mặc áo dài trắng – một tàn tích vui vẻ từ những thời Lịch Kiểu Cũ[7], khi niềm vui đồng nghĩa với lễ hội tháng Năm – những ngày trước khi thói quen lo xa cả nghĩ đã giảm thiểu những cảm xúc xuống một mức bình thường đơn điệu. Cuộc trình diễn đầu tiên của họ là đi thành một đám rước hai hàng đôi vòng quanh xứ đạo. Lý tưởng và thực tế chạm nhau khi mặt trời soi sáng hình dáng nổi bật của họ trên những bờ giậu xanh ngắt và những mặt tiền nhà phủ kín dây leo; bởi, dù toàn thể đều mặc đồ trắng, không có hai màu trắng nào trùng nhau trong số họ. Một số mặc màu trắng đơn thuần; số khác với một sắc trắng ngả sang xanh trời; một số mặc đồ may theo kiểu cũ (vốn nằm im trong tủ suốt nhiều năm), có xu hướng ngả sang một sắc trắng cháo lòng, và may theo kiểu thời Georgia.
Ngoài sự khác biệt của sắc áo, mỗi người đàn bà và thiếu nữ cầm trên tay phải một nhánh liễu đã lột vỏ và trên tay trái một bó hoa trắng. Cách lột vỏ và cách chọn hoa tùy vào ý thích cá nhân.
Trong đoàn cũng có vài phụ nữ trung niên và cao tuổi, mái tóc bạc xơ xác và gương mặt nhăn nheo của họ, dưới sự đè nặng của thời gian và những muộn phiền lo lắng, trông có vẻ lố bịch và lạc lõng trong một hoạt cảnh vui tươi như thế. Có lẽ từ một góc nhìn chân thật, còn có nhiều điều hơn nữa để nói về từng bà lão lo âu và giàu kinh nghiệm mà tuổi đời đã gần kết thúc khi bà ta nói, ‘Ta chả vui thú chút nào trong chuyện này,” so với những bạn đồng hành trẻ trung của bà ta. Nhưng thôi, hãy tạm gác lại những bà lão để nói tới những kẻ mà bên dưới lớp váy áo của họ cuộc sống đang đập một nhịp rộn ràng và ấm áp.
Thật sự, các cô gái trẻ là thành phần chủ yếu của đám rước, và những mái tóc dày mượt của họ phản chiếu dưới ánh nắng mọi cung bậc của màu vàng, đen, và nâu. Một số có đôi mắt đẹp, số khác có chiếc mũi đẹp, số khác có đôi môi và thân hình đẹp; một số ít, nếu có, có tất cả các vẻ đẹp đó. Sự khó khăn rõ rệt trong việc giữ cân bằng mái đầu, tư thế tự nhiên của đôi môi, và sự ngượng ngập trước cái nhìn soi mói của công chúng cho thấy họ là những thôn nữ quê mùa chất phác, chưa quen với ánh mắt của nhiều người.
Mỗi người trong bọn họ được sưởi ấm mà không cần tới ánh mặt trời, vì mỗi người đều có một vầng thái dương riêng cho tâm hồn để tắm mình trong đó; một giấc mơ, một tình quyến luyến, một sở thích cá nhân, ít nhất một hy vọng xa xôi nào đó, mà dù có lẽ không hướng tới điều gì, vẫn hiện hữu, như những niềm hy vọng vẫn sẽ là như vậy. Tất cả đều vui vẻ, và nhiều người tươi tắn như hoa.
Khi họ đi vòng qua quán Giọt Trong Lành, và ngoặt ra con đường lớn để đi qua một cánh cổng nhỏ mở ra những đồng cỏ, một người trong bọn nói:
“Ối Trời! Sao chứ, Tess Durbeyfield, không phải tía[8] chị đang về nhà trong một cỗ xe ngựa đó hay sao!”
Một thành viên trẻ tuổi trong đoàn quay đầu lại khi nghe tiếng cảm thán. Nàng là một thiếu nữ xinh xắn. Có thể không xinh hơn một số khác. Nhưng đôi môi như hai cánh mẫu đơn vừa hé nở và đôi mắt to ngây thơ bổ sung thêm sức thuyết phục cho màu sắc và hình thể. Nàng đeo một dải băng đô đỏ trên tóc và là người duy nhất trong bọn có thể tự hào với một vật trang sức dễ nhận ra như thế. Khi quay lại, nàng trông thấy Durbeyfield đang ngồi trong một cỗ xe độc mã của quán Giọt Trong Lành, xà ích là một cô gái tóc xoăn rắn rỏi, tay áo xăn cao trên hai khuỷu tay. Đó là cô hầu bàn vui tính trong quán, đôi khi kiêm thêm vai trò người chăm sóc ngựa và đánh xe. Durbeyfield ngồi ngả lưng trên ghế, mắt nhắm tịt, vừa giơ tay vẫy vẫy trên đầu vừa chậm rãi ngâm nga:
“Ta có một hầm mộ gia tộc ở Kingsbere… và những tổ tiên được phong tước hiệp sĩ nằm trong những cỗ quan tài bằng chì!”
Cả bọn cười khúc khích, trừ cô gái được gọi là Tess; dường như một ngọn lửa nóng bừng đang bốc lên trong đầu nàng với ý nghĩ rằng cha nàng đã tự biến mình thành một gã ngốc trong mắt họ.
“Ổng mệt, chỉ thế thôi.” Nàng nói vội. “Và ổng đã quá giang về nhà, vì hôm nay con ngựa của chúng tôi phải được nghỉ ngơi.”
“Chúa ban phúc cho sự đơn giản của chị, Tess ạ.” Các bạn của nàng nói. “Ổng đã nốc khá nhiều rượu ở chợ. Haha!”
“Nè, tôi sẽ không bước thêm bước nào nữa với chị, nếu chị nói bất cứ câu đùa cợt nào về ổng!” Tess kêu lên, và màu đỏ trên má nàng lan ra khắp gương mặt, xuống tới cổ. Trong thoáng chốc, mắt nàng ngấn nước, và nàng cụp mắt nhìn xuống đất. Nhận thấy nàng thật sự  đau lòng, họ không nói thêm gì nữa, và trật tự lại được vãn hồi. Lòng kiêu hãnh của Tess không cho phép nàng quay lại lần nữa để xem cha mình muốn nói điều gì, nếu có; do đó nàng xoay người đi về phía mảnh đất có rào bao quanh trên bãi cỏ, nơi sẽ diễn ra cuộc khiêu vũ. Khi tới đó, lòng nàng cũng đã bình thản lại; nàng vụt nhẹ nhánh liễu vào người bên cạnh và nói chuyện như thường lệ.
Vào thời điểm này Tess Durbeyfield chỉ là một nguồn cảm xúc thuần khiết, chưa bị kinh nghiệm nhuộm đen. Ở một mức độ nào đó, nàng vẫn phát âm với giọng địa phương, dù đã theo học ở trường làng: trong huyện này đặc điểm của thứ phương ngữ đó là âm tiết UR, có lẽ cũng được phát âm đa dạng như bất cứ từ ngữ nào có thể tìm thấy trong cách nói của loài người. Nàng hơi bĩu bờ môi trên đỏ thắm và nó hầu như chưa kịp quay lại hình dáng bình thường khi nàng phát ra âm tiết này, còn bờ môi dưới của nàng có xu hướng đẩy vị trí ở giữa  môi trên lên, khi chúng khép lại sau một từ.
Những giai đoạn thơ ấu vẫn còn ẩn nấp trong diện mạo của nàng. Hôm nay, trong lúc nàng bước đi, bạn có thể thỉnh thoảng nhìn thấy trên nét mặt thiếu nữ xinh đẹp hồng hào đó tuổi mười hai của nàng trên đôi má, hoặc tuổi lên chín lấp lóe trong đôi mắt; và thậm chí tuổi lên năm đôi khi thoáng gợn trên những đường cong của đôi môi.
Thế nhưng rất ít người biết, và còn ít người hơn nữa nghĩ tới điều này. Một thiểu số nhỏ, chủ yếu là người lạ, sẽ nhìn nàng hơi lâu khi tình cờ bước ngang qua, thầm ngưỡng mộ vẻ tươi tắn của nàng và tự hỏi họ có bao giờ gặp nàng lần nữa hay chăng. Nhưng với hầu hết mọi người nàng chỉ là một thôn nữ xinh đẹp, không hơn.
Không ai nhìn thấy hay nghe thấy gì nữa từ Durbeyfield đang ngồi trong cỗ xe khải hoàn dưới sự điều khiển của tay nữ xà ích, và đám rước đã đi vào địa điểm ấn định, cuộc khiêu vũ bắt đầu. Vì trong đoàn không có đàn ông, lúc đầu các cô gái nhảy với nhau, nhưng khi sắp tới giờ nghỉ việc, những cư dân nam giới trong thôn, cùng những người đi bộ và nhàn rỗi khác tụ tập lại quanh sân khiêu vũ và có vẻ muốn bước tới xin làm bạn nhảy.
Trong số khán giả này có ba thanh niên thuộc tầng lớp trên, lưng đeo ba lô và tay cầm gậy chống. Vẻ giống nhau và tuổi tác xê xích gần nhau của họ cho thấy họ có thể là ba anh em ruột, và quả là như thế. Người lớn tuổi nhất đeo một chiếc cà vạt trắng, mặc áo chẽn cao, và đội một cái mũ vành mỏng theo kiểu mũ các cha phó hay đội; người thứ hai là một sinh viên bình thường; diện mạo của người thứ ba và trẻ nhất hầu như không đủ để xác định đặc điểm của gã; có một vẻ bất cần và thoải mái trong đôi mắt và trang phục của gã cho thấy gã hầu như chưa bước vào nếp sống chuyên môn. Chỉ có thể đoán gã là một sinh viên còn lưỡng lự chưa dứt khoát chọn nghề nào.
Ba anh em này nói với những kẻ tình cờ quen biết rằng họ đang nghỉ lễ Whitsun và thực hiện một chuyến đi bộ qua Thung lũng Blakemore về phía tây nam từ thị trấn Shaston ở hướng đông bắc.
Họ tựa lưng vào cánh cổng gần đường lớn, và hỏi thăm ý nghĩa của cuộc khiêu vũ và các cô gái mặc đồ trắng. Rõ ràng hai người lớn tuổi hơn không định nấn ná lâu hơn, nhưng cảnh tượng một đám thanh nữ khiêu vũ mà không có bạn nhảy nam dường như lôi cuốn kẻ thứ ba, khiến gã không vội lên đường. Gã tháo ba lô ra, đặt nó và cây gậy lên bờ giậu, và mở cổng.
“Em định làm gì đó, Angel?” Người lớn tuổi nhất hỏi.
“Em muốn nhập bọn vui chơi với họ. Sao cả ba chúng ta không tham dự chứ, chỉ một hai phút thôi, nó sẽ không cầm chân chúng ta lâu.”
“Không, không, vớ vẩn.” Người anh cả nói. “Nhảy múa trước công chúng với một đám thiếu nữ quê mùa lanh chanh, giả sử có ai nhìn thấy chúng ta thì sao! Đi thôi, không trời sẽ tối trước khi chúng ta tới Stourcastle, và không có nơi nào gần hơn chỗ đó để chúng ta ngủ lại; ngoài ra, chúng ta phải nghiên cứu một chương khác trong cuốn Một luận điểm phản đối Thuyết Bất khả tri trước khi ngủ. Anh đã cất công mang nó theo.”
“Được rồi, em sẽ đuổi kịp anh và Cuthbert trong năm phút; đừng dừng lại; em hứa mà, Felix.”
Hai ông anh miễn cưỡng bỏ gã lại và cất bước, mang theo cái ba lô của gã để giúp gã dễ đuổi theo hơn, và cậu em út bước vào sân khiêu vũ.
“Thật ngàn lần đáng tiếc.” Gã lễ phép nói với hai ba cô gái gần nhất, ngay khi điệu nhảy tạm dừng. “Các bạn nhảy nam của các cô đâu, các quý cô thân mến?”
“Họ còn đang làm việc.” Một cô bạo dạn nhất đáp. “Họ sẽ lần lượt tới đây. Cho tới lúc đó, ông sẽ là một bạn nhảy chứ, thưa ông?”
“Tất nhiên rồi. Nhưng một người thì có là gì giữa quá nhiều người!”
“Vẫn tốt hơn là không có ai. Đối diện và nhảy với một người cùng giới thì buồn lắm, vì không có cái ôm nào hết. Giờ hãy chọn đi nào.”
“Suỵt, đừng có quá sốt sắng như thế!” Một cô gái e thẹn hơn nói.
Khi được mời mọc như thế, chàng trai trẻ nhìn thoáng qua bọn họ, cố phân biệt, nhưng vì nhóm này quá mới mẻ, gã không thực hiện tốt lắm việc này. Gã chọn hầu như người đầu tiên tới gần, không phải người phát biểu, như nàng ta mong đợi; cũng không phải Tess Durbeyfield. Phả hệ, những bộ xương của tổ tiên, ghi chép trên bia đá và những đặc điểm diện mạo của dòng họ d'Urberville đều không giúp Tess trong trận chiến của đời nàng, thậm chí ở mức độ thu hút cho mình một bạn nhảy trước tầng lớp nông dân bình thường nhất. Dòng máu Norman thiếu sự trợ giúp tiền tài của thời đại Victorian cũng chỉ là vô giá trị.
Tên của cô gái nổi trội, bất kể là gì, không được truyền lại đời sau; nhưng nàng bị tất cả ghen tị vì là người đầu tiên được hưởng thụ niềm vui xa xỉ có bạn nhảy đàn ông tối đó. Thế nhưng đó là một tấm gương mạnh mẽ đến độ các chàng trai trẻ trong thôn, vốn không hấp tấp bước vào cổng khi chưa có kẻ không mời mà đến, giờ vội vàng nhập cuộc, và chẳng bao lâu các cặp nam nữ chiếm phần đa số, cho tới cuối cùng cô gái xấu xí nhất trong hội cũng không còn buộc phải nhảy với vai trò nam giới.
Khi chuông nhà thờ điểm giờ, gã sinh viên đột ngột nói rằng gã phải đi – gã đã quên mất chính mình – gã phải đuổi kịp các bạn đồng hành. Khi rời khỏi cuộc khiêu vũ, ánh mắt gã bắt gặp Tess Durbeyfield. Thật sự, đôi mắt to của nàng ẩn chứa lời trách móc rằng gã đã không chọn nàng. Khi đó, gã cũng tiếc nuối rằng do nàng ở phía sau, gã đã không nhìn thấy nàng, và với ý nghĩ đó, gã rời khỏi bãi cỏ.
Do đã nấn ná lâu, gã bắt đầu đi như chạy xuôi con đường mòn về hướng tây, và chẳng bao lâu đã đi qua cái lũng nhỏ, trèo lên một ngọn đồi khác. Gã vẫn chưa đuổi kịp các anh trai, nhưng gã tạm dừng để thở và ngoái nhìn lại. Gã có thể nhìn thấy những thân hình màu trắng của các cô gái trong mảnh đất xanh bên trong hàng rào đang xoay tròn như đã xoay tròn khi gã còn ở đó. Có vẻ như họ đã hoàn toàn quên gã rồi.
Tất cả, trừ một người, có lẽ. Hình dáng màu trắng này đứng tách biệt một mình cạnh bờ rào. Từ tư thế của nàng, gã biết đó là cô gái xinh đẹp mà gã đã không mời nhảy. Dù đây chỉ là việc vặt, bản năng khiến gã cảm thấy nàng đã bị tổn thương vì sự sơ suất của mình. Gã ước gì đã mời nàng; gã ước gì đã hỏi tên nàng. Nàng quá nhu mì, quá tràn đầy cảm xúc; với chiếc áo dài trắng, trông nàng dịu dàng đến nỗi gã cảm thấy gã đã hành động thật ngu xuẩn.
Dù sao, không thể cứu vãn gì được nữa, và gã quay đi, dấn bước, loại bỏ ý nghĩ về nàng khỏi tâm trí.




Chương 3


Về phần Tess Durbeyfield, nàng không dễ xua đuổi sự cố đó khỏi ý nghĩ. Nàng không còn tinh thần để nhảy lại suốt một lúc lâu, dù nàng có thể có nhiều bạn nhảy; nhưng, chao ôi, họ không nói năng lịch thiệp như chàng trai xa lạ đó. Chỉ khi hình dáng của gã đã chìm khuất trong ánh nắng chiều nàng mới xóa bỏ được nỗi buồn nhất thời và quả quyết đáp lại lời mời của những người bạn nhảy.
Nàng ở lại với các bạn cho tới tối, và tham gia khiêu vũ với sự say mê; dù cho tới lúc này vẫn chưa thích ai, nàng thích thú điệu nhảy vì chính nó, không ý thức nhiều lắm về điều mà chính nàng cũng có thể vướng phải, khi nàng nhìn thấy “những sự tra tấn êm đềm, những niềm cay đắng ngọt ngào, những cơn đau thú vị, và những nỗi buồn dễ chịu” của những cô gái đã bị tán tỉnh và chiếm lấy trái tim. Sự cạnh tranh của các chàng trai để được nhảy với nàng một điệu jjg là một niềm vui đối với nàng, chỉ thế thôi; và khi họ tỏ ra quá trớn thì nàng khiển trách họ.
Nàng có thể ở lại thậm chí muộn hơn, nhưng sự xuất hiện và thái độ lạ lùng của cha nàng quay lại trong tâm trí và nàng bắt đầu lo lắng; vừa tự hỏi về tình trạng của ông nàng vừa tách khỏi những cặp bạn nhảy và bước về phía cuối thôn, nơi có ngôi nhà tranh của cha mẹ nàng.
Khi chỉ còn cách nhà vài chục mét, nàng nghe thấy những âm thanh nhịp nhàng khác với thứ nhạc nàng vừa rời khỏi, những âm thanh mà nàng biết rõ, rất rõ. Chúng là những chuỗi ồn ào thường xuyên từ bên trong ngôi nhà, thỉnh thoảng do tiếng lắc lư mạnh của một cái nôi trên nền nhà bằng đá, kèm theo là một giọng phụ nữ ca theo nhịp ngựa phi, bài hát ngắn ưa thích về “Con bò cái đốm”:
“Tôi nhìn thấy nó nằm xuống trong cụm rừng xanh xa xa;
Tới đây, tình yêu! Và tôi sẽ nói cho nàng biết nơi nào!”
Tiếng nôi lắc lư và bài ca thường dừng lại cùng lúc trong giây lát, và một giọng ngâm nga với âm độ cao nhất sẽ thế chỗ cho điệu nhạc:
“Chúa phù hộ cho đôi mắt sáng như kim cương của con! Và đôi má mịn như sáp của con! Và cái miệng đỏ thắm như quả anh đào của con! Và cặp đùi mũm mĩm của con! Và từng phần trên thân thể được ban phúc của con!”
Sau lời nguyện cầu này, tiếng đưa nôi và tiếng ca lại tái diễn, và “Con bò cái đốm” lại tiếp tục như trước. Tình hình là thế khi Tess mở cửa và dừng lại trên tấm thảm trong nhà, quan sát cảnh tượng bên trong.
Bất chấp điệu nhạc, trước mắt cô gái là một cảnh tượng u buồn ảm đạm vô tả. Từ những niềm vui lễ hội trên đồng – những chiếc áo dài trắng, những bó hoa tươi, những nhánh liễu, những cử động xoay tròn trên bãi cỏ xanh, một thoáng cảm xúc êm đềm với kẻ xa lạ – tới cảnh tượng ảm đạm dưới ánh nến này là một thay đổi lớn lao! Trước sự tương phản rõ ràng, nàng thầm tự trách mình thậm tệ vì đã không về sớm hơn để giúp mẹ làm những công việc nội trợ, thay vì tự nuông chiều bản thân ngoài kia.
Mẹ nàng đứng giữa một đám trẻ con, như khi Tess rời khỏi nhà, treo mình trên cái chậu giặt những quần áo của ngày Thứ hai, mà hiện tại, như lúc nào cũng thế, sẽ bị gác lại cho tới cuối tuần. Ngày hôm trước, được lấy ra từ cái chậu đó - Tess vuốt nhẹ nó với một cảm giác ân hận nhói lòng – chính là cái áo trắng đang mặc trên người mà nàng đã bất cẩn làm cho vạt áo bị nhuộm xanh nhựa cỏ. Mẹ nàng đã tự tay vò và ủi nó.
Như thường lệ, bà Durbeyfield giữ thăng bằng trên một bàn chân đặt bên ngoài chậu giặt, bàn chân kia đang làm công việc đưa nôi đã nói trên cho đứa con nhỏ nhất. Cái nôi đu đưa đã thực hiện nhiệm vụ nhọc nhằn suốt nhiều năm, dưới sức nặng của nhiều đứa trẻ con, trên cái nền nhà lát đá đó, đến độ nó mòn gần như bằng phẳng, kết quả là với một cái giật mạnh kèm theo mỗi lần đẩy nôi, em bé đu đưa từ phía này sang phía kia như một con thoi của thợ dệt. Phấn khích với bài ca, bà Durbeyfield đạp cái nôi với toàn bộ sức lực còn lại trong người sau một ngày dài giặt vò quần áo.
Cót két, cót két, cái nôi chuyển động; ngọn lửa của cây nến tự bốc lên cao, và bắt đầu nhún nhảy lên xuống; nước nhỏ giọt từ hai cùi chỏ của người phụ nữ trung niên, và bài ca tiếp tục cho tới câu cuối, trong lúc bà Durbeyfield nhìn cô con gái. Thậm chí tới giờ, với gánh nặng của một gia đình trẻ trên vai, Joan Durbeyfield vẫn say mê ca hát. Không có bài ca ngắn nào lọt vào Thung lũng Blakemore từ bên ngoài mà mẹ của Tess không thuộc làu nó trong một tuần.
Trên gương mặt của bà vẫn còn đôi nét tươi tắn, thậm chí vẻ xinh xắn của tuổi trẻ; chắc chắn là nét đẹp mà Tess có thể tự hào phần lớn đến từ người mẹ, và do đó không có gì mang tính chất hiệp sĩ hay lịch sử ở nàng.
“Má à, con sẽ đưa nôi giúp má.” Cô con gái dịu dàng nói. “Hoặc con sẽ cởi cái áo đẹp nhất ra và giúp má giặt nó? Con cứ tưởng má đã xong việc lâu rồi.”
Mẹ Tess không phiền trách gì nàng về việc bỏ mặc việc nhà cho một mình bà xoay xở lâu như thế; thật sự, Joan chưa từng quở trách nàng vì lý do đó lần nào, chỉ hơi thấy thiếu sự trợ giúp của nàng trong lúc bà dự định sẽ nghỉ ngơi đôi chút. Tuy nhiên, tối nay thậm chí bà còn thanh thản hơn thường lệ. Có một vẻ mơ màng, một mối bận tâm, một vẻ hớn hở, trong cái nhìn của người mẹ mà Tess không hiểu nổi.
“Ờ, má mừng vì con đã về.” Mẹ nàng nói, ngay khi  kết thúc từ cuối của bài ca. “Má muốn đi đón tía con, nhưng còn hơn thế, má muốn nói với con chuyện gì đã xảy ra. Con sẽ khoái chí[9] lắm khi biết chuyện, bé cưng[10] ạ!” (Bà Durbeyfield có thói quen nói phương ngữ; con bà, vốn đã học hết lớp sáu tiêu chuẩn trong Trường Quốc gia[11] dưới sự giảng dạy của một cô giáo được đào tạo ở London, nói hai thứ ngôn ngữ: phương ngữ ở nhà, ít hoặc nhiều; tiếng Anh phổ thông ở ngoài và với những người có học thức.)
“Từ khi con ra ngoài à?”
“Phải!”
“Nó có dính dáng gì tới việc tía làm trò hề trong cỗ xe ngựa chiều nay không? Vì sao vậy không biết? Con đã muốn chui xuống đất vì xấu hổ!”
“Đó là một phần của sự ồn ào! Chúng ta được phát hiện là dòng dõi quý tộc lớn nhất trong toàn vùng, ngược về đời xưa trước thời của Oliver Grumble[12], tới tận thời của người Thổ ngoại đạo, với những đài kỷ niệm, hầm mộ, mũ sắt, huy hiệu trên khiên, và có Chúa mới biết hết những thứ đó. Vào thời của Thánh Charles chúng ta được phong làm Hiệp sĩ của Cây sồi Hoàng gia, họ thật sự của chúng ta là d'Urberville! Điều đó không làm mũi con phồng lên hay sao? Vì lý do này mà tía con về nhà trên cỗ xe ngựa; chứ không phải vì ổng say như mọi người nghĩ.”
“Con mừng vì điều đó. Nó có ích gì cho chúng ta không, hả má?”
“Có chứ! Những điều tuyệt vời có thể đến nhờ vào nó. Chắc chắn một đám đông thuộc tầng lớp của chúng ta sẽ đi xe ngựa tới đây ngay khi họ biết điều này. Tía con biết về nó trên đường từ Shaston về nhà và ổng đã kể hết đầu đuôi với má.”
“Giờ tía ở đâu?” Tes đột ngột hỏi.
Mẹ nàng đưa ra một câu trả lời trớt quớt: “Hôm nay ổng tới khám bác sĩ ở Shaston. Có vẻ không tốn hao bao nhiêu. Đó là lớp mỡ bao quanh tim của ổng, ông bác sĩ nói. Nó giống như vầy nè.” Trong lúc nói, Joan Durbeyfield cong một ngón tay đẫm nước và ngón trỏ thành hình chữ C, và dùng một ngón khác để chỉ. “ ‘Hiện tại,’ ổng nói với tía con, ‘tim ông bị bao quanh ở đó và ở đó; chỗ này vẫn còn hở,’ ổng nói. ‘Khi chúng gặp nhau, thế này,’” bà khép hai ngón tay lại thành một vòng tròn – ‘ông sẽ về chầu tiên tổ, ông Durbeyfield,’. ‘Ông có thể sống thêm mười năm, cũng có thể mười tháng, hoặc mười ngày.’”
Tess có vẻ bần thần. Cha nàng có thể qua đời rất sớm, bất chấp sự việc lớn lao bất ngờ này!
“Nhưng tía đang ở đâu?” Nàng lặp lại.
Nét mặt mẹ nàng đổi sắc. “Con đừng nổi giận nhé! Người đàn ông tội nghiệp, ổng bồn chồn sau khi được nâng cao địa vị từ tin tức của ông cha xứ đến độ ổng tới quán Rolliver nửa tiếng trước. Ổng muốn lấy lại sức cho chuyến đi ngày mai với mớ tổ ong đó, nó phải được giao, dù có gia tộc lớn hay không. Ổng sẽ phải lên đường sau mười hai giờ đêm nay, vì đường rất xa.”
“Lấy lại sức!” Tess gằn giọng, lệ trào lên mắt. “Ôi Trời! Tới một quán rượu để lấy lại sức! Và má cũng đồng ý với ổng hả má!”
Lời trách móc và tâm trạng của nàng dường như phủ kín toàn bộ căn phòng, và nàng bực tức nhìn các thứ đồ đạc, cây nến, lũ em nhỏ đang chơi xung quanh và mặt mẹ mình.
“Không,” bà mẹ giận dỗi, “má không đồng ý. Má đã chờ con về trông nhà trong lúc má đi đón ổng.”
“Để con đi.”
“Ồ, không, Tess. Con biết mà, không được đâu.”
Tess không đáp lại. Nàng biết lời phản đối của bà mẹ có ý nghĩa gì. Áo khoác và mũ của bà Durbeyfield đã được treo trên một cái ghế bên cạnh, sẵn sàng cho chuyến đi, lý do cho việc bà dứt khoát hơn mức cần thiết.
“Và hãy mang cuốc Bốc sư Toàn tập ra nhà ngoài.” Joan nói tiếp, nhanh nhẹn lau đôi tay và mặc áo khoác, đội mũ.
Bốc sư Toàn tập là một cuốn sách dày, cũ, nằm trên một cái bàn gần đó, rách tả tơi do thường xuyên nằm trong túi đến độ lề sách rách tới tận lề dòng chữ. Tess cầm nó lên, và mẹ nàng lên đường.
Việc săn lùng ông chồng khờ khạo ở tửu quán là một trong những thú vui hiện có của bà Durbeyfield giữa sự bẩn thỉu và bề bộn của việc chăm sóc con cái. Việc tìm ra ông ở quán của Rolliver, ngồi đó một hai tiếng cạnh ông và xua đi mọi ý nghĩ và bận tâm về lũ con khiến bà sung sướng. Khi ấy một dạng hào quang, một quầng sáng phía tây xuất hiện trong đời. Những phiền toái và các thực tại khác khoác lên chúng một lớp vỏ mông lung, nhấn chúng chìm vào cảm giác bình an thanh thản và không còn là những áp lực nặng nề khiến cơ thể và linh hồn xây xát. Lũ trẻ, không ở ngay trong tầm nhìn, dường như trở nên rực rỡ và đáng ước ao hơn bình thường; ở đó, những sự cố của cuộc sống hàng ngày không phải không có khía cạnh vui vẻ và khôi hài của chúng. Hiện tại, khi ngồi đây với ông chồng đã kết hôn, ở cùng địa điểm, bà có cảm giác như từng có trong lúc ông đang tỏ tình, nhắm mắt trước những nhược điểm trong tính cách của ông, và chỉ nhìn thấy ông trong hình ảnh một tình nhân lý tưởng.
Còn lại ở nhà với đàn em nhỏ hơn, trước tiên Tess mang cuốn sách bói toán ra nhà ngoài và nhét nó lên mái rạ. Một nỗi sợ mang tính chất bái vật giáo lạ lùng đối với cuốn sách phủ đầy bụi này của mẹ nàng ngăn bà cho phép nó ở trong nhà suốt đêm, rồi sau đó khi cần tham khảo bà sẽ mang lại nó vào nhà. Giữa người mẹ, với mớ mê tín dị đoan, dân ca, phương ngữ, và những khúc ca ballad truyền khẩu đang nhanh chóng tàn lụi, và cô con gái, với học vấn ở trường Quốc gia và kiến thức Tiêu chuẩn theo quy định của một Đạo luật sửa đổi nhiều lần[13], có một khoảng cách hai trăm năm theo cách hiểu thông thường. Khi họ ở cạnh nhau, các thời đại Jacob và Victoria được đặt bên nhau.
Trong lúc quay lại theo lối đi trong vườn, Tess ngẫm nghĩ về điều mẹ nàng có thể muốn xác định từ cuốn sách bói toán vào cái ngày đặc biệt này. Nàng phỏng đoán sự phát hiện về nguồn gốc tổ tiên vừa rồi có liên quan tới nó, nhưng không thể nhận ra nó chỉ liên quan tới chính nàng. Tuy nhiên, nàng xua đuổi ý nghĩ này, lăng xăng với việc phun nước số vải lanh đã phơi khô trong ngày cùng với đứa em trai Abraham chín tuổi, đứa em gái Eliza-Louisa mười hai tuổi rưỡi, gọi là “Liza-Lu”, mấy đứa bé nhất đang nằm trên giường. Giữa nàng và các đứa em kế trong nhà có một khoảng cách bốn năm hoặc hơn, hai đứa đã chết khi mới chào đời, và điều này mang tới cho nàng một thứ tình mẫu tử khi ở một mình với lũ em. Sau Abraham là hai đứa bé gái, Hope và Modesty; rồi một bé trai ba tuổi, và em bé vừa tròn tuổi thôi nôi.
Toàn bộ đám trẻ này là những hành khách trên con tàu Durbeyfield, hoàn toàn phụ thuộc vào phán đoán của hai người mang họ Durbeyfield trưởng thành về những niềm vui, nhu cầu, sức khỏe, thậm chí sự tồn tại của chúng. Nếu hai người đứng đầu con tàu này chọn lao vào sự khó khăn, tai họa, đói khát, bệnh tật, suy đồi, cái chết, nửa tá tù nhân dưới hầm tàu  buộc phải đi cùng với họ – sáu tạo vật bất lực, chưa từng được hỏi thăm xem chúng có muốn thứ gì ở trên đời hay chăng, nói gì tới việc chúng ước ao điều đó trong những điều kiện khắc nghiệt của gia đình. Một số người muốn biết từ đâu mà nhà thơ, kẻ triết lý rằng thời đại này cũng sâu sắc và đáng tin cậy như bài ca hồ hỡi và trong sáng của ông ta, lại có thẩm quyền nói về “kế hoạch thiêng liêng của Tự nhiên.”[14]
Đêm đã sâu, nhưng cả người cha lẫn người mẹ đều chưa trở lại. Tess nhìn ra cửa, và thực hiện một hành trình tâm trí qua thôn Marlott. Cái thôn nhỏ đang khép mắt. Nến và đèn dầu đang bị thổi tắt ở mọi nơi. Nàng có thể nhìn thấy trong trí tưởng kẻ tắt lửa và bàn tay giơ ra.
Việc mẹ nàng đi đón cha nàng chỉ đơn giản là thêm một lần đón nữa. Tess bắt đầu nhận ra rằng một người có sức khỏe bình thường, dự định xuất phát một hành trình trước một giờ sáng, không nên ở một tửu quán vào giờ giấc khuya khoắt này để mừng huyết thống cổ xưa của mình.
“Abraham,” nàng nói với cậu em trai, “em sẽ đội nón vào – em không sợ chứ? – và đi lên quán Rolliver để xem chuyện gì đã xảy ra với tía má rồi.”
Thằng bé lập tức rời khỏi ghế và mở cửa, và bóng đêm nuốt chững nó. Nửa giờ nữa trôi qua; không ai, đàn ông, phụ nữ hay đứa bé, quay lại. Abraham, như cha mẹ nó, dường như đã bị dính nhựa bẫy chim và bị bắt trong cái quán đầy cạm bẫy đó.
“Mình phải tự đi thôi.” Tess nói.
Sau đó Liza-Lu vào giường, và Tess khóa cửa lại, cất bước trên lối mòn hoặc con đường nhỏ tối tăm, quanh co, không dành cho bước chân vội vã; một con đường đã được mở trước khi những tấc đất có giá trị, và khi những cái đồng hồ một kim cũng đủ chia nhỏ một ngày.


Chương 4

Quán của Rolliver, tửu quán duy nhất ở đầu cái thôn dài và đứt quãng, chỉ có thể khoe khoang về việc buôn bán không giấy phép; vì không ai có thể uống hợp pháp ở đó, số lượng khách công khai giới hạn nghiêm ngặt ở một tấm bảng nhỏ rộng khoảng sáu phân và dài hai thước Anh, được cố định vào cọc rào với những sợi dây kẽm, tạo thành một cái bàn. Những người khách lạ đặt cốc của mình trên tấm bảng này trong lúc họ đứng trên đường và uống, rồi hắt cặn bia lên nền đất bụi theo hình thù của quần đảo Polynesia, và ước gì họ có thể có một chỗ ngồi thoải mái bên trong.
Khách lạ thì thế. Nhưng cũng có những khách địa phương với ước ao tương tự; và khi có một mong muốn, sẽ có một cách để thực hiện nó.
Tối hôm đó có gần một tá người tụ tập trong một căn phòng ngủ rộng trên gác, với cửa sổ được che kín bởi một tấm khăn choàng to bằng len mà bà Rolliver, chủ quán, vừa loại bỏ gần đây, tất cả đều tìm kiếm cảm giác an bình; tất cả đều là những cư dân kỳ cựu ở đầu này của thôn Marlott và đều là những người thường xuyên lui tới nơi ẩn dật này. Không chỉ khoảng cách tới quán Giọt Trong Lành, vì tửu quán có giấy phép đầy đủ nằm ở tận đầu kia của cái thôn nhà cửa rải rác, khiến việc lui tới đó không tiện mấy với cư dân ở đầu này; mà còn có một vấn đề hệ trọng hơn, chất lượng của rượu, xác nhận cho ý kiến phổ biến rằng uống với Rolliver trong một góc mái nhà vẫn khoái hơn là với một chủ quán khác trong một ngôi nhà rộng.
Một cái giường bốn cọc thô sơ trong phòng cung cấp chỗ ngồi cho nhiều người tụ tập quanh ba phía của nó; hai người ngồi chễm chệ trên đầu một cái tủ ngăn; một người khác ngồi trên một cái rương gỗ sồi có chạm trổ; hai trên một cái giá rửa mặt; một người khác trên chiếc ghế đẩu; vậy là, theo cách nào đó, tất cả đều ngồi thoải mái. Trạng thái tinh thần dễ chịu mà họ đạt tới vào giờ này là một trạng thái trong đó linh hồn họ mở rộng ra bên ngoài da thịt, và hơi ấm trải rộng tính cách của họ khắp căn phòng. Trong tiến trình này, căn phòng và đồ đạc của nó ngày càng sang trọng và đầy phẩm giá; cái khăn choàng ở cửa sổ khoác lên chính nó sự giàu có của một tấm thảm thêu; những tay nắm bằng đồng của các tủ ngăn trông như thể vàng ròng; và mấy cái cột giường chạm trổ dường như có quan hệ bà con với những cây cột tráng lệ của ngôi đền của Solomon.
Bà Durbeyfield, sau khi chia tay với Tess, vội vã đi tới đó, mở cánh cửa trước, băng qua căn phòng tối mù bên dưới, sau đó mở cái cửa cầu thang như một người rất quen thuộc với trò lừa đảo của những cái then cài. Bà trèo lên cái cầu thang quanh co với một tốc độ chậm chạp hơn, và gương mặt của bà, khi nó lọt vào ánh sáng bên trên nấc thang cuối, đón nhận cái nhìn chằm chặp của mọi thành viên tụ tập trong căn phòng ngủ.
“…Chỉ là vài người bạn thân tôi đã mời tới để duy trì hội diễu hành với phí tổn của mình,” bà chủ quán phân bua khi nghe thấy tiếng chân, liếng thoắng như một đứa trẻ lặp lại một câu trong cuốn Giáo lý Vấn đáp, trong lúc nhìn ra đầu cầu thang. “Ồ, ra là bà, bà Durbeyfield… Lạy Chúa tôi, bà làm tôi sợ hết hồn! Tôi tưởng là một quan chức nào đó do chính quyền cử tới.”
Bà Durbeyfield, được chào mừng với những ánh mắt và cái gật đầu của số còn lại của buổi họp kín, quay sang phía chồng mình đang ngồi. Ông đang lơ đãng ngâm nga nho nhỏ với chính mình: “Ta cũng tốt như một số người đây đó! Ta có một hầm mộ gia tộc lớn ở Kingsbere-sub-Greenhill, và những bộ xương đẹp hơn bất cứ kẻ nào ở Wessex!”
“Tôi có một việc muốn nói với ông, nó vừa nảy ra trong đầu tôi, một kế hoạch lớn!” Bà vợ vui vẻ thì thầm. “Nè, John, ông có thấy tôi không?” Bà thúc nhẹ cùi chỏ vào người ông, trong lúc ông nhìn xuyên qua bà như xuyên qua một tấm kính cửa sổ, và tiếp tục ngâm nga.
“Suỵt! Đừng hát lớn quá, ông bạn tốt của tôi.” Bà chủ quán nói; “Để phòng khi có viên chức chính quyền nào đó có thể đi ngang qua, và thu giấy phép của tôi.”
“Tôi nghĩ ổng đã kể với mọi người chuyện gì đã xảy ra với chúng tôi?” Bà Durbeyfield hỏi.
“Phải, theo cách thức nào đó. Bà nghĩ vụ này có mang tới chút ít tiền bạc gì không?”
“À, đó là một bí mật.” Joan Durbeyfield từ tốn đáp. “Tuy nhiên, có quan hệ với một cỗ xe ngựa thì cũng tốt, dù bà không ngồi trong đó.” Bà hạ giọng để nói tiếp với ông chồng: “Tôi đã suy nghĩ từ khi ông mang về cái tin rằng có một quý bà giàu có ở gần Trantridge thuộc huyện The Chase, mang họ d'Urberville."
“Hả, đó là gì?” Ngài John hỏi.
Bà vợ lặp lại thông tin. “Quý bà đó phải là bà con của chúng ta. Và kế hoạch của tôi là cử Tess tới đó để nhận họ hàng.”
“À, đúng là có một quý bà mang họ đó.” Durbeyfield nói. “Cha xứ Tringham không nghĩ tới điều đó. Nhưng bả chả là gì bên cạnh tôi; chỉ là một nhánh phụ của chúng ta, không ngờ gì, kể từ thời Vua xứ Norman.”
Trong lúc thảo luận vấn đề này, không ai trong đôi vợ chồng nhận ra, do đang mải mê trò chuyện, thằng bé Abraham đã len lén vào phòng, và đang chờ cơ hội để đề nghị họ trở về nhà.
“Bả giàu, và chắc chắn bả sẽ chú ý tới con bé.” Bà Durbeyfield tiếp tục; “Và đó sẽ một việc rất tốt. Tôi thấy không có lý do gì để hai nhánh của một dòng họ không qua lại thăm viếng nhau.”
“Phải; và tất cả chúng ta sẽ nhận họ hàng.” Abraham vui vẻ lên tiếng từ dưới cái giường. “Và tất cả sẽ tới thăm bả khi chị Tess đã tới sống với bả; và chúng ta sẽ ngồi trong cỗ xe ngựa của bả và mặc đồ sang trọng!”
“Con tới đây bằng cách nào vậy, con yêu? Con đừng nói vớ vẩn! Ra ngoài, và chơi trên cầu thang cho tới khi cha mẹ sẵn sàng!... Chà, Tess nên tới thăm người bà con này của chúng ta. Chắc chắn nó sẽ chiếm được cảm tình của quý bà đó, nhất định thế; và có khả năng việc đó sẽ dẫn tới một đám cưới giữa nó và một quý ông. Nói tóm lại, tôi biết thế.”
“Bằng cách nào?”
“Tôi đã thử tìm vận mệnh của nó trong cuốn Bốc Sư, và nó ghi đúng y như vậy!... Ông nên thấy hôm nay trông nó xinh xắn thế nào; da nó mịn như da của một nữ công tước.”
“Bản thân con bé nói gì về việc đi thăm?”
“Tôi chưa bảo với nó. Nó chưa biết có một người họ hàng là quý bà. Nhưng chắc chắn việc này sẽ dẫn nó tới một cuộc hôn nhân tuyệt vời, và nó sẽ không từ chối.”
“Tess nó khác người.”
“Nhưng tính tình nó ngoan ngoãn. Cứ để nó cho tôi.”
Dù đó là câu chuyện riêng giữa họ, vẻ quan trọng của nó đủ để những người xung quanh nhận ra rằng hiện giờ vợ chồng Durbeyfields có những mối quan tâm nặng ký hơn, và Tess, con gái lớn nhất của họ, sắp có một tương lai rạng rỡ.
“Tess là một con bé vui vẻ dễ thương, như hồi sáng này tôi đã tự nhủ khi nhìn thấy nó đi vòng quanh xứ đạo với số còn lại.” Một trong số bợm nhậu lớn tuổi khẽ nhận xét. “Nhưng Joan Durbeyfield phải lưu ý để nó đừng vác ba lô ngược trước ngày cưới.”[15] Đó là một cụm từ địa phương có một ý nghĩa đặc biệt, và không có lời đáp lại.
Cuộc trò chuyện giờ mở rộng cho tất cả, ngay sau đó một tiếng chân khác đang băng qua căn phòng bên dưới.
“…Chỉ là vài người bạn thân tôi đã mời tới để duy trì hội diễu hành với phí tổn của mình.” Bà chủ quán nhanh chóng lặp lại công thức mà bà thủ sẵn để đối phó với những kẻ xâm phạm trước khi nhận ra kẻ mới tới là Tess.
Trước ánh mắt của người mẹ, vẻ thanh tân của cô gái lạc lõng một cách đáng buồn giữa hơi rượu nồng nặc ở nơi đây, hoàn toàn không hợp với những gương mặt nhăn nheo ở lứa tuổi trung niên; và hầu như không cần tới một tia mắt trách hờn nào từ đôi mắt đen của Tess, cha mẹ nàng đứng lên, vội vã nốc cạn cốc của mình, rồi theo nàng đi xuống gác. Lời cảnh báo của bà Rolliver đuổi theo sau những bước chân của họ.
“Bạn thân mến của tôi, xin đừng ồn ào, nếu các vị tốt bụng; không thì tôi sẽ mất giấy phép, và bị mời lên làm việc, và không biết còn thứ quái gì sau đó! Chúc ngủ ngon!”
Họ cùng về nhà, Tess đỡ một cánh tay của cha, và bà Durbeyfield  đỡ cánh tay còn lại. Thật sự, ông uống rất ít, chưa tới một phần tư số lượng một tay bợm thứ thiệt có thể nốc vào một chiều Chủ nhật mà vẫn không gặp chút phiền toái nào trên đường tới nhà thờ hay trong lúc quỳ làm lễ; nhưng thể trạng yếu ớt của Ngài John gây ra cả ngàn điều phiền toái. Khi bước ra bầu không khí trong lành, ông đi đứng loạng choạng đến độ có lúc như thể ba người bọn họ đang đi về phía London, lúc khác lại như thể họ đang đi về phía Bath. Điều này tạo nên một ấn tượng khôi hài, rất thường xảy ra trong các gia đình khi trở về nhà vào ban đêm; và như hầu hết những ấn tượng khôi hài, rốt cuộc lại chẳng hài hước chút nào. Hai người phụ nữ cố kiên trì che đậy những lần buộc phải chuyển hướng trở lui này với Durberfield, nguyên nhân của chúng, với Abraham và với chính họ; cứ thế họ lần từng bước tới cửa nhà mình. Khi gần tới nhà, ông chủ gia đình đột ngột rống lên điệp khúc trước đó, như thể để củng cố tinh thần khi nhìn thấy nơi cư ngụ nhỏ bé hiện tại của mình:
“Ta có một cái hầm mộ g-i-a tộc ở Kingsbere!”
“Suỵt, đừng ngớ ngẩn thế, Jacky.” Bà vợ nói. “Gia tộc của ông không phải là gia tộc vẻ vang duy nhất thời xưa. Hãy nhìn gia tộc Anktells, Horseys, và Tringhams, hầu như họ cũng sa sút như ông, dù tổ tiên ông cao hơn họ, điều đó đúng. Tạ ơn Chúa, tôi chưa từng là con dòng cháu giống gì cả, và không có gì phải hổ thẹn về việc đó!”
“Bà đừng quá chắc chắn về việc đó. Từ bản tính của bà, tôi tin rằng bà đã tự hạ thấp phẩm giá hơn bất cứ ai trong số chúng tôi, và tổ tiên bà từng một thời là những ông vua bà chúa.”
Tess đổi đề tài, nói tới điều quan trọng hơn nhiều trong đầu mình lúc đó so với những ý nghĩ về tổ tiên: “Con e rằng mai tía không thể đi quá sớm với mớ tổ ong.”
“Ta ư? Ta sẽ ổn sau một hai giờ nữa.” Durbeyfield đáp.
Mãi tới mười một giờ cả nhà mới lên giường, và hai giờ sáng hôm sau là giờ khởi hành muộn nhất với mớ tổ ong vì chúng phải được giao cho những người bán lẻ ở Casterbridge  trước khi phiên chợ Thứ bảy bắt đầu; đường tới đó rất tệ hại trên một khoảng cách từ hai mươi tới ba mươi dặm, và con ngựa cùng cỗ xe là loại ì ạch chậm chạp nhất. Lúc một giờ rưỡi, bà Durbeyfield vào căn phòng lớn nơi Tess và mấy đứa em trai em gái của nàng ngủ.
“Ông lão tội nghiệp không đi nổi,” bà nói với Tess. Đôi mắt to của nàng đã mở ngay khi bà mẹ chạm vào cửa.
Tess ngồi dậy trên giường, lạc vào cõi mông lung giữa một giấc mơ và thông tin này.
“Nhưng phải có ai đó đi,” nàng đáp. “Giờ đã trễ rồi. Ong sẽ sớm chia tổ trong năm; và nếu chúng ta hoãn tới phiên chợ tuần sau, thời hạn sẽ qua, và chẳng còn gì trong tổ nữa.”
Bà Durbeyfield nhìn vấn đề khẩn cấp theo cách khác. “Có lẽ chàng trai trẻ nào đó sẽ đi? Một trong số những đứa mê tít con sau khi nhảy với con hôm qua,” bà đề xuất.
“Ồ, không. Con không bao giờ làm chuyện đó!” Tess kiêu hãnh tuyên bố. “Và nếu mọi người biết lý do thì thật xấu hổ! Con nghĩ con có thể đi nếu có Abraham đi cùng để bầu bạn trên đường.”
Cuối cùng mẹ nàng đồng ý với đề nghị này. Nhóc Abraham đang say ngủ trong một góc của căn phòng bị đánh thức và giúp mặc quần áo trong lúc đầu óc vẫn mơ màng trong một thế giới khác. Trong lúc đó cũng Tess vội vã thay đồ; hai chị em thắp một cái đèn lồng và đi ra chuồng ngựa. Cỗ xe ngựa ọp ẹp đã được chất sẵn hàng, và cô gái dắt con ngựa tên Hoàng Tử ra; nó chỉ kém hom hem hơn cỗ xe chút xíu.
Con vật tội nghiệp ngơ ngác nhìn bóng đêm xung quanh, cái đèn lồng, và hai dáng người, như thể nó không thể tin rằng vào giờ đó, khi mọi sinh vật được ấn định nghỉ ngơi trong một nơi trú ẩn, nó lại bị lôi ra để làm việc. Họ đặt một mớ đuôi nến vào cái đèn lồng, treo nó ở mé ngoài mớ tổ ong, dắt con ngựa đi, và đi bộ bên cạnh nó vào lúc đầu, trên những đoạn đường lên dốc, để con vật già yếu không phải làm việc quá sức. Để tự động viên tinh thần, họ tạo ra một buổi sáng giả tạo với cái đèn lồng, một ít bánh mì và bơ, và cuộc trò chuyện của chính họ, vì buổi sáng thật sự còn lâu mới đến. Lúc này đã tỉnh ngủ hơn (vì nó đã đi một quãng khá xa trong trạng thái lơ mơ), Abraham bắt đầu nói về những hình dáng lạ lùng hình thành bởi những vật thể tối nổi lên trên nền trời: một cây nọ trông như một con hổ giận dữ lao ra từ một cái hang; hoặc một cây khác trông như đầu một gã khổng lồ.
Khi đã đi qua thị trấn nhỏ Stourcastle, đang lặng lẽ thiếp ngủ bên dưới những mái tranh nâu dày, họ tới vùng đất cao hơn. Cao hơn nữa, ở mé bên trái họ, là ngọn đồi Bulbarrow, hoặc Bealbarrow, hầu như là nơi cao nhất ở South Wessex, sừng sững vươn lên bầu trời, bị bao quanh bởi những rãnh nước phía đông. Từ đây trở đi con đường dài khá bằng phẳng trong một quãng. Họ trèo lên phía trước cỗ xe, và Abraham bắt đầu ngẫm nghĩ.
“Chị Tess ơi!” Nó mở đầu câu chuyện sau một lúc im lặng.
“Ờ, gì thế Abraham.”
“Chị có mừng không khi chúng ta trở thành quý tộc?”
“Không hẳn là mừng.”
“Nhưng chị có mừng vì chị sẽ lấy một quý ông không?”
“Sao?” Tess hỏi, ngẩng mặt lên.
“Người bà con giàu có đó sẽ giúp chị cưới một quý ông.”
“Chị? Người bà con giàu có? Chúng ta không có người bà con nào như thế cả. Em đào đâu ra việc đó vậy?”
“Em đã nghe họ nói chuyện đó ở quán của Rolliver khi tới đó tìm tía. Có một quý bà giàu có trong gia tộc mình ở mé Trantridge, và má bảo rằng nếu chị tới nhận bà con với bả, bả sẽ giúp chị lấy một quý ông.”
Cô chị đột nhiên trở nên trầm tư lặng lẽ. Abraham nói tiếp, vì niềm vui được nói hơn là được nghe, không bận tâm tới sự lơ đãng của bà chị. Nó tựa lưng vào đống tổ ong, ngẩng mặt lên quan sát những vì sao lạnh lẽo đang nhấp nháy giữa bầu trời, trong sự tách biệt thanh bình với hai phận người bé nhỏ. Nó tự hỏi những vì sao lấp lánh đó xa đến mức nào, và Chúa Trời  có ở cạnh chúng không. Nhưng chẳng mấy chốc thắc mắc trẻ con của nó lại quay về với điều tạo ấn tượng mạnh mẽ nhất trong trí tưởng nó, thậm chí còn hơn cả những tuyệt tác của đấng hóa công. Tess có trở nên giàu có bằng cách lấy một quý ông hay chăng, nàng có đủ tiền để mua một cái kính thiên văn to đến nỗi nó sẽ kéo những vì sao tới gần nàng như ngọn đồi Nettlecombe-Tout hay chăng?
Đề tài này, vốn dường như đã ngấm sâu vào đầu óc của cả gia đình, được hâm nóng lại, khiến Tess bực mình.
“Đừng bận tâm tới nó lúc này!” Nàng kêu lên.
“Có phải chị từng nói những vì sao là những thế giới không, chị Tess?”
“Phải.”
“Tất cả đều giống thế giới của chúng ta?”
“Chị không biết; nhưng chị nghĩ thế. Đôi khi chúng giống như những quả táo trên cây táo của chúng ta. Hầu hết đều ngon lành, như những vì sao may mắn, một số bị hư thối, như những vì sao xấu.”
“Chúng ta sống trên thứ nào, một vì sao may mắn hay xấu?”
“Một vì sao xấu.”
“Thật không may khi chúng ta không sống trên một vì sao may mắn, khi chúng còn rất nhiều như thế!”
“Phải.”
“Có thật sự như thế không, chị Tess?” Abraham quay sang nàng với vẻ rất quan tâm, khi ngẫm nghĩ kỹ hơn về thông tin hiếm hoi này. “Giả sử chúng ta sống trên một vì sao may mắn thì sao hả chị?”
“Ờ, có lẽ tía không ho và lụm cụm yếu ớt như hiện giờ và cũng không quá say để thực hiện chuyến đi này; má sẽ không phải giặt giũ luôn tay, và không bao giờ làm xong việc.”
“Và chắc chị sẽ là một quý cô giàu có từ trong bụng mẹ, không cần phải làm giàu bằng cách cưới một quý ông?”
“Ồ, Aby, em đừng nói gì về việc đó nữa nhé!”
Bị bỏ mặc với những suy nghĩ của mình, chẳng bao lâu Abraham lại ngủ gà gật. Tess không đánh xe giỏi lắm, nhưng nàng nghĩ hiện giờ nàng có thể tự mình gánh vác toàn bộ công việc và để cho Abraham ngủ nếu nó muốn. Nàng lót cho nó một chỗ nằm trước mớ tổ ong, sao cho nó không thể bị lọt khỏi xe, rồi nắm lấy dây cương và cho xe chạy như trước.
Nàng không cần chú ý nhiều tới Hoàng Tử vì nó thiếu năng lượng cho những cử động thừa thãi. Không còn người bạn đồng hành khiến nàng xao lãng, Tess chìm sâu hơn vào mơ mộng, lưng tựa vào mớ tổ ong. Những hàng cây và bờ giậu im lặng lướt qua vai nàng dần dần gắn với những cảnh tượng mơ màng bên ngoài thực tại, và tiếng gió vi vu thi thoảng trở thành tiếng thở dài của một linh hồn bát ngát u buồn nào đó, hòa vào vũ trụ trong không gian, và lịch sử trong thời gian.
Sau đó, khi kiểm điểm lại những sự kiện trong đời mình, dường như nàng nhìn thấy sự phù phiếm trong lòng tự hào của cha nàng; kẻ cầu hôn quý phái đang chờ nàng trong trí tưởng tượng của mẹ nàng; nhìn thấy gã đang cười nhăn nhở, chế nhạo sự nghèo nàn và những hiệp sĩ tiền nhân đã bọc trong vải liệm của nàng. Mọi thứ càng lúc càng trở nên vô lý, và nàng không còn biết thời gian trôi qua thế nào. Chiếc xe chợt rung chuyển mạnh khiến Tess giật mình thoát khỏi giấc ngủ mà cả nàng cũng đã rơi vào.
Trong lúc nàng ngủ quên, họ đã đi được một chặng khá xa, và cỗ xe đã dừng lại. Một tiếng rên trầm trọng, không giống bất cứ thứ gì nàng từng nghe thấy trong đời, đến từ phía trước, tiếp theo là một tiếng la lớn “Ối chà!”
Cái đèn lồng treo trên xe đã tắt, nhưng một cái khác đang rọi vào mặt nàng, sáng hơn đèn của nàng nhiều. Một chuyện khủng khiếp đã xảy ra. Dây cương vướng vào một vật đang chắn ngang đường.
Tess nhảy xuống trong nỗi kinh hoàng, và phát hiện ra sự thật đáng sợ. Tiếng rên phát ra từ con ngựa Hoàng Tử tội nghiệp của cha nàng. Cỗ xe chở thư sáng, với cặp bánh êm ru, lướt trên những lối mỏn này như một mũi tên, như luôn là thế, đã đâm sầm vào cỗ xe chậm chạp và không ánh sáng của nàng. Cái càng xe nhọn đã đâm vào ngực của Hoàng Tử không may như một mũi kiếm, từ vết thương máu của nó đang phun ra như suối, và rơi xèo xèo xuống mặt đường.
Trong cơn tuyệt vọng, Tess lao tới và đặt tay lên cái lỗ, và kết quả duy nhất là những giọt máu đỏ tươi làm nàng ướt sũng từ mặt tới vạt áo. Sau đó nàng đứng nhìn nó một cách bất lực. Hoàng Tử vẫn cố đứng thẳng và bất động một lúc; cho tới khi nó đột ngột quỵ xuống.
Lúc này người đánh xe thư đã tới bên nàng, và bắt đầu lôi và tháo bộ dây cương khỏi thân hình còn nóng của Hoàng Tử. Nhưng nó đã chết rồi. Khi thấy không thể làm gì hơn ngay lúc đó, người đánh xe thư quay lại với con ngựa của mình. Nó không bị thương.
“Cô đã đi sai phía.” Ông ta nói. “Tôi buộc phải đi tiếp với những túi thư, thế nên điều tốt nhất cô nên làm là ở đây với mớ hàng. Tôi sẽ nhờ ai đó tới giúp cô ngay khi có thể. Trời sắp sáng rồi và cô không có gì để sợ.”
Ông ta trèo lên xe và đi tiếp; trong lúc Tess đứng chờ. Bầu không khí trở nên nhợt nhạt, lũ chim giũ lông giũ cánh trong những bờ giậu, bay ra, và hót líu lo; con đường để lộ những đường nét trắng bệch, và Tess cũng thế, còn trắng bệch hơn. Vũng máu lớn trước mặt nàng đã đông lại, phát ra một màu ngũ sắc lóng lánh; và khi mặt trời lên, hàng trăm sắc màu lăng kính phản chiếu từ nó. Hoàng Tử nằm nghiêng một bên, bất động, cứng đờ; mắt nó nhắm hờ, cái lỗ ở ngực nó trông đủ to để toàn bộ máu trong người nó chảy ra hết.
“Tất cả là do lỗi của mình, tất cả!” Cô gái kêu lên, nhìn trừng trừng vào con vật. “Mình không có lý do gì để bào chữa cả, không hề có. Giờ tía má sẽ sống nhờ vào cái gì đây? Aby, Aby!” Nàng lay thằng bé. Nó vẫn ngủ ngon lành trong suốt thời gian xảy ra tai họa. “Chúng ta không thể đi tiếp với mớ tổ ong. Hoàng Tử chết rồi!”
Khi Abraham nhận thức được mọi sự, những nếp nhăn của tuổi năm mươi xuất hiện trên gương mặt trẻ con của nó.
“Vì sao, mới hôm qua mình còn nhảy múa, cười vang!” Nàng nói tiếp với chính mình. “Hãy nghĩ xem mình là một đứa ngu ngốc thế nào!”
“Đó là vì chúng ta ở trên một ngôi sao xấu chứ không phải một ngôi sao may mắn, phải không, chị Tess?” Thằng bé lẩm bẩm qua hai hàng lệ.
Họ im lặng chờ đợi suốt một quãng thời gian dường như vô tận. Cuối cùng một âm thanh và đối tượng tiến tới gần, chứng minh với họ rằng người đánh xe chở thư cũng tốt như lời hứa của ông. Một người làm công ở nông trại gần Stourcastle tới, dắt theo một con ngựa lùn khỏe mạnh. Nó được thắng vào cỗ xe chở tổ ong thay cho Hoàng Tử, và số hàng được đưa tới Casterbridge.
Xế chiều hôm đó, cỗ xe trống lại đi tới địa điểm xảy ra tai nạn. Hoàng Tử đã được lôi xuống một cái rãnh gần đó từ sáng; nhưng vị trí của vũng máu vẫn còn thấy rõ ở giữa con đường, dù đã bị những xe cộ qua lại xéo nát. Tất cả những gì còn lại của Hoàng Tử lúc này được nhấc lên cỗ xe mà trước đó nó đã kéo; với những chiếc móng guốc chĩa lên trời và những cái móng sắt lấp loáng trong ánh hoàng hôn, nó quay trở lại con đường chín dặm tới Marlott.
Tess đã quay về sớm hơn. Nàng bối rối không biết phải báo tin này như thế nào. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm hơn khi nhận ra từ nét mặt của cha mẹ rằng họ đã biết về tai nạn, dù điều này không giảm bớt sự tự trách mà nàng tiếp tục chất nặng trong lòng về sơ suất của mình.
Nhưng chính sự ù lì của gia đình này lại khiến cho tai họa ít kinh khủng hơn so với mức nó có thể có đối với một gia đình đang làm ăn phát đạt, dù trong trường hợp hiện tại nó có nghĩa là sự sụp đổ, còn với trường hợp kia nó chỉ có nghĩa là sự bất tiện. Trên nét mặt của vợ chồng Durbeyfield không có ngọn lửa giận dữ mà hẳn sẽ thiêu cháy cô con gái của những bậc cha mẹ có nhiều tham vọng hơn đối với hạnh phúc của nàng ta. Không ai trách Tess như nàng tự trách mình.
Khi biết rằng người chuyên mua ngựa già để làm thịt và người thuộc da chỉ trả vài siling cho cái xác của Hoàng Tử vì nó quá già, Durbeyfield tỏ ra bình thản. Ông bảo:
“Không, ta sẽ không bán xác của nó. Khi họ d'Urbervilles của chúng ta là những hiệp sĩ trong vùng, chúng ta không bán ngựa của mình để làm thức ăn cho mèo. Cứ để họ giữ lại tiền của họ. Nó đã phục vụ ta rất tốt trong suốt đời mình, và giờ ta sẽ không chia tay với nó.”
Hôm sau, ông đào trong vườn một cái huyệt cho Hoàng Tử, chăm chỉ hơn ông từng làm việc suốt nhiều tháng để trồng trọt các thứ cho gia đình mình. Khi cái hố đã sẵn sàng, Durbeyfield và vợ cột một sợi thừng quanh con ngựa và kéo nó tới đó, lũ trẻ lũ lượt theo sau như đang dự một đám tang. Abraham và 'Liza-Lu nức nở, Hope và Modesty bộc lộ niềm đau đớn với những tiếng khóc lớn vang dội lại từ những bức tường; và khi Hoàng Tử được hất xuống hố, cả nhà tập trung quanh cái huyệt. Lao động chính trong nhà đã mất, họ sẽ làm gì?
“Nó có lên thiên đàng không?” Abraham hỏi, giữa những tiếng nức nở.
Sau đó Durbeyfield bắt đầu lấp cái hố lại, và lũ trẻ lại khóc hu hu lần nữa. Tất cả, trừ Tess. Mặt nàng khô và tái nhợt, như thể nàng tự cho mình là một nữ sát nhân.

________________________
Notes:

[2] Battle Abbey Roll: một bản danh sách tưởng niệm các hiệp sĩ đồng hành với William – Kẻ Chinh phục, được khắc trong một tu viện dòng Biển Đức ở thị trấn Battle, North Sussex.

[3] Oliver Cromwel (1599-1658): lãnh tụ quân sự và chính trị của Khối Liên hiệp Anh, Wales, Scotland và Ireland.

[4] Royal Oak Knights: các Hiệp sĩ có công trong việc khôi phục vương triều của Vua Charles II (1630-1685).

[5] Ngày lễ mừng mùa xuân diễn ra vào ngày 1 tháng 5.

[6] Trong tín ngưỡng La Mã cổ đại, Cerealia là một lễ hội chính để tôn vinh nữ thần mùa màng, nông nghiệp Ceres. Nó được tổ chức trong 7 ngày từ giữa đến cuối tháng Tư, nhưng thời điểm không xác định.

[7] Old Style days: thời gian trước năm 1752, khi Anh thay lịch Julian bằng lịch Gregorian.

[8] Trong bản tiếng Anh sử dụng rất nhiều phương ngữ. Vì tránh gây khó chịu cho độc giả, và thật sự rất khó chuyển tải nét độc đáo của phương ngữ tiếng Anh sang tiếng Việt do nhiều bất tương đồng, người dịch sẽ dịch những phương ngữ trong bản gốc theo từ ngữ thông thường; nhưng, đồng thời, để nhấn mạnh tính địa phương (miền Nam nước Anh), xin sử dụng một số đại từ nhân xưng miền Nam Việt Nam như: ổng, bả, tía, má… thay cho những phương ngữ khác không thể chuyển ngữ như đã nói trên.

[9] Nguyên văn: fess = pleased;

[10] Nguyên văn: poppet = doll, puppet

[11] Sixth Standard in the National School: cấp lớp cao nhất trong trường học do ngân sách nhà nước tài trợ, được điều hành bởi Hội Nâng cao Giáo dục cho người nghèo Quốc gia. Trường đầu tiên được thành lập năm 1811.

[12] Tức Oliver Cromwell.

[13] Các Đạo luật Giáo dục sửa đổi năm 1862 và 1867.

[14] Từ bài thơ “Lines Written in Early Spring” (dòng 22) của nhà thơ William Wordsworth (1770-1850).

[15] Nguyên văn: get green malt on the floor. Cụm từ này ám chỉ việc một cô gái có thai trước khi kết hôn.