Tôi tình cờ tìm được site có bộ phim The Return of The Native, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Thomas Hardy mà tôi vô cùng yêu mến.
CLICK VÀO ĐÂY ĐỂ XEM PHIM
Chợt nhớ lâu rồi tôi có dịch vài chương của tiểu thuyết này. Tìm và post lại dưới đây hai chương. Sẽ hoàn thành bản dịch trong thời gian sớm nhất. Tôi đã bỏ quên nó như quên bẳng một người tình cũ. Tình cũ làm sao quên!
TRỞ LẠI CỐ HƯƠNG
Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
Dịch từ nguyên tác The Return of the Native
Dịch giả giữ bản quyền bản tiếng
Việt.
Lời
đầu truyện
Thời điểm của các
sự kiện thuật lại trong sách xảy ra vào khoảng giữa 1840 và 1850, khi miền đất
ngập trũng xưa cũ mà ở đây gọi là “Budmouth” vẫn còn giữ được trọn vẹn ánh
hoàng hôn rực rỡ và đầy uy thế của kỷ nguyên Georgian để khoác lên nó một vẻ
quyến rũ đắm hồn đối với tâm hồn lãng mạn và giàu tưởng tượng của một kẻ ngụ cư
cô lẻ trong miền nội địa.
Quang cảnh ảm đạm của
vùng đất mang cái tên chung “Egdon Heath” này là sự kết hợp hoặc điển hình hóa
của ít nhất hơn một chục cánh đồng thạch nam có thật khác nhau; những cánh đồng
hoang hầu như là một về đặc tính và ngoại diện này, dù vẫn đồng nhất về nguồn
gốc hay thành phần, hiện đang bị che đậy bởi những dải đất đã được cấy cày ở
nhiều mức độ khác nhau hoặc đã được trồng rừng.
Thật thú vị khi mơ
mộng rằng một mảnh đất nào đó trong dải đất rộng lớn mà phần phía tây nam được
mô tả ở đây của nó có thể chính là miền đất xưa cũ của Vua Lear xứ Wessex .
Tháng 7, 1895
Thomas Hardy
“Đã chào từ
biệt nỗi buồn
Tưởng như đã bỏ lại nàng sau lưng
Nhưng nàng tốt bụng, thủy chung
Vẫn luôn nối bước dặm trường bên tôi
Dù tôi có thể xa rời
Với lời chót lưỡi đầu môi dối nàng
Nhưng ôi nàng quá thủy chung.”
JOHN KEATS (Endymion)
QUYỂN MỘT – BA NGƯỜI PHỤ NỮ
______________________________________________
1
_________________________
Một gương mặt mà trên đó thời gian
không tạo được nhiều ấn tượng
Một buổi chiều thứ
Bảy của tháng Mười một đang tiến dần về phía hoàng hôn, và cánh đồng thạch nam
mênh mông của miền hoang dã có tên gọi là Egdon Heath đang dần nhuộm nâu chính
nó. Bên trên, dải mây trắng thênh thang trùm khắp bầu trời như một tấm lều mà
toàn bộ vùng đất này là cái nền lều.
Màn
trời trải rộng một màu xanh nhợt nhạt, còn cây cỏ trên mặt đất thẫm một màu
xanh âm u nhất, đường tiếp tuyến của chúng tại chân trời hiện lên thật rõ. Trong
sự tương phản đó, màn đêm đang chiếm lĩnh vùng hoang địa trước cả giờ khắc tự
nhiên: bóng tối đã bao trùm khắp chốn, trong lúc ngày vẫn còn hiện diện tỏ
tường trên bầu trời. Nếu ngẩng lên nhìn, một người thợ cắt kim tước hẳn sẽ muốn
tiếp tục làm; nhưng nhìn xuống, anh ta sẽ quyết định chấm dứt công việc và trở
về nhà. Những mép rìa của thế gian và bầu trời dường như là một sự phân cách về
thời gian cũng như vật chất. Bộ mặt của cánh đồng hoang đã nhích về phía bóng
đêm thêm nửa giờ thông qua màu sắc của nó; cũng theo cùng cách thức đó, nó có
thể trì hoãn lại ánh bình minh, khiến vầng trăng trở nên ảm đạm, dự báo về
những cơn bão hiếm khi khởi phát, và tăng thêm vẻ mịt mùng của một đêm tối
không trăng, khiến người ta phải rùng mình sợ hãi.
Trên
thực tế, ngay tại thời điểm chuyển giao lùi dần vào bóng tối này, vẻ rực rỡ
tuyệt diệu và riêng biệt của vùng hoang địa Egdon đã khởi đầu, và có thể nói
rằng không một ai thấu hiểu được miền đất này nếu anh ta không có mặt tại chỗ
ngay đúng thời khắc đó. Người ta có thể cảm nhận nó tốt nhất khi không thể nhìn
rõ nó, tác động và lời giải thích trọn vẹn của nó nằm ngay ở lúc này và những
giờ khắc tiếp theo trước lúc rạng sáng hôm sau; khi đó, và chỉ khi đó, nó mới
kể ra câu chuyện thật sự của mình. Thật sự, thời khắc này là một người bà con
thân cận của đêm, và khi bóng đêm xuất hiện, người ta có thể nhận thấy rõ ràng
xu hướng thu hút lẫn nhau giữa cảnh vật và những bóng tối. Những dải đất hình
tròn hay những lòng chảo tối tăm dường như vươn cao lên để tiếp đón màn đêm mờ
mịt trong niềm cảm thông thuần khiết; cánh đồng lan tỏa bóng tối, và bầu trời
lắng tụ nó, nhanh chóng như nhau. Bầu trời tối tăm và mặt đất tối tăm tiếp cận
nhau như thế, trong màn đêm đen thân thiện mà mỗi phía đều đã đi được nửa phần
đường hướng tới nó.
Lúc
này, vùng hoang địa chất chứa một sự căng thẳng đầy cảnh giác; vì khi vạn vật
khác chìm vào giấc ngủ, có vẻ như nó đang chậm rãi thức giấc và lắng nghe. Hằng
đêm, hình dáng kỳ vĩ của nó dường như đang chờ đợi một điều gì đó; nhưng nó đã
đợi chờ như vậy, không hề dịch chuyển trong suốt nhiều thế kỷ, trải qua rất
nhiều cuộc khủng hoảng, tới mức chỉ có thể hình dung rằng nó đang đợi chờ cơn
khủng hoảng cuối, sự lật đổ cuối cùng.
Thời
khắc này sẽ quay trở lại hồi ức của những ai yêu thương nó với một tâm trạng
khác thường và niềm cảm thông chân thật. Những cánh đồng đầy hoa trái khó mà
làm được điều này, vì thông thường chúng chỉ hòa hợp với một sự hiện hữu vốn
nổi tiếng về các vấn đề của chính nó hơn là về hiện tại. Ánh chiều chạng vạng
kết hợp với cảnh vật của Egdon Heath mở ra một sự uy nghi mà không khắc nghiệt,
ấn tượng mà không phô trương, dứt khoát trong những lời cảnh báo của nó, vĩ đại
trong sự giản đơn của nó. Những phẩm chất, vốn thường được trưng ra ở mặt tiền
của một nhà tù với một phẩm cách cao trọng hơn nhiều so với thứ mà người ta tìm
thấy ở mặt tiền của một cung điện, đã nhân đôi tầm vóc của nó để trao cho vùng
hoang địa này một sự uy nghi mà những mảnh đất lừng danh về vẻ đẹp đã được thừa
nhận luôn cực kỳ mong muốn. Những triển vọng tốt đẹp kết hôn một cách hạnh phúc
với những thời kỳ tốt đẹp; nhưng ái chà, nếu như những thời kỳ đó không tốt
đẹp! Con người thường đau khổ vì sự chế nhạo của một nơi chốn cười cợt quá
nhiều trên nỗi đau của họ hơn là vì sự áp chế của môi trường pha màu buồn thảm
một cách thái quá xung quanh họ. Vùng Egdon bất khả thuần hóa chỉ hấp dẫn được
một thứ bản năng vi tế hơn, hiếm hoi hơn, một thứ cảm xúc chỉ mới được biết tới
gần đây hơn so với thứ cảm xúc chỉ thích hợp với dạng vẻ đẹp được mệnh danh là
quyến rũ và yêu kiều.
Thật
ra, vấn đề ở đây là sự ngự trị toàn quyền của vẻ đẹp chính thống này có đang
tiếp cận với miền đất cuối cùng của nó hay không. Cái Thung Lũng Tempe[1]
mới này có thể là một hoang mạc thảm đạm ở Thule [2];
những tâm hồn của nhân loại có thể nhận ra rằng chúng đang ngày càng hòa điệu
với ngoại vật mang một vẻ buồn thảm chẳng có gì là thi vị đối với nòi giống của
chúng ta khi nó còn non trẻ hơn. Thời điểm đó dường như sắp tới gần, nếu như
thật sự nó còn chưa tới, khi sự uy nghi đầy kềm chế của những cánh đồng hoang,
một biển cả hay một ngọn núi sẽ có trọn vẹn thứ bản chất hoàn toàn hòa hợp với
những tâm trạng của những kẻ trầm tư suy nghĩ nhiều hơn của nhân loại. Và rốt
cuộc, đối với một lữ khách bình thường nhất, những nơi như Iceland có thể trở
thành những vườn nho và vườn mía ở Nam Âu đối với anh ta hiện giờ; và anh ta sẽ
đi ngang qua Heidelberg[3]
và Baden[4]
mà không hề chú ý tới chúng trong lúc vội vã đi từ dãy núi Alps tới những cồn
cát ở Scheveningen[5].
Một
nhà tu khổ hạnh triệt để nhất có thể cảm thấy rằng ông ta có quyền tự nhiên đi
lại lang thang trong vùng Egdon – ông ta đang tiến bước trong phạm vi của một
niềm đam mê hợp pháp khi tự cởi mở bản thân ra trước những tác động như những
điều này. Những sắc màu và vẻ đẹp quá nhẹ nhàng đó, ít ra, là thứ đặc quyền dành
cho tất cả. Chỉ vào những ngày hè phấn khích nhất, tâm trạng của nó mới chạm
tới mức độ vui tươi. Người ta thường đạt được cảm xúc mãnh liệt nhờ sự uy
nghiêm hơn là nhờ vẻ rực rỡ, và một cảm xúc mãnh liệt như thế thông thường sẽ
tới trong bóng tối, những cơn bão và màn sương mù của mùa đông. Lúc đó Egdon bị
đánh thức để làm một cuộc đổi trao; vì bão tố là tình nhân của nó, và gió là
bạn nó. Lúc đó nó trở thành ngôi nhà của những bóng ma xa lạ; và người ta phát
hiện rằng cho tới nay nó vẫn chưa được nhìn nhận như là nguồn cội của những
miền tối tăm hoang dã mà chúng ta mơ hồ cảm thấy đang dẫn lối cho chúng ta
trong những giấc mơ về sự trốn chạy và tai họa giữa đêm khuya, và sau đó chúng
ta không bao giờ nghĩ tới nó nữa, cho tới khi những cảnh tượng tương tự giúp nó
hồi sinh.
Hiện
tại, vùng đất này là một nơi chốn hoàn toàn hòa hợp với bản chất loài người –
không kinh khủng, mang vẻ thù ghét hay xấu xí; cũng không tầm thường, vô nghĩa
hay đã bị thuần hóa; mà, giống như con người, nhẹ dạ và giàu chịu đựng; và cũng
chứa đầy lạ lùng bí ẩn trong nét đơn điệu tối tăm của nó. Giống như với vài cá
nhân nào đó từng sống cách biệt lâu ngày, sự cô đơn quạnh quẽ dường như toát ra
ở vẻ ngoài của nó. Nó có một gương mặt cô độc, chất chứa những khả năng bi đát.
Miền quê cổ xưa,
hoang phế, ít người biết tới này từng được ghi lại trong cuốn Domesday[6].
Tình trạng của nó, theo ghi chép trong đó, là một miền hoang địa mọc đầy thạch
nam, kim tước và các bụi gai, gọi là “Bruaria”. Lúc đó đơn vị để đo chiều dài
và chiều rộng là lý[7];
và, dù mức độ chính xác của cách thức đo lường xưa cũ còn chưa được xác định,
theo những con số thì diện tích của Egdon cho tới tận ngày nay vẫn không sụt
giảm đi nhiều lắm. “Turbaria Bruaria” – quyền được cắt các loại cây cỏ mọc trên
đó – hiện diện trong những bản hiến chương có liên quan tới quận này. Leland[8]
cũng có nói về miền đồng cỏ ảm đạm này rằng nó “mọc đầy những thạch nam và
rêu”.
Ít
nhất đây là những thực tiễn dễ nhận biết có liên quan tới miền này – những
chứng cứ xa xôi hơn có khả năng mang lại sự thỏa mãn đích thực. Miền đồng cỏ hoang vu, không thể thuần hóa
Egdon ngày nay vẫn giống hệt như nó trước đó. Văn minh là kẻ thù của nó; và
ngay cả vào thời kỳ đầu tiên của cây cỏ, mặt đất của nó đã khoác lên mình cùng
một màu nâu xưa cũ, thứ trang phục tự nhiên và bất biến của một hình thái đặc
thù. Trong lớp áo khả kính duy nhất của nó có một sự châm biếm nhất định đối
với thói xa hoa phù phiếm của con người trong trang phục. Một cá nhân trên một
cánh đồng thạch nam ăn mặc những thứ quần áo cắt may và có màu sắc tân thời ít
nhiều gì cũng trông có vẻ dị thường. Dường như chúng ta sẽ muốn mặc thứ quần áo
cổ lổ nhất và đơn giản nhất, khi trang phục trên trái đất vẫn còn rất nguyên
sơ.
Việc tựa lưng vào
một bụi cây ở giữa thung lũng Egdon, giữa khoảng chiều và tối, như lúc này, nơi
con mắt không thể nhìn thấy gì khác của cái thế giới bên ngoài những chỏm cao
và sườn đồi của cánh đồng thạch nam đang phủ đầy lên toàn bộ cảnh vật, và biết rằng vạn vật xung quanh và bên dưới lòng
đất đã có mặt từ những thời kỳ tiền sử và vẫn không hề thay đổi hệt như những
vì sao trên đầu, mang lại sự cân bằng của tâm trí đang trôi nổi dật dờ cùng sự
đổi thay biến chuyển và luôn bị quấy rầy bởi Cái Mới. Nơi chốn không hề bị xâm
phạm này có một sự vĩnh hằng xưa cũ mà biển cả không thể nào đòi hỏi. Ai có thể
nói về một biển cả cụ thể nào đó rằng nó đã già? Bị mặt trời làm cho bốc hơi,
bị mặt trăng nhào nặn, nó được làm mới lại chỉ trong vòng một năm, hay trong
vòng một giờ. Biển cả đổi thay, những cánh đồng đổi thay, những dòng sông,
những thôn làng, và những con người cũng đổi thay, nhưng Egdon thì vẫn còn mãi
thế. Những bề mặt đó không quá dốc đến mức có thể bị thời tiết tàn phá, nhưng
cũng không bằng phẳng đến mức trở thành nạn nhân của những trận lụt và các chất
khoáng trầm tích. Ngoại trừ một con đường lộ xa xưa, và một nấm mộ cổ thậm chí
còn xa xưa hơn vừa mới được nhắc tới gần đây – tự bản thân chúng hầu như đã hầu
như kết tinh thành những sản phẩm tự nhiên bởi sự tiếp diễn lâu ngày – ngay cả
những bề mặt không đều vụn vặt cũng không phải do cuốc chim, lưỡi cày hay lưỡi
thuổng gây ra, mà tồn tại ở đó như những cú chạm khẽ đầu ngón tay của đợt biến
chuyển địa chất cuối cùng.
Con đường vừa được nhắc
tới bên trên băng ngang qua những vùng thấp của cánh đồng hoang, kéo dài từ chân
trời này sang chân trời nọ. Ở nhiều đoạn, nó nằm chồng lên một con đường địa
phương xưa cũ, vốn là một nhánh của Con Đường Lớn về miền tây của đế quốc La
Mã, đường Via Iceniana, hoặc đường Ikenild. Khi quan sát nó vào buổi ban chiều,
người ta có thể nhận thấy rằng, dù bóng tối đã tăng tới mức làm nhòa đi những
đường nét chính của cánh đồng hoang, bề mặt trắng xóa của con đường vẫn còn rõ
ràng như cũ.
2 — Con người xuất hiện, tay trong tay với rắc rối
Một
cụ già đang lần bước trên con đường đó. Ông có mái đầu bạc trắng như một ngọn
núi, đôi vai còng xuống, và bị nhòa đi trong cảnh vật chung. Ông đội một cái mũ
rộng vành, khoác một chiếc áo choàng thủy thủ không tay kiểu cổ, và mang giày;
trên mặt những chiếc cúc áo có hình mỏ neo. Trong tay ông là một chiếc gậy có cán
bịt bạc, mà ông sử dụng như một cái chân thứ ba, nhẫn nại chấm lên mặt đất
những điểm cách nhau chừng vài tấc. Có thể cho rằng vào thời trai trẻ ông đã
từng là một dạng sĩ quan hải quân này khác.
Trước
mặt ông trải dài con đường khó nhọc, khô cằn, trống vắng và trắng toát. Nó hoàn
toàn mở rộng sang hai phía của cánh đồng hoang, và cắt đôi cái bề mặt tối thẫm
rộng lớn đó như một đường ngôi trên một cái đầu có mái tóc đen, thu nhỏ và cong
dần ở phía chân trời xa nhất.
Ông
cụ thường xuyên hướng mắt về phía trước để quan sát vùng đất mà ông chưa từng
đi ngang qua. Cuối cùng ông nhận ra, ở phía trước ông một quãng xa có một chấm
nhỏ đang di động, trông như một cỗ xe, và có thể thấy rằng nó đang đi trên cùng
con đường mà ông đang bước. Nó là vật thể sống động duy nhất mà quang cảnh này
hàm chứa, và nó chỉ giúp tăng thêm chứng cứ cho sự quạnh quẽ chung. Tốc độ của
nó khá chậm, và ông cụ sải bước nhanh hơn để theo kịp nó.
Khi
tới gần hơn, ông thấy đó là một cỗ xe tải, hình dáng bình thường, nhưng màu sắc
thì riêng biệt, toàn một màu đỏ lòm kinh khủng. Người đánh xe bước bên cạnh nó;
và, giống hệt nó, gã cũng toàn màu đỏ. Cái màu ấy bao phủ lên quần áo, cái mũ
trên đầu gã, đôi ủng, gương mặt, và đôi bàn tay của gã. Cái màu ấy không phủ
trùm khắp thân hình của gã một cách tạm thời; nó đã thấm sâu vào gã.
Ông
cụ hiểu ý nghĩa của điều này. Người lữ khách đi cạnh cỗ xe là một người bán
thuốc nhuộm lông cừu – một người cung cấp thuốc nhuộm làm từ đất sét đỏ cho các
trại chủ để họ đánh dấu những con cừu. Gã là một trong các tầng lớp đã nhanh
chóng mất đi ở Wessex, hiện tại chỉ còn xuất hiện trong thế giới thôn dã, nơi
mà trong suốt thế kỷ trước, chỉ có loài chim cưu trong toàn bộ thế giới muông
thú ngụ cư. Gã là một sự nối kết lạ lùng, thú vị và hầu như đã mất giữa những
hình thức đời sống cổ xưa và những hình thức nhìn chung đang chiếm phần ưu thế.
Dần dà, viên cựu sĩ
quan già yếu cũng lần bước tới lên cạnh người bạn cùng đường của mình, và chúc gã
một buổi chiều tốt đẹp. Người bán thuốc nhuộm quay đầu sang, và đáp lại bằng
một giọng buồn buồn, lơ đãng. Gã còn trẻ, và gương mặt của gã, nếu không thật
sự đẹp trai, cũng rất gần với sự đẹp
trai mà không ai có thể quả quyết phủ nhận nếu nó còn giữ lại màu sắc tự nhiên
của nó. Đôi mắt của gã, sáng lạ lùng bên dưới làn da bẩn thỉu, cũng khá thu hút
– sắc sảo như mắt của một con chim săn mồi, và xanh biếc như sương mùa thu. Gã
không có râu quai nón hay ria mép, điều này cho phép những nét cong của phần
dưới gương mặt gã trở nên rõ rệt. Môi gã mỏng, và mặc dù, như nó có vẻ, bị đè
nén bởi sự suy tư, thi thoảng vẫn có một chuyển động thú vị ở khóe môi. Gã mặc
một bộ quần áo nhung kẻ vừa vặn, chất lượng còn rất khá, chưa bị sờn rách
nhiều, và rất khéo chọn cho mục đích của người mặc nó, nhưng đã bị tước đi màu
sắc nguyên thủy do nghề nghiệp của gã. Nó phô bày rõ một thân hình rắn chắc.
Một phong thái ung dung toát ra từ chàng trai này cho thấy gã không nghèo so
với địa vị của mình. Thắc mắc tự nhiên của một người quan sát sẽ là: Tại sao
một con người đầy hứa hẹn như thế lại che đậy ngoại hình đáng mến của mình bằng
cách đi theo cái nghề khác thường đó?
Sau khi đáp lại lời
chào của cụ già, gã tỏ ra không muốn tiếp tục chuyện trò, dù họ vẫn đi bên cạnh
nhau, vì người đi đường lớn tuổi hơn có vẻ như mong muốn có bạn đồng hành.
Không có âm thanh nào ngoại trừ tiếng gió lướt qua những cây cỏ nâu vàng quanh
họ, tiếng bánh xe kẽo kẹt, tiếng bước chân của hai người đàn ông và của hai con
ngựa nhỏ lông bờm xờm đang kéo cỗ xe. Chúng là những con vật nhỏ bé, dạn dày,
lai giữa nòi Galloway và Exmoor , và được biết
như là những con ngựa đồng hoang tại vùng này.
Hiện giờ, trong khi
họ cứ rong ruổi như vậy, tay bán thuốc nhuộm thỉnh thoảng lại rời khỏi vị trí
cạnh người bạn đường của mình, bước ra sau cỗ xe, nhìn vào bên trong qua một cửa
sổ nhỏ. Cái nhìn luôn có vẻ băn khoăn. Rồi gã quay lại với cụ già, người vừa đưa
ra một nhận xét khác về tình trạng của vùng này, và gã trả lời một cách thờ ơ,
sau đó họ lại rơi vào im lặng. Sự im lặng không hề tạo ra cảm giác khó chịu cho
bất kỳ bên nào; trong những vùng hiu quạnh này, sau những lời chào hỏi ban đầu,
những khách bộ hành thường đi suốt nhiều dặm mà không nói lời nào; sự gần gũi
lên tới mức độ của một cuộc đối thoại ngấm ngầm, và khác với trong các thành
phố, một sự gần gũi như thế có thể kết liễu một mong muốn trò chuyện đơn giản
nhất, và khi không kết liễu nó sẽ tự đối thoại với chính mình.
Có
lẽ hai người sẽ không nói gì nữa cho tới lúc chia tay, nếu không có những lần chàng
trai trẻ tới xem xét bên trong cỗ xe ngựa. Khi gã quay lại lần thứ năm, cụ già
nói, “Ngoài đồ đạc, anh còn có thứ gì khác bên trong xe hả?”
“Vâng.”
“Ai
đó cần chăm sóc chăng?”
“Vâng.”
Không
lâu sau đó, một tiếng khóc mơ hồ phát ra từ trong xe. Chàng trai vội vã tới sau
xe, nhìn vào, rồi lại trở lên.
“Trong
đó có một đứa bé hả, anh bạn?”
“Không,
thưa ông, đó là một người phụ nữ.”
“Anh
gặp rắc rối rồi! Sao cô ta
khóc vậy?”
“Ồ, cô ta đang ngủ, và do không quen
đi đường, cô ta không thoải mái, và nằm chiêm bao.”
“Một cô gái?”
“Phải, một cô gái.”
“Bốn mươi năm trước, hẳn tôi sẽ thấy
thú vị với điều này. Có lẽ đó là vợ anh?”
“Vợ tôi!” Chàng trai nói với giọng
cay đắng. “Cô ta ở trên mức kết bạn với một gã như tôi. Nhưng không có lý do gì
để tôi nói với ông về chuyện đó.”
“Đúng thế. Và cũng không có lý do gì
để anh không nói. Tôi có thể làm điều gì tổn hại cho anh hay cho cô ta?”
Chàng trai nhìn vào gương mặt của cụ
già. “Vâng, thưa ông,” cuối cùng gã nói, “tôi biết cô ta trước hôm nay, dù có
lẽ tốt hơn tôi đừng nên biết. Nhưng cô ta chẳng là gì đối với tôi và tôi cũng
chẳng là gì đối với cô ta; và hẳn cô ta sẽ không ngồi trong xe của tôi nếu có
bất kỳ cỗ xe nào đó tốt hơn tới đó để đón cô ta.”
“Tôi có thể hỏi là ở đâu không?”
“Ở Anglebury.”
“Tôi biết rõ thị trấn đó. Cô ta làm
gì ở đó?”
“Ồ, không có gì quan trọng – chỉ tới
đó để chuyện trò. Tuy nhiên, giờ cô ta mệt lắm rồi, và không khỏe trong người,
và điều đó khiến cho cô ta trằn trọc. Một giờ trước cô ta đã ngủ được một giấc
ngắn, và điều đó sẽ tốt cho cô ta.”
“Một cô gái xinh đẹp, chắc vậy?”
“Ông có thể nói thế.”
Người khách bộ hành lớn tuổi quay về
hướng cửa sổ xe với vẻ thích thú, và vẫn dán mắt vào đó, ông nói, “Tôi cho là
tôi có thể nhìn cô ta chút xíu?”
“Không,” chàng trai nói cộc lốc.
“Trời đã tối đến nỗi ông không thể nhìn thấy rõ cô ta; và hơn thế, tôi không có
quyền gì để cho phép ông. Tạ ơn Thượng đế là cô ta ngủ rất ngon, tôi hy vọng cô
ta sẽ không thức giấc cho tới lúc về nhà.”
“Cô ta là ai? Một trong những người hàng xóm?”
“Là ai không quan trọng, xin thứ lỗi.”
“Không phải là cái cô gái ở Blooms-End
đó chứ, người mà thiên hạ nhắc tới ít nhiều dạo gần đây? Nếu thế, tôi cũng biết
cô ta; và tôi có thể đoán chuyện gì đã xảy ra.”
“Chuyện đó không quan trọng… Bây
giờ, thưa ông, tôi rất tiếc phải nói rằng chúng ta sẽ sớm chia tay. Hai con
ngựa của tôi đã mệt, và tôi còn phải đi xa, vì thế tôi sẽ cho chúng nghỉ ở dưới
chỗ bờ sông chừng một tiếng.”
Người khách bộ hành lớn tuổi lãnh
đạm gật đầu, và chàng trai vừa vòng đôi ngựa cùng cỗ xe lên mặt cỏ, vừa nói,
“Chào ông”. Cụ già đáp lại, và tiếp tục bước đi như trước.
Người bán thuốc nhuộm dõi theo hình
dáng của ông trong lúc nó thu nhỏ dần thành một cái chấm trên đường, rồi trở
nên trầm tư trong màn đêm dày đặc. Gã rút một mớ cỏ khô từ một bó cỏ lớn treo
bên dưới cỗ xe, ném một phần ra trước đôi ngựa, rồi đan thành một tấm nệm với
số còn lại và đặt nó lên mặt đất cạnh cỗ xe. Gã ngồi lên đó, tựa lưng vào bánh
xe. Từ bên trong phát ra tiếng thở khe khẽ. Có vẻ nó làm cho gã hài lòng, và gã
trầm ngâm quan sát cảnh vật, như thể đang cân nhắc công việc kế tiếp của mình.
Thật sự, việc thực hiện mọi thứ
trong sự trầm tư, ở những mức độ nhỏ nhoi, là một bổn phận trong những thung
lũng Egdon vào giờ khắc chuyển giao này, vì chính cánh đồng hoang, giống như
thế, cũng đã trải dài ra và tạm ngưng lại nỗi nghi ngờ. Đó là phẩm chất của sự
yên tĩnh thích hợp với cảnh vật. Đây không phải là trạng thái yên tĩnh của sự
đình trệ thật sự, mà là trạng thái yên tĩnh hiển nhiên của sự chậm chạp đến khó
tin. Một điều kiện của cuộc sống khỏe khoắn lại gần giống với trạng thái mê mệt
của cái chết là một điều đáng chú ý; nó phô bày tính chất trì trệ của vùng
hoang mạc, đồng thời thực thi những sức mạnh tương tự với vạn vật của đồng cỏ,
ngay cả của khu rừng, đánh thức những ai nghĩ về nó với thái độ lưu tâm vốn thường
được mang tới bởi sự giảm thiểu hành động và sự bảo tồn.
Quang cảnh trước mắt gã là
một chuỗi địa hình dốc dần lên, tính từ độ cao của con đường ngược về sau cho
tới trung tâm của cánh đồng hoang. Nó ôm lấy những cồn gò, những hào hố, những
dãy đồi, những con dốc, cái này tiếp nối cái kia, cho tới khi tất cả kết thúc
tại một ngọn đồi cao nổi bật như cắt trên nền trời sáng yên tĩnh. Đôi mắt của
người khách bộ hành dán vào những thứ này một lúc, rồi cuối cùng cố định vào
một đối tượng đáng chú ý trên đó. Nó là một gò đất. Chỗ lồi hống hách này cùa
quả đất bên trên độ cao tự nhiên của nó chiếm lĩnh phần đất cao nhất của đỉnh
đồi cô lẻ nằm trong cánh đồng hoang. Dù từ chỗ thung lũng, trông nó chỉ giống
như một hạt mụn cơm trên lông mày của một gã khổng lồ, kích thước thật sự của
nó rất lớn. Nó tạo thành cực và trục của cái thế giới toàn những thạch nam này.
Trong lúc nhìn lên gò đất, chàng
trai đang ngơi nghỉ nhận ra chóp của nó, do vậy là đối tượng cao nhất trong
toàn cảnh xung quanh, bị phủ lên bởi một vật gì đó cao hơn. Nó nhô lên từ gò
đất hình bán cầu giống như một mũi thép nhọn trên một cái mũ sắt. Bản năng đầu
tiên của một khách lạ giàu tưởng tượng hẳn sẽ cho rằng đó là một trong những
người Xen-tơ[9] đã
dựng nên gò đất, vì cho tới lúc này mọi thứ của thời hiện đại đều rút lui khỏi
cảnh vật. Trông như thể đó là loại người cuối cùng giữa vạn vật, đăm chiêu suy
nghĩ một hồi trước khi gieo người vào màn đêm vĩnh cửu với những người còn lại
trong nòi giống của y.
Hình dáng đó đứng yên, bất động,
như ngọn đồi bên dưới. Bên trên thảo nguyên là ngọn đồi, bên trên ngọn đồi là
gò đất, bên trên gò đất là hình dáng đó. Bên trên hình dáng đó không còn gì
khác ở mọi nơi ngoại trừ hình cầu của bầu trời.
Hình dáng đó mang tới cho những
dãy đồi sẫm tối một sự kết thúc hoàn hảo, tinh tế và cần thiết đến nỗi dường
như nó là sự biện minh rõ ràng duy nhất cho đường nét của những ngọn đồi. Không
có nó, cũng giống như một mái vòm không có lồng đèn; có nó, những đòi hỏi kiến
trúc về hình khối đã được đáp ứng. Cảnh vật thuần nhất đến lạ lùng, trong cái
thung lũng đó, vùng đồi, gò đất và cái hình dáng nổi lên bên trên nó chỉ để hợp
nhất cùng nhau. Nhìn vào thành phần này hoặc khác của tập hợp này không phải là
quan sát một đối tượng hoàn chỉnh, mà chỉ một bộ phận của nó.
Hình dáng đó giống như một phần cơ
thể của một cấu trúc hoàn toàn bất động đến độ việc nhìn thấy nó chuyển động sẽ
tạo một ấn tượng lên tâm trí như một hiện tượng lạ lùng. Sự bất động là đặc
tính chủ yếu của toàn cảnh vật mà hình dáng đó góp phần vào, sự kết thúc trạng
thái bất động ở bất kỳ khu vực nào sẽ khiến cho người ta rối trí.
Thế nhưng đó là điều đã xảy ra. Có
thể nhận ra hình dáng đó đã thôi bất động, cất một hai bước, và quay đi. Như
thể đang cảnh giác, nó đi xuống mé phải của gò đất, như một giọt nước trôi
xuống một chồi non, rồi biến mất. Sự chuyển động đủ để chỉ rõ đặc điểm của hình
dáng đó, rằng nó là của một người phụ nữ.
Nguyên do cho sự rời chỗ đột ngột
của nàng giờ đã xuất hiện. Khi nàng khuất khỏi mé phải, một người mang vác nặng
nhô lên ở nền trời bên trái, đi lên gò đất, và đặt gánh nặng lên trên đỉnh gò.
Tiếp theo là người thứ hai, rồi thứ ba, thứ tư, thứ năm, và cuối cùng toàn bộ
gò đất đông nghẹt những dáng người mang vác nặng.
Ý nghĩa dễ hiểu duy nhất trong vở
kịch câm cắt bóng trên nền trời này là người phụ nữ không liên quan gì tới
những kẻ đã chiếm chỗ của nàng, đang kiên trì né tránh họ, và đã tới đó vì một
đối tượng khác chứ không phải họ. Trí tưởng tượng của kẻ quan sát bám chặt lấy
hình dáng lẻ loi đã biến mất đó, như bám vào một điều gì đó thú vị hơn, quan
trọng hơn, có khả năng có một lịch sử đáng để biết tới hơn là những kẻ mới tới
này, và bất giác xem họ là những kẻ xâm phạm. Nhưng họ vẫn ở lại đó, và tìm chỗ
nghỉ ngơi; còn con người cô độc từng là nữ hoàng của chốn quạnh hiu hiện tại
không có khả năng quay trở lại.
[1] Các thi sĩ Hy Lạp cổ đại cho rằng đây là địa điểm mà thần Apollo và
các nữ thần Duyên dáng thường đến. Nằm giữa ngọn núi Olympus (ở hướng bắc) và núi Ossa (ở hướng nam).
[2] Còn viết là Thula, Thila, hay Thyïlea, một địa danh trên các tấm bản đồ cổ và văn học cổ châu
Âu, nằm ở vị trí của vương quốc Na Uy và vùng phụ cận hiện nay.
[3] Thành phố ở miền tây nam nước Đức, nổi tiếng nhờ có tòa lâu đài
cùng tên và thị trấn cổ mang phong cách kiến trúc Baroque.
[4] Một bang của Thụy Sĩ.
[5] Một quận thuộc thành phố Hague, Hà Lan.
[6] Một bản thảo ghi chép về cuộc “Khảo
sát lớn” tiến hành tại nhiều vùng của Anh và toàn bộ xứ Wales, hoàn thành vào
năm 1086, theo lệnh của Vua William – Kẻ Chinh
phục.
[7] league – một đơn vị đo lường cổ, bằng 3 dặm Anh hoặc 4,8 km.
[8] John Leland, còn gọi
là Leyland
(khoảng 1503 /1506 – 1552), nhà thơ và nhà khảo cổ Anh.
[9] Nguyên văn Celts: những người thuộc ngữ hệ Ấn-Âu sống vào thời kỳ
Đồ sắt và Trung cổ ở châu Âu.