Thứ Hai, 13 tháng 7, 2020

Một cô gái ở Limberlost - Giới thiệu




Gene Stratton Porter


MỘT CÔ GÁI Ở LIMBERLOST


Nguyễn Thành Nhân dịch


Dịch từ nguyên tác A Girl of The Limberlost
của Gene Stratton Potter
Dịch giả giữ bản quyền bản tiếng Việt
Copyright © Nguyễn Thành Nhân 2020

  

VỀ TÁC GIẢ


Nhà văn, nhà tự nhiên học và nhiếp ảnh gia tự nhiên Gene Stratton-Porter, nhủ danh Geneva Grace Stratton chào đời trong một trang trại ở hạt Wabash vào ngày 17/8/1863. Bà là con út trong số 12 người con. Mẹ của Gene chết năm 1875 do bệnh thương hàn, và cha bà đã một mình nuôi nấng các con. Sống ở một vùng nông thôn, Gene chỉ nhận được rất ít sự giáo dục chính quy, thay vào đó, bà đã biến thiên nhiên thành trường học của mình. Từ khi còn bé, bà đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đối với thiên nhiên và động vật hoang dã. Bà thích chơi với chim và cho chúng ăn trong tổ của chúng. Cha của Gene, một nông dân và nhà truyền giáo bán thời gian, cũng dạy bà rằng thực vật và động vật là quà tặng từ Thiên Chúa và nên được đối xử tôn trọng. Năm 11 tuổi, gia đình Gene chuyển đến Wabash và Gene bắt đầu đi học thường xuyên. Tuy nhiên, bà đã bỏ học cấp ba ngay trước khi tốt nghiệp, thất vọng với cấu trúc cứng nhắc của hệ thống trường công.
Ngày 21/4/1886, Gene kết hôn với Charles D. Porter, một thương nhân ở Geneva, Ind. Hai người có một con gái duy nhất, Jeannette, chào đời năm 1887. Khi dầu mỏ được phát hiện trên một số trang trại mà ông Porter sở hữu, gia đình họ trở nên giàu có. Gene đã xây dựng một ngôi nhà 14 phòng do bà tự thiết kế, Cabin Limberlost, như Gene gọi nó, gần đầm lầy Limberlost. Gene không giống như hầu hết phụ nữ thời đó. Thay vì ở nhà và may vá hoặc nấu ăn, bà thích đi khám phá ở đầm lầy Limberlost. Ở đó, sử dụng một chiếc máy ảnh vốn là quà Giáng sinh của con gái, bà đã chụp ảnh cận cảnh những loài chim và động vật đầy màu sắc trong môi trường sống tự nhiên của chúng. Khi vào khám phá đầm lầy, bà mang theo máy ảnh và súng, để đề phòng rắn độc. Gene đã gửi những bức ảnh và bài báo về thiên nhiên của mình cho các tạp chí như RecreationOuting.
Ngay sau đó, Gene quyết định thử viết tiểu thuyết như một cách để thu hút một lượng độc giả lớn hơn. Bà đã viết nhiều cuốn tiểu thuyết best-selling ngoài những bài báo chuyên đề cho các tạp chí quốc gia như McCall'sGood Housekeeping, và một số tạp chí khác. Những cuốn tiểu thuyết hấp dẫn về con người và môi trường Limberlost đã giúp vùng đầm lầy này trở nên nổi tiếng và đã được dịch sang hơn hai mươi ngôn ngữ, bao gồm cả chữ nổi dành cho người mù. Ở thời kỳ đỉnh cao vào thập niên 1910, các tác phẩm này đã thu hút khoảng 50 triệu độc giả.
Bà là một tác giả đa năng, với nhiều thể loại khác nhau, gồm 12 quyển tiểu thuyết: Bài ca của chim giáo chủ (The Song of the Cardinal, 1903), Tàn Nhang (Freckles, 1904), Dưới chân cầu vồng (At the Foot of the Rainbow, 1907), Một cô gái ở Limberlost (A Girl of the Limberlost, 1909), Người hái thuốc (The Harvester, 1911), Chú bé tí hon (Laddie, 1913), Michael O’Halloran (Michael O'Halloran, 1915), Một người con gái của vùng đất (A Daughter of the Land, 1918), Con gái của cha nàng (Her Father's Daughter, 1921) Lá cờ trắng (The White Flag, 1923), Người giữ ong (The Keeper of the Bees, 1925), Khu vườn kỳ diệu (The Magic Garden, 1927); 8 quyển nghiên cứu tự nhiên: Tôi đã làm gì với những chú chim (What I Have Done with Birds, 1907; in lại và mở rộng với nhan đề mới Những người bạn lông vũ (Friends in Feathers, 1917), Chim của Thánh Kinh (Birds of the Bible, 1909), Nhạc của rừng (Music of the Wild, 1910), Bướm đêm ở Limberlost (Moths of the Limberlost, 1912), Sống với chim chóc (Homing with the Birds, 1919), Những đôi cánh (Wings, 1923), Những câu chuyện khó tin (Tales You Won't Believe, 1925); 4 tập thơ: Con chim lửa (The Fire Bird, 1922), Jesus của Thạch anh (Jesus of the Emerald, 1923), Cánh đồng trong mơ (Field o’ My Dreams: The Poetry of Gene-Stratton Porter, 2007),  Chi đại kích (Euphorbia, 1923, in trong tạp chí Good Housekeeping từ tháng 1 tới tháng 3 1923; chưa được in thành sách); 3 quyển sách thiếu nhi và 1 tuyển tập tiểu luận: Sau trận lũ (After the Flood, 1911), Các loài chim ở Limberlost (Birds of the Limberlost, 1914), Gương mặt sớm mai ((Morning Face, 1916), Chúng ta hãy quyết tâm cao độ (Let Us Highly Resolve, 1927).
Tám tác phẩm tiểu thuyết của bà đã được chuyển thể thành phim nhiều lần:
·         Tàn Nhang, do Marshall Neilan đạo diễn (1917, dựa vào tiểu thuyết Tàn Nhang)
·         Michael O'Halloran, do James Leo Meehan đạo diễn (1923, dựa vào tiểu thuyết Michael O'Halloran)
·         Một cô gái ở  Limberlost, do James Leo Meehan đạo diễn (1924, dựa vào tiểu thuyết Một cô gái ở Limberlost)
·         Người giữ ong, do James Leo Meehan đạo diễn (1925, dựa vào tiểu thuyết Người giữ ong)
·         Chú bé tí hon, do James Leo Meehan đạo diễn (1926, dựa vào tiểu thuyết Chú bé tí hon)
·         Khu vườn kỳ diệu, do James Leo Meehan đạo diễn (1927, dựa vào tiểu thuyết Khu vườn kỳ diệu)
·         Người hái thuốc, do James Leo Meehan  đạo diễn (1927, dựa vào tiểu thuyết Người hái thuốc)
·         Tàn Nhang, do James Leo Meehan đạo diễn (1928)
·         Một cô gái ở  Limberlost, do Christy Cabanne đạo diễn (1934)
·         Chú bé tí hon,  do George Stevens đạo diễn (1935)
·         Người giữ ong, do Christy Cabanne đạo diễn (1935)
·         Tàn Nhang, do Edward Killy và William Hamilton đạo diễn (1935)
·         Người hái thuốc do Joseph Santley đạo diễn (1936)
·         Michael O'Halloran, do Karl Brown đạo diễn (1937)
·         Chuyện tình ở Limberlost do William Nigh đạo diễn (dựa vào tiểu thuyết Một cô gái ở Limberlost, 1938)
·         Chú bé tí hon, do Jack Hively đạo diễn
·         Mối tình đầu của nàng, do Edward Dmytryk đạo diễn (1940, dựa vào tiểu thuyết Con gái của cha nàng)
·         Tàn Nhang về nhà, do Jean Yarbrough đạo diễn (1942, dựa vào một đoạn tiếp của tiểu thuyết Tàn Nhang)
·         Cô gái ở Limberlost, do Mel Ferrer đạo diễn (1945)
·         Người giữ ong, do John Sturges đạo diễn (1947)
·         Michael O'Halloran, do John Rawlins đạo diễn (1948)
·         Tàn Nhang, do Andrew V. McLaglen đạo diễn (1960)
·         Một cô gái ở Limberlost, do Burt Brinckerhoff đạo diễn (1990, phim truyền hình)
·         Cậu bé thành thị, do John Kent Harrison đạo diễn (1992, phim truyền hình, dựa vào tiểu thuyết Tàn Nhang)
           
Năm 1912, buồn bã vì sự cạn kiệt của đầm lầy Limberlost thân yêu, bà chuyển đến hồ Sylvan tại thành phố Rome, tiểu bang Indiana, nơi bà xây dựng “Ngôi nhà gỗ trong rừng hoa dại”. Tuy nhiên, những năm làm việc vất vả đã làm cho sức khỏe của bà giảm sút. Năm 1918, do kiệt sức, bà đã tới điều trị tại một bệnh viện ở New York. Năm sau, bà đến California để hồi phục trong điều kiện khí hậu nắng ấm. Ở đó, bà đã thành lập một hãng phim để chuyển thể một số tiểu thuyết của mình thành phim. Bà qua đời trong một tai nạn xe hơi thảm khốc vào năm 1924.

            Hầu hết các tiểu thuyết của bà đều dựa trên bối cảnh của Limberlost, Vì vậy, chúng ta cũng nên tìm hiểu đôi chút về địa danh này:      
Đầm lầy Limberlost nằm ở phía đông tiểu bang Indiana là một vùng đất ngập nước rộng lớn, được biết đến trên toàn quốc với những dòng suối chảy vào sông Wabash. Hồi đầu nó bao phủ 13.000 mẫu Anh (53 km²) của các hạt Adams và Jay ngày nay. Một số vùng của nó được gọi là Loblolly Marsh, dựa trên một từ của thổ ngữ Miami chỉ mùi lưu huỳnh của khí đầm lầy. Các vùng đất ngập nước có thảm thực vật hỗn hợp và môi trường sinh thái đa dạng, bao gồm các loài chim địa phương, chim di trú và côn trùng, cũng như các loài động vật phong phú.
Người Mỹ gốc Âu đã rút cạn Limberlost để phát triển nông nghiệp vào đầu thế kỷ 20, phá hủy môi trường sống tại đây. Từ những cuốn tiểu thuyết của Gene Stratton Potter, sự chú ý của người dân Hoa Kỳ nói chung và người dân ở Tiểu bang Indiana nói riêng đối với việc khôi phục lại và bảo tồn môi trường, cảnh quan và hệ sinh thái của vùng đầm lầy Limberlost đã nhanh chóng gia tăng. Từ năm 1997, một phần của nó đã được khôi phục. Các nhà quan sát đã ghi nhận sự trở lại của côn trùng, chim và động vật hoang dã đủ loại. Khoảng 1.500 mẫu Anh (6,1 km2) đã được khôi phục kể từ năm 2015. Một số nhóm hỗ trợ đã mua lại những phần đất hiện nay được biết đến với tên gọi Khu bảo tồn thiên nhiên Loblolly Marsh, do Sở Tài nguyên Thiên nhiên Indiana quản lý. Hiện nay nơi này là một khu du lịch sinh thái nổi tiếng của Hoa Kỳ.
Theo dữ liệu của Viện bảo tàng Tiểu bang Indiana, tên gọi của vùng đầm lầy này xuất phát từ giai thoại về “Limber” Jim' Corbus (Jim Corbus ‘Lanh lẹ’). Ông đã đi săn trong đầm lầy và không bao giờ quay trở lại. Từ đó cư dân địa phương gọi vùng đất này là Limberlost (Limber đã mất tích).

***


SƠ ĐỒ KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
LIMBERLOST HIỆN NAY


MỘT ẢNH CHỤP CẢNH RỪNG Ở LIMBERLOST
Giới thiệu
           
Một cô gái ở Limberlost là một câu chuyện hay và cảm động, đầy ắp tình người. Giữa Elnora, một cô bé mười sáu tuổi đáng yêu và hai vợ chồng láng giềng Sinton. Giữa Elnora và Billy, một thằng bé năm tuổi, bụi đời, vì cha em, dù là một người thương con, thường xuyên say xỉn đến độ bỏ bê con cái. Giữa Edith Carr và Elnora, hai đối thủ trong một trận chiến ái tình…
Câu chuyện có nhiều nút thắt, và tác giả gỡ dần những nút thắt đó một cách khéo léo, tài tình. Nhiều đoạn có thể làm cho người đọc xúc động đến rưng rưng nước mắt. Như đoạn bà Comstock, mẹ của Elnora vào đầm lầy săn lùng bướm suốt đêm, cố tìm bắt một con bướm Hoàng Đế cho em. Bà là một người mẹ khác thường, kỳ lạ. Bà vừa yêu Elnora, lại vừa ghét em, do định kiến chính vì em mà bà không thể cứu chồng mình thoát chết. Ông Comstock chồng bà là một người đàn ông tính tình phóng đãng, ham vui. Đêm bà Comstock sinh ra Elnora cũng là đêm mà ông hò hẹn với Elvira Carney, một phụ nữ trong vùng, để cùng tới dự một cuộc khiêu vũ, và khi trở về, để tránh bị bà phát hiện mình đi từ hướng nhà Elvira, ông đã đi vòng một ao lầy theo một lối xa lạ, và bị rơi xuống ao, chết đuối. Bà Comstock nghe ông kêu cứu, chạy ra nhưng không thể cứu được ông vì còn quá yếu do mới sinh con. Từ ngày đó trở đi, bà đối xử với Elnora một cách thờ ơ, không mấy quan tâm tới cuộc sống cũng như những nhu cầu tình cảm của em. Sau khi nghe bà Sinton kể lại nguyên nhân cái chết của chồng mình, bà bắt đầu hối hận, và bắt đầu yêu thương Elnora như những bà mẹ bình thường khác.
Billy là một nhân vật đáng chú ý trong tiểu thuyết này. Em hiếu động, thích nghịch phá nhưng hoàn toàn là một đứa bé đáng yêu, biết nhận ra những sai lầm và luôn cố gắng trở thành người tốt. Những đoạn liên quan tới em đều có những chi tiết rất thú vị, buồn cười.
Edith Carr cũng là một nhân vật đáng chú ý khác. Nàng là một tiểu thư giàu có, kiêu hãnh và luôn muốn nổi trội hơn tất cả những cô gái thuộc tầng lớp của mình. Nàng và Philip Ammon đã đính hôn từ lâu, và hai người thật sự yêu nhau. Nhưng vào cái đêm Philip tổ chức một buổi dạ vũ để vinh danh nàng, tình cờ có một con bướm Hoàng Đế bay vào phòng khiêu vũ. Philip bắt được nó và vội vã rời khỏi đó để gửi cấp tốc con bướm cho Elnora. Vài phút sau, khi anh quay lại, Edith Carr vô cùng tức giận, và đã tháo chiếc nhận đính hôn trả lại cho anh, tuyên bố hủy hôn trước hàng trăm quan khách. Trước đó, Philip đã cảm thấy yêu mến và ngưỡng mộ Elnora, vì nàng là một cô gái thông minh, học giỏi, có một tình yêu tha thiết đối với vạn vật trong tự nhiên và có một kiến thức sâu sắc về chúng, nhiều hơn so với hầu hết các thầy cô giáo trong trường, và có những đồng cảm với anh. Vì vậy, sau khi tình yêu dành cho Edith đã chết, anh quay lại Limberlost và tỏ tình với Elnora nhưng nàng không đồng ý. Sau khi nguôi giận, Edith muốn quay lại giảng hòa với Philip, nhưng tất cả đã muộn màng.
Những lời đối thoại giữa các bên để giải quyết những rắc rối trong cuộc tình tay ba éo le và gay cấn này là những điểm nhấn lý thú mà tôi tin chắc sẽ làm cho người đọc vô cùng thích thú.
Điểm xuyết giữa những tình tiết câu chuyện, những hình ảnh, âm thanh của rừng rú, của những cánh đồng, con sông, của chim chóc, hoa bướm, cỏ cây tràn đầy sắc màu rực rỡ của thiên nhiên, hay nói như tác giả, “Bài ca của Limberlost”, luôn hòa quyện ngân nga từ đầu đến cuối câu chuyện đời của Elnora, một cô gái ở Limberlost.
Đọc xong cuốn truyện, ngoài cảm giác vui thú được thuởng thức một tác phẩm hay, có lẽ người đọc cũng có một cái nhìn mới mẻ hơn, nhiều thương mến và khát khao được hiểu biết hơn về thiên nhiên, về những môi trường sống quanh chúng ta, nhất là những môi trường hoang dã đang ngày càng thu hẹp lại vì sự thiếu quan tâm và tham lam của con người.
Cuối cùng, xin mời các độc giả thưởng thức câu chuyện cảm động và thú vị này.

Sài Gòn, 01/07/2020
Nguyễn Thành Nhân

Cước chú: tôi muốn giới thiệu với độc giả ba tác phẩm của Gene Stratton, mong các bạn ủng hộ. Rất cám ơn.