Orlando là một lá thư tình dài nhất trên đời. Virginia viết lá thư tuyệt vời và kỳ cục và lạ lùng này để tình thương mến thương tặng người tình trong mộng (và cũng là một phụ nữ như bà ), nữ thi sĩ V. Sackville-West. Tôi dịch đã gần xong Orlando, nhân dịp cuối năm, xin mời bạn đọc một đoạn mà tôi yêu thích. Hy vọng sách sẽ ra trong vòng quý 2/2016.
ORLANDO
Virginia Woolf
Nguyễn Thành Nhân dịch
(Trích đoạn)
Trong khi đó, những
tháng mùa đông dài dằng dặc đang trôi qua. Từng thân cây trong Công viên phủ
đầy sương giá. Dòng sông lờ đờ chảy. Một hôm, khi tuyết phủ kín mặt đất, những
căn phòng ngăn tối tăm đầy những bóng tối và những con nai đực đang kêu rống
trong công viên, bà nhìn thấy trong tấm gương mà bà luôn giữ bên cạnh để đề phòng
những tên gián điệp, qua cánh cửa mà bà luôn mở rộng để đề phòng những kẻ sát
nhân, một chàng trai – đó có thể là Orlando hay chăng? – đang hôn một cô gái –
cái con bé mất nết trơ tráo đó là ai vậy nhỉ? Bà chụp lấy thanh kiếm cán vàng
và chém mạnh vào tấm gương. Lớp kính vỡ loảng xoảng; mọi người chạy tới; bà
được nâng lên và đặt vào ghế trở lại; nhưng sau việc đó bà bị sốc và rên rỉ rất
nhiều, trong lúc những ngày còn lại của bà sắp đến hồi kết thúc, về sự bội bạc
của đàn ông.
Có lẽ đó là lỗi của
Orlando; thế nhưng, nói cho cùng, chúng ta có nên lên án chàng không?
Lúc bấy giờ là triều đại
của Nữ Hoàng Elizabeth[1]:
luân thường đạo lý của họ không phải là luân thường đạo lý của chúng ta; những
nhà thơ của họ không phải là những nhà thơ của chúng ta; thời tiết của họ cũng
vậy; ngay cả rau củ của họ cũng vậy. Mọi thứ đều khác hẳn.
Bản thân thời tiết, độ
nóng và độ lạnh của mùa hè và mùa đông, chúng ta có thể tin, cũng hoàn toàn ở
một cung bậc khác. Ánh ngày rực rỡ được chia cách với đêm một cách tuyệt đối
cũng như đất chia cách với nước. Những buổi hoàng hôn đỏ hơn và chói chang hơn;
những buổi bình minh trắng sáng hơn và ửng hồng hơn. Họ không biết gì về những
ánh hoàng hôn bảng lảng và những bóng chiều chạng vạng. Mưa tuôn như trút nước,
hoặc không có chút mưa nào. Hoặc ánh mặt trời chói chang hoặc bóng đêm mờ mịt.
Khi diễn dịch điều này
sang những lĩnh vực tinh thần theo thói quen của mình, các thi sĩ ca hát về
những đóa hồng phai tàn và những cánh hoa rơi rụng với những ngôn từ đẹp đẽ.
Khoảnh khắc thật ngắn ngủi, họ hát; khoảnh khắc đã trôi qua; chỉ là một đêm
dài, và tất cả ngủ say. Còn việc sử dụng những kỹ xảo như nhà kính hay phòng
kính để kéo dài hay bảo quản những bông hoa cẩm chướng hay hồng tươi tắn không
phải là cung cách của họ. Họ không biết tới những vấn đề phức tạp và mơ hồ
thuộc thời đại có tính chất dần dà và đáng ngờ của chúng ta. Bạo lực là tất cả.
Hoa nở rồi tàn. Vầng thái dương mọc rồi lặn. Tình nhân yêu rồi ra đi. Và những
gì các thi sĩ nói bằng vần điệu, tuổi trẻ diễn tả chúng bằng cách thực hành.
Những nàng thiếu nữ là những bông hoa, và mùa của họ cũng ngắn ngủi như mùa hoa
nở vậy. Họ phải được hái trước khi đêm xuống; vì ngày thì ngắn và ngày là tất
cả. Như vậy, nếu Orlando làm theo sự dẫn dắt của bầu không khí, của các thi
nhân, của chính thời đại đó, và hái bông hoa của chàng ở bên ngoài cửa sổ thậm
chí trong lúc tuyết phủ kín mặt đất và Nữ Hoàng đang ngồi cảnh giác trong
phòng, chúng ta hầu như không thể nào trách cứ chàng. Chàng quá trẻ trung;
chàng như một cậu bé; chàng chỉ làm những gì tự nhiên bảo chàng làm.
Về phần cô gái, chúng ta
không biết gì nhiều hơn về nàng so với chính bản thân Nữ Hoàng Elizabeth; tên
của nàng là gì? Có thể là Doris, Chloris, Delia, hay Diana, vì chàng đã lần
lượt gieo vần cho tất cả những cái tên đó; tương tự, nàng có thể là một tiểu
thư trong triều nội, hay một nàng hầu nào đó. Vì sở thích của Orlando khá dễ
dãi; chàng không chỉ yêu quý nâng niu những đóa hoa trong vườn thượng uyển; hoa
đồng cỏ nội luôn là một sức quyến rũ đối với chàng.
Ở đây, chúng tôi xin nói
thẳng, dù hơi sống sượng, như một nhà viết tiểu sử có thể, về một tính cách kỳ
lạ của chàng, có lẽ được giải thích bởi thực tế rằng một người bà của chàng
từng mặc một chiếc áo blu lao động và từng xách những xô sữa. Một hạt giống của
Hạt Kent hoặc đất của vùng Sussex đã trộn lẫn với thứ chất lỏng mong manh tinh
tế đến với chàng từ Normandy. Chàng cho rằng thứ hỗn hợp giữa đất nâu và máu
xanh là một hỗn hợp tốt lành. Hẳn nhiên chàng luôn có một thiện cảm với tầng
lớp thấp kém, nhất là với những người hay chữ mà đầu óc dí dỏm của họ thường
giữ họ ở vị trí hạ lưu, như thể có một sự đồng cảm huyết thống giữa chàng và
họ. Vào mùa này của đời chàng, khi đầu chàng đầy ắp những vần điệu du dương và
chàng không bao giờ lên giường nếu không xóa sạnh một ý tưởng lạ lùng nào đó,
gò má của con gái một ông chủ quán trọ dường như tươi tắn hơn và sự hóm hỉnh
của cô cháu gái của một ông quản lý khu săn bắn dường như nhanh nhạy hơn những
tiểu thư trong triều. Do vậy, chàng bắt đầu thường xuyên lui tới tửu quán Wapping
Old Stairs và những quán bia lộ thiên vào ban đêm, trùm lên người một chiếc áo
choàng xám để che đậy ngôi sao đeo ở cổ và cái kẹp bít tất ở đầu gối.
Ở
đó, với một vại bia trước mặt, ngồi giữa những lối đi trải cát và những bãi
chơi bóng gỗ và tất cả những kiến trúc đơn giản của những địa điểm như thế,
chàng lắng nghe những câu chuyện về sự nhọc nhằn, kinh khủng và tàn ác trên
vùng biển Tây Ban Nha của những gã thủy thủ; một số gã bị mất các ngón chân,
một số khác bị mất mũi như thế nào – bởi những câu chuyện kể thành lời không
bao giờ quá hoàn hảo hay được tô điểm sắc màu đẹp đẽ như được viết ra. Đặc
biệt, chàng thích nghe những bài ca miên man của họ về quần đảo Azores, trong
lúc lũ vẹt đuôi dài mà họ mang về từ những vùng đó mổ vào những chiếc khuyên
tai trên tai họ, khỏ những cái mỏ cứng lên những viên hồng ngọc trên ngón tay
của họ, và chửi thề ỏm tỏi không thua gì chủ nhân của chúng. Những cô nàng trong
quán hầu như cũng bạo mồm bạo miệng và có cung cách thoải mái không kém chi lũ
vẹt.
Họ
ngồi trên đùi của Orlando, vòng tay quanh cổ chàng, và phỏng đoán rằng có một
thứ gì đó khác thường nằm ẩn giấu bên dưới tấm áo choàng len thô kệch của
chàng, hoàn toàn nôn nao đi tới sự thật của vấn đề không kém chính bản thân
chàng.
Cũng
không hề thiếu cơ hội. Dòng sông náo động từ sớm đến tối với những chiếc xà
lan, đò đưa khách và tàu thuyền đủ loại. Hàng ngày, một con tàu xinh đẹp nào đó
sẽ lướt ra khơi để tới các vùng biển Indies; thỉnh thoảng, một con tàu khác,
xạm đen và xơ xác, với những gã đàn ông lông lá trên boong, đau khổ bò tới chỗ
thả neo. Không ai để ý tới một chàng trai hay cô gái nếu họ bông đùa chút chút
trên mặt nước sau lúc hoàng hôn; hoặc nhướng cao một bên lông mày nếu những tay
ngồi lê đôi mách đã nhìn thấy họ ngủ ngon lành giữa những bao châu báu, an toàn
trong vòng tay nhau. Thật sự, trò mạo hiểm đó đã xảy ra với Orlando, Sukey, và
Bá tước xứ Cumberland .
Ngày hôm đó oi bức; tình yêu của họ thì sôi nổi; họ ngủ thiếp đi giữa những thùng
rượu vang đỏ. Khuya hôm đó ngài Bá tước, kẻ mà thời vận gắn liền với những
thương vụ ở Tây Ban Nha, đã một mình tới kiểm tra các thứ chiến lợi phẩm với
một cái đèn lồng. Ông ta rọi cây đèn lên một cái thùng tô nô và giật mình lùi
lại với một tiếng rủa. Trên cái thùng to hai thân hình quấn chặt nhau đang say
ngủ. Vốn có bản chất mê tín, và một lương tâm nặng trĩu vì nhiều tội lỗi, ngài
Bá tước cho rằng cặp trai gái đó – họ trùm lên người một tấm áo choàng đỏ, và
bụng của Sukey cũng trắng nõn như lớp tuyết vĩnh cửu trong thơ của Orlando – là
một hồn ma ló lên từ mộ của những tay thủy thủ chết đắm để quở trách ông ta.
Ông ta làm dấu thánh giá. Ông ta thề sẽ ăn năn sám hối. Dãy nhà cất cho người
nghèo hiện còn đứng trên phố Sheen Road là kết quả hữu hình của giây phút kinh hãi đó.
Hôm nay, mười hai bà cụ già nghèo khổ của xứ đạo đó ngồi uống trà và tối nay sẽ
cầu phúc cho ông ta vì đã cho họ có một mái nhà trên đầu để trú thân; tình yêu
trái phép trên một con tàu chở đồ châu báu cũng được cầu phúc như thế đó –
nhưng chúng ta phải bỏ qua luân thường đạo lý.
Tuy
nhiên, Orlando sớm trở nên ngán ngẫm, không chỉ vì sự bất tiện của lối sống
này, và của những con phố quanh co lân cận, mà còn vì cách ứng xử thô kệch của
bọn người ở đó. Vì chúng ta phải nhớ rằng tội ác và sự nghèo túng không có chút
sức hấp dẫn nào đối với những người sống dưới triều đại của Nữ Hoàng Elizabeth
như chúng có đối với chúng ta. Họ không hề xấu hổ vì học hỏi trong sách như con
người hiện đại chúng ta; họ không có niềm tin như chúng ta rằng sinh vào cửa
của một ông bán thịt là một phúc lành và không thể xem là một đức hạnh; không
hề nghĩ rằng thứ mà chúng ta gọi là “cuộc đời” và “thực tại” theo cách nào đó
gắn liền với sự dốt nát và thô lỗ; và thật sự không nghĩ rằng có bất kỳ sự tương đồng nào đối với hai
từ đó. Orlando đến với họ không phải để tìm kiếm “cuộc đời”; và cũng không phải
vì truy tìm “thực tại” mà chàng rời bỏ họ. Nhưng khi chàng đã nghe vài chục lần
việc Jakes bị mất mũi và Sukey bị mất danh tiết như thế nào – phải công nhận
rằng họ kể những câu chuyện này một cách đáng ngưỡng mộ – chàng bắt đầu hơi mệt
mỏi với sự lặp đi lặp lại, bởi một cái mũi chỉ có thể bị cắt lìa theo một cách
duy nhất nào đó và sự trinh bạch bị đánh mất theo một cách duy nhất khác – hoặc
đối với chàng nó có vẻ là như vậy – trong khi các bộ môn nghệ thuật và khoa học
thì quá phong phú đa dạng, khuấy động một cách sâu sắc đầu óc hiếu kỳ của
chảng. Thế là, vẫn luôn giữ một ký ức vui vẻ về họ, chàng giã từ những quán bia
lộ thiên và những bãi chơi bóng gỗ, treo cái áo choàng xám trong tủ áo, để mặc
cho ngôi sao sáng tỏa sáng trên cổ chàng và cái kẹp bít tất lấp lánh ở gối
chàng, và một lần nữa tái xuất hiện trong triều đình của Vua James. Chàng còn
trẻ, chàng giàu có, chàng đẹp mã. Không ai có thể được tiếp đón một cách nồng
nhiệt hơn chàng.
Tất
nhiên nhiều tiểu thư sẵn sàng để lộ cho chàng thấy thiện cảm của họ. Ít nhất
cũng đã có ba cái tên gắn liền một cách thoải mái với tên chàng trong hôn nhân
– Clorinda, Favilla, Euphrosyne – chàng gọi họ như thế trong những bài sonnet
của chàng.
Xin
nói về họ theo thứ tự; Clorinda là một tiểu thư dịu dàng, cử chỉ đoan trang rất
mực – thật sự Orlando đã rất gắn bó với nàng trong suối sáu tháng rưỡi; nhưng
nàng có hai hàng lông mi trắng bệch và không thể chịu nổi việc nhìn thấy máu
me.
Một
con thỏ rừng được mang lên để nướng trên bàn ăn của cha nàng đủ khiến nàng ngất
xỉu. Nàng cũng chịu nhiều ảnh hưởng của các vị giáo sĩ, và sử dụng quần áo lót
một cách dẻ sẻn để có tiền cho người nghèo. Nàng xem việc cải tạo những tội lỗi
của Orlando là bổn phận của mình, điều này khiến chàng muốn bệnh, đến nỗi chàng
rút lui khỏi cuộc hôn nhân, và không hối tiếc nhiều lắm khi nàng chết sau đó
không lâu vì bệnh đậu mùa.
Favilla, người kế tiếp,
là một dạng tiểu thư hoàn toàn khác hẳn. Nàng là con gái của một quý ông nghèo
ở Somersetshire. Nhờ bản tính vồn vã ân cần và nghệ thuật sử dụng ánh mắt, nàng
đã len lỏi tìm đường vào triều đình, nơi những phát biểu của nàng về thuật cưỡi
ngựa, mu bàn chân xinh xắn của nàng, và vẻ yêu kiều trong lúc khiêu vũ của nàng
chiếm được sự ngưỡng mộ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, có một lần, nàng quá
dại khờ khi vung roi quất gần chết một con chó spaniel đã xé rách đôi tất lụa
của nàng (và phải nói một cách công bằng rằng Favilla chỉ có vài đôi tất và
phần lớn chúng được dệt bằng dạ thô) ngay bên dưới cửa sổ của Orlando. Vốn là
một người yêu thương động vật, lúc này chàng nhận ra nàng có hàm răng không
đều, và hai cái răng cửa nghiêng vào trong; chàng bảo đó là một dấu hiệu chắc
chắn của thiên hướng ngang bướng và độc ác ở những người phụ nữ, và thế là
chàng hủy bỏ hôn ước ngay đêm đó.
Kẻ thứ ba, Euphrosyne, là
mối tình nghiêm túc nhất của chàng. Nàng là con dòng cháu giống của hoàng gia
triều đại Desmond Ái Nhĩ Lan và do đó cũng có một gia phả lâu đời và thâm căn
cố đế không kém gia phả của Orlando. Nàng xinh đẹp, hồng hào và hơi phớt tỉnh
Ăng-lê chút chút. Nàng nói thông thạo tiếng Ý, và có một hàm răng trên tuyệt
đẹp, dù hàm răng dưới của nàng hơi xỉn màu hơn. Nàng không bao giờ thiếu một
chú chó đua hay spaniel lẩn quẩn dưới chân; nàng cho chúng ăn bánh mì trắng lấy
từ đĩa của chính nàng; nàng hát thật ngọt ngào êm ái bên những cây đàn
virginal; và không bao giờ mặc lễ phục trước buổi trưa vì nàng cực kỳ quan tâm
tới chính bản thân mình. Nói tóm lại, nàng hẳn phải là một cô vợ hoàn hảo cho
một nhà quý tộc như Orlando, và chuyện đã đi xa đến độ các ông luật sư của cả
hai bên đều bận rộn tíu tít với những bản giao kèo, những khoản di sản để lại
cho vợ, những thỏa thuận, những khu nhà đất, những bất động sản và bất cứ thứ
gì cần thiết trước khi một kẻ giàu có cực kỳ có thể kết hôn với một kẻ cực kỳ
giàu có khác, khi, với sự đột ngột và khắc nghiệt vốn là dấu ấn của thời tiết
nước Anh, Đợt Băng Giá Lớn[2]
kéo tới.
Các sử gia nói cho chúng
ta biết, Đợt Băng Giá Lớn là mùa đông khắc nghiệt nhất từng ập xuống những hòn
đảo này. Lũ chim đông cứng ngay giữa không trung và rơi xuống đất như những hòn
đá. Ở Norwick, những kẻ qua đường nhìn thấy một thôn nữ trẻ bắt đầu băng ngang
qua con lộ trong tình trạng khỏe mạnh bình thường bị biến thành bột và bị thổi
tung thành bụi qua những mái nhà khi luồng hơi băng tấn công nàng ta ở góc
đường. Số lượng tử vong của cừu và gia súc rất lớn. Các xác chết đóng băng và
không thể kéo ra khỏi những mảnh vải. Việc bắt gặp một bầy heo bị đông cứng bất
động trên đường không phải là chuyện bất thường. Các cánh đồng đầy những người
chăn cừu, người đi cày, những đàn ngựa, và những cậu bé đuổi chim, tất cả chết
sững trong hành động ở khoảnh khắc đó, kẻ này với bàn tay đưa lên mũi, người nọ
với cái chai đưa lên môi, kẻ thứ ba với một hòn đá giơ lên để ném vào lũ quạ, lúc
ấy đứng yên như thể được nhồi bông, trên bờ giậu cách anh ta chừng một thước.
Sự tàn khốc của sương giá bất thường đến độ tiếp theo sau đó là một dạng hóa
đá; và thiên hạ thường cho rằng sự gia tăng lớn số lượng đá tảng ở một số vùng
ở Derbyshire không phải do sự phún xuất nham thạch, vì không có vụ nào cả, mà
do sự đông cứng lại của những khách bộ hành không may; họ đã biến thành đá theo
đúng nghĩa đen ngay tại nơi họ đứng. Nhà thờ không giúp được gì nhiều, và dù
một số địa chủ đưa các thi hài đi chôn cất, đa số thích sử dụng chúng như những
cột mốc ranh giới, những cây cột để cừu gãi lưng, hoặc, khi hình thức của khối
đá cho phép, những cái máng nước cho gia súc; dù phục vụ cho mục đích nào,
chúng đều được đa số tán thưởng, cho tới tận ngày nay.
Nhưng trong lúc những
người dân quê đang cực kỳ thiếu thốn, và hoạt động thương mại của đất nước bị
đình trệ, London lại tận hưởng một cuộc lễ hội xa hoa tột bậc. Triều đình được
đặt tại Greenwich, và vị vua mới nắm lấy cơ hội mà lễ đăng quang mang tới để
lấy lòng dân chúng. Ông ra chỉ thị rằng dòng sông, vốn đóng một lớp băng dày
tới hơn hai mươi bộ[3] và trải
dài suốt sáu bảy dặm dọc hai bên bờ, phải dược quét dọn sạch, trang hoàng sao
cho giống như một công viên hoặc địa điểm dạo chơi, với những giàn cây lá tạo
bóng râm, những mê cung, những lối đi, những lều giải khát, vân vân, tất cả chi
phí do ông đài thọ. Ông dành riêng cho mình và các triều thần một địa điểm ngay
phía đối diện với các cánh cổng cung điện; chỉ được ngăn cách khỏi công chúng
bởi một sợi dây lụa, và ngay lập tức nơi đó trở thành trung tâm của tầng lớp
thượng lưu quí phái nhất ở nước Anh. Các chính khách lớn, với những bộ râu và những
cổ áo xếp nếp bệ vệ, ngồi giải quyết những sự vụ quốc gia dưới mái hiên đỏ thắm
của Tòa tháp Hoàng gia.
Binh lính ngồi vạch kế
hoạch chinh phục người Moor và lật đổ Thổ Nhĩ Kỳ dưới những cái giàn được che
bằng lông chim đà điểu châu Phi. Các sĩ quan hải quân cao cấp đi đi lại lại trên
những con đường hẹp, ly rượu trong tay, khoe khoang tầm hiểu biết và kể những
câu chuyện về hải trình tây bắc và hạm đội Tây Ban Nha. Những cặp tình nhân
ngồi tán tỉnh nhau trên những cái trường kỷ trải lông chồn. Những đóa hồng đóng
băng rơi xuống như mưa khi Nữ Hoàng và các phu nhân của bà bước ra ngoài. Những
quả bóng bay đủ sắc màu treo lơ lửng bất động trong không trung. Đó đây là
những đống lửa to đốt bằng gỗ tuyết tùng và gỗ sồi tẩm thừa thãi muối đến độ
những ngọn lửa tỏa ra đủ các màu xanh lục, cam và tím. Nhưng bất chấp chúng
cháy to cỡ nào, sức nóng vẫn không đủ để làm tan lớp băng trong suốt nhưng rắn
như thép. Nó thật sự trong suốt, đến độ người ta có thể nhìn thấy một cá heo
sông ở chỗ này, một con cá bơn ở đằng kia, bị đông cứng bên dưới một độ sâu
nhiều bộ.
Hàng đàn lươn nằm hôn mê
bất động, nhưng việc chúng đang trong tình trạng đã chết hay chỉ tạm ngưng hoạt
động và sẽ sống lại khi nước ấm lên khiến các triết gia phải lúng túng không
tìm ra lời giải. Gần cầu London, nơi sông bị đóng băng tới độ sâu khoảng hai
mươi sải[4],
người ta có thể nhìn thấy rõ ràng một chiếc đò nằm dưới đáy sông, nơi nó đã bị
chìm hồi mùa thu năm trước, lòng đò chất đầy những quả táo. Người phụ nữ già
chủ đò, người chở trái cây tới chợ ở mạn Surrey, ngồi đó trong chiếc áo choàng
len và chiếc váy phồng, vạt áo đựng đầy táo, như thể bà ta sắp trao táo cho một
khách hàng, dù một màu xanh nhợt trên đôi môi gợi ý cho sự thật. Đó là một cảnh
tượng mà Vua James đặc biệt thích nhìn, và ông sẽ mang theo một đám triều thần
để cùng ngắm nhìn với mình. Tóm lại, vào ban ngày, không có thứ gì vượt trội
hơn vẻ rực rỡ và vui tươi của cảnh vật. Nhưng thời điểm vui nhất của lễ hội là
khi đêm xuống. Vì sương giá vẫn tiếp tục giăng trải; đêm hoàn toàn tĩnh lặng;
trăng và sao tỏa sáng với sự bất động của những hạt kim cương, và đám cận thần
nhảy múa theo nhạc điệu du dương của sáo và kèn trompet.
Thật sự, Orlando không
phải là kẻ xem thường điệu nhảy coranto và lavolta; chàng chỉ vụng về và hơi
đãng trí. Chàng thích những vũ điệu đơn giản của chính quê hương của mình hơn;
những điệu mà chàng nhảy múa như một đứa trẻ theo những nhịp điệu nước ngoài
nhộn nhịp. Thật sự, chàng đã tạm thời nghỉ chân vào khoảng sáu giờ chiều ngày
bảy tháng Một khi kết thúc một điệu nhảy cađri hoặc mơnuet khi nhìn thấy một
nhân vật bước ra từ mái hiên của tòa đại sứ Nga, không rõ là nam hay nữ, vì cái
áo chùng rộng thắt ngang lưng và cái quần theo kiểu Nga đã che đậy đi giới
tính, gợi cho chàng một sự tò mò tột độ. Nhân vật đó, bất kể tên họ hay giới
tính, có chiều cao trung bình, rất thon thả trong bộ y phục nhung màu trắng sứ
viền một lớp lông thú xanh xanh kỳ lạ. Nhưng các chi tiết này bị chìm khuất
dưới dáng vẻ quyến rũ cực kỳ toát ra từ toàn bộ thân hình đó. Những hình ảnh,
những ẩn dụ về sự phô trương cực độ quấn bện vào nhau trong tâm trí của chàng.
Chàng gọi nàng ta là một quả dưa hấu, một quả khóm, một cây ô liu, một viên
ngọc lục bảo, và một con cáo trên tuyết trắng trong khoảng thời gian ba giây;
chàng không biết chàng có nghe thấy nàng không, có thưởng thức nàng không, có
nhìn thấy nàng không, hay cả ba thứ này cùng lúc.
(Bởi lẽ, dù chúng tôi
phải dừng lời kể trong giây lát, chúng tôi phải vội vã lưu ý rằng tất cả những
hình ảnh trong tâm trí chàng lúc này chỉ đơn giản là rất cực đoan để phù hợp
với những cảm giác của chàng, và phần lớn xuất phát từ những thứ mà chàng ưa
thích mùi vị hồi còn bé dại. Nhưng nếu những cảm giác của chàng khá đơn giản,
chúng cũng đồng thời cực kỳ mạnh mẽ. Do đó, việc dừng lại để tìm kiếm nguyên do
là điều bất khả.) … Một quả dưa hấu, một viên ngọc lục bảo, một con cáo trên
tuyết trắng; chàng cứ thế tấm tắc ngợi khen, cứ thế đăm đăm nhìn ngắm. Khi cậu
con trai đó, bởi vì, than ôi, hẳn đó phải là một cậu con trai – không người phụ
nữ nào có thể trượt băng ào ào với tốc độ và sự mạnh mẽ như thế - lướt ngang
qua chàng hầu như trên những ngón chân, Orlando sẵn sàng vò đầu bứt tóc với nỗi
bực tức vì kẻ đó cùng giới tính với chàng, và do vậy không thể nào có chuyện
những cái ôm thật chặt. Nhưng kẻ trượt băng đã tới gần hơn. Đôi chân, đôi bàn
tay, dáng đi, là của một cậu con trai, nhưng không cậu con trai nào có một cái
miệng như thế; không cậu con trai nào có bộ ngực đó; không cậu con trai nào có
một đôi mắt trông như thể được vớt lên từ đáy biển. Cuối cùng, dừng lại và nhún
gối chào nhà vua với cử chỉ thanh nhã nhất, kẻ vừa lướt qua trên cánh tay của
một vị khanh tướng nào đó, kẻ trượt băng chưa rõ họ tên đó đã dừng lại. Nàng có
đôi vai nhỏ nhắn. Nàng là một phụ nữ. Orlando nhìn đắm đuối: run rẩy, nóng ran
người, lạnh toát người; chỉ muốn lao người qua bầu không khí mùa hè; nghiền nát
những hạt sồi dưới chân mình; với tay chạm vào những ngọn sồi. Như chuyện đã
diễn ra, chàng cong vành môi để lộ hàm răng trắng đều tăm tắp; hé mở đôi môi có
lẽ khoảng nửa in-sơ như thể để cắn; khép chúng lại như thể chàng đã cắn. Tiểu
thư Euphrosyne đu người trên cánh tay chàng.
Chàng đã tìm ra tên họ
của kẻ lạ mặt đó, Nàng là công chúa Marousha Stanilovska Dagmar Natasha Iliana
Romanovitch, và nàng đã tới trong chuyến tàu của ngài Đại sứ Nga, có lẽ ông ta
là bác của nàng, hoặc cha của nàng, để tham dự lễ hội. Dân chúng Anh biết rất
ít về những người Nga. Họ ngồi hầu như im lặng với bộ râu rậm và những cái mũ
lông; uống một thứ chất lỏng màu đen mà thỉnh thoảng họ nhổ lên mặt băng. Không
ai nói tiếng Anh, và tiếng Pháp, ít nhất cũng có đôi chút quen thuộc, khi đó
được sử dụng trong triều đình nước Anh.
Chính qua sự kiện này,
Orlando và Công chúa đã quen nhau. Họ ngồi đối diện nhau ở cái bàn lớn trải bên
dưới một tấm vải bạt rộng để các nhà quý tộc ngồi tiêu khiển. Công chúa được
xếp ngồi giữa hai tướng công trẻ tuổi, một người là Lord Francis Vere và người
kia là Bá tước trẻ tuổi của xứ Moray. Thật buồn cười khi thấy rằng chẳng bao
lâu nàng đã đặt họ vào một tình thế khó xử, bởi dù cả hai đều là những thanh
niên xuất chúng theo cách của họ, một em bé chưa chào đời cũng có lượng kiến
thức về tiếng Pháp nhiều ngang với họ. Vào đầu bữa ăn tối, khi công chúa quay
sang Bá tước và nói, với một vẻ duyên dáng khiến ông ta mê mẩn cả tâm hồn: “Je crois avoir fait la connaissance d'un
gentilhomme qui vous etait apparente en Pologne l'ete dernier,”[5] hoặc “La
beaute des dames de la cour d'Angleterre me met dans le ravissement. On ne peut
voir une dame plus gracieuse que votre reine, ni une coiffure plus belle que la
sienne”[6], cả Lord Francis lẫn Bá tước đều tỏ ra
cực kỳ bối rối. Vị này sốt sắng múc giùm nàng món súp cải ngựa, vị kia huýt sáo
với con chó của mình và chìa một khúc xương có tủy ra cho nó. Tới đây, Công
chúa không còn nén nổi một tràng cười rộ, và Orlando, bắt gặp ánh mắt của nàng
qua những cái thủ lợn và những con công nhồi nấm, cũng bật cười to. Chàng cười,
nhưng tiếng cười trên môi chàng đông cứng trong nỗi ngạc nhiên. Cho tới lúc
này, chàng đã từng yêu ai, chàng đã từng yêu cái gì? Chàng tự hỏi trong một cảm
xúc xao động bối rối. Một bà già, chàng tự đáp, chỉ toàn xương với da. Những cô
gái điếm má đỏ thì quá nhiều đến không đếm xuể. Một nữ tu hay khóc nhè. Những ả
đàn bà có máu phiêu lưu và mồm loa mép giải. Một đống những thứ ron ren và điệu
bộ khách sáo. Tình yêu không có nghĩa gì đối với chàng ngoài mùn cưa và xỉ
quặng. Những niềm vui mà chàng từng có đối với tình yêu cực kỳ nhạt nhẽo và vô
vị. Chàng kinh ngạc khi nghĩ làm thế nào chàng có thể trải qua thứ tình yêu đó
mà không ngáp dài chán nản. Bởi trong lúc chàng nhìn, quả tim của chàng tan
thành chất lỏng; băng giá biến thành rượu vang trong từng huyết mạch của chàng;
chàng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách lao xao và tiếng chim hót líu lo; mùa
xuân nở rộ trên cảnh vật mùa đông ảm đạm; máu đàn ông của chàng thức giấc;
chàng xiết chặt một thanh kiếm trong tay; chàng tấn công một kẻ thù liều lĩnh
hơn người Ba Lan hay người Moor; chàng lặn xuống đáy nước sâu; chàng nhìn thấy
đóa hoa của sự hiểm nguy nhú lên từ một khe hở; chàng duỗi tay ra – thật sự,
chàng đang liếng thoắng tuôn ra những vần thơ sonnet say đắm nhất của mình khi
Công chúa nói với chàng: “Ông có vui lòng chuyền giúp lọ muối hay chăng?”
Mặt chàng đỏ bừng tới tận
mang tai.
“Với tất cả mọi niềm vui
trên trần thế, thưa bà,” chàng đáp, nói tiếng Pháp với một giọng tuyệt hảo. Bởi
lẽ, xin ca tụng đất trời, chàng đã nói bằng thứ ngôn ngữ của chính chàng; người
hầu của mẹ chàng đã dạy chàng. Thế nhưng có lẽ giá như chàng không bao giờ học
thứ ngôn ngữ đó thì sẽ tốt hơn cho chàng; không bao giờ trả lời giọng nói ấy;
không bao giờ dõi theo ánh sáng của đôi mắt ấy…
Công chúa nói tiếp, “Hai
kẻ vụng về kia là ai nhỉ,” nàng hỏi chàng, hai người ngồi bên cạnh nàng với
cung cách của những gã thộn? Cái hỗn hợp đáng tởm mà họ đã trút vào đĩa của
nàng là thứ gì vậy? Ở nước Anh lũ chó ăn cùng bàn với con người hay sao? Nhân
vật vui nhộn ngồi ở đầu bàn với mái tóc dựng lên như một cây nêu kia (comme une
grande perche mal fagotee) thật sự là Nữ Hoàng sao? Và phải chăng lúc nào nhà
vua cũng chảy nước dãi như thế? Và ai trong số những tay công tử bột kia là George
Villiers?
Dù thoạt tiên những câu
hỏi này khiến cho Orlando bối rối, chúng được đưa ra với một vẻ tinh quái và
khôi hài đến nỗi chàng không thể nín cười; và từ những bộ mặt ngẩn ra của mọi
người, chàng thấy rằng chẳng ai hiểu được từ nào, chàng trả lời nàng một cách
thoải mái, như nàng đã hỏi chàng, bằng một thứ tiếng Pháp hoàn hảo.
Một tình thân giữa hai
người đã bắt đầu thế đó, và nó sớm trở thành một vụ tai tiếng trong triều.
Thiên hạ sớm nhận ra
rằng Orlando chú ý tới cô gái người Nga hơn phép lịch sự đơn thuần đòi hỏi rất
nhiều. Chàng ít khi không ở cạnh nàng, và những lời đối thoại của họ, dù số còn
lại không thể hiểu, diễn ra một cách sôi nổi, gợi nên những khoảnh khắc đỏ mặt
và tiếng cười, đến độ một kẻ ngu đần nhất cũng đoán ra được đề tài. Ngoài ra,
sự thay đổi ở chính bản thân Orlando thật khác thường. Chưa có ai từng thấy
chàng tràn đầy sức sống đến thế. Trong một đêm chàng đã vứt bỏ sự vụng về trẻ
con của mình, từ một thanh niên mới lớn hay hờn dỗi, kẻ không thể bước vào
phòng của một tiểu thư mà không đánh đổ phân nửa số vật trang trí trên bàn,
chàng đã trở thành một nhà quý tộc, vô cùng duyên dáng và lịch thiệp đúng kiểu
đàn ông. Nhìn thấy chàng dìu cô gái Nga (như thiên hạ gọi nàng) ra cỗ xe trượt
tuyết, hay đưa tay mời nàng khiêu vũ, hay nhặt chiếc khăn tay bẩn mà nàng bỏ
mặc cho rơi xuống, hay thực hiện bất kỳ việc gì trong số những bổn phận nhiều
gấp bội mà nàng đệ nhất tiểu thư đề nghị và kẻ đang yêu vội vã đoán trước là
một cảnh tượng nhen lên ánh sáng trong đôi mắt mờ của tuổi già, và khiến cho
mạch đập nhanh của tuổi trẻ thêm rộn rã. Thế nhưng bên trên tất cả mọi sự lơ
lửng một đám mây đen. Những người đàn ông lớn tuổi thì nhún vai. Bọn người trẻ
tuổi thì che miệng cười khúc khích. Tất cả đều biết rằng Orlando này đã đính
hôn với một Orlando khác. Tiểu thư Margaret O'Brien O'Dare O'Reilly Tyrconnel (đó
là tên thật của Euphrosyne trong những vần thơ sonnet) đã lồng chiếc nhẫn nạm
ngọc bích vào ngón áp út trên bàn tay trái của nàng. Chính nàng mới có quyền hạn
tối cao đối với những sự chú ý của chàng. Thế nhưng nàng có thể đánh rơi tất cả
mọi chiếc khăn tay trong tủ áo của nàng (nàng có tới mấy chục cái tủ áo) xuống
mặt băng mà Orlando vẫn chả bao giờ khom xuống để nhặt chúng lên. Nàng có thể
đợi hai mươi phút để chàng dìu nàng tới cỗ xe trượt tuyết, rồi rốt cuộc phải
bằng lòng với sự phục vụ của gã đánh xe da đen của mình. Khi nàng trượt băng,
một chuyện nàng thực hiện khá vụng về, không có ai cầm lấy khuỷu tay để động viên nàng, và nếu
nàng trượt ngã, thường là khá nặng, không ai nâng nàng đứng dậy và phủi bụi
tuyết khỏi chiếc váy của nàng. Dù nàng có bản tính phớt tỉnh Ăng-lê, không nhạy
cảm mấy đối với sự xúc phạm, và hơn hầu hết mọi người, không sẵn lòng tin rằng
một người ngoại quốc không đáng bận tâm có thể tước đoạt hết tình cảm của
Orlando dành cho nàng, tuy nhiên, chính tiểu thư Margaret cuối cùng cũng ngờ
rằng có gì đó đang diễn ra chống lại sự thanh bình nội tâm của mình.
Thật
sự, với ngày tháng trôi qua, Orlando càng ngày càng không quan tâm tới việc che
giấu những cảm xúc của mình. Viện cớ này cớ khác, chàng thường bỏ mặc vị hôn
thê ngay khi họ ăn bữa tối xong, hoặc chuồn khỏi những người trượt băng, đang
gom thành nhóm cho một điệu vũ bốn cặp. Ngay phút sau, thiên hạ thấy rằng cô
gái Nga cũng biến mất theo. Nhưng điều khiến cho triều đình phẫn nộ nhất, châm
vào điểm yếu nhất của nó, bản chất tự cao tự đại của nó, là người ta thường
nhìn thấy đôi trai gái này luồn qua bên dưới sợi dây lụa ngăn cách khu vực
hoàng gia với khu vực công cộng của dòng sông và biến mất trong đám đông những
kẻ bình dân. Bởi lẽ Công chúa thường đột ngột dậm chân và hét lên “Đưa tôi tới
chỗ khác. Tôi ghét đám người Anh của chàng,” ý của nàng muốn nói là chính triều
đình của nước Anh. Nàng không thể chịu đựng nó thêm nữa. Nó đầy những bà già
tọc mạch, nàng nói, những kẻ cứ nhìn chằm chặp vào mặt của người ta, hay đầy
những tay đàn ông trẻ tuổi cứ dẫm lên những ngón chân của người ta. Họ có mùi
khó ngửi. Lũ chó của họ chạy chen vào giữa hai chân của nàng. Cứ hệt như sống
trong một cái lồng. Ở Nga, họ có những con sông rộng mười dặm, trên đó người ta
có thể cho sáu con ngựa chạy dóng hàng ngang suốt cả ngày dài mà chả gặp bóng
người nào.
Ngoài
ra, nàng muốn tới tham quan Tháp London, những người canh gác tháp, những cái
đầu trên cổng Temple Bar, và những cửa hàng nữ trang trong thành phố. Do vậy,
Orlando đã đưa nàng vào thành phố, chỉ cho nàng những người canh gác tháp và
đầu của những kẻ nổi loạn, và mua tặng nàng bất cứ món gì nàng thích ở trung
tâm thương mại Royal Exchange. Nhưng thế vẫn chưa đủ. Mỗi người ngày càng khao
khát sự cận kề riêng tư của người kia trong suốt cả ngày dài ở một nơi không có
ai thắc mắc hay nhìn soi mói. Do đó, thay vì chọn con đường đi tới London, họ
ngoặt sang một đường vòng khác và chẳng bao lâu đã tách khỏi đám đông, tiến vào
những đoạn kênh nhánh của sông Thames nơi không có bóng người nào hiện ra trên
con đường của họ trừ lũ chim biển và vài bà già nhà quê đang bổ rìu vào mặt
băng trong một nỗ lực vô hiệu quả nhằm múc một thùng nước hay thu lượm những
que củi hay lá cây có thể tìm được để làm củi đốt. Những người nghèo chỉ quanh
quẩn bên ngôi nhà nhỏ của họ, còn những người khá giả, rủng rỉnh tiền bạc hơn
thì hòa vào đám đông để hưởng sự ấm áp và niềm vui cùng thành phố.
Thế
là Orlando và Sasha, tên gọi tắt của chàng đặt cho nàng, vì đó là tên của một
con cáo trắng có nguồn gốc từ Nga mà chàng từng nuôi hồi còn bé – một sinh vật
mềm như tuyết, nhưng có bộ răng cứng như thép, từng cắn chàng một cách dữ tợn
đến mức cha chàng đã ra lệnh giết chết nó – đã chiếm hữu dòng sông cho riêng
họ. Nóng bức vì trượt băng và vì tình yêu, họ sẽ nhảy ùm xuống một con kênh
vắng vẻ nào đó, nơi những bụi liễu gai vàng trụi lá mọc kín ven bờ; quấn mình
trong một cái áo choàng lông thú lớn, Orlando ôm chặt nàng trong vòng tay, và
biết, lần đầu tiên, chàng thủ thỉ, những lạc thú của tình yêu. Sau đó, khi cơn
hạnh phúc ngất ngây đã qua đi và họ nằm ru nhau trong cảm giác êm đềm, chàng sẽ
kể cho nàng nghe những mối tình khác của mình, và bảo rằng so với nàng, họ chỉ
như gỗ đá. Bật cười với sự sôi nổi của chàng, nàng sẽ lao vào vòng tay chàng
lần nữa và trao tặng cho chàng thêm một cái ôm nghẹt thở vì tình yêu. Sau đó họ
sẽ kinh ngạc rằng băng đã không tan chảy vì sức nóng của họ, và thấy thương hại
cho bà cụ nghèo khổ, kẻ không có những phương tiện tự nhiên đó để làm tan nó,
mà phải dùng một cái rìu làm bằng thép lạnh để bổ vào nó. Thế rồi, quấn mình
trong những tấm da chồn, họ chuyện trò về mọi thứ dưới ánh mặt trời; về những
phong cảnh và những chuyến du hành; về bọn người Moor và Pagan; về bộ râu quay
nón của gã này và nước da của mụ kia, về một con chuột được cho ăn từ bàn tay
của nàng ở bàn ăn; về những tấm thảm luôn di chuyển trong tòa đại sảnh ở quê
nhà nàng, về chim chóc. Không có chuyện gì là quá nhỏ bé tầm thường, cũng không
có gì là quá lớn lao cho một cuộc chuyện trò như thế.
Thế
rồi đột nhiên Orlando lại rơi vào tâm trạng u sầu của chàng; cảnh tượng bà cụ
già đi cà nhắc trên lớp băng có thể là nguyên do của nó, hoặc không có nguyên
do gì hết; và chàng sẽ úp mặt lên lớp băng, nhìn vào lòng nước đóng băng và suy
nghĩ về cái chết. Bởi lẽ một triết gia nào đó luôn đúng khi khoảng cách giữa
hạnh phúc và nỗi u sầu chỉ cách nhau không đầy bề dày một lưỡi dao; và chàng sẽ
tiếp tục phát biểu rằng tâm trạng này là anh em sinh đôi của tâm trạng kia, và
rút ra từ đó kết luận rằng tất cả những cảm giác cực đoan gắn liền với sự điên
rồ; và chúng ta phải cố tìm nơi trú ẩn trong nhà thờ thật sự (theo quan điểm
của chàng là nhà thờ của giáo phái Anabaptist), đó là nơi trú ẩn, bến cảng, chỗ
cắm neo… duy nhất, chàng nói, cho những kẻ đang lênh đênh trôi giạt trên cái
biển cả này.
“Mọi
thứ kết thúc trong cái chết,” Orlando sẽ vừa nói thế vừa ngồi thẳng lưng lên,
nét mặt phủ đầy vẻ ảm đạm. (Bởi lẽ đó là cách tâm trí chàng hoạt động vào lúc
này, trong trạng thái bập bênh dữ dội từ sự sống sang cái chết, ở giữa không có
điểm dừng nào, khiến người viết tiểu sử hoặc phải dừng lại, hoặc phải bay càng
nhanh càng tốt để theo kịp những hành động đắm say ngốc nghếch thiếu suy nghĩ
và những ngôn từ khoa trương bất chợt mà vào thời điểm này của đời chàng, không
thể không thừa nhận, Orlando tự cho phép mình tha hồ bốc phét.)
“Mọi
thứ kết thúc trong cái chết,” Orlando sẽ vừa nói vừa ngồi thẳng lưng lên. Nhưng
nói cho cùng Sasha là một cô gái không có dòng máu Anh trong người, đến từ nước
Nga, nơi những buổi hoàng hôn kéo dài hơn, những rạng đông ít đột ngột hơn, và
những câu nói thường bị bỏ lửng giữa chừng do nỗi hoài nghi phải làm cách nào
kết thúc chúng tốt nhất – Sasha nhìn chàng đăm đăm, có lẽ còn cười nhạt chế
giễu chàng, vì hẳn là trông chàng có vẻ như một đứa trẻ con đối với nàng, và
không nói lời nào. Nhưng sau một hồi lâu, băng lại lạnh đi bên dưới họ, điều mà
nàng không thích, vì thế nàng lại kéo chàng đứng lên và nói thật du dương, thật
dí dỏm, thật khôn ngoan (nhưng không may là luôn luôn bằng tiếng Pháp, vốn sẽ
đánh mất âm điệu của nó khi dịch lại) rằng chàng hãy quên đi dòng nước đóng
băng hoặc đêm đang tới hoặc bà cụ già hay bất kể thứ gì và hãy nói cho nàng
biết – trong số muôn ngàn hình ảnh lao xao đã trở nên cũ rích như bà cụ đã gợi
ra chúng – nàng giống như thứ gì. Tuyết, kem, đá hoa, quả anh đào, thạch cao
tuyết hoa, một sợi dây bằng vàng. Không giống thứ gì trong số đó cả, Nàng giống
như một con cáo, một cây ô liu; như những lượn sóng của biển cả khi bạn nhìn
xuống chúng từ một độ cao; như một viên ngọc lục bảo; như mặt trời trên một
ngọn đồi xanh thế nhưng bị mây che – không giống như bất kỳ thứ gì chàng từng
nhìn thấy hay biết đến ở nước Anh.
Chàng
cố lục tìm trong óc những ngôn từ, nhưng từ ngữ biến đâu hết cả. Chàng muốn một
phong cảnh khác, một thứ ngôn ngữ khác. Tiếng Anh quá thẳng thừng, quá bộc
trực, quá ngọt ngào đối với Sasha. Bởi lẽ trong tất cả những điều nàng đã nói,
bất kể nàng có vẻ cởi mở và thẳng thắn như thế nào, vẫn còn ẩn giấu một cái gì
đó; trong tất cả những gì nàng đã làm, bất kể liều lĩnh táo bạo tới đâu, vẫn có
cái gì đó còn bị che đậy. Dường như ánh lửa xanh cũng ẩn giấu trong viên ngọc
lục bảo như thế, hoặc mặt trời bị cầm tù trong một ngọn đồi như thế. Sự minh
bạch chỉ là lớp vỏ bề ngoài; bên trong là một ngọn lửa trôi giạt lang thang. Nó
đến; nó đi; nàng không bao giờ tỏa sáng với ánh sáng đều đều của một phụ nữ
người Anh – tuy nhiên, tới đây chàng chợt nhớ tới tiểu thư Margaret và cái váy
dài của nàng ấy. Chàng trở nên điên cuồng với cảm xúc mãnh liệt của mình và ôm
chầm lấy nàng, chàng thề rằng chàng sẽ đuổi theo ánh lửa đó, nhanh hơn, nhanh
hơn nữa, lặn xuống nước sâu để tìm viên ngọc báu, vân vân và vân vân, những
ngôn từ tuôn ra theo tiếng thở hổn hển của chàng, với sự say đắm của một thi
nhân mà thi ca của chàng ta vừa được ép vọt ra phân nửa bởi sự đớn đau.
Nhưng
Sasha vẫn im lặng. Sau khi Orlando đã nói với nàng rằng nàng là một con cáo,
một cây ô liu, hay một đỉnh đồi xanh ngắt, và đã nói cho nàng biết toàn bộ lịch
sử gia tộc của chàng; ngôi nhà của họ là một trong những ngôi nhà cổ nhất nước
Anh ra sao; họ đã đến từ Rome với các hoàng đế La Mã và có quyền đi qua Corso
(đó là con đường chính ở Rome) trong một cái kiệu có treo những núm tua ra sao,
đó là một đặc quyền chỉ dành cho những kẻ có huyết thống hoàng gia, chàng nói
(vì ở chàng có một sự cả tin đầy kiêu hãnh khá là thú vị), chàng sẽ dừng lại và
hỏi nàng, Nhà của nàng ở đâu? Cha của nàng làm công việc gì? Nàng có anh em
trai chăng? Vì sao nàng một mình tới đây với bác của nàng? Thế rồi, theo cách
nào đó, dù nàng trả lời một cách khá dễ dàng, một trạng thái lúng túng nào đó
sẽ xuất hiện giữa hai người. Thoạt tiên chàng nghi ngờ rằng đẳng cấp của nàng
không cao như nàng mong muốn; hoặc rằng nàng xấu hổ về những cung cách hoang dã
của đồng bào của nàng, vì chàng từng nghe nói rằng phụ nữ ở Mạc Tư Khoa để râu
và đàn ông có đầy lông từ eo trở xuống; rằng cả hai giới tính đều bôi mỡ động
vật lên người để chống lạnh, xé thịt bằng những ngón tay và sống trong những
túp lều nơi một quý tộc người Anh sẽ ngần ngại không muốn nhốt gia súc vào đó;
vì thế chàng không ép buộc nàng. Nhưng khi ngẫm lại, chàng kết luận rằng sự im
lặng của nàng không thể vì lý do đó; bản thân nàng hoàn toàn trơn tru từ chân
tóc đến cằm; nàng mặc y phục may bằng nhung và đeo ngọc trai, và cung cách của
nàng dứt khoát không phải là cung cách của một phụ nữ lớn lên trong một cái
chuồng gia súc.
Vậy nàng che giấu chàng
điều gì? Mối nghi ngờ nằm bên dưới sức mạnh kinh khủng của những cảm xúc của
chàng giống như một vũng cát lầy bên dưới một tượng đài đột ngột di chuyển
khiến toàn bộ khối tượng đài rúng động. Nỗi thống khổ đột ngột xâm chiếm tâm
hồn chàng. Rồi chàng sẽ bùng nổ trong cơn phẫn nộ đến độ nàng không biết làm
sao để xoa dịu chàng. Có lẽ nàng không muốn xoa dịu chàng; có lẽ những cơn điên
giận của chàng khiến nàng thấy vui vui và nàng cố tình khơi gợi chúng – đó là
sự ranh ma kỳ lạ của tính cách Nga.
Xin
được tiếp tục câu chuyện: Trượt băng xa hơn khu vực quen thuộc, hôm đó họ đi tới
phần của dòng sông nơi những con tàu đã thả neo và đã đóng băng ở giữa dòng.
Trong số chúng là con tàu của Đại sứ quán Nga với lá cờ vẽ hình con đại bàng
hai đầu treo trên cột buồm chính, bên dưới treo lủng lẳng những trụ băng dài
nhiều thước đủ màu. Sasha đã bỏ lại một số y phục của nàng trên tàu; cho rằng
con tàu trống rỗng, họ trèo lên boong tàu và lục lọi tìm kiếm. Nếu nhớ lại
những chuyến đi của chính mình, hẳn Orlando sẽ không ngạc nhiên khi có một vài
công dân tốt nào đó tìm được nơi trú ẩn này trước họ; và đúng là như thế. Họ
chưa tìm kiếm được bao lâu thì một gã đàn ông trẻ tuổi đứng lên từ một công
việc riêng gì đó của mình sau một đống dây thừng và nói, một cách rõ ràng, vì
hắn nói tiếng Nga, rằng hắn là một trong số thủy thủ đoàn và sẽ giúp Công chúa
tìm thứ gì nàng muốn; hắn đốt một khúc nến rồi biến mất cùng nàng vào những
phần thấp hơn của con tàu.
Thời
gian trôi qua, và Orlando, đắm chìm trong những mơ tưởng của riêng chàng, chỉ
nghĩ tới những lạc thú của cuộc đời; tới viên ngọc báu của chàng; tới sự hiếm
có của nàng; tới những phương tiện để biến
nàng thành của chàng, bền vững và vĩnh viễn. Có những trở ngại và khó khăn phải
vượt qua. Nàng đã dứt khoát sẽ sống ở Nga, nơi có những dòng sông đóng băng,
những con ngựa hoang và những gã đàn ông hoang dã, nàng nói, những kẻ cắt đứt
cổ họng nhau. Thật sự thì một phong cảnh toàn rừng thông và tuyết, những thói
quen của tham vọng và giết chóc không chút quyến rũ đối với chàng. Chàng cũng
không nôn nóng muốn từ bỏ những thói quen thú vị ở miền quê như thể thao và
trồng cây; từ bỏ văn phòng của chàng, phá hủy sự nghiệp của chàng; bắn tuần lộc
thay vì bắn thỏ; uống vodka thay vì rượu vang Canary, và dắt một con dao trong
ống tay áo – vì mục đích gì thì chàng không biết. Tuy nhiên, chàng sẽ làm tất
cả những điều này và nhiều hơn tất cả những điều này vì nàng. Còn về phần cuộc
hôn nhân giữa chàng với tiểu thư Margaret, dù đã được ấn định vào một ngày
trong tuần này, việc này phi lý một cách hiển nhiên đến độ chàng hầu như không
màng nghĩ tới nó. Bà con họ hàng của chàng sẽ xỉ vả chàng vì đã bỏ rơi một tiểu
thư đài cát; bạn bè của chàng sẽ nhạo báng chàng vì đã phá hỏng một sự nghiệp
tốt đẹp nhất trên đời vì một người đàn bà Cô-dắc và một vùng đất hoang toàn
tuyết – nó không nặng hơn một cọng rơm trên cán cân so với chính bản thân
Sasha. Vào đêm tối trời dầu tiên họ sẽ cùng nhau bỏ trốn. Họ sẽ đáp con tàu đi
tới Nga. Chàng ngẫm nghĩ như thế; chàng xếp đặt như thế trong lúc đi đi lại lại
trên boong tàu.
Khi
quay về hướng tây, cảnh tượng mặt trời, treo lủng lẳng như một quả cam trên cây
thánh giá của nhà thờ St Paul nhắc nhở chàng. Nó đỏ như máu và đang nhanh chóng
lặn xuống.
Trời
gần sụp tối. Sasha đã đi hơn một giờ. Bị xâm chiếm ngay lập tức bởi những điềm
báo u ám vốn phủ bóng lên thậm chí những ý nghĩ tự tin nhất của chàng về nàng,
chàng lao theo lối đi lúc nãy đã nhìn thấy họ đi xuống thân tàu; và, sau khi va
vấp phải những cái rương và thùng tô nô trong bóng tối, chàng nhận ra họ đang
ngồi ở một góc nhờ một tia sáng lờ mờ. Trong một giây, chàng nhìn thấy một ảo
ảnh về họ; nhìn thấy Sasha ngồi trên đầu gối của gã thủy thủ; nhìn thấy nàng
nghiêng người về phía hắn; nhìn thấy họ ôm chặt nhau trước ánh sáng lóe ra khỏi
một đám mây đỏ rực do cơn cuồng nộ của chàng. Chàng rống lên một tiếng tru đau
đớn đến nỗi nó vang dội lại suốt cả con tàu. Sasha lao ra giữa họ, hoặc hẳn gã
thủy thủ đã bị kiềm chế trước khi hắn có thể rút thanh đoản kiếm của mình ra.
Rồi một cơn choáng váng chết người xâm chiếm Orlando, và họ phải đặt chàng nằm
trên sàn, cho chàng uống chút rượu mạnh trước khi chàng hồi tỉnh lại. Và rồi,
khi chàng hồi tỉnh và ngồi trên một đống bao tải trên boong tàu, Sasha nghiêng
người bên trên chàng, lướt qua trước đôi mắt hoa lên của chàng một cách mềm
mại, uyển chuyển, giống như con cáo đã cắn chàng, khi thì vỗ về an ủi, khi thì
phản đối kịch liệt, khiến chàng phải ngờ vực những gì chàng đã nhìn thấy. Phải
chăng do ánh nến lập lòe? Phải chăng những cái bóng đã di động? Cái thùng thì
nặng, nàng nói; gã thủy thủ giúp nàng di chuyển nó. Orlando tin nàng trong
khoảnh khắc – vì ai có thể chắc chắn rằng cơn thịnh nộ của chàng không vẽ ra
những gì chàng sợ phãi phát hiện ra nhất? – khoảnh khắc kế tiếp chàng càng nổi
điên hơn trước sự dối trá của nàng. Rồi mặt Sasha trở nên trắng bệch; nàng dậm
chân lên sàn tàu; bảo rằng đêm đó nàng sẽ ra đi, và kêu gọi các thần thánh của
nàng tới hủy diệt nàng; nếu nàng, một kẻ dòng dõi Romanovitch, nằm trong vòng
tay của một thủy thủ tầm thường. Thật sự, khi nhìn cả hai cùng một lúc (điều mà
chàng cố lắm mới làm được) Orlando tức tối vì sự xấu xa của trí tưởng tượng của
chàng; nó đã vẽ ra một sinh vật mỏng
manh đến thế trong móng vuốt của cái gã thủy thủ lông lá đó. Gã rất cao lớn;
cao tới sáu bộ bốn in-sơ khi không mang giày, đeo những cái khoen kim loại tầm
thường trên tai, và trông như một con ngựa kéo xe mà trên lưng nó một con hồng
tước hay chim cổ đỏ đã đậu xuống trong chuyến bay ngang qua đó. Thế là chàng
đầu hàng; tin nàng; và xin nàng thứ lỗi. Thế nhưng khi họ đi xuống phía hông
tàu, lại yêu mến nhau như trước, Sasha dừng lại, tay đặt trên cái thang và ngoái
lại nói với tên quái vật ngăm đen mặt bự đó một tràng chào từ giã, hay những
lời đùa cợt, hay những lời âu yếm, bằng thứ tiếng Nga mà Orlando không thể hiểu
được từ nào. Có cái gì đó trong giọng của nàng (có thể đó là do lỗi lầm của
những phụ âm tiếng Nga) khiến Orlando nhớ tới một cảnh tượng trước đó vài đêm,
khi chàng tình cờ bắt gặp nàng đang đứng ở góc phòng, lén lút gặm một cái đuôi
nến mà nàng đã nhặt lên từ dưới sàn nhà. Quả thật nó màu hồng; nó mạ vàng; và
nó từng nằm trên bàn của nhà vua; nhưng nó được làm bằng mỡ động vật, và nàng
đã gặm nó. Có hay chăng một đẳng cấp nào
đó trong con người nàng – chàng nghĩ khi cầm tay dắt nàng bước lên mặt băng –
một đặc tính thô kệch nào đó, một sự quê mùa bẩm sinh nào đó? Và chàng tưởng
tượng nàng trở nên sồ sề to béo và lừ đừ chậm chạp ở tuổi bốn mươi dù hiện giờ
nàng mảnh mai như một cây sậy và vui vẻ linh hoạt như một con chim chiền chiện.
Nhưng một lần nữa, khi họ trượt băng về phía London, những nghi ngờ đó tan chảy
trong lồng ngực chàng, và chàng cảm thấy như thể chàng là một con cá to bị mắc
câu và lao qua làn nước một cách bất đắc dĩ, nhưng với sự ưng chịu của chính
chàng.
Đó
là một buổi chiều hôm đẹp tuyệt vời. Khi mặt trời dần lặn, tất cả những mái
vòm, chóp nhọn, tháp canh và những tháp nhỏ trang trí trên mái nhà của Lon don
nổi lên thành những đường nét đen như mực trên những vầng mây hoàng hôn đỏ ửng.
Đây là cây thánh giá chạm khắc hoa văn ở Charing; kia là mái vòm của nhà thờ St
Paul's; kia nữa là khối vuông đồ sộ của những tòa nhà của Tháp London; đằng
kia, trông như một chòm cây đã rụng sạch lá ngoại trừ một cái bướu ở ngọn cây
là những cái đầu cắm trên những ngọn giáo ở cổng Temple Bar. Giờ này những
khung cửa sổ của Tu viện Westminster đã thắp đèn sáng rực như một tấm khiên nhà
trời nhiều màu sắc (trong trí tưởng của Orlando); giờ này toàn bộ hướng tây
trông như một cửa sổ bằng vàng với những đàn thiên sứ (cũng trong trí tưởng của
Orlando) liên tục sà xuống vọt lên ngang qua những vì sao. Trong suốt thời gian
đó, dường như họ đang trượt băng trong những độ sâu khôn dò của không trung,
mặt băng trở nên xanh ngăn ngắt; và phẳng mịn như mặt gương, khiến tốc độ tiến
về thành phố của họ mỗi lúc một nhanh hơn, với những con mòng biển trắng lượn
vòng tròn quanh họ, những đôi cánh cắt qua bầu không khí với cùng tốc độ họ cắt
trên mặt băng với đôi giày trượt của mình.
Như
để trấn an chàng, Sasha tỏ ra dịu dàng hơn, thậm chí vui vẻ hơn thường lệ. Nàng
ít khi nói về quá khứ của mình, nhưng lúc này nàng kể cho chàng nghe vào mùa
đông ở Nga, nàng thường lắng nghe tiếng lũ sói tru trên những thảo nguyên như
thế nào, và ba lần, để ví dụ cho chàng biết, nàng tru lên như một con sói. Để
đáp lại, chàng kể cho nàng nghe về những con hươu đực vào mùa tuyết rơi ở quê
chàng, chúng thường đi lạc vào tòa đại sảnh để tìm hơi ấm và được một cụ già
cho ăn cháo đặc đựng trong một cái xô. Thế là nàng khen ngợi chàng; vì lòng yêu
thương thú vật của chàng; vì sự ga lăng của chàng, vì đôi chân của chàng. Sướng
mê với những lời khen của nàng, và xấu hổ khi nghĩ chàng đã phỉ báng nàng ra
sao khi tưởng tượng nàng ngồi trên gối của một gã thủy thủ tầm thường, trở nên
béo phị và chậm chạp lúc bốn mươi tuổi, chàng nói với nàng rằng chàng không thể
tìm ra lời để ca tụng nàng; thế nhưng ngay tức khắc chàng nghĩ nàng thật giống
mùa xuân, giống cỏ non xanh và nước chảy róc rách, và xiết chặt tay nàng hơn
bao giờ hết, chàng cùng nàng nhịp nhàng uốn lượn trong suốt nửa quãng đường
băng ngang dòng sông và lũ mòng biển và chim cốc cũng lắc lư chao liệng theo họ.
Cuối cùng, khi dừng lại, mệt hết cả hơi, nàng hổn hển nói, rằng chàng giống như
một cây thông Giáng sinh trên cắm một triệu cây nến (như họ có ở Nga) với những
quả châu vàng; sáng chói lọi; đủ soi sáng cả một con phố; (vì thế người ta có
thể dịch nó) bởi lẽ với đôi má đỏ bừng, những lọn tóc đen loăn xoăn và chiếc áo
choàng hai màu đen đỏ của chàng. Trông như thể chàng đang bốc cháy với ánh sáng
của chính mình, từ một ngọn đèn cháy ở bên trong.
Tất
cả mọi màu sắc, trừ màu đỏ trên đôi má của Orlando, chẳng bao lâu đã nhạt nhòa.
Đêm buông xuống. Khi ánh sáng màu cam của hoàng hôn tan biến, nó được kế tục
bởi một ánh sáng trắng kỳ quặc từ những cây đuốc, những đống lửa, những ngọn
đèn bến cảng, và những thứ đèn khác mà nhờ đó cả khúc sông được thắp sáng và sự
chuyển biến lạ lùng nhất diễn ra. Các loại giáo đường và cung điện của những
nhà quý tộc với mặt tiền bằng đá trắng lát thành dải và mảng trông như thể trôi
bềnh bồng trong không trung. Đặc biệt, người ta không còn nhìn thấy gì khác
ngoài một cây thập giá mạ vàng. Tu viện Westminster hiện ra như bộ xương của
một chiếc lá. Mọi thứ đều bị bào mòn và biến đổi. Khi tới gần khu lễ hội, họ
nghe một nốt trầm như tiếng gõ lên một cái âm thoa. Rồi nó ngày càng lớn dần
dần, lớn dần cho tới trở thành một âm thanh vang động. Thỉnh thoảng một có một
tiếng reo hò lớn theo sau một quả tên lửa vọt lên không trung. Dần dần, họ có
thể thấy rõ những hình dáng nhỏ bé tách ra khỏi đám đông và xoay tròn từ chỗ
này sang chỗ khác như những con muỗi mắt trên bề mặt của một dòng sông. Úp lên
trên và xung quanh vòng tròn sáng rực này giống như một cái chén bóng tối là
màu đen thăm thẳm của một đêm đông. Và bắt đầu lao vào bóng tối với những
khoảng khắc tạm ngưng, khiến sự mong đợi thêm bồn chồn và những cái mồm há hốc,
là những quả tên lửa nở bung như hoa; những hình lưỡi liềm, những con rắn, một
cái vương miện. Trong khoảnh khắc, những cánh rừng và những ngọn đồi xa hiện ra
xanh ngắt như trong một ngày mùa hạ; ở khoảng khắc kế tiếp tất cả lại là mùa
đông và đêm đen.
Lúc
này Orlando và Công chúa đã tới gần khu vực của hoàng gia và nhận thấy đường đi
của họ đã bị chặn lại bởi một đám đông thường dân, đang áp sát dần sợi dây lụa
trong chừng mực họ dám. Miễn cưỡng kết thúc sự riêng tư và đối mặt với những
đôi mắt sắc như dao đang theo dõi họ, đôi tình nhân nấn ná ở đó, kề vai sát
cánh bởi những anh thợ học nghề; những chị thợ may; những bà hàng cá; những tay
lái ngựa, những tên móc túi; những học giả chết đói; những nàng hầu trong các
giáo xứ; những cô gái bán cam; những người chăm sóc ngựa ở các quán trọ; những
công dân đúng mực; những anh bồi quán nước thô tục; và một đám trẻ đầu đường xó
chợ vốn luôn có mặt ở ngoài rìa một đám đông, la hét và len lỏi giữa chân của
mọi người – thật sự, toàn bộ đám tiện dân của các đường phố London đều có mặt ở
đó, bông đùa và chen lấn, chỗ này gieo súc sắc, đoán chuyện tương lai, xô đẩy
nhau, thọc lét nhau, cấu véo nhau; chỗ kia om xòm, chỗ nọ buồn như chấu cắn;
một số trong bọn họ há hốc mồm; số khác tỏ ra cung kính như lũ quạ gáy xám trên
những nóc nhà; tất cả đều ăn mặc tùy theo túi tiền và địa vị cho phép; đám này
mặc áo lông và đồ len; đám kia ăn mặc rách rưới với đôi bàn chân quấn giẻ lau
để ngăn cách với mặt băng.
Có
vẻ như đám đông chủ yếu đứng đối diện với một cái rạp hoặc một bục sân khấu bên
trên đang biểu diễn vở kịch gì đó giống như vở Punch và Judy của chúng ta. Một
người đàn ông da đen đang vẫy tay và quát tháo. Có một người phụ nữ mặc đồ
trắng nằm trên một cái giường. Dù sân khấu thô sơ, các diễn viên vẫn chạy lên
chạy xuống hai bậc thang, đôi khi nhanh
thoăn thoắt, và đám đông dậm chân, huýt sáo; hay khi thấy chán, họ ném một
miếng vỏ cam xuống mặt băng và một con chó sẽ bò tới đớp; tuy nhiên, giai điệu
lạ lùng uốn éo của những ngôn từ đã khuấy động Orlando như âm nhạc. Được nói
với một tốc độ cực nhanh và một giọng điệu lanh lợi, những từ này nhắc chàng
nhớ tới những thủy thủ ca hát trong những quán bia lộ thiên ở Wapping, những từ
này, thậm chí khi không có ý nghĩa gì, cũng giống như rượu vang đối với chàng.
Nhưng
đôi khi một cụm từ đơn lẻ đến với chàng qua mặt băng như thể bị rứt ra từ những
độ sâu của tâm hồn chàng. Đối với chàng, dường như sự điên cuồng của gã người
Moor cũng là sự điên cuồng của chính chàng, và khi gã người Moor bóp cổ người
phụ nữ nằm trên giường, đó chính là Sasha mà chàng đã tự tay giết chết.
Cuối
cùng vở kịch kết thúc. Tất cả trở nên ảm đạm. Những giọt lệ lăn xuống mặt
chàng. Ngẩng nhìn lên bầu trời cũng chẳng có gì ngoài màu đen thăm thẳm. Sự đổ
nát và cái chết, chàng nghĩ, bao trùm lên tất cả. Cuộc đời của con người chấm
dứt trong ngôi mộ. Lũ giun sẽ ngấu nghiến chúng ta.
Đối
với tôi, giờ đây lúc mặt trời và mặt trăng khuất dạng, và địa cầu khiếp đảm há
hốc mồm…
Ngay
khi chàng thốt lên câu này, một vì sao tái nhợt hiện lên trong ký ức chàng. Đêm
tối mịt; tối như hũ nút, nhưng họ đã chờ đợi một đêm như thế này; họ đã lên kế
hoạch bỏ trốn vào một đêm như thế này. Chàng nhớ mọi thứ. Thời điểm đã tới. Với
một cảm xúc say đắm trào dâng, chàng kéo Sasha sát vào mình và thì thào vào tai
nàng “Jour de ma vie!”[7] Đó là ám hiệu của họ. Lúc nửa đêm, họ sẽ gặp
nhau ở một quán trọ gần nhà ga Blackfriars.
Hai
con ngựa chờ sẵn ở đó. Mọi thứ đã sẵn sàng cho cuộc bỏ trốn của họ. Thế là họ
chia tay, nàng đi về lều của nàng, chàng về chỗ của chàng. Vẫn cần một giờ để
nghỉ ngơi.
Orlando đã chờ đợi từ
lâu trước lúc nửa đêm. Đêm tối mịt đến độ một người đàn ông có thể đâm sầm vào
bạn trước khi bạn nhìn thấy anh ta, điều này tốt thôi, nhưng nó còn có một sự
tĩnh mịch trang nghiêm đến nỗi người ta có thể nghe thấy tiếng vó của một con
ngựa, hay tiếng khóc của một em bé từ một khoảng cách nửa dặm. Nhiều lần, trong
lúc đi lại trong mảnh sân nhỏ, Orlando đã lóng tai nghe âm thanh gõ móng đều
đều trên những lớp sỏi của một con ngựa già, hay tiếng sột soạt của một cái váy
đàn bà. Nhưng khách bộ hành chỉ là một thương nhân nào đó, đang quay về nhà
muộn; hoặc một phụ nữ trong khu phố ra đường với một mục đích không ngây thơ
chút nào. Họ đi ngang qua, và con phố lại tĩnh mịch hơn trước. Những ánh sáng
lập lòe lóe lên ở những cầu thang trong những khu phố nhỏ nơi những dân nghèo
đô thị sống, di chuyển lên những căn phòng ngủ, rồi chúng lần lượt tắt đi.
Những ngọn đèn đường ở mấy khu ngoại ô này được trang bị rất ít; và do tính cẩu
thả của người gác đêm, chúng thường hết dầu từ lâu trước khi trời sáng. Khi đó
bóng tối trở nên sâu thẳm hơn lúc trước. Orlando xem xét bấc của cái đèn lồng
của chàng và những sợi dây đai yên ngựa; nhồi thuốc súng vào mấy khẩu súng
ngắn; kiểm tra mấy cái bao súng; và thực hiện tất cả những việc này ít nhất cả
chục lần cho tới khi chàng không tìm ra thêm thứ gì cần tới sự chú ý của chàng.
Dù còn khoảng hai mươi phút nữa mới tới nửa đêm, chàng không thể buộc mình bước
vào cửa, tới phòng khách của quán trọ, nơi bà chủ quán vẫn còn phục vụ rượu
vang trắng và loại rượu vang canary rẻ tiền cho vài thủy thủ. Đám người này
thường ngồi đó, hát những bài ca ngắn, kể những câu chuyện về Drake, Hawkins, và
Grenville, cho tới khi họ té ra khỏi những cái ghế dài và lăn đùng ra ngủ trên
sàn nhà đầy cát. Bóng tối khiến quả tim căng phồng và mãnh liệt của chàng thêm
trắc ẩn. Chàng lắng nghe từng tiếng bước chân rơi; phỏng đoán từng âm thanh.
Mỗi tiếng hét trong cơn say và mỗi tiếng than van từ một kẻ khốn khổ đáng
thương nào đó nằm trong ổ rơm hay trong một chỗ khốn cùng khác khiến tim chàng
đau như cắt, như thể nó báo trước điềm gỡ cho cuộc mạo hiểm của chàng. Thế
nhưng chàng không lo sợ cho Sasha. Sự gan lì của nàng đã biến cuộc mạo hiểm
thành một trò chơi. Nàng sẽ tới một mình, trong chiếc áo choàng không tay và
quần cưỡi ngựa, đi giày ống như một gã đàn ông. Tiếng bước chân của nàng rất
nhẹ, sẽ khó mà nghe thấy nó, ngay cả trong sự tĩnh lặng này.
Chàng cứ chờ đợi như thế
trong bóng tối. Đột nhiên có ai đó đấm vào mặt chàng, cú đấm mềm nhưng nặng,
trúng vào gò má. Chàng đang tập trung vào việc chờ đợi đến độ chàng giật mình
và đặt tay lên thanh kiếm. Cú đấm lặp lại cả chục lần trên trán và gò má. Màn
sương giá khô khan đã kéo dài lâu đến độ chàng phải mất một phút để nhận ra
rằng đây là những hạt mưa đang rơi; những cú đấm đó là những cú đấm của mưa.
Thoạt tiên chúng rơi chầm chậm, một cách chủ tâm, từng giọt nối tiếp nhau.
Nhưng không lâu sau đó, sáu giọt trở thành sáu mươi giọt; rồi sáu trăm; rồi
trút xuống ào ào như thác đổ, Như thể bầu trời rắn chắc đang tự tuôn trút chính
nó qua một cái vòi phun dữ dội. Trong vòng năm phút, Orlando đã ướt như chuột
lột.
Vội vã che mưa cho hai
con ngựa xong, chàng tìm nơi trú bên dưới rầm đỡ cánh cửa vì ở đó chàng vẫn có
thể quan sát mảnh sân trong. Lúc này bầu không khí quánh đặc hơn bao giờ hết,
và tiếng mưa rơi rào rào xối xả to đến độ người ta không thể nào nghe thấy
tiếng chân nào, dù của người hay thú dưới làn mưa. Những con đường lỗ chỗ với
những ổ gà to tướng hẳn đã ngập trong nước và có lẽ không để đi qua được. Nhưng
chàng hầu như không màng nghĩ tới điều này sẽ ảnh hưởng ra sao tới cuộc bỏ trốn
của họ. Tất cả mọi giác quan của chàng đều tập trung về phía con đường mòn rải
sỏi đang lấp lánh dưới ánh sáng của ngọn đèn lồng, vì Sasha đang tới. Thỉnh
thoảng, trong bóng tối, dường như chàng nhìn thấy dáng nàng, ướt đẫm dưới làn
mưa. Nhưng hình bóng ảo ấy biến mất. Đột nhiên, với một âm thanh đáng sợ và báo
điềm gỡ, một âm thanh chất chứa đầy nỗi kinh hoàng và cảnh báo khiến từng sợi
lông đau khổ trong tâm hồn Orlando dựng đứng lên, chuông nhà thờ St Paul's đổ
tiếng đầu tiên của nửa đêm. Nó đổ bốn lần, một cách không thương xót. Với đầu
óc dị đoan của một kẻ đang yêu, Orlando đã đoán rằng nàng sẽ tới đúng lúc đổ
tiếng chuông thứ sáu. Nhưng tiếng chuông thứ sáu đã tắt lịm âm ba, tiếng chuông
thứ bảy tới, rồi tiếng thứ tám, và đối với đầu óc sợ hãi của chàng, dường như
chúng là những dấu hiệu đầu tiên báo điềm rồi sau đó tuyên bố cái chết và tai
họa. Khi tiếng chuông thứ mười đổ, chàng biết rằng vận số chàng đã được ấn
định. Phần có lý trí trong chàng suy luận gì thì cũng vô ích mà thôi; nàng có
thể đến muộn; nàng có thể bị ngăn trở; nàng có thể lạc đường. Quả tim say đắm
và đầy cảm xúc của Orlando biết rõ sự thật. Những cái đồng hồ khác điểm giờ,
lần lượt cất lên chói cả tai. Toàn thế giới dường như đang reo lên tin tức về
sự dối trá của nàng và trạng huống trở thành một trò cười của chàng.
Mối nghi ngờ cũ vốn vẫn
ngấm ngầm hoạt động trong chàng lao vọt ra một cách công khai từ nơi ẩn nấp.
Chàng như bị cả một đàn rắn cắn, mỗi con sau càng độc hơn con trước đó. Chàng
đứng bất động trước cửa, trong cơn mưa tầm tã. Khi nhiều phút đã trôi qua, hai
gối của chàng hơi chùng xuống.
Mưa vẫn rơi tầm tã.
Trong màn mưa dày đặc, dường như có tiếng nổ của những khẩu súng lớn.
Chàng có thể nghe thấy
những tiếng động lớn khi những nhánh sồi bị xé toạc và bẻ gãy.
Còn có những tiếng thét
điên cuồng và những tiếng rên siết kinh khủng không phải của con người. Nhưng
Orlando vẫn đứng đó bất động cho tới khi chuông nhà thờ St. Paul’s đổ hai giờ,
và khi đó, hét lớn với một cảm giác mỉa mai kinh khủng, và để lộ toàn bộ số
răng của mình: “Jour de ma vie!” chàng
ném cái đèn lồng xuống đất, nhảy lên lưng ngựa và và phi nước đại vô
phương hướng.
Hẳn một bản năng mù
quáng nào đó, vì chàng đã mất hết lý trí, đã xui khiến chàng chọn con đường dọc
bờ sông hướng về phía biển. Khi ánh rạng đông ló dạng, một cách đột ngột khác
thường, bầu trời chuyển sang một màu vàng nhợt nhạt và mưa hầu như chấm dứt,
chàng nhận ra mình đang ở bên bờ sông Thames, vượt khỏi quận Wapping một đoạn.
Lúc này, một cảnh tượng thiên nhiên khác thường nhất hiện ra trước mắt chàng.
Ở đó, trong suốt hơn ba
tháng, chỉ có nền băng dày cứng đến nỗi trông có vẻ nó nó sẽ tồn tại vĩnh viễn
như đá, và cả một thành phố tươi vui đã từng đứng bên trên bề mặt của nó giờ
đây là một dòng nước vàng ào ào cuộn chảy.
Dòng sông đã lấy lại sự
tự do trong đêm. Như thể một dòng suối lưu huỳnh (nhiều triết gia đã thiên theo
quan điểm này) đã trào lên từ những khu vực núi lửa bên dưới và nung nóng làm
băng rã tan với sự mãnh liệt đến độ nó đập vỡ một cách cuồng nộ những tảng băng
to tướng thành từng mảnh. Chỉ nhìn dòng nước chảy cũng đủ khiến cho người ta
chóng mặt. Tất cả trở nên náo loạn và hỗn độn.
Dòng sông đầy những tảng
băng rải rác. Một số rộng như một sân chơi bóng gỗ và cao như một ngôi nhà; một
số khác không to hơn mũ của một gã đàn ông, nhưng hầu hết đều xoay tròn một
cách đẹp mắt. Có lúc những tảng băng nhấn chìm mọi thứ nằm trên đường của
chúng. Có lúc, xoáy tròn và quằn quại như một con rắn bị hành hạ, dường như
dòng sông đang tự quăng mình vào giữa những tảng băng và hất chúng từ bờ bên
này sang bờ bên kia, khiến người ta có thể nghe thấy tiếng chúng đập mạnh vào
những cầu tàu và trụ cầu. Nhưng đáng sợ và kinh khủng nhất là cảnh tượng những
con người đã mắc bẫy trong đêm và lúc này đang hoảng hốt chạy lòng vòng trên
những hòn đảo xoay tròn và bấp bênh của mình trong cơn thống khổ cực kỳ. Dù
nhảy vào dòng nước lũ hay ở lại trên mặt băng, chắc chắn họ đã đến ngày tận số.
Đôi khi, cả một nhóm các con người tội nghiệp này cùng rơi tỏm xuống nước một
lượt, kẻ thì đang quỳ gối, kẻ khác đang cho con bú. Một ông già dường như đang
lớn tiếng đọc từ một cuốn thánh kinh. Một lúc khác, và có lẽ số phận của người
đó đáng sợ nhất, một kẻ cô độc khốn khổ bám vào một tảng băng hẹp chỉ có mỗi
mình ông ta. Khi họ bị cuốn ra biển, có thể nghe tiếng của một người nào đó gào
thét kêu cứu một cách vô ích, hoặc điên cuồng hứa hẹn sẽ sửa chữa những sai
lầm, thú nhận những tội lỗi và thề sẽ thờ cúng và quyên góp nếu Thượng đế nghe
thấy lời nguyện cầu của họ. Một số kinh hãi đến nỗi ngồi bất động và im lặng
nhìn đăm đăm về phía trước. Một đám thủy thủ hoặc nhân viên đưa thư trẻ tuổi,
xét theo chế phục của họ, đang la hét và gào to những bài ca dâm dật nhất
thường được hát trong các tửu quán, bị một thân cây va phải và chìm xuống với
những lời báng bổ trên môi.
Một nhà quý tộc già –
cái áo lông và sợi dây chuyền vàng của ông ta chứng tỏ điều đó – đang trôi
xuống cách không xa chỗ Orlando đứng, đang kêu gọi hãy giáng sự trả thù lên lũ
Ái Nhĩ Lan nổi loạn, ông ta hét to với hơi thở cuối cùng, bọn đã mưu mô tạo nên
tai họa quỷ quái này. Nhiều người bỏ mạng trong lúc vẫn khư khư ôm chặt vào
ngực một cái bình bằng bạc hay một đồ vật quý giá khác; và ít nhất khoảng hai
chục kẻ bất hạnh khốn khổ đã chết chìm vì tham lam: họ thà rơi từ bờ sông xuống
dòng nước lũ còn hơn để một cái cốc bằng vàng hay một cái áo lông đắt tiền tuột
khỏi tay. Vì đồ đạc trong nhà, những thứ quý giá, mọi loại tài sản khác đang bị
cuốn trôi đi trên những tảng băng. Trong số những cảnh tượng kỳ lạ khác, chàng
nhìn thấy một con mèo đang cho lũ mèo con bú; một cái bàn được bày biện một
cách xa hoa cho một bữa ăn hai mươi người; một cặp vợ chồng đang ở trên giường;
cùng với một số lượng dụng cụ nấu ăn nhiều đến độ khác thường.
Kinh
ngạc và choáng váng, Orlando không thể làm gì trong một lúc ngoài việc quan sát
dòng nước kinh khủng đang ầm ầm cuộn chảy ngang qua chỗ chàng. Cuối cùng, dường
như sực tỉnh, chàng thúc đinh vào hông ngựa và phi nhanh dọc theo bờ sông hướng
ra biển. Khi vòng qua một khúc quanh của dòng sông, chàng đến chỗ đối diện với
nơi mà chưa đầy hai ngày trước, những con tàu của các ngài đại sứ trông có vẻ
như đóng băng bất động. Chàng hối hả đếm lại tất cả; tàu của Pháp; của Tây Ban
Nha, của Áo, của Thổ Nhĩ Kỳ. Tất cả vẫn trôi lềnh bềnh, dù con tàu của Pháp đã
bị đứt neo; và con tàu của Thổ bị thủng một lỗ to bên hông và đang nhanh chóng
ngập nước. Nhưng con tàu của Nga thì không thấy đâu cả. Trong giây lát, Orlando
nghĩ hẳn nó đã bị chìm, nhưng khi đứng thẳng người trên đôi bàn đạp và đưa tay
che nắng rọi vào đôi mắt, vốn tinh nhanh như mắt chim ưng, chàng có thể nhận ra
hình dáng của một con tàu ở chân trời. Con đại bàng đen hai đầu đang tung bay
trên cột buồm chính. Con tàu của Đại sứ quán Nga đang tiến ra biển.
Nhảy
xuống khỏi lưng ngựa, trong cơn thịnh nộ, chàng hành động như thể sẽ lao người
vào dòng nước lũ. Đứng trong làn nước sâu tới gối, chàng ném về phía người phụ
nữ lật lọng mọi lời xỉ vả dành cho giới tính của nàng. Đồ xảo trá, đồ đồng bóng
thất thường, đồ không chung thủy, chàng nguyền rủa; đồ xấu xa, ả đàn bà ngoại
tình, đồ dối trá; và dòng nước xoáy nhận lấy những lời nguyền rủa của chàng,
ném vào chân chàng một cái bình vỡ và một cái mũ rơm nhỏ.
[2]
Nguyên văn: The Great Frost. Theo mô tả của Virginia Woolf, có lẽ đây là đợt
băng giá xảy ra trong khoảng thời gian 1683-84. Dĩ nhiên những chi tiết trong
truyện đã được hư cấu hóa. Xin tham khảo thêm tại: https://en.wikipedia.org/wiki/Great_Frost_of_1683%E2%80%9384
[3]
Foot = 0,3048m
[4] Fathom:
1,82m
[5] Tôi nghĩ
tôi đã quen biết với một quý ông ở Ba Lan hồi mùa hè năm ngoái, rõ ràng đó là
ngài.
[6] Vẻ đẹp
của các quý bà của nước Anh khiến tôi vô cùng sung sướng. Chúng ta không thể
nhìn thấy quý bà nào duyên dáng hơn hoàng hậu, không ai có mái tóc đẹp hơn của
bà ấy.
[7] Ngày của
đời tôi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét