Xin trân trọng giới thiệu với các bạn ba chương đầu của tiểu thuyết này.
Thomas Hardy
TESS
Một tâm hồn thuần khiết
Nguyễn Thành Nhân
dịch
Dịch từ nguyên bản tiếng
Anh
Tess of the d’Urbervilles – A Pure Woman
Của Thomas Hardy
Dịch giả giữ bản quyền
bản tiếng Việt
GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT: Nàng thôn nữ
Chương I - XI
_______________________________________
I
Vào một xế chiều
cuối tháng Năm, một người đàn ông trung niên đang từ Shaston đi bộ trở
về nhà. Ông ở thôn Marlott, nằm tiếp giáp với Thung lũng Blakemore,
hoặc Blackmoor. Đôi chân của ông yếu ớt, và dáng đi của ông có xu
hướng hơi nghiêng sang trái. Thỉnh thoảng ông lại gật đầu, như thể xác
nhận một ý nghĩ nào đó, dù ông không hề nghĩ tới một điều gì cụ
thể. Ông móc lủng lẳng trên tay một cái giỏ đựng trứng trống rỗng,
đội một cái mũ nỉ đã sờn, một mảng to trên vành mũ đã rách toạc
và ông đưa ngón cái lên để giật nó ra. Đúng lúc đó ông nhìn thấy
một vị cha xứ lớn tuổi ngồi vắt vẻo trên lưng một con lừa xám, miệng
đang ngâm nga một khúc du ca.
“Chúc buổi tối tốt
lành,” ông cất tiếng chào.
“Chúc buổi tối tốt
lành, Ngài John,” vị cha xứ đáp lễ.
Kẻ bộ hành bước thêm
một hai bước nữa, rồi dừng chân và quay lại.
“Xin thứ lỗi, thưa ông;
chúng ta đã gặp nhau vào phiên chợ lần trước trên con đường này, cũng
vào khoảng giờ này, tôi đã nói ‘Chúc buổi tối tốt lành,’ và ông
cũng đáp lại ‘Chúc buổi tốt tốt lành, Ngài John,’ như hiện giờ.”
“Đúng thế,” vị cha
xứ đáp.
“Và một lần trước
đó nữa, gần một tháng trước.”
“Có lẽ tôi đã chào
như thế.”
“Vậy ý của ông là
gì khi gọi tôi là ‘Ngài John’ trong những lần này, khi tôi chỉ là Jack
Durbeyfield, một người bán dạo quê mùa?”
Vi cha xứ giục lừa
tới gần hơn.
“Đó chỉ là sở thích
nhất thời của tôi,” ông đáp; và nói thêm sau giây lát ngần ngừ: “Cách
đây ít lâu tôi phát hiện ra một việc, trong lúc đang săn lùng những
phả hệ cho một cuốn sách lịch sử mới của hạt. Tôi là cha xứ
Tringham, nhà khảo cổ, ở làng Stagfoot Lane. Durbeyfield; chẳng lẽ ông thật
sự không biết rằng ông là đại diện của dòng tộc hiệp sĩ cổ xưa d'Urbervilles,
vốn là hậu duệ của Ngài Pagan d'Urberville, vị hiệp sĩ lừng danh đến
từ Normandy cùng với William Kẻ Chinh phục, như được ghi trong Văn kiện
của Tu viện Battle hay sao?”
“Chưa bao giờ nghe nói
tới nó, thưa ông!”
“Vâng, đúng thế đó.
Hãy ngẩng cằm ông lên giây lát, để tôi có thể ngắm nét mặt nhìn
nghiêng của ông rõ hơn. Phải, đó là cái mũi và cằm của dòng họ d'Urberville,
dù hơi kém phẩm chất hơn chút đỉnh. Tổ tiên của ông là một trong
mười hai hiệp sĩ của Lãnh chúa xứ Estremavilla ở Normandy trong cuộc
chinh phục xứ Glamorganshire. Các nhánh gia tộc của ông có thái ấp
trên toàn bộ vùng này của nước Anh; tên của họ xuất hiện trong các
Cuộn Văn kiện vào thời Vua Stephen.
Dưới triều Vua John, một trong số họ đủ giàu để tặng một thái ấp
cho các Hiệp sĩ dòng Thánh John, và vào thời của Vua Edward Đệ Nhị,
tổ tiên Brian của ông được mời tới Westminster để tham gia Đại hội
đồng tại đó. Dòng tộc của ông bị sa sút đôi chút vào thời của Oliver
Cromwel, nhưng không nghiêm trọng
lắm, và dưới triều của Charles Đệ Nhị họ được phong làm Hiệp sĩ Cây
Sồi Hoàng gia
vì lòng trung thành. Phải, đã có những thế hệ các Ngài John trong
số tổ tiên của ông, và nếu tước hiệp sĩ có thể kế thừa như thuở
trước, khi cha có thể truyền lại tước hiệu này cho con trai, giờ ông
sẽ là Ngài John.”
“Ông đừng nói như
thế!”
“Nói tóm lại,” vị
cha xứ kết luận, vụt nhẹ roi vào chân mình với vẻ quả quyết, “khó
mà có một gia tộc khác như thế ở nước Anh.”
“Một thông tin choáng
cả người, phải không?” Durbeyfield đáp. “Và tôi đã lăn lóc từ nơi này
sang nơi khác, hết năm này sang năm khác, như thể tôi không hơn gì một
gã tiều phu tầm thường nhất trong xứ đạo… Tin tức này về tôi đã
được biết từ bao lâu rồi, thưa Cha xứ Tringham?"
Vị cha xứ giải thích
rằng, trong chừng mực ông biết, thông tin này đã hoàn toàn tuyệt tích
từ lâu, và hầu như không ai biết cả. Những điều tra riêng của ông đã được
bắt đầu vào mùa xuân năm ngoái, trong lúc truy tìm dấu tích thăng
trầm của gia tộc d'Urberville, ông đã nhìn thấy cái tên Durbeyfield trên
cỗ xe ngựa của Jack, và từ đó đã tiến hành những điều tra về cha
và ông nội của Jack cho tới khi không còn hồ nghi gì về vấn đề này
nữa.
“Thoạt tiên tôi quyết định không quấy rầy ông với một thông tin vô
ích như thế,” ông nói. “Tuy nhiên, đôi khi những thôi thúc của chúng ta
quá mạnh mẽ so với những phán xét của chúng ta. Tôi nghĩ có lẽ lâu
nay ông cũng biết đôi điều gì đó về việc này.”
“Vâng, đúng thế, tôi có nghe nói một hai lần, rằng tổ tiên tôi
từng có những ngày tháng tốt đẹp hơn trước khi họ tới Blackmoor. Nhưng
tôi không chú ý tới nó, nghĩ rằng nó chỉ có nghĩa rằng chúng tôi
từng có thời làm chủ hai con ngựa trong khi bây giờ chỉ có một con.
Tôi có một cái muỗng bạc, và một con dấu niêm phong ở nhà; nhưng Lạy
Chúa, một cái muỗng và một con dấu là gì chứ?... Và hãy nghĩ rằng
tôi và những người cao quý họ d'Urbervilles này luôn có chung huyết
thống mà xem. Tôi nghe nói ông cố của tôi có những bí mật, và không
muốn nói về xuất xứ của mình… Và, thưa cha xứ, xin đánh bạo hỏi
hiện giờ dòng họ d'Urbervilles của chúng tôi sống ở đâu?”
“Không ở đâu cả. Dòng họ của ông đã tuyệt tận, với tư cách một
gia tộc từng sống trong hạt suốt nhiều thế hệ.”
“Thế thì tệ thật.”
“Phải, đó là cái mà những biên niên sử gia tộc viết sai sự thật gọi
là sự tuyệt tự ở phía họ bên nội, nghĩa là đã chết, đã xuống mồ
hết.”
“Vậy chúng tôi nằm ở đâu?”
“Ở Kingsbere-sub-Greenhill, có hàng hàng lớp lớp tổ tiên ông nằm
trong những hầm mộ, với những chân dung khắc bên dưới những mái vòm
cẩm thạch Purbeck.”
“Thế các dinh thự và thái ấp của gia tộc chúng tôi ở đâu?”
“Không có bất cứ thứ gì cả.”
“Ồ, cả đất đai cũng không?”
“Không; dù họ từng có thừa thãi, như tôi đã nói, vì gia tộc của
ông bao gồm rất nhiều nhánh. Trong hạt này từng có một vùng đất của
họ ở Kingsbere, một chỗ khác ở Sherton, một chỗ khác ở Millpond, một
chỗ khác ở Lullstead, và một chỗ khác ở Wellbridge.”
“Vậy chúng tôi có khấm khá trở lại được không?”
“Chà, tôi không thể nói được điều đó!”
“Vậy tốt nhất tôi nên làm gì về việc này, thưa ông?” Durbeyfield
hỏi, sau một giây im lặng.
“Ồ, không gì cả, không gì cả; ngoại trừ tự kềm chế bản thân với
ý nghĩ kẻ thành đạt đã suy sụp thế nào. Đây là một thực tế đáng
chú ý với sử gia và nhà phả hệ học địa phương, chỉ thế thôi. Có
nhiều gia tộc của những nông dân trong hạt này cũng có gốc tích vẻ
vang gần như tương tự. Buổi tối tốt lành.”
“Nhưng ông sẽ quay lại và nhấm nháp một vại bia với tôi chứ, cha
xứ Tringham? Có một loại bia rất khá ở quán Giọt Trong lành, dù
chắc chắn nó không ngon bằng ở quán của Rolliver.”
“Không, cám ơn, chiều nay thì không, Durbeyfield. Ông đã uống đủ
rồi.” Sau khi kết luận như thế, vị cha xứ giục lừa đi tiếp, với
những mối nghi hoặc về quyết định tiết lộ thông tin khác thường của
mình về truyền thuyết gia tộc này.
Khi ông ta đã đi khỏi, Durbeyfield đi vài bước nữa trong trạng thái
mơ mộng say sưa, rồi ngồi xuống bờ cỏ ven lộ, đặt cái giỏ trước
mặt. Vài phút sau, một thiếu niên xuất hiện ở phía xa và đang đi về
hướng của ông. Khi nhìn thấy nó, ông giơ tay lên, và nó dấn bước tới
gần hơn.
“Cậu bé, hãy cầm cái giỏ này lên! Ta muốn cậu làm giúp ta một
việc vặt.”
Thằng bé gầy như que củi cau mày. “John Durbeyfield, ông là ai mà ra
lệnh cho tôi và gọi tôi là ‘cậu bé’? Ông biết tên tôi rõ như tôi biết
tên ông mà!”
“Vậy sao, vậy sao? Đó là điều bí mật… Đó là điều bí mật! Giờ
hãy làm theo lời ta, và đón nhận thông điệp ta sẽ nói với cậu… Ờ,
Fred, ta không ngại nói với cậu rằng bí mật đó là ta là một trong
một dòng dõi cao quý, ta mới phát hiện ra nó ngay chiều nay.” Trong
lúc tuyên bố như thế, Durbeyfield, ngả người ra và thoải mái nằm duỗi
người trên bờ cỏ, giữa những lùm cúc dại.
Thằng bé đứng trước mặt ông, và ngắm nghỉa ông từ đầu tới chân.
“Ngài John d'Urberville, đó chính là ta,” người đàn ông đang nằm
nói tiếp, “nếu tước hiệu hiệp sĩ có thể kế thừa, mà đó là lẽ
đương nhiên. Toàn bộ những điều về dòng dõi của ta đã được ghi chép
trong sử sách. Cậu bé, cậu có biết một nơi gọi là Kingsbere-sub-Greenhill
không?”
“Có. Tôi đã tới Greenhill Fair.”
“Ờ, bên dưới nhà thờ của thành phố đó là…”
“Nơi tôi muốn nói không phải là một thành phố;
ít ra là khi tôi tới đó. Nó là một địa điểm nhỏ xíu.”
“Đừng bận tâm tới điều đó, cậu bé, đó không
phải là vấn đề quan trọng. Nằm bên dưới ngôi nhà thờ của giáo xứ
đó là những tổ tiên của ta, hàng trăm người, trong những bộ áo giáp
đính đầy châu báu, trong những cỗ quan tài bằng chì nặng hàng tấn.
Không kẻ nào trong hạt South Wessex có những bộ xương tiên tổ vĩ đại
và cao quý hơn ta.”
“Ồ?”
“Giờ hãy cầm lấy cái giỏ đó, và tới thôn Marlott,
và khi cậu tới quán Giọt Trong Lành, hãy bảo họ hãy lập tức gửi
tới một cỗ xe ngựa để chở ta về nhà, trong thùng xe phải có thêm
một chai rượu rum nhỏ. Và khi làm xong việc đó, cậu hãy mang cái giỏ
tới nhà ta, và nói với vợ ta hãy ngưng việc giặt giũ, vì bả không
cần hoàn thành nó, và chờ cho tới khi ta về nhà, vì ta có tin tức
cần nói với bả.”
Trong lúc cậu bé đứng phân vân, Durbeyfield thò tay vào túi và móc ra một siling, một trong
số vài đồng ít ỏi mà ông có.
“Đây là tiền công của cậu, cậu bé.”
Việc này tạo nên một khác biệt trong phỏng
đoán về địa vị của ông.
“Vâng, Ngài John. Cám ơn. Tôi có thể làm gì
khác nữa, thưa Ngài John?”
“Bảo với vợ ta rằng ta muốn ăn bữa tối với
thịt cừu rán nếu bả có thể kiếm được, còn nếu không có thì dồi
tiết heo, và nếu không có món này thì phèo heo cũng được.”
“Vâng, thưa Ngài John.”
Thằng bé cầm lấy cái giỏ, và khi nó cất
bước, một điệu kèn đồng vang lên từ hướng ngôi làng.
“Gì thế?” Durbeyfield nói. “Không phải vì ta đó chứ?”
“Đó là đám rước của hội phụ nữ, Ngài John.
Con gái của Ngài là một trong số các hội viên của nó.”
“Chắc vậy rồi. Ta quên bẳng việc này vì đang
nghĩ tới những điều lớn lao hơn. Được rồi, hãy tới Marlott và gọi
cỗ xe ngựa, có lẽ ta sẽ đánh xe đi một vòng và kiểm tra cái hội
đó.”
Thằng bé lên đường, và Durbeyfield nằm chờ giữa những bụi cỏ và cúc dại dưới
ánh nắng chiều. Suốt một hồi lâu không có ai đi ngang qua đó, và
những điệu kèn đồng văng vẳng là những âm thanh con người duy nhất giữa
những dãy đồi xanh.
II
Thôn Marlott nằm giữa những vùng đất nhấp nhô của Thung lũng Blakemore,
hoặc Blackmoor xinh đẹp, như đã nói, một khu vực tách biệt với đồi
núi bao quanh, hầu hết đều chưa từng có một khách lãng du hoặc họa
sĩ phong cảnh nào đặt chân tới, dù chỉ cách London một chặng đường
chưa tới bốn tiếng đồng hồ.
Người ta có thể nhận biết tốt nhất về nó bằng cách ngắm nhìn
nó từ đỉnh của những ngọn đồi bao quanh – có lẽ ngoại trừ trong
những ngày khô hạn của mùa hè. Một cuộc dạo chơi trong những vùng
hẻo lánh của nó khi thời tiết xấu có thể mang tới sự bất mãn do
những con đường nhỏ hẹp, ngoằn ngoèo và lầy lội của nó.
Vùng quê màu mỡ và được chở che này, trong đó những cánh đồng
không bao giờ ngả sang màu nâu và những dòng suối không bao giờ cạn,
tiếp giáp với dãy núi đá phấn sừng sững ôm ấp những ngọn đồi Hambledon,
Bulbarrow, Nettlecombe-Tout, Dogbury, High Stoy, và Bubb Down ở phía nam.
Khách bộ hành từ bờ biển, sau khi tiến về phía bắc hai mươi dặm qua
những vùng đất thấp và đồng lúa, sẽ đột nhiên chạm trán rìa của
một trong những vách núi này và ngạc nhiên, thích thú khi nhìn thấy
một vùng quê mở ra bên dưới như một tấm bản đồ, hoàn toàn khác với
vùng đất mà y đã đi qua. Phía sau y là những ngọn đồi, mặt trời tỏa
nắng xuống những cánh đồng rộng lớn như chỉ rõ đặc tính phơi mở
của phong cảnh; những lối mòn trắng xóa, những bờ rào thấp và dày,
bầu không khí trong veo. Tại đây, trong thung lũng, thế giới dường như
được xây dựng trên một tỷ lệ nhỏ bé hơn và tinh tế hơn; những cánh
đồng chỉ là những mảnh đất nhỏ, bị giảm thiểu đến độ từ độ cao
này những bờ rào của chúng hiện ra như một mạng lưới những sợi chỉ
xanh thẫm trên nền xanh nhợt nhạt hơn của cỏ. Bầu không khí bên dưới
nặng nề, và nhuốm một màu xanh trời dịu vợi mà những họa sĩ gọi
là sắc độ của khoảng xa, trong lúc chân trời mé ngoài thẫm một màu
xanh biếc sâu thẳm nhất. Đất có thể canh tác rất ít và hạn chế;
trừ những ngoại lệ hiếm hoi, toàn cảnh là một tấm thảm rộng xum xuê
cây cỏ, che phủ những ngọn đồi và thung lũng nhỏ nằm bên trong nó.
Đó chính là Thung lũng Blakemore.
Huyện này đáng chú ý cả về mặt lịch sử lẫn địa hình. Hồi
thời trước, Thung lũng được biết tới dưới cái tên Bạch Lộc Lâm (Forest
of White Hart), từ một truyền thuyết vào thời Vua Henry III trị vì.
Một người tên là Thomas de la Lynd đã giết chết một con hươu trắng mà
nhà vua từng nuôi và đã thả đi khi nó già yếu. Ông ta phải chịu một
khoản tiền phạt nặng. Vào thời đó, và đến tận thời gian tương đối
gần đây, vùng này là rừng rậm. Thậm chí hiện giờ, người ta vẫn
nhìn thấy dấu vết của nó ở những cụm sồi già và những khu vực cây
thân gỗ còn sót lại trên những sườn đồi, và những cây to rỗng ruột
che mát cho nhiều đồng cỏ.
Cánh rừng đã mất, nhưng một số phong tục cũ chịu ảnh hưởng của
nó vẫn còn sót lại. Tuy nhiên, nhiều trong số đó chỉ lay lắt tồn
tại dưới một hình thức đã biến đổi hoặc trá hình. Chẳng hạn như cuộc
khiêu vũ May Day chiều hôm đó, dưới
cái vỏ ngụy trang một cuộc lễ hội, hoặc đám rước của hội phụ nữ,
như tên gọi của nó ở đó.
Đó là một sự kiện thú vị đối với thôn dân ở Marlott, dù những
kẻ tham gia lễ hội không nhận ra sự thú vị thật sự của nó. Tính
chất đặc biệt của nó nằm ở chỗ những thành viên đều là nữ hơn là
ở chỗ tập tục đi bộ trong đám rước và khiêu vũ vẫn còn lưu giữ
được. Trong các hội của đàn ông, những cuộc lễ lạc như thế, dù vẫn
kéo dài lay lắt, kém phổ biến hơn nhiều; nhưng sự e thẹn của giới
tính yếu mềm hơn, hoặc một thái độ mỉa mai của đám đàn ông, đã tước
khỏi một vài hội của phụ nữ còn lại (nếu còn bất cứ hội nào)
điều từng là niềm vinh dự và sự toàn bích của chúng. Chỉ còn duy
nhất hội của thôn Marlott duy trì tập tục lễ hội Cerealia của địa phương. Nó
đã tồn tại suốt nhiều trăm năm, nếu không phải là một hội vì lợi
lộc thì cũng là một dạng hội mang tính chị em tương trợ, và nó vẫn
còn tồn tại.
Toàn bộ đoàn diễu hành đều mặc áo dài trắng – một tàn tích vui
vẻ từ những thời Lịch Kiểu Cũ, khi niềm vui đồng
nghĩa với lễ hội tháng Năm – những ngày trước khi thói quen lo xa cả
nghĩ đã giảm trừ những cảm xúc xuống một mức bình thường đơn điệu.
Cuộc trình diễn đầu tiên của họ là đi thành một đám rước hai hàng
đôi vòng quanh xứ đạo. Lý tưởng và thực tế chạm nhau khi mặt trời
soi sáng hình dáng nổi bật của họ trên những bờ giậu xanh ngắt và
những mặt tiền nhà phủ kín dây leo; bởi, dù toàn thể đều mặc đồ
trắng, không có hai màu trắng nào trùng nhau trong số họ. Một số mặc
màu trắng đơn thuần; số khác với một sắc trắng ngã xanh trời; một
số mặc đồ may theo kiểu cũ (vốn nằm im trong tủ suốt nhiều năm), có
xu hướng ngả sang một sắc trắng cháo lòng, và may theo kiểu thời
Georgia.
Ngoài sự khác biệt của sắc áo, mỗi người đàn bà và thiếu nữ
cầm trên tay phải một nhánh liễu đã lột vỏ và trên tay trái một bó
hoa trắng. Cách lột vỏ và cách chọn hoa tùy vào ý thích cá nhân.
Trong đoàn cũng có vài phụ nữ trung niên và cao tuổi, mái tóc
bạc trắng xơ xác và những gương mặt nhăn nheo của họ, dưới sự đè
nặng của thời gian và những muộn phiền lo lắng, trông có vẻ lố bịch
và lạc lõng trong hoạt cảnh vui tươi như thế. Có lẽ từ một góc nhìn
chân thật, còn có nhiều điều hơn nữa để nói về từng bà lão lo âu và
giàu kinh nghiệm mà tuổi đời đã gần kết thúc khi bà ta nói, ‘Ta chả
vui thú chút nào trong chuyện này,” so với những bạn đồng hành trẻ
trung của bà ta. Nhưng thôi, hãy tạm gác lại những bà lão để nói
tới những kẻ mà bên dưới lớp váy áo của họ cuộc sống đang đập một
nhịp rộn ràng và ấm áp.
Thật sự, các cô gái trẻ là thành phần chủ yếu của đám rước,
và những mái tóc dày mượt của họ phản chiếu dưới ánh nắng mọi
cung bậc của màu vàng, đen, và nâu. Một số có đôi mắt đẹp, số khác
có chiếc mũi đẹp, số khác có đôi môi và thân hình đẹp; một số ít,
nếu có, có tất cả các vẻ đẹp đó. Sự khó khăn rõ rệt trong việc
giữ cân bằng mái đầu, tư thế tự nhiên của đôi môi, và sự ngượng ngập
trước cái nhìn soi mói của công chúng cho thấy họ là những thôn nữ
quê mùa chất phác, chưa quen với ánh mắt của nhiều người.
Mỗi người trong bọn họ được sưởi ấm mà không cần tới ánh mặt
trời, vì mỗi người đều có một vầng thái dương riêng cho tâm hồn để
tắm mình trong đó; một giấc mơ, một tình quyến luyến, một sở thích
cá nhân, ít nhất một hy vọng xa xôi nào đó, mà dù có lẽ không hướng
tới điều gì, vẫn hiện hữu, như những niềm hy vọng vẫn sẽ là như
vậy. Tất cả đều vui vẻ, và nhiều người tươi tắn như hoa.
Khi họ đi vòng qua quán Giọt Trong Lành, và ngoặt ra con đường lớn
để đi qua một cánh cổng nhỏ mở ra những đồng cỏ, một người trong
bọn nói:
“Ối Trời! Sao chứ, Tess Durbeyfield, không phải tía chị đang về nhà trong
một cỗ xe ngựa đó hay sao!”
Một thành viên trẻ tuổi trong đoàn quay đầu lại khi nghe tiếng cảm
thán. Nàng là một thiếu nữ xinh xắn. Có thể không xinh hơn một số
khác. Nhưng đôi môi như hai cánh mẫu đơn vừa hé nở và đôi mắt to ngây
thơ bổ sung thêm sức thuyết phục cho màu sắc và hình thể. Nàng đeo
một dải băng đô đỏ trên tóc và là người duy nhất trong bọn có thể
tự hào với một vật trang sức dễ nhận ra như thế. Khi quay lại, nàng
trông thấy Durbeyfield đang ngồi trong một cỗ xe độc mã của quán Giọt
Trong Lành, xà ích là một cô gái tóc xoăn rắn rỏi, tay áo xăn cao
trên hai khuỷu tay. Đó là cô hầu bàn vui tính trong quán, đôi khi kiêm
thêm vai trò người chăm sóc ngựa và đánh xe. Durbeyfield ngồi ngả lưng
trên ghế, mắt nhắm tịt, vừa giơ tay vẫy vẫy trên đầu vừa chậm rãi
ngâm nga:
“Ta có một hầm mộ gia tộc ở Kingsbere… và những tổ tiên được
phong tước hiệp sĩ nằm trong những cỗ quan tài bằng chì!”
Cả bọn cười khúc khích, trừ cô gái được gọi là Tess; dường như
một ngọn lửa nóng bừng đang bốc lên trong đầu nàng với ý nghĩ rằng
cha nàng đã tự biến mình thành một gã ngốc trong mắt họ.
“Ổng mệt, chỉ thế thôi,” nàng nói vội, “và ổng đã quá giang về
nhà, vì hôm nay con ngựa của chúng tôi phải được nghỉ ngơi.”
“Chúa ban phúc cho sự đơn giản của chị, Tess ạ,” các bạn của
nàng nói. “Ổng đã nốc khá nhiều rượu ở chợ. Haha!”
“Nè, tôi sẽ không bước thêm bước nào nữa với chị, nếu chị nói
bất cứ câu đùa cợt nào về ổng!” Tess kêu lên, và màu đỏ trên má
nàng lan ra khắp gương mặt, xuống tới cổ. Trong thoáng chốc, mắt nàng
ngấn nước, và nàng cụp mắt nhìn xuống đất. Nhận thấy nàng thật
sự đau lòng, họ không nói thêm gì
nữa, và trật tự lại được vãn hồi. Lòng kiêu hãnh của Tess không cho
phép nàng quay lại lần nữa để xem cha mình muốn nói điều gì, nếu có;
do đó nàng xoay người đi về phía mảnh đất có rào bao quanh trên bãi
cỏ, nơi sẽ diễn ra cuộc khiêu vũ. Khi tới đó, lòng nàng cũng đã
bình thản lại; nàng vụt nhẹ nhánh liễu vào người bên cạnh và nói
chuyện như thường lệ.
Vào thời điểm này Tess Durbeyfield chỉ là một nguồn cảm xúc
thuần khiết, chưa bị kinh nghiệm nhuộm đen. Ở một mức độ nào đó, nàng
vẫn phát âm với giọng địa phương, dù đã theo học ở trường làng:
trong huyện này đặc điểm của thứ phương ngữ đó là âm tiết UR, có lẽ
cũng được phát âm đa dạng như bất cứ từ ngữ nào có thể tìm thấy
trong cách nói của loài người. Nàng hơi bĩu bờ môi trên đỏ thắm và
nó hầu như chưa kịp quay lại hình dáng bình thường khi nàng phát ra
âm tiết này, còn bờ môi dưới của nàng có xu hướng đẩy vị trí ở
giữa môi trên lên, khi chúng khép
lại sau một từ.
Những giai đoạn thơ ấu vẫn còn ẩn nấp trong diện mạo của nàng.
Hôm nay, trong lúc nàng bước đi, bạn có thể thỉnh thoảng nhìn thấy
trên nét mặt phụ nữ xinh đẹp hồng hào đó tuổi mười hai của nàng
trên đôi má, hoặc tuổi lên chín lấp lóe trong đôi mắt; và thậm chí
tuổi lên năm đôi khi thoáng gợn trên những đường cong của đôi môi.
Thế nhưng rất ít người biết, và còn ít người hơn nữa nghĩ tới
điều này. Một thiểu số nhỏ, chủ yếu là người lạ, sẽ nhìn nàng hơi
lâu khi tình cờ bước ngang qua, thầm ngưỡng mộ vẻ tươi tắn của nàng
và tự hỏi họ có bao giờ gặp nàng lần nữa hay chăng. Nhưng với hầu
hết mọi người nàng chỉ là một thôn nữ xinh đẹp, không hơn.
Không ai nhìn thấy hay nghe thấy gì nữa từ Durbeyfield đang ngồi
trong cỗ xe khải hoàn dưới sự điều khiển của tay nữ xà ích, và đám
rước đã đi vào địa điểm ấn định, cuộc khiêu vũ bắt đầu. Vì trong
đoàn không có đàn ông, lúc đầu các cô gái nhảy với nhau, nhưng khi
sắp tới giờ nghỉ việc, những cư dân nam giới trong thôn, cùng những
người đi bộ và nhàn rỗi khác tụ tập lại quanh sân khiêu vũ và có
vẻ muốn bước tới xin làm bạn nhảy.
Trong số khán giả này có ba thanh niên thuộc tầng lớp trên, lưng
đeo ba lô và tay cầm gậy chống. Vẻ giống nhau và tuổi tác xê xích gần
nhau của họ cho thấy họ có thể là ba anh em ruột, và quả là như
thế. Người lớn tuổi nhất đeo một chiếc cà vạt trắng, mặc áo chẽn
cao, và đội một cái mũ vành mỏng theo kiểu mũ các cha phó hay đội;
người thứ hai là một sinh viên bình thường; diện mạo của người thứ
ba và trẻ nhất hầu như không đủ để xác định đặc điểm của y; có một
vẻ bất cần và thoải mái trong đôi mắt và trang phục của y cho thấy y
hầu như chưa bước vào nếp sống chuyên môn. Chỉ có thể đoán y là một
sinh viên còn lưỡng lự chưa dứt khoát chọn nghề nào.
Ba anh em này nói với những kẻ tình cờ quen biết rằng họ đang
nghỉ lễ Whitsun và thực hiện một chuyến đi bộ dạo chơi qua Thung lũng
Blackmoor về phía tây nam từ thị trấn Shaston ở hướng đông bắc.
Họ tựa lưng vào cánh cổng gần đường quan lộ, và hỏi thăm ý
nghĩa của cuộc khiêu vũ và các cô gái mặc đồ trắng. Rõ ràng hai
người lớn tuổi hơn không định nấn ná lâu hơn, nhưng cảnh tượng một
đám thanh nữ khiêu vũ mà không có bạn nhảy nam dường như lôi cuốn kẻ
thứ ba, khiến gã không vội lên đường. Gã tháo ba lô ra, đặt nó và cây
gậy lên bờ giậu, và mở cổng.
“Em định làm gì đó, Angel?” Người lớn tuổi nhất hỏi.
“Em muốn nhập bọn vui chơi với họ. Sao cả ba chúng ta không tham dự
chứ, chỉ một hai phút thôi, nó sẽ không cầm chân chúng ta lâu.”
“Không, không, vớ vẩn,” người anh cả nói. “Nhảy múa trước công
chúng với một đám thiếu nữ quê mùa lanh chanh, giả sử có ai nhìn
thấy chúng ta thì sao! Đi thôi, không trời sẽ tối trước khi chúng ta
tới Stourcastle, và không có nơi nào gần hơn chỗ đó để chúng ta ngủ
lại; ngoài ra, chúng ta phải nghiên cứu một chương khác trong cuốn Một luận điểm phản đối Thuyết Bất
khả tri trước khi ngủ. Anh đã cất công mang nó theo.”
“Được rồi, em sẽ đuổi kịp anh và Cuthbert trong năm phút; đừng
dừng lại; em hứa mà, Felix.”
Hai ông anh miễn cưỡng bỏ gã lại và cất bước, mang theo cái ba lô
của gã để giúp gã dễ đuổi theo hơn, và cậu em út bước vào sân khiêu
vũ.
“Thật ngàn lần đáng tiếc,” gã lễ phép nói với hai ba cô gái gần
nhất, ngay khi điệu nhảy tạm dừng. “Các bạn nhảy nam của các cô đâu,
các quý cô thân mến?”
“Họ còn đang làm việc,” một cô bạo dạn nhất đáp. “Họ sẽ lần
lượt tới đây. Cho tới lúc đó, anh sẽ là một bạn nhảy chứ, thưa anh?”
“Tất nhiên rồi. Nhưng một người thì có là gì giữa quá nhiều
người!”
“Vẫn tốt hơn là không có ai. Đối diện và nhảy với một người
cùng giới thì buồn lắm, vì không có cái ôm nào hết. Giờ hãy chọn
đi nào.”
“Suỵt, đừng có quá sốt sắng như thế!” Một cô gái e thẹn hơn nói.
Khi được mời mọc như thế, chàng trai trẻ nhìn thoáng qua bọn họ,
cố phân biệt, nhưng vì nhóm này quá mới mẻ, gã không thực hiện tốt
lắm việc này. Gã chọn hầu như người đầu tiên tới gần, không phải
người phát biểu, như nàng ta mong đợi; cũng không phải Tess Durbeyfield.
Phả hệ, những bộ xương của tổ tiên, ghi chép trên bia đá và những
đặc điểm diện mạo của dòng họ d'Urberville đều không giúp Tess trong
trận chiến của đời nàng, thậm chí ở mức độ thu hút cho mình một
bạn nhảy trước tầng lớp nông dân bình thường nhất. Thật vô tích sự,
dòng máu Norman không được trợ giúp bởi tiền tài thời Victoria.
Tên của cô gái nổi trội, bất kể là gì, không được truyền lại đời
sau; nhưng nàng bị tất cả ghen tị vì là người đầu tiên được hưởng
thụ niềm vui xa xỉ có bạn nhảy đàn ông tối đó. Thế nhưng đó là một
tấm gương mạnh mẽ đến độ các chàng trai trẻ trong thôn, vốn không hấp
tấp bước vào cổng khi chưa có kẻ không mời mà đến, giờ vội vàng
nhập cuộc, và chẳng bao lâu các cặp nam nữ chiếm phần đa số, cho tới
cuối cùng cô gái xấu xí nhất trong hội cũng không còn buộc phải
nhảy với vai trò nam giới.
Khi đồng hồ nhà thờ điểm giờ, gã sinh viên đột ngột nói rằng gã
phải đi – gã đã quên mất chính mình – gã phải đuổi kịp các bạn
đồng hành. Khi rời khỏi cuộc khiêu vũ, ánh mắt gã bắt gặp Tess
Durbeyfield. Thật sự, đôi mắt to của nàng ẩn chứa lời trách móc rằng
gã đã không chọn nàng. Khi đó, gã cũng tiếc nuối rằng do nàng ở
phía sau, gã đã không nhìn thấy nàng, và với ý nghĩ đó, gã rời
khỏi bãi cỏ.
Do đã nấn ná lâu, gã bắt đầu đi như chạy xuôi con đường mòn về
hướng tây, và chẳng bao lâu đã đi qua cái lũng nhỏ, trèo lên một ngọn
đồi khác. Gã vẫn chưa đuổi kịp các anh trai, nhưng gã tạm dừng để
thở và ngoái nhìn lại. Gã có thể nhìn thấy những thân hình màu
trắng của các cô gái trong mảnh đất xanh bên trong hàng rào đang xoay
tròn như đã xoay tròn khi gã còn ở đó. Có vẻ họ đã hoàn toàn quên gã rồi.
Tất cả, trừ một người, có lẽ. Hình dáng màu trắng này đứng
tách biệt một mình cạnh bờ rào. Từ tư thế của nàng, gã biết đó
là cô gái xinh đẹp mà gã đã không mời nhảy. Dù đây chỉ là việc
vặt, bản năng khiến gã cảm thấy nàng đã bị tổn thương vì sự sơ
suất của mình. Gã ước gì đã mời nàng; gã ước gì đã hỏi tên nàng.
Nàng quá nhu mì, quá tràn đầy cảm xúc; với chiếc áo dài trắng,
trông nàng dịu dàng đến nỗi gã cảm thấy gã đã hành động thật ngu
xuẩn.
Dù sao, không thể cứu vãn gì được nữa, và gã quay đi, dấn bước, loại
bỏ ý nghĩ về nàng khỏi tâm trí.
III
Về phần Tess Durbeyfield, nàng không dễ xua đuổi sự cố đó khỏi ý
nghĩ. Nàng không còn tinh thần để nhảy lại suốt một lúc lâu, dù
nàng có thể có nhiều bạn nhảy; nhưng, chao ôi, họ không nói năng lịch
thiệp như chàng trai xa lạ đó. Chỉ khi hình dáng của gã đã chìm
khuất trong ánh nắng chiều nàng mới xóa bỏ được nỗi buồn nhất thời
và quả quyết đáp lại lời mời của những người bạn nhảy.
Nàng ở lại với các bạn cho tới tối, và tham gia khiêu vũ với sự
say mê; dù cho tới lúc này vẫn chưa thích ai, nàng thích thú điệu
nhảy vì chính nó; không ý thức nhiều lắm về điều mà chính nàng
cũng có thể vướng phải, khi nàng nhìn thấy “những sự tra tấn êm
đềm, những ngọt ngào cay đắng, những nỗi đau thú vị, và những nỗi buồn
dễ chịu” của những cô gái đã bị tán tỉnh và chiếm lấy trái tim.
Sự cạnh tranh của các chàng trai để được nhảy với nàng một điệu jjg
là một niềm vui đối với nàng, chỉ thế thôi; và khi họ tỏ ra quá
trớn thì nàng quở trách họ.
Nàng có thể ở lại thậm chí muộn hơn, nhưng sự xuất hiện và
thái độ lạ lùng của cha nàng quay lại trong tâm trí và nàng bắt đầu
lo lắng; vừa tự hỏi về tình trạng của ông nàng vừa tách khỏi những
cặp bạn nhảy và bước về phía cuối thôn, nơi có ngôi nhà tranh của
cha mẹ nàng.
Khi chỉ còn cách nhà vài chục mét, nàng nghe thấy những âm thanh
nhịp nhàng khác với thứ nhạc nàng vừa rời khỏi, những âm thanh mà
nàng biết rõ, rất rõ. Chúng là những chuỗi ồn ào thường xuyên từ
bên trong ngôi nhà, thỉnh thoảng do tiếng lắc lư mạnh của một cái nôi
trên nền nhà bằng đá, kèm theo là một giọng phụ nữ ca theo nhịp
ngựa phi, bài hát ngắn ưa thích về “Con bò cái đốm”:
“Tôi nhìn thấy nó
nằm xuống trong cụm rừng xanh xa xa;
Tới đây, tình yêu! Và
tôi sẽ nói cho nàng biết nơi nào!”
Tiếng nôi lắc lư và bài ca thường dừng lại cùng lúc trong giây
lát, và một giọng với âm độ cao nhất sẽ thế chỗ cho điệu nhạc:
“Chúa phù hộ cho đôi mắt sáng như kim cương của con! Và đôi má mịn
như sáp của con! Và cái miệng đỏ thắm như quả anh đào của con! Và
cặp đùi mũm mĩm của con! Và từng phần trên thân thể được ban phúc
của con!”
Sau lời nguyện cầu này, tiếng đưa nôi và tiếng ca lại tái diễn,
và “Con bò cái đốm” lại tiếp tục như trước. Tình hình là thế khi
Tess mở cửa và dừng lại trên tấm thảm trong nhà, quan sát cảnh tượng
bên trong.
Bất chấp điệu nhạc, trước mắt cô gái là một cảnh tượng u buồn
ảm đạm vô tả. Từ những niềm vui lễ hội trên đồng – những chiếc áo
dài trắng, những bó hoa tươi, những nhánh liễu, những cử động xoay
tròn trên bãi cỏ xanh, một thoáng cảm xúc êm đềm với kẻ xa lạ – tới
cảnh tượng ảm đạm dưới ánh nến này là một thay đổi lớn lao! Trước
sự tương phản rõ ràng, nàng thầm tự trách mình thậm tệ vì đã không
về sớm hơn để giúp mẹ làm những công việc nội trợ, thay vì tự nuông
chiều bản thân ngoài kia.
Mẹ nàng đứng giữa một đám trẻ con, như khi Tess rời khỏi nhà,
treo mình trên cái chậu giặt những quần áo của ngày Thứ hai, mà
hiện tại, như lúc nào cũng thế, sẽ bị gác lại cho tới cuối tuần. Ngày
hôm trước, được lấy ra từ cái chậu đó - Tess chạm tay vào nó với
một cảm giác ân hận nhói lòng – chính là cái áo trắng trên người
mà nàng đã bất cẩn làm cho phần vạt áo trở thành màu xanh trên lớp
cỏ ẩm ướt. Mẹ nàng đã tự tay vò và ủi nó.
Như thường lệ, bà Durbeyfield giữ thăng bằng trên một bàn chân đặt
bên ngoài chậu giặt, bàn chân kia đang làm công việc đưa nôi đã nói
trên cho đứa con nhỏ nhất. Cái nôi đu đưa đã thực hiện nhiệm vụ nhọc
nhằn suốt nhiều năm, dưới sức nặng của nhiều đứa trẻ con, trên cái
nền nhà lát đá đó, đến độ nó mòn gần như bằng phẳng, kết quả là
với một cái giật mạnh kèm theo mỗi lần đẩy nôi, em bé đu đưa từ
phía này sang phía kia như một con thoi của thợ dệt. Phấn khích với
bài ca, bà Durbeyfield đạp cái nôi với toàn bộ sức lực còn lại trong
người sau một ngày dài giặt vò quần áo.
Cót két, cót két, cái nôi chuyển động; ngọn lửa của cây nến tự
bốc lên cao, và bắt đầu nhún nhảy lên xuống; nước nhỏ giọt từ hai
cùi chỏ của người phụ nữ trung niên, và bài ca tiếp tục cho tới câu
cuối, trong lúc bà Durbeyfield nhìn cô con gái. Thậm chí tới giờ, với
gánh nặng của một gia đình trẻ trên vai, Joan Durbeyfield vẫn say mê ca
hát. Không có bài ca ngắn nào lọt vào Thung lũng Blackmoor từ bên
ngoài mà mẹ của Tess không thuộc làu nó trong một tuần.
Trên gương mặt của bà vẫn còn đôi nét tươi tắn, thậm chí vẻ xinh
xắn của tuổi trẻ; chắc chắn là nét đẹp mà Tess có thể tự hào
phần lớn đến từ người mẹ, và do đó không có gì mang tính chất hiệp
sĩ hay lịch sử ở nàng.
“Má à, con sẽ đưa nôi giúp má,” cô con gái dịu dàng nói. “Hoặc
con sẽ cởi cái áo đẹp nhất ra và giúp má giặt nó? Con cứ tưởng má đã xong việc lâu rồi.”
Mẹ Tess không phiền trách gì nàng về việc bỏ mặc việc nhà cho
một mình bà xoay xở lâu như thế; thật sự, Joan chưa từng quở trách
nàng vì lý do đó lần nào, chỉ hơi thấy thiếu sự trợ giúp của nàng
trong lúc bà dự định sẽ nghỉ ngơi đôi chút. Tuy nhiên, tối nay thậm
chí bà còn thanh thản hơn thường lệ. Có một vẻ mơ màng, một mối
bận tâm, một vẻ hớn hở, trong cái nhìn của người mẹ mà Tess không
hiểu nổi.
“Ờ, má mừng vì con đã về,” mẹ nàng nói, ngay khi kết thúc từ cuối của bài ca, “Má muốn
đi đón tía con, nhưng còn hơn thế, má muốn nói với con chuyện gì đã
xảy ra. Con sẽ khoái chí lắm khi biết chuyện,
bé cưng ạ! (Bà Durbeyfield
có thói quen nói phương ngữ; con bà, vốn đã học hết lớp sáu tiêu
chuẩn trong Trường Quốc gia dưới sự giảng dạy
của một cô giáo được đào tạo ở London, nói hai thứ ngôn ngữ: phương
ngữ ở nhà, ít hoặc nhiều; tiếng Anh phổ thông ở ngoài và với những
người có học thức.)
“Từ khi con ra ngoài à?”
“Phải!”
“Nó có dính dáng gì tới việc tía làm trò hề trong cỗ xe ngựa
chiều nay không? Vì sao vậy không biết? Con đã muốn chui xuống đất vì
xấu hổ!”
“Đó là một phần của sự ồn ào! Chúng ta được phát hiện là dòng
dõi quý tộc lớn nhất trong toàn vùng, ngược về đời xưa trước thời
của Oliver Grumble, tới tận thời của
người Thổ ngoại đạo, với những đài kỷ niệm, hầm mộ, mũ sắt, huy
hiệu trên khiên, và có Chúa mới biết hết những thứ đó. Vào thời
của Thánh Charles chúng ta được phong làm Hiệp sĩ của Cây sồi Hoàng
gia, họ thật sự của chúng ta là d'Urberville! Điều đó không làm mũi
con phồng lên hay sao? Vì lý do này mà tía con về nhà trên cỗ xe
ngựa; chứ không phải vì ổng say như mọi người nghĩ.”
“Con mừng vì điều đó. Nó có ích gì cho chúng ta không, hả má?”
“Có chứ! Những điều tuyệt vời có thể đến nhờ vào nó. Chắc
chắn một đám đông thuộc tầng lớp của chúng ta sẽ đi xe ngựa tới đây
ngay khi họ biết điều này. Tía con biết về nó trên đường từ Shaston
về nhà và ổng đã kể hết đầu đuôi với má.”
“Giờ tía ở đâu?” Tes đột ngột hỏi.
Mẹ nàng đưa ra một câu trả lời trớt quớt: “Hôm nay ổng tới khám
bác sĩ ở Shaston. Có vẻ không tốn hao bao nhiêu. Đó là lớp mỡ bao
quanh tim của ổng, ông bác sĩ nói. Nó giống như vầy nè.” Trong lúc
nói, Joan Durbeyfield, cong một ngón tay đẫm nước và ngón trỏ thành
hình chữ C, và dùng một ngón khác để chỉ. “ ‘Hiện tại,’ ổng nói
với tía con, ‘tim ông bị bao quanh ở đó và ở đó; chỗ này vẫn còn
hở,’ ổng nói. ‘Khi chúng gặp nhau, thế này,’” bà khép hai ngón tay
lại thành một vòng tròn – ‘ông sẽ về chầu tiên tổ, ông Durbeyfield,’.
‘Ông có thể sống thêm mười năm, cũng có thể mười tháng, hoặc mười
ngày.”
Tess có vẻ bần thần. Cha nàng có thể qua đời rất sớm, bất chấp
sự việc lớn lao bất ngờ này!
“Nhưng tía đang ở đâu?” Nàng lặp lại.
Nét mặt mẹ nàng đổi sắc. “Con đừng nổi giận nhé! Người đàn ông
tội nghiệp, ổng bồn chồn sau khi dược nâng cao địa vị từ tin tức của
ông cha xứ đến độ ổng tới quán Rolliver nửa tiếng trước. Ổng muốn
lấy lại sức cho chuyến đi ngày mai với mớ tổ ong đó, nó phải được
giao, dù có gia tộc lớn hay không. Ổng sẽ phải lên đường sau mười hai
giờ đêm nay, vì đường rất xa.”
“Lấy lại sức!” Tess gằn giọng, lệ trào lên mắt. “Ôi Trời! Tới
một quán rượu để lấy lại sức! Và má cũng đồng ý với ổng hả má!”
Lời trách móc và tâm trạng của nàng dường như phủ kín toàn bộ
căn phòng, và nàng bực tức nhìn các thứ đồ đạc, cây nến, và lũ
trẻ đang chơi xung quanh và mặt mẹ mình.
“Không,” bà mẹ giận dỗi, “má không đồng ý. Má đã chờ con về
trông nhà trong lúc má đi đón ổng.”
“Để con đi.”
“Ồ, không, Tess. Con biết mà, không được đâu.”
Tess không đáp lại. Nàng biết lời phản đối của bà mẹ có ý
nghĩa gì. Áo khoác và mũ của bà Durbeyfield đã được treo trên một
cái ghế bên cạnh, sẵn sàng cho chuyến đi, lý do cho việc bà dứt
khoát hơn mức cần thiết.
“Và hãy mang cuốc Bốc sư Toàn
tập ra nhà ngoài,” Joan nói tiếp, nhanh nhẹn lau đôi tay và mặc áo
khoác, đội mũ.
Bốc sư Toàn tập là một cuốn sách
dày, cũ, nằm trên một cái bàn gần đó, rách tả tơi do thường xuyên
nằm trong túi đến độ lề sách rách tới tận lề dòng chữ. Tess cầm
nó lên, và mẹ nàng lên đường.
Việc săn lùng ông chồng khờ khạo ở tửu quán là một trong những
thú vui hiện có của bà Durbeyfield giữa sự bẩn thỉu và bề bộn của
việc chăm sóc con cái. Việc tìm ra ông ở quán của Rolliver, ngồi đó
một hai tiếng cạnh ông và xua đi mọi ý nghĩ và bận tâm về lũ con
khiến bà sung sướng. Khi ấy một dạng hào quang, một quầng sáng phía
tây xuất hiện trong đời. Những phiền toái và các thực tại khác
khoác lên chúng một lớp vỏ mông lung, nhấn chúng chìm vào cảm giác
bình an thanh thản và không còn là những áp lực nặng nề khiến cơ
thể và linh hồn xây xát. Lũ trẻ, không ở ngay trong tầm nhìn, dường
như trở nên rực rỡ và đáng ước ao hơn bình thường; ở đó, những sự
cố của cuộc sống hàng ngày không phải không có khía cạnh vui vẻ và
khôi hài của chúng. Hiện tại, khi ngồi đây với ông chồng đã kết hôn,
ở cùng địa điểm, bà có cảm giác như từng có, trong lúc ông đang tỏ
tình, nhắm mắt trước những nhược điểm trong tính cách của ông, và
chỉ nhìn thấy ông trong hình ảnh một tình nhân lý tưởng.
Còn lại ở nhà với đàn em nhỏ hơn, trước tiên Tess mang cuốn sách
bói toán ra nhà ngoài và nhét nó lên mái rạ. Một nỗi sợ mang tính
chất bái vật giáo lạ lùng đối với cuốn sách phủ đầy bụi này của
mẹ nàng ngăn bà cho phép nó ở trong nhà suốt đêm, rồi sau đó khi cần
tham khảo bà sẽ mang lại nó vào nhà. Giữa người mẹ, với mớ mê tín
dị đoan, dân ca, phương ngữ, và những khúc ca ballad truyền khẩu đang
nhanh chóng tàn lụi, và cô con gái, với học vấn ở trường Quốc gia
và kiến thức Tiêu chuẩn theo quy định của một Đạo luật sửa đổi
nhiều lần, có một khoảng cách
hai trăm năm theo cách hiểu thông thường. Khi họ ở cạnh nhau, các thời
đại Jacob và Victoria được đặt bên nhau.
Trong lúc quay lại theo lối đi trong vườn, Tess ngẫm nghĩ về điều
mẹ nàng có thể muốn xác định từ cuốn sách bói toán vào cái ngày
đặc biệt này. Nàng phỏng đoán sự phát hiện về nguồn gốc tổ tiên
vừa rồi có liên quan tới nó, nhưng không thể nhận ra nó chỉ liên quan
tới chính nàng. Tuy nhiên, nàng xua đuổi ý nghĩ này, lăng xăng với
việc phun nước số vải lanh đã phơi khô trong ngày cùng với đứa em trai
Abraham chín tuổi, đứa em gái Eliza-Louisa mười hai tuổi rưỡi, gọi là
là “Liza-Lu”, mấy đứa bé nhất đang nằm trên giường. Giữa nàng và các
đứa em kế trong nhà có một khoảng cách bốn năm hoặc hơn, hai đứa đã
chết khi mới chào đời, và điều này mang tới cho nàng một thứ tình
mẫu tử khi ở một mình với lũ em. Sau Abraham là hai đứa bé gái, Hope
và Modesty; rồi một bé trai ba tuổi, và em bé vừa tròn tuổi thôi nôi.
Toàn bộ đám trẻ này là những hành khách trên con tàu Durbeyfield,
hoàn toàn phụ thuộc vào phán đoán của hai người mang họ Durbeyfield
trưởng thành về những niềm vui, nhu cầu, sức khỏe, thậm chí sự tồn
tại của chúng. Nếu hai người đứng đầu con tàu này chọn lao vào sự
khó khăn, tai họa, đói khát, bệnh tật, suy đồi, cái chết, nửa tá tù
nhân dưới hầm tàu buộc phải đi
cùng với họ – sáu tạo vật bất lực, chưa từng được hỏi thăm xem
chúng có muốn thứ gì ở trên đời hay chăng, nói gì tới việc chúng
ước ao điều đó trong những điều kiện khắc nghiệt của gia đình. Một
số người muốn biết từ đâu mà nhà thơ, kẻ triết lý rằng thời đại
này cũng sâu sắc và đáng tin cậy như bài ca hồ hỡi và trong sáng
của ông ta, lại có thẩm quyền nói về ‘kế hoạch thiêng liêng của Tự
nhiên.”
Đêm đã sâu, nhưng cả người cha lẫn người mẹ đều chưa trở lại. Tess
nhìn ra cửa, và thực hiện một hành trình tâm trí qua thôn Marlott.
Cái thôn nhỏ đang khép mắt. Nến và đèn dầu đang bị thổi tắt ở mọi
nơi. Nàng có thể nhìn thấy trong trí tưởng kẻ tắt lửa và bàn tay
giơ ra.
Việc mẹ nàng đi đón cha chỉ đơn giản là thêm một lần đón nữa.
Tess bắt đầu nhận ra rằng một người có sức khỏe bình thường, dự
định xuất phát một hành trình trước một giờ sáng, không nên ở một
tửu quán vào giờ giấc khuya khoắt này để mừng huyết thống cổ xưa
của mình.
“Abraham,” nàng nói với cậu em trai, “em sẽ đội mũ vào – em không
sợ chứ? – và đi lên quán Rolliver để xem chuyện gì đã xảy ra với tía
má rồi.”
Thằng bé lập tức rời khỏi ghế và mở cửa, và bóng đêm nuốt
chững nó. Nửa giờ nữa trôi qua; không ai, đàn ông, phụ nữ hay đứa bé,
quay lại. Abraham, như cha mẹ nó, dường như đã bị dính nhựa bẫy chim và bị bắt trong cái
quán đầy cạm bẫy đó.
“Mình phải tự đi thôi,” Tess nói.
Sau đó Liza-Lu vào giường, và Tess khóa cửa lại, cất bước trên
lối nhỏ hoặc con đường tối tăm và quanh co không dành cho bước chân
vội vã; một con đường đã được mở trước khi những tấc đất có giá
trị, và khi những cái đồng hồ một kim cũng đủ chia nhỏ một ngày.