Nguyễn Thành Nhân dịch
từ nguyên bản tiếng Anh Collected Stories for Children
Sam, con mèo của bà Chauncey, đã sống với bà nhiều năm trước khi bà nhận ra bất cứ điều gì bất thường, phiền toái trong hạnh kiểm của nó. Như hầu hết mọi con mèo sống với chỉ một hoặc hai con người dưới cùng một mái nhà, nó luôn luôn khôn ngoan hơn những con mèo của một gia đình bình thường. Nó đã học được những cung cách của bà. Nghĩa là, nó hành động gần như là cách hành động của một con người nhỏ bé khoác một tấm áo lông mà người ta có thể mong đợi ở một con mèo. Nó là dạng mà người ta thường gọi là một con mèo “thông minh”.
Nhưng dù Sam đã học được nhiều điều ở bà Chauncey, tôi buộc phải nói rằng
bà học được ở nó rất ít. Bà là một phụ nữ tốt bụng, khoan dung. Bà có thể may
vá, nấu nướng, thêu đan, dọn giường, đọc, viết và tính toán đôi chút. Khi còn
bé, bà thường hát bài “Kathleen Mavourneen[1]”
với đàn dương cầm. Dĩ nhiên Sam không thể làm loại việc này được.
Nhưng bà Chauncey không thể bắt và giết một con chuột hay một con két với
năm ngón tay trần, cũng hệt như bà không thể là đức Giáo hoàng ở Rome. Bà cũng không thể
trèo lên một bức tường gạch cao một mét tám, hay phóng một phát từ tấm thảm lò
sưởi trong phòng khách lên cái bệ lò sưởi mà không đụng chạm đến một món đồ
nào, hay thậm chí không làm một bóng đèn trần chạm leng keng vào một bóng đèn
khác. Bà cũng không thể làm như Sam trong việc tìm đường đi qua bóng tối hay sử
dụng thính giác của mình; hay giữ gìn sức khỏe chỉ đơn giản bằng cách nhai một
ít cỏ trong vườn. Ngoài ra, nếu bà bị tóm cả hai chân hai tay nhấc lên cách mặt đất khoảng bốn năm tấc rồi
buông ra, chắc chắn bà sẽ ngay lập tức rơi ngửa xuống đất, trong khi đó Sam có
thể xoay xở uốn éo trên không trong vòng ba tấc để hạ xuống trên bốn chân của
nó, vững như bàn thạch, lúc nó mới được ba tháng tuổi.
Vậy là trong lúc Sam học được ở bà Chauncey rất nhiều, bà chẳng học được ở
nó thứ gì cả. Thậm chí nếu bà sẵn lòng học hỏi, và nó dạy cho bà, e là bà sẽ
chứng tỏ rằng mình không phải là một học sinh hứa hẹn nhiều cho lắm. Hơn nữa,
bà biết về Sam ít hơn nhiều so với những gì nó biết về bà chủ của nó – ít nhất
là cho tới buổi chiều hôm đó, khi bà đang chải tóc trước tấm gương. Thế rồi bà
hầu như không thể tin vào mắt mình. Khoảnh khắc đó đã hoàn toàn thay đổi nhận
thức của bà về Sam, và sau trải nghiệm đó, không còn có thứ gì hoàn toàn giống
như trước nữa…
Sam luôn luôn là một chú mèo khỏe khoắn và đẹp đẽ, bộ lông nó mượt mà và đen
nhánh, đôi mắt nó có màu vàng dịu, nhưng lại sáng ngời trong bóng đêm như hai
hòn ngọc topaz xanh. Lúc bấy giờ nó đã tròn năm tuổi, và có một giọng kêu meo
meo mạnh mẽ khác thường. Sống hoàn toàn hiu quạnh với bà Chauncey ở Post Houses
như thế, theo lẽ tự nhiên nó đã trở thành người bầu bạn thường xuyên của bà. Vì
Post Houses là một ngôi nhà lẻ loi đơn độc, nằm gần như giữa cánh đồng hoang
Haggurdsdon, nơi chỉ có hai con đường chạy lang thang cắt xéo nhau như hai lưỡi
kéo khép lại phân nửa.
Bà sống cách người láng giềng của mình, ông Cullings chuyên chở thuê hàng,
hơn một dặm đường, và cách chính bản thân ngôi làng Haggurdsdon nằm rải rác
khoảng hai dặm. Những con đường của làng cực kỳ cổ xưa. Chúng từng là những lối
mòn do cừu đi từ rất lâu trước khi người La Mã tới nước Anh và đã cắt những con
đường của họ từ bờ biển này tới bờ biển khác. Nhưng trong suốt nhiều năm có rất
ít khách bộ hành hay cưỡi ngựa, hay ngay cả những bầy cừu và người chăn cừu đi
trên con đường của cô Chauncey. Bạn có thể ngồi ở cửa sổ nhà bà nhìn ra từ ngày
này sang ngày khác mà vẫn không thấy một chiếc xe cút kít của anh thợ hàn nồi
hay một cỗ xe ngựa của một người gíp-xy lang thang nào hết.
Có lẽ Post Houses cũng là ngôi nhà xấu xí nhất ở vùng đó. Bốn góc nhà dựng
thẳng trên cánh đồng hoang như một đống gạch chưa nung. Vào một ngày đẹp trời,
từ cái mái nhà bằng phẳng của nó người ta có thể nhìn thấy ngôi nhà của ông
Cullings nằm ngoài tầm mắt, trong một thung lũng cạn cách đó hàng nhiều dặm. Nó
thuộc về những tổ tiên đáng kính của bà Chauncey trong suốt nhiều thế hệ. Thật
sự, nhiều người ở Haggurdsdon gọi nó là nhà của Chauncey. Dù nó cứ rít lên ken
két như một cây đàn organ khi gió thổi mạnh, dù nó lạnh như một cái kho thóc
mùa đông, và dù một nhánh khác của gia đình đã dời tới sống ở đảo Wight từ
những năm bảy mươi, bà Chauncey vẫn trung thành ở lại giữa những bức tường xưa
cũ. Thực ra bà yêu cái chốn xấu xí này. Bà đã sống trong ngôi nhà từ khi còn là
một bé gái nhỏ xíu, với cái quần chẽn gối lộ ra bên dưới váy, và những sợi ruy băng
đính nơ hoa hồng buông xuống đôi vai.
Chỉ riêng sự kiện này cũng đủ khiến cho hạnh kiểm của Sam rất đáng khiển
trách, vì một con mèo không bao giờ gặp một bà chủ tốt bụng hơn thế. Bản thân
bà Chauncey lúc bấy giờ đã khoảng sáu mươi tuổi – già hơn Sam năm mươi lăm
tuổi. Bà cao gầy và thẳng như một cái que thông nòng súng. Vào những ngày trong
tuần bà mặc một chiếc váy đen may bằng vải len, và vào Chủ nhật một cái váy lụa
vân. Đôi kính tròn gọng thép to tướng nằm gác qua sống mũi cao khiến bà trông
có vẻ sắc sảo và lạnh lùng. Nhưng thật ra bà không có thứ nào trong hai đức
tính đó. Bởi lẽ ngay cả một người ngốc nghếch như ông Cullins cũng có thể lừa
phỉnh được bà về giá tiền chuyên chở một gói hàng – chỉ bằng cách tỏ ra mệt
mỏi, hay thở dài khi ông ta nhìn con ngựa đực kéo xe có bộ lông xơ xác và bốn
chân vòng kiềng của mình. Bên dưới tấm áo cứng ngắt của bà là một trái tim nồng
ấm nhân hậu.
Vì Post Houses cách làng khá xa, việc mua kem và sữa hơi gặp khó khăn.
Nhưng bà Chauncey không thể từ chối Sam những gì hợp lý. Bà trả cho một cô bé
tên là Susan Ard sáu xu mỗi tuần để nó mang những thứ thức ăn này tới từ một
nông trại gần nhất. Đó thật sự là những thức ăn ngon, vì dù cỏ trên đồng hoang
Haggurdsdon là loại cỏ chua xanh thẫm, những con bò gặm loại cỏ ấy lại cung cấp
một thứ sữa bổ dưỡng khác thường, và nhờ chúng mà Sam luôn béo tốt. Mỗi tuần
ông Cullings ghé qua một lần theo một đơn đặt hàng thường xuyên, mang tới một
vài con cá trích hay cá mòi tươi, hay bất kỳ loại cá ngon nào khác trong mùa.
Bà Chauncey sẽ không từ chối mua loại cá trắng nhỏ, nếu không thể kiếm được
loại cá ngon nào khác rẻ hơn. Và ông Cullings thường nhìn Sam lúc đó đang lượn
lờ quanh cỗ xe của ông hay đang nhìn hau háu vào món ăn của nó, và nói, “Nó là một con vật kỳ lạ, Mẹ ạ, chắc chắn
vậy, nó là một con vật vô cùng kỳ lạ.”
Bản thân bà Chauncey là một người ăn uống dè xẻn, dù khá là thích dùng trà.
Bà tự làm bánh mì và bánh quy cho mình. Vào ngày thứ Bảy, một thằng bé phụ việc
hàng thịt chở tới cho bà một súc thịt dùng trong ngày Chủ nhật; nhưng bà không
phải là người ưa ăn thịt. Chạn thức ăn của bà có đầy những loại mứt, nước trái
cây đóng chai tự làm và những loại cỏ khô – mọi thứ thuộc loại đó, vì Post
Houses có một khu vườn rộng xinh xắn phía sau, bao quanh bởi một bức tường gạch
màu vàng cao và lâu đời.
Tất nhiên ngay từ thuở đầu đời Sam đã biết về giờ ăn của nó, dù chỉ có mỗi
mình nó biết nó “được thông báo” bằng cách nào, vì không bao giờ nó nhìn lên
cái đồng hồ của ông nội bà trên đầu cầu thang. Nó rất đúng giờ, là một tay điệu
đà trong việc vệ sinh cá nhân, và một tay ngủ kiệt xuất. Nó học được cách kéo
cái chốt cửa sau xuống để có thể ra ngoài trong những tháng mà các cánh cửa sổ
luôn đóng kín. Có vẻ như nó thật sự thích cái chốt cửa hơn. Nó không bao giờ
ngủ trên tấm chăn nhiều mảnh của bà Chauncey trừ khi tấm chăn của chính nó được
đặt lên trên đó. Nó khó tính đến mức gần
như là một công tử con nhà trong các thói quen, và nó không hề ăn vụng. Có một
âm độ cụ thể trong tiếng kêu của nó khi nó muốn ăn gì đó; một tiếng meo cao hơn khoảng nửa tông hoặc hai
tông khi nó muốn uống nước (nước lạnh, vì nó có một khẩu vị tự nhiên), và một
tiếng meo khác – dịu dàng và kéo dài
- khi nó muốn chuyện trò với chủ.
Thỉnh thoảng, bà Chauncey cũng trông thấy nó lững thững đi từ phòng này sang
phòng khác như thể ghé qua để kiểm tra. Vào ngày sinh nhật hai tuổi, nó đã mang
một con chuột to vào nhà và đặt xuống bên cạnh mũi ủng của bà khi bà đang ngồi
đan len bên ngọn lửa. Bà mỉm cười và gật đầu vui vẻ với nó, như thường lệ,
nhưng lần đó nó nhìn bà một cách chăm chú, rồi lắc đầu một cách cố tình. Sau đó
nó không bao giờ thèm chú ý tới những con chuột, những cái hang chuột hay việc
bắt chuột, và bà Chauncey buộc phải mua một cái bẫy chuột, không thì lũ chuột
hẳn có thể chạy lên cả người bà.
Hầu hết mọi con mèo nhà đều hành động theo bản năng, và dĩ nhiên Sam chỉ
bộc lộ khía cạnh trong nhà của nó. Vì nó cùng ở chung nhà với bà Chauncey và,
như bất kỳ hai sinh vật nào khác cùng chung sống, nó buộc phải duy trì một số
biểu hiện bên ngoài nhất định. Nó chiều theo bà một phần nào đó, như ngạn ngữ
nói. Tuy nhiên, khi nó “là chính nó”, nó không còn là con mèo Sam của bà
Chauncey, không còn là con mèo ở Post Houses, mà chỉ là chính nó. Nghĩa là nó
quay trở lại với đời sống độc lập của chính nó; theo những thói quen riêng tư
của nó.
Khi đó, cánh đồng hoang mà nó đi lang thang là quê hương của nó, còn những
“con người” và nhà cửa của họ đối với nó trong sự tồn tại hoang dã riêng tư đó
không hơn gì những đống đất chuột đùn, hay hang của những con lửng hoặc những
con thỏ đối với loài người chúng ta. Bà chủ của nó thật sự không biết chút gì
về khía cạnh đời sống này của nó. Bà không nghĩ tới điều đó. Bà cho rằng Sam xử
sự như những con mèo khác, dù hiển nhiên có đôi lúc nó đi ra ngoài đồng xa, vì
thỉnh thoảng nó lại mang về nhà một con gà mái tàu còn tơ, và những con gà tàu
gần nhất là ở nhà vị cha xứ cách đó tới bốn dặm. Đôi khi vào chiều tối, khi bà
Chauncey đang thả bộ một mình đôi phút, bà thường nhìn thấy nó – một đốm đen
chuyển động thật nhanh - ở tít xa trên đường, đang vội vã trở về nhà. Và dáng
đi cùng vẻ ngoài của nó còn biểu hiện nhiều mục đích hơn cả vẻ ngoài của ông
Cullings hay thậm chí của vị cha xứ!
Cũng khá thú vị khi nhận thấy cử chỉ của nó thay đổi ra sao khi nó đã tới
gần đủ để nghe thấy tiếng kêu của nó. Ngay lập tức nó chuyển từ một Con Mèo
thành một Con Mèo Nhà. Ngay lập tức, nó không còn là một nhà thám hiểm thuộc
loài mèo, một tên cướp đêm và kẻ hay lai vãng trên cánh đồng Haggurdsdon (dù bà
Chauncey không diễn tả nó như vậy), mà chỉ đơn giản là Sam, con thú cưng hư
hỏng của chủ nó. Bà rất yêu mến nó. Nhưng cũng như những con người đã quen sống
cạnh nhau, bà không suy nghĩ nhiều về nó. Vì thế, thật sự là một cú sốc khi
chiều tối hôm đó bà Chauncey phát hiện ra rằng Sam đã cố tình gạt bà mà không
có một dấu hiệu cảnh báo nhỏ nhất nào. Bà đang chảy mái tóc mỏng màu nâu trước
tấm gương. Lúc đó mái tóc phủ xuống mặt bà như một tấm voan mỏng. Và vì bà luôn
luôn suy tưởng tới những chuyện khác trong lúc chải tóc, bà hơi lơ đãng trong
một lúc. Khi ngước mắt rời khỏi trạng thái mơ màng sau tấm màn bằng tóc đó, bà
không chỉ nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của Sam trong tấm gương, mà cả một điều
gì đó bí ẩn đang diễn ra. Sam đang ngồi như thể cầu xin. Không có gì khác
thường ở việc này. Đó là một thái độ thông thường của nó từ khi nó mới mấy
tháng tuổi. Tuy nhiên, nó có thể đang cầu xin điều gì, khi không có ai bên
cạnh?
Lúc bấy giờ cánh cửa sổ ở bên phải của bàn trang điểm đang mở. Bên ngoài
trời bắt đầu sẫm tối. Toàn bộ cánh đồng Haggurdsdon nằm im lặng và quạnh quẽ
trong ánh hoàng hôn dầy đặc. Và ngoài việc cầu xin khi không có gì để cầu xin,
dường như Sam đang khoa khoa hai bàn chân trước của nó. Nghĩa là có vẻ như nó
đang ra hiệu, như thể có ai đó hay vật gì đó đang nhìn vào nó qua cửa sổ từ bên
ngoài – một điều không thể có. Và trên mặt nó có một vẻ mà chắc chắn là bà
Chauncey chưa bao giờ nhìn thấy trước đó.
Bà ngồi yên một lúc, tay giơ cao cây lược, cánh tay dài mảnh khảnh gác xéo
qua đầu. Khi nhìn thấy điều này, ngay lập tức Sam ngưng lại những cử động của
nó. Nó lại đứng trên bốn chân, và lúc này rõ ràng sửa soạn cho một giấc ngủ
khác. Không; cả việc này cũng là một sự vờ vịt; vì bà nhìn thấy nó lại quay
người đi, bộ ria hướng về phía nam. Phần sau thân hình nó hướng về phía cửa sổ,
lúc này nó đang nhìn chăm chú về phía trước với một bộ mặt không thân thiện
chút nào. Thật sự rất không thân thiện đối với một con vật đã sống với bà từ
khi nó biết mở mắt đến giờ.
Nó ngẩng đầu nhìn bà như thể đang đọc những ý nghĩ của bà. Bà hướng ánh mắt
về tấm gương vừa đúng lúc, và khi bà quay người lại từ bàn trang điểm thì nó
ngồi đó – dáng vẻ rất thanh thản, rất giống loài mèo, rất bình thường đến nỗi
một lần nữa bà hầu như không thể tin có thể đã có gì sai trái xảy ra. Đôi mắt
bà, hoặc tấm gương, có đánh lừa bà không? Có phải cử động lạ lùng của hai bàn
chân trước của Sam (như thể nó đang đan len), có phải cái nhìn kích động kia
chỉ là do thực tế rằng nó đang cố bắt một con ruồi mà bà không nhìn thấy?
Sau khi vén ‘tấm màn che cửa sổ’ – mái tóc bóng mượt xõa xuống hai bên trán
của bà – bà Chauncey lại liếc ra cửa sổ một lần nữa. Không có gì ngoài đó trừ
ánh sáng nhấp nháy của một vì sao khi màn đêm buông xuống.
Món kem của Sam đang chờ trên tấm thảm trong phòng như thường lệ vào tối
hôm đó. Đèn đã được thắp lên. Những tấm màn đỏ được kéo xuống. Ngọn lửa kêu
tanh tách trong lò sưởi. Cả hai ngồi đó. Những bức tường của ngôi nhà bốn góc
nằm bên cạnh ngã tư nổi lên trên họ như một cái hộp hình chữ nhật lớn bên dưới
bầu trời đầy sao ụp lên trên bóng đêm bao la của cánh đồng hoang.
Trong lúc ngồi như thế – với Sam ở bên cạnh, dường như đang ngủ – bà
Chauncey suy nghĩ. Chuyện đã xảy ra trong phòng ngủ lúc xế chiều hôm đó đã nhắc
cho bà nhớ tới những chuyện kỳ quặc nho nhỏ đã qua. Bà ít khi để ý tới những
chuyện vặt vãnh, nhưng giờ đây chúng quay lại rõ ràng trong ký ức. Ví dụ, vào
giờ này Sam thường nằm như thể đang ngủ (như lúc này), đôi bàn chân trước thu
sát vào ngực, trông rất giống một ông ủy viên hội đồng béo ị sau bữa ăn tối. Và
rồi, đột nhiên, không một dấu hiệu gì báo trước, như thể một giọng nói xa xôi
nào đó đã kêu gọi nó, nó nhổm lên và chạy thẳng ra khỏi phòng. Nó sẽ tìm thấy
một lối ra ở đâu đó, một cánh cửa mở hé, một cánh cửa sổ chưa đóng, và chạy vọt
vào bóng đêm. Điều này đã trở thành một chuyện bình thường.
Có lần, bà Chauncey phát hiện thấy nó đang ngồi xổm trên hai chân sau trên
gờ cửa sổ của một căn phòng nhỏ đã hoàn toàn bỏ phế cách đây nhiều năm –-
Milly, người anh họ của bà đã từng ở đó từ khi bà là một đứa trẻ lên tám. Bà đã
kêu lên khi nhìn thấy nó, “Sam, đồ ngốc, vào đây nào! Mày sẽ rơi ra ngoài cửa
sổ bây giờ!” Và bà nhớ như thể chuyện mới xảy ra ngay hôm qua rằng dù lúc đó nó
đã bực bội nhảy xuống ngay khỏi chỗ đó, nó không hề nhìn bà. Nó đã tỉnh bơ đi
ngang qua bà.
Vào những đêm có trăng, bạn không thể nào chắc là nó đang ở đâu! Bạn không
thể nào chắc rằng nó đã trở về nhà sau
một mục đích nào. Có đêm nào bà thật sự chắc chắn rằng nó đang ở đâu hay
không? Càng ngẫm nghĩ, những mối ngờ vực và lo ngại của bà càng ảm đạm hơn. Dù
sao đi nữa, đêm nay bà Chauncey quyết định sẽ theo dõi nó. Nhưng bà thấy khó
chịu khi làm điều đó. Bà ghét mọi kiểu rình mò. Họ là những bạn cũ với nhau,
Sam và bà; và nếu không có nó trong ngôi nhà Post Houses hoang vắng, bà sẽ buồn
bã hiu quạnh biết bao. Bà rất yêu mến nó. Dù sao, những gì bà đã nhìn thấy đã
nằm lại trong tâm trí bà, và khôn ngoan hơn nên biết tất cả những gì cần phải
biết, thậm chí nếu chỉ vì chính Sam.
Dạo đó bà Chauncey luôn luôn để cửa mở hé trong lúc ngủ. Bà đã ngủ như thế
từ ngày còn bé. Là một bé gái nhút nhát, trong những ngày xa xưa ấy bà thích
nghe thấy tiếng của người lớn ở tầng dưới và tiếng dao nĩa lanh canh. Còn Sam
thì luôn luôn ngủ trong cái giỏ cạnh lò sưởi. Mỗi sáng nó đều nằm ở đó dù có
đôi lần khi nhẹ mở mắt ra bà nhận thấy mình đang nhìn vào đôi mắt vàng nhạt của
nó khi nó đứng trên hai chân trước, tựa ngực vào cạnh giường của bà và đang
nhìn vào mặt bà. “Tới giờ ăn sáng chưa Sam?” bà thường lẩm bẩm như thế. Và Sam
sẽ kêu nho nhỏ, nghe xa xôi như tiếng kêu của một con chim mòng biển ở tít trên
cao.
Tuy nhiên, tối hôm đó bà Chauncey chỉ giả vờ ngủ. Tuy nhiên khó mà giữ cho
đầu óc tỉnh thức hoàn toàn, và bà gần như đang mơ màng ngủ khi có một tiếng kêu
rít mơ hồ từ bản lề cửa ra vào, và bà
nhận thấy Sam đã đi ra ngoài. Sau khi chờ giây lát, bà quẹt một que diêm. Phải,
cái giỏ trong căn phòng tối im lặng trống trơn, và ngay sau đó từ xa – từ tháp
chuông nhà thờ làng Haggudsdon – vọng lại hồi chuông nửa đêm.
Bà đặt phần còn lại của que diêm vào cái dĩa trên giá nến, và ngay lúc ấy
tưởng tượng như bà nghe thấy một tiếng vù
vù mơ hồ ở cửa sổ, như tiếng của một cơn gió đột ngột ập đến hay tiếng vỗ
cánh của một con chim đang bay nhanh, một con ngỗng hoang nào đó. Thậm chí nó
còn nhắc bà nhớ tới những đêm lễ hội pháo hoa đã chìm vào quên lãng và âm thanh
của đuôi một viên pháo thăng thiên tạo ra khi nó rơi qua bầu không khí – trong
lúc những chùm ánh sáng xanh xanh và đỏ ửng màu hồng ngọc của nó lịm tắt trên
khoảng không gian bao la bên trên. Bà co đôi chân dài lại, ngồi dậy, khoác vào
người tấm áo choàng ngủ bằng vải flanen màu xanh luôn treo ở thành giường, rồi
nhấc tấm màn che lên khoảng ba bốn phân, nhìn ra phía ngoài cửa sổ.
Đó là một đêm sao sáng; và ánh sáng của bầu trời bên trên mái nhà dường như
chỉ rõ phải có một vầng trăng ở mé sau ngôi nhà. Trong lúc bà đang nhìn, một
dải sáng bạc lướt xuống thật nhanh từ những khoảng không gian xa xa của bầu
trời rồi nhòa dần vào bóng tối. Đó là một ngôi sao băng; và chính ngay lúc ấy
bà tưởng như bà lại nghe thấy tiếng vù vù
mơ hồ nhỏ dần đi trong không trung. Có phải đó cũng là ngôi sao băng? Có thể
nào bà đã bị gạt không? Bà có đang bị gạt điều gì hay không? Bà lui lại.
Và rồi, như thể đáp lại một cách cố tình và thách thức, ở phía khoảng cách
xa xa và từ mé đầu kia của khu vườn dài nơi có những bụi mận gai, vọng đến một
tiếng mèo kêu kéo dài và có phần bí ẩn: rất khẽ - giọng nữ trầm, người ta có
thể nói thế – Meeorou-rou-rou-rou! Lạy Chúa! Đó có phải là giọng kêu của Sam
hay không? Tiếng mèo kêu tắt hẳn. Thế nhưng bà Chauncey vẫn không ngăn nổi một
cái rùng mình. Bà biết giọng của Sam rất rõ. Nhưng chắc chắn không phải là
giọng kêu đó! Chắc chắn là không!
Dù việc nghe thấy chính tiếng gọi của mình ở cái chốn quạnh hiu đó vào lúc
đêm hôm khuya khoắt cũng thật lạ lùng và khiếm nhã, bà vẫn mở ngay cửa sổ ra và
cất tiếng gọi Sam. Không có sự phản hồi. Những thân cây và bụi rậm của khu vườn
đứng im bất động; Những cái bóng mờ mờ của chúng trên mặt đất cho thấy vầng
trăng trên bầu trời thật sự nhỏ đến thế nào. Những gợn sóng mơ hồ của cánh đồng
hoang trải dài xa tít. Không có ánh sáng nào khác ngoài những thiên thể của bầu
trời. Bà Chauncey kêu hết lần này tới lần khác, “Sam, Sam! Về nhà ngay! Về nhà
ngay, con vật xấu xa!” Không một âm thanh nào. Không một ngọn cỏ hay lá cây nào
lay động.
Sau một đêm không ngon giấc, bà Chauncey thức dậy hơi trễ một chút vào sáng
hôm sau. Điều đầu tiên mà bà nhìn thấy khi ngồi dậy trên giường là Sam – nằm co
trong cái giỏ như thường lệ. Đó là một điều bí ẩn, và là một điều bí ẩn khó
chịu. Sau khi liếm láp xong bữa ăn sáng, nó ngủ cho tới trưa. Hôm nay lại là
ngày bà Chauncey làm bánh mì. Bà liên tục nhào bột, thỉnh thoảng lại liếc nhìn
sang con vật nằm bất động. Với những ngón tay dính đầy bột từ cái bát đất nung,
cuối cùng bà đứng ngay bên trên nó một lúc, và nhìn nó thật kỹ.
Nó nằm co tròn lại với bộ mặt nghiêng về phía ánh lửa. Và dường như bà
Chauncey nhận ra rằng trước đó bà chưa bao giờ chú ý tới cái nụ cười kỳ quặc mơ
hồ trên mặt nó. “Sam!” bà kêu to. Ngay lập tức, nó mở to một con mắt đầy vẻ dữ
tợn, như thể một con chuột vừa kêu chít chít. Nó nhìn bà giây lát, rồi mí mắt
hạ xuống, nó bắt đầu kêu gừ gừ.
Sự thật là tất cả những chuyện này làm cho bà Chauncey thấy cực kỳ khó
chịu. Chiều hôm ấy ông Cullings ghé tới, với một giỏ cá trích tươi. “Chúng tươi
như những bông cúc. Lạy Chúa tôi, thưa bà, con thú đó đúng là một Nero[2]!”
“Những con mèo là thứ loài vật kỳ lạ, ông Cullings à,” bà Chauncey đáp, suy
đoán một cách mãn nguyện rằng ông Cullings đã nói nhầm một chữ h và có ý muốn
nói nó là một hero (anh hùng). Còn
bản thân Sam, với cái đuôi nhỏng cao, và như thể cũng cùng ý kiến, đang cọ cọ
vào chân bà.
Ông Cullings nhìn bà chăm chú. “Sao, vâng, chúng là thế đó,” ông ta nói.
“Tôi muốn nói là ngay khi chúng khuất khỏi mắt bà, chúng sẽ quên khuấy bà ngay.
Một con mèo cũng vô ơn và vô tình cảm như một cái máy bơm. Dù nói tới cái máy
bơm, lòng biết ơn phải nghiêng về phía chúng ta. Trước kia, tôi biết một gia
đình mèo đã đuổi bà chủ của chúng ra khỏi nhà và khỏi quê hương bà ấy.”
“Nhưng anh không thể có một con mèo để nuôi cho vui hay sao?” Bà Chauncey
nói yếu ớt; sợ phải hỏi thêm những chi tiết xa hơn của câu chuyện lạ lùng đó.
“Sao chứ, không, thưa bà,” ông ta nói” Chúng tồn tại như Thượng đế đã tạo
ra chúng. Nhưng tôi e là chúng có thể kể một vài câu chuyện khó mà giải thích
nếu chúng có một cái lưỡi của con người.”
Sam đã ngưng cọ vào chân bà chủ nó, và đang nhìn chòng chọc vào ông
Cullings, lông ở cổ và vai của nó hơi xù lên. Và người chở hàng nhìn lại nó.
“Không, thưa bà. Chúng ta không nên giữ chúng,” cuối cùng ông ta nói, “nếu chúng
to gấp bốn thế này. Hoặc là, không nên giữ chúng lâu!
Sau khi nhìn theo chiếc xe ngựa nhỏ của ông Cullings ở phía xa, bà Chauncey
quay vào nhà, thấy buồn phiền hơn bao giờ hết. Nỗi khó chịu của bà không dịu
bớt chút nào vì Sam từ chối thậm chí cả ngửi vào những con cá trích của nó. Nó
chui xuống dưới một cái bàn thấp trong bếp, phía sau cái rương của người thủy
thủ già mà trong đó bà Chauncey cất những que củi đóm. Bà tưởng chừng như nghe
thấy tiếng móng vuốt của nó thỉnh thoảng cào lên những que gỗ, và có một lần
dường như nó thể hiện những cảm giác tự nhiên của nó theo kiểu mà những người
thô tục ít có sự đồng cảm với thú vật diễn tả là “nguyền rủa”.
Dù sao thì tất cả mọi sự mơn trớn của bà đối với Sam đều vô ích. Câu trả
lời duy nhất của nó là một kiểu hắt hơi giống một cách khó chịu với việc “phun
nước bọt”. Cảm giác của bà Chauncey thật sự bị tổn thương. Bà thấy rất đau
lòng. Một điều gì đó mà người chở hàng đã nói, hay cái cách ông ta nói, hay cái
nhìn kỳ lạ trên mặt ông ta khi ông ta nhìn lại con mèo ở cổng mà bà để ý thấy
ám ảnh những ý nghĩ của bà. Bà không còn trẻ nữa, bà có trở nên tưởng tượng quá
hay không? Hay là bà phải kết luận rằng trong những tuần vừa qua Sam đã lén lút
lừa bà, hay ít ra cũng che giấu những cuộc dạo chơi lang thang và những sở
thích của nó? Thật vô lý. Còn tệ hơn nữa là bà quá nhẹ dạ khi tin rằng trong
thực tế Sam đã ra những dấu hiệu – một cách bí mật sau lưng bà – với một kẻ cấu
kết nào đó ở trên bầu trời hoặc ở trên mặt trăng!
Dù sao đi nữa, bà Chauncey quyết định phải theo dõi nó sát sao. Tương lai
của họ đang bị đe dọa. Ít nhất bà phải chắc chắn rằng nó không ra khỏi nhà đêm
đó. Nhưng rồi bà lại tự hỏi mình: Tại sao không? Tại sao con vật không được
chọn giờ giấc và mùa của chính chúng? Những con mèo, giống như những con cú,
nhìn tốt nhất trong bóng tối. Chúng đi lùng chuột giỏi nhất là trong bóng tối,
và có thể thích bóng tối hơn để thực hiện những vấn đề riêng tư, xã hội, thậm
chí cộng đồng của chúng. Nói cho cùng, Post Houses chỉ cách làng Haggurdsdon
hơn hai dặm, và ở đó có nhiều mèo. Anh bạn tội nghiệp, những ông bạn con người
của chính bà thỉnh thoảng cũng cư xử khá ngốc nghếch nữa là!
Bà Chauncey suy nghĩ những điều như thế; và như thể để giúp bà tự tin hơn,
lúc đó Sam bình thản bước vào phòng, nhảy lên cái ghế trống cạnh bàn trà của
bà. Như thể để chứng minh rằng nó đã suy nghĩ lại về sự xấu tính xấu nết của
nó, hoặc để ám chỉ rằng không có gì sai trái giữa nó và ông Cullings, nó đang
liếm mũi, và không thể nào lầm rằng nó đã mang theo vào phòng mùi cá của bữa
ăn.
“Thế là mày đã suy nghĩ lại về chuyện đó, phải không con trai của ta?” Bà
Chauncey nghĩ, dù không thốt những lời đó thành tiếng. Thế nhưng khi bà đáp lại
cái nhìn đăm đăm của nó, bà thấy thật khó mà đọc được trí thông minh ở đằng sau
đôi mắt đó. Bạn có thể bảo rằng Sam chỉ là một con mèo, chả có ý nghĩa gì trong
chúng cả. Nhưng bà Chauncey biết rõ hơn. Sẽ có khá nhiều ý nghĩa nếu như đôi
mắt đó nhìn vào bà từ một hình dáng con người.
Thật không may, và gần như thể Sam đã nghe trộm được những suy đoán liên
quan tới những người bạn mèo trong làng của bà, ngay lúc đó có một tiếng mèo
kêu nho nhỏ ở bên dưới cánh cửa sổ mở. Trong chớp mắt, Sam vọt ra khỏi cái ghế
và phóng qua cửa sổ, và bà chỉ kịp đứng lên để trông thấy nó đang giận dữ đuổi
theo một con mèo đốm mảnh mai mà rõ ràng là đã tới gần Post Houses với hy vọng
nhận được một sự tiếp đón thân thiện hơn, và lúc này đang chạy trối chết để
thoát thân.
Sam quay lại sau cuộc đuổi bắt, tươi tắn như được sơn lên người, và bà
Chauncey kinh hoàng khi phát hiện ra giữa những móng vuốt bàn chân trước bên
phải của nó có một hai túm lông mèo đốm. Sau khi đã ổn định chỗ nằm bên lò
sưởi, ngay lập tức nó gỡ những túm lông đó ra bằng cách liếm.
Vẫn còn băn khoăn với những sự kiện đáng lo ngại đó, bà Chauncey ra vườn đi
bộ theo thường lệ. Hoa thập tự và kim ngân đang kết hạt dọc theo con đường mòn,
những khóm hoa hồng nở muộn đã sẵn sàng nở hoa trên bức tường gạch cao ngăn
cách mảnh vườn hẹp của bà với cánh đồng hoang bao la. Đi tới cuối con đường, bà
đi thêm vài bước so với thường lệ, tới chỗ cỏ mọc um tùm hơn và những loài cây
hoang vươn ngọn lên bên dưới mấy cây táo phủ đầy địa y. Bà tiếp tục đi xa hơn,
vì đó là một khu vườn hẹp nhưng kéo dài, tới nơi có những bụi mận gai và táo
gai mọc rải rác. Những cây này đã nở hoa trong nhiều mùa xuân hoang vu của cánh
đồng hoang từ rất lâu trước khi Post Houses dựng những cột ống khói của nó
hướng lên bầu trời xanh thẳm. Ở đây cũng mọc đầy những bụi tầm ma, mùi chua gắt
của chúng tỏa lan trong bầu không khí.
Chính ở cái nơi đìu hiu này, giống như Robinson Crusoe trước đó, bà
Chauncey đột nhiên đứng lặng người bởi sự xuất hiện của một dấu vết mà chắc
chắn phải là một dấu chân trên mặt đất. Nhưng không chỉ dấu vết này. Cách đó
không xa là dấu của cây gậy chống hay thậm chí một vật gì đó to hơn và nặng
hơn, một cây nạng. Bà có bị gạt không nhỉ? Cái dấu chân, đúng là thế, là một
loại dấu chân kỳ dị. “Đó là một chiếc giày thật kỳ lạ!” Bà nghĩ. Có thể nào sự
giống nhau đó chỉ là ngẫu nhiên? Có phải nó là một dấu chân không?
Bà Chauncey ngấm ngầm liếc qua những bụi cây về phía ngôi nhà. Nó mờ mờ
hiện ra một cách hoang vu và đáng sợ trong ánh sáng nhá nhem của cánh đồng
hoang. Và bà tưởng như có thể nhìn thấy, dù bóng chiều chạng vạng có thể đánh
lừa bà, hình dáng co rúm của Sam đang nhìn ra phía bà từ cửa sổ nhà bếp. Bị
quan sát! Chính bản thân bà bị rình mò và quan sát!
Nhưng, dĩ nhiên rồi, Sam luôn quan sát bà. Điều này đâu có gì khác lạ?
Những con cá trích, kem, đĩa sữa, và chén nước trong lành của nó từ đâu mà có?
Dù sao đi nữa bà Chauncey cũng quay trở về căn phòng của mình với tâm trạng rối
bời.
Đó là một buổi xế chiều yên tĩnh một cách khác thường. Khi đi từ phòng này
sang phòng khác để đóng các cánh cửa sổ, bà nhận thấy vầng trăng đã hiện ra
trên bầu trời. Bà nhìn nó với nỗi lo âu. Cuối cùng cũng tới giờ ngủ. Như thường
lệ, Sam tới liếm chân bà một hai cái rồi nhảy vào cái giỏ. Bà giơ chiếc chìa
khóa cho nó thấy một cách gần như thách thức, rồi khóa cửa phòng ngủ lại.
Sáng hôm sau khi bà thức giấc, Sam đang nằm ngủ trong cái giỏ như mọi ngày,
và trong suốt ngày nó ở khá gần nhà. Cả hai ngày Thứ tư và Thứ năm cũng thế.
Cho tới Thứ sáu khi tình cờ đi lên phòng ngủ ở tầng trên nơi không có lò sưởi
và theo sau là Sam như thường lệ, bà phát hiện ra mùi khét mơ hồ của bồ hóng
trong phòng. Không có ống khói, nhưng lại có mùi bồ hóng! Bà quay nhanh về phía
con mèo, nó đã rời khỏi phòng.
Chiều hôm đó, khi bà khám phá ra một vết bồ hóng trên tấm chăn của mình, bà
nhận ra rằng không chỉ những ngờ vực của bà đã được xác minh, mà lần đầu tiên
trong đời nó Sam đã cố tình nằm lên đó khi bà vắng mặt. Với hành động hoàn toàn
thách thức này bà không còn thấy tổn thương nữa mà nổi giận đùng đùng. Không
còn ngờ gì nữa. Lúc này Sam đang công khai thách đố bà. Không có hai người cùng
chia một mái nhà nào lại sống theo cách như thế này được. Nó phải được dạy cho
một bài học.
Chiều tối hôm đó, trước mắt con vật, sau khi đã khóa cửa phòng ngủ, bà nhét
một tấm thảm lớn vào miệng ống khói và sập cái cửa lò xuống. Nhìn thấy những
hành động đó, Sam đứng lên từ cái giỏ của nó, và với một cú nhảy nhẹ nhàng, nó
phóng vụt lên bàn trang điểm. Bên ngoài cửa sổ, cánh đồng hoang sáng rõ gần như
ban ngày. Phớt lờ bà Chauncey, con vật thu mình lại ở đó, nhìn một cách sưng
sỉa và chăm chú vào không gian trống rỗng vì từ nơi nó ngồi có thể nhìn thấy cả
một khoảng rộng bên ngoài.
Bà Chauncey bắt đầu làm vệ sinh buổi tối, cố giả vờ một cách vô ích rằng bà
hoàn toàn không chú ý gì tới con vật. Một âm thanh yếu ớt – không chính xác là
tiếng mèo kêu hay tiếng gầm gừ – mà là một loại tiếng mèo gào bên trong, gần
như không nghe thấy được, phát ra từ cổ họng nó. Nhưng dù những âm thanh đó có
thể hàm ý điều gì, chỉ bản thân Sam là người nghe duy nhất. Không thấy có một
dấu hiệu chuyển động nào ở cửa sổ hay trong thế giới bên ngoài. Sau đó bà kéo
những tấm màn che xuống. Khi thấy vậy, ngay lập tức Sam đưa bàn chân trước lên
như thể nó sắp sửa phản đối, và rồi, hiển nhiên là đã suy nghĩ lại, nó giả vờ
như hành vi đó chỉ nhằm mục đích bắt đầu cuộc rửa mặt ban đêm của nó.
Rất lâu sau khi tắt nến, bà Chauncey nằm lắng nghe. Mọi tiếng cựa quậy và
chuyển động trong bóng tối lặng lẽ có thể dễ dàng nhận ra. Trước tiên là tiếng
chân lén lút, rồi tiếng gõ vào cái cửa lò sưởi, cho thấy một cách rõ ràng điều
đang xảy ra mà bà có thể hình dung một cách xác thực: Sam đang ở trên bệ lò
sưởi, đứng thẳng người trên hai chân sau, cố gắng đẩy vật chướng ngại ra một
cách vô ích.
Sau khi cố gắng một cách vô ích, có vẻ như nó đã đứng lại trên bốn chân.
Rồi có một khoảng khắc tạm ngưng. Nó đã từ bỏ dự định của nó? Không: lúc này nó
đang ở cửa ra vào, cào nhè nhẹ. Rồi một cú nhảy lên chỗ cái then cửa, nhưng chỉ
một lần – cánh cửa đã bị khóa. Quay lại từ cửa, nó phóng trở lại lên bàn. Bây
giờ nó định làm gì? Bà len lén ngóc đầu lên một chút và có thể nhìn thấy nó
đang đưa chân trước đẩy tấm màn che khỏi khung cửa sổ ngập ánh trăng. Và ngay
trong lúc bà đang lắng nghe và quan sát, bà lại nghe thấy một lần, rồi lần nữa,
tiếng vù vù yếu ớt như thể một con ngỗng trời đang rẻ không khí, và rồi tiếng
gì đó có thể là tiếng kêu ban đêm của một con chim, nhưng đối với đôi tai của
bà thì lại giống như một tràng cười the thé. Khi nghe thấy nó, Sam vội vã rời
khỏi cửa sổ, và không có chút cố gắng
che đậy nào, nó phóng từ bàn trang điểm sang cái thành thấp hơn của chiếc giường.
Hành vi vô lễ này không thể được bỏ qua thêm nữa. Bà Chauncey tội nghiệp
ngồi bật dậy, kéo cái mũ trùm đầu xuống sát tai hơn, rồi đưa tay về phía cái
ghế bên cạnh giường, đánh một que diêm rồi thắp cây nến lên. Việc chậm rãi quay
đầu sang và đối diện với người bạn của bà thật sự là một nỗ lực to lớn đối với
bà. Lông nó dựng lên khắp thân hình như thể nó vừa bị điện giật. Bộ ria của nó
cũng chỉa thẳng ra. Trông nó ít nhất to gấp đôi kích thước thường ngày. Đôi mắt
nó rực lên và khi ngoảnh mặt khỏi cái nhìn của bà, nó cất tiếng kêu nho nhỏ kéo
dài Miaoriou-rou-rou-rou!
“Tao bảo là không,” bà hét lên với con vật. Khi nghe thấy tiếng bà, nó chậm
chạp quay lại và đối diện với bà. Dường như cho tới lúc đó bà Chauncey chưa bao
giờ thật sự nhìn thấy vẻ mặt của Sam như trong thực tế. Nó không giống mấy với
vẻ mặt của một con cọp đang nhếch nanh cười, nhưng cái vẻ khinh khỉnh trơ tráo
đó biểu hiện không chỉ điều nó muốn mà cả điều nó có ý định đạt được.
Dù lúc này việc ngủ không thành vấn đề nữa, bà Chauncey vẫn có thể tỏ ra cố
chấp. Nhưng dường như con vật tỏa ra một sức tác động nào đó trên chính cái vẻ
mặt đó khiến bà gần như không thể cưỡng lại. Bà rời khỏi giường, mang dép vào
rồi bước tới cửa sổ. Một lần nữa tiếng kêu kỳ lạ phát ra từ thành giường. Bà
kéo tấm màn lên và ánh trăng từ khắp cánh đồng hoang tràn vào căn phòng. Khi bà
quay lại để phản đối con vật vì sự vô ơn, và tất cả những việc làm không thích
đáng và sự lừa dối của nó, có một cái gì đó đầy đe dọa, bướng bỉnh và dữ tợn
trong thái độ của nó đến nỗi bà không còn do dự nữa.
“Được, hãy nhớ lấy lời tao!” Bà hét lên với giọng run run, “mày sẽ không
được ra bằng cửa. Nhưng nếu mày muốn thưởng thức bồ hóng, thì sẽ có bồ hóng.”
Nói xong, bà đẩy cái cửa lò lên bằng cái que cời và dùng cái kẹp than lôi
tấm thảm ra. Trước khi tràng ho do đám bụi bồ hóng gây ra của bà ngưng lại,
thân hình đen mềm mại đã phóng khỏi thành giường, rồi nó trườn vào lò sưởi,
trèo lên những thanh ghi lò và lên ống khói, rồi biến mất.
Run bắn từ đầu đến chân, bà Chauncey ngồi xuống một cái ghế đu gần đấy để
nghĩ xem bà phải làm gì kế tiếp. Vù vù!
Vù vù! Một lần nữa, từ bên ngoài cửa sổ lại vang lên âm thanh bí ẩn đó,
nhưng bây giờ, tiếng kêu như thể của một viên pháo thăng thiên đang bay lên
không trung với một chùm lửa chói lọi thay vì tiếng cái đuôi của nó bay chúi
xuống. Và sau khoảnh khắc lặng im kế tiếp, một lần nữa có tiếng gì đó như thể
tiếng reo mừng chiến thắng vang lên từ cuối khu vườn, và tiếng mèo gào chói
tai, vang dội, đủ để đánh thức mọi con gà trống trong các chuồng gà của làng
Haggurdsdon, và nhiều dặm xung quanh. Từ khoảng cách xa, tiếng gáy của chúng
vang lên trong bầu không khí ban đêm, sau đó giây lát là tiếng chuông nửa đêm
từ tháp chuông nhà thờ. Rồi im lặng lại bao trùm tất cả. Một sự im lặng tuyệt
đối. Bà Chauncey quay trở về giường, nhưng không ngủ được thêm chút nào trong
đêm ấy.
Đầu bà tràn ngập những ý nghĩ không vui. Niềm tin vào Sam của bà không còn
nữa. Tệ nhất là bà đã đánh mất cả niềm tin vào tình cảm của mình đối với nó.
Những niềm tin đó đã là uổng phí! Tất cả những con cá trích, cá trắng trong bao
nhiêu biển rộng cũng không thể so với điều đó được. Việc Sam thấy chán nản với
tình bạn của bà là việc không cần bàn đến. Bà cảm thấy xấu hổ khi nghĩ điều này
có ý nghĩa như thế nào đối với mình – một con vật đơn thuần! Nhưng bà biết điều
gì đã mất; biết những bận rộn trong ngày buồn tẻ và chán ngán ra sao – việc
chăm nom, việc nhà cửa bếp núc, việc làm vệ sinh vào buổi chiều tối, đôi dép
mang buổi chiều, đọc sách hay đan len, uống trà, thắp nến, cầu nguyện, đi ngủ.
Vân vân. Bây giờ con mèo Sam của bà là loại bầu bạn nào? Khi bà từ chối trả lời
câu hỏi kinh khủng này, dường như bà nghe thấy tiếng đóng sầm thô bạo của một
cánh cửa sắt to lớn.
Sáng hôm sau, vẫn còn trầm ngâm về những sự kiện lạ lùng này, đau khổ thấu
tim với sự rạn nứt đáng sợ giữa bà và con vật từng là bầu bạn tin cậy của bà
suốt bao nhiêu năm qua; và cũng xấu hổ vì Sam đã phản ứng lại bà khi bà quyết
định không cho nó đi ra ngoài trong đêm, bà Chaunce, như thể chỉ đơn giản để
tập chút thể dục, một lần nữa đi đến cuối khu vườn. Một dấu vết lờ mờ (giống
như dấu vết bà đã nhìn thấy chiều hôm trước) trên mặt đất đen của cái có thể là một dấu chân không phải là cái
gì đáng kể cho lắm. Nhưng bây giờ, trong khoảnh đất bị bỏ hoang mé ngoài những
bụi táo gai và mâm xôi – không còn gì phải nghi ngờ nữa – đã xuất hiện nhiều
dấu vết lạ. Và chắc chắn đây không phải là những vết chân mèo! Thật sự, một con
mèo có thể dùng một cây gậy chống hay cây nạng để làm gì? Một cây gậy chống hay
cây nạng mà – xét theo ấn tượng nó đã để lại trên mặt đất – ít nhất phải to
bằng một cái cán chổi.
Bình thản và cảnh giác hơn bao giờ hết, bà Chauncey nhìn tới nhìn lui những
cái nắp chụp ống khói của ngôi nhà đang nổi lên rõ ràng trong ánh ban mai của
bầu trời hướng đông. Và bà nhận ra mối
nguy hiểm mà ngay cả một con vật không thể ngã như Sam cũng phải đương đầu khi
nó phóng ra khỏi cái ống khói trong nỗ lực điên cuồng chạy vào bóng đêm của nó.
Khi đã trèo lên tới gờ ống khói – trên đầu là những vì sao lấp lánh, còn trải
rộng xung quanh đến tận xa tít tắp là cánh đồng hoang dã – hẳn nó đã phải nhảy
từ đỉnh của cái nắp ống khói xuống một gờ gạch rộng chưa đầy bảy phân. Từ đó nó
nhảy xuống nóc nhà rồi bắt đầu tuột từ cái mái ngói đá đen dốc, trơn trợt xuống
một máng xối chì.
Và lúc này thì sao? Lớp dây thường xuân dầy trải lên trên những bức tường
của ngôi nhà chỉ leo đến khoảng giữa tường. Thật sự Sam có thể phóng từ cái
máng xối xuống chỗ đó? Ý nghĩ về một sự nguy hiểm đến thế khiến bà Chauncey
quay trở về ngôi nhà, nôn nóng muốn tự trấn an rằng nó vẫn còn sống sót.
Và lạ lùng chưa, khi vừa đi được khoảng nửa đường, bà nghe thấy một chuỗi
tiếng chó sủa điên cuồng và tiếng kêu inh ỏi từ phía cánh đồng. Bà vội vã đặt
một cái chậu hoa sát bên tường, đứng nhón chân trên đó và nhìn ra. Ngay lúc ấy,
bà nhận ra Sam đang phóng thật nhanh qua sườn dốc gần nhất của cánh đồng, bây
giờ không phải là đuổi theo một vị khách cả tin ngốc nghếch nào, mà là đang bị
truy đuổi ráo riết bởi cả một đàn mèo của làng Haggurdsdon. Dù có vẻ rất mệt
mỏi, Sam vẫn giữ được khoảng cách. Chỉ có vài con mèo mướp ốm o, và một con
trông có vẻ là mèo Manx màu xám gừng (trừ phi
nó là một con mèo bình thường đã bị chặt cụt đuôi) chạy sát sau lưng nó.
“Sam! Sam!” bà Chauncey hét lên, rồi lại hét lần nữa, “Sam!” nhưng trong
cơn kích động và nôn nóng, chân bà trượt khỏi cái chậu hoa và trong khoảnh khắc
cuộc rượt đuổi của lũ mèo đã biến khỏi tầm nhìn. Sau khi trấn tĩnh lại, bà vớ
lấy một cây chổi sể dựng sát tường và chạy về phía mà bà đoán là Sam sẽ chạy
theo lối đó để vào vườn. Bà không đoán nhầm, và nó hiện ra ngay sau đó. Nó
phóng lên, và trong vòng ba giây lũ mèo đã theo tới trong cuộc truy đuổi ráo
riết.
Bà Chauncey không thể nhớ rõ mọi chuyện xảy ra sau đó. Bà chỉ nhớ bà vung
mạnh cây chổi sể giữa đám mèo trong lúc Sam, không còn là một tên chạy trốn,
quay lại đối đầu với những kẻ thù của nó. Tuy nhiên, đó không phải là một chiến
thắng dễ dàng. Nếu con chó béo nùng nục của người hàng thịt ở Haggurdsdon –- đã
bắt đầu đuổi theo đám kẻ thù này của nó từ đầu –- lúc bấy giờ không chạy tới
nơi thì rất có thể cuộc chiến đấu sẽ có một kết cục bi thương. Nhưng khi nghe
thấy tiếng nhảy thình thịch và trông thấy đôi hàm răng dữ tợn đang nhe ra của
nó trong lúc nó đang cố gắng vượt qua bức tường một cách vô ích, đám kẻ thù của
Sam quay đầu và bỏ chạy theo mọi hướng. Thở hổn hển và mệt lử, bà Chauncey
buông cây chổi xuống và đứng tựa vào một thân cây để nghỉ ngơi một lúc.
Cuối cùng, bà mở mắt ra. “Ồ, Sam,” bà thì thào, “chúng ta đã cho lũ nó một
trận ra trò nhỉ?”
Nhưng bà ngạc nhiên thấy những lời thân thiện của mình rơi vào khoảng
trống. Con vật đã biến mất tăm. Tuy nhiên, trong ngày hôm đó món kem của nó
biến mất, và nhờ một tiếng sột soạt ngẫu nhiên, bà Chauncey biết rằng nó lại
nằm trốn trong cái chỗ bẩn thỉu bên cạnh cái thùng đựng củi đóm. Bà không quấy
rầy nó.
Sam không xuất hiện cho đến giờ uống trà ngày hôm sau. Và sau khi liếm láp
những vết thương, nó ngồi đối mặt với ngọn lửa, bơ phờ, sưng sỉa và lặng câm
như một con chó. Đây không phải là “chỗ” để bà Chauncey lợi dụng ưu thế, bà
nghĩ. Bà chẳng ngó ngàng gì tới con vật ngoại trừ việc thoa một chút mỡ lợn lên
những vết thương của nó. Tuy nhiên, bà vui mừng nhận thấy nó ở lại nhà trong
hai ngày kế tiếp. Bà giật mình thức giấc vào đêm thứ ba và nghe thấy tiếng rền rĩ gầm rú hơn bao giờ hết từ những bụi
mận gai, mặc dù bản thân Sam ngồi bất động bên ngọn lửa. Đôi tai nó nhúc nhích,
bộ lông nó xù lên. Nó hắt hơi và phì nước bọt, nhưng vẫn bất động.
Khi ông Cullings ghé lại, Sam trốn ngay vào hầm chứa than, nhưng dần dà
cách xử sự của nó với bà Chauncey ngọt ngào trở lại như thường lệ. Và trong
vòng nửa tháng sau đêm rằm, cả hai có lại tình bầu bạn thân mật cũ. Nó trở nên
lành lặn, mượt mà, tự tin và đúng giờ. Không có một vị khách không mời nào
thuộc chủng loài của nó từ Haggudsdon xuất hiện. Những tiếng động ban đêm đã
tắt hẳn. Post Houses với mọi vẻ ngoài của nó – ngoại trừ sự xấu xí – trở nên
thanh bình và yên tĩnh như bất kỳ ngôi nhà đơn độc nào ở nước Anh.
Nhưng, chao ôi. Khi nhìn thấy ánh trăng non đầu tiên, tâm trạng và những
thói quen của Sam lại bắt đầu thay đổi. Nó đi thơ thẩn với ánh mắt lén lút và
gian xảo. Và khi kêu gừ gừ và cọ mình nịnh nọt chủ nó, toàn bộ dáng vẻ của nó
là một bức tranh dối trá. Nếu tình cờ bà Chauncey bước vào căn phòng mà nó đang
ở, ngay lập tức nó nhảy xuống khỏi cái cửa sổ mà nó đã nằm như thể cố chứng tỏ
rằng nó không nhìn ra ngoài cửa sổ. Có lần, lúc sắp tối, dù không rình mò, bà
không cưỡng lại được việc dừng lại ở cửa phòng khách, nhìn qua khe hở của cánh
cửa mở hé. Và kia, trên lưng cái ghế cầu kinh cứng trước đây thuộc về bà cô
Miranda của bà, Sam đang ngồi xổm trên hai chân sau. Và không có chút ngờ vực
nhỏ nhất nào rằng nó đang ra hiệu một cách hùng hồn với một kẻ quan sát nào đó
ở bên ngoài bằng hai chân trước. Bà Chauncey quay đi, tim đau nhói.
Từ đó trở đi, Sam càng lúc càng làm ngơ và coi thường chủ nó, xấc xược và
trơ tráo một cách công khai. Ông Cullings đã có lời nói giúp. “Ma-đam ạ, nếu
tôi có một con mèo có những cung cách như thế, sau tất cả những cư xử tốt đẹp,
những con cá tươi hàng tuần và món kem, mà theo tôi biết, không hề có chút váng
nào, tôi sẽ… tôi sẽ mang nó đi cho.”
“Cho ai?” Bà Chauncey tội nghiệp hỏi.
“À, tôi không biết tôi quan tâm tới việc người đó là ai tới mức nào. Những
kẻ xin ăn không có quyền chọn lựa, thưa bà.”
“Có vẻ như nó không có bạn bè nào trong làng,” bà Chauncey nói, cố hết sức
giữ cho giọng nói nhẹ nhàng.
“Bà không biết đâu, khi chúng đen và có đôi mắt tròn như thế,” ông Cullings
nói. “Ở Hogges Bottom có một bà cụ. Con mèo của bà ta có thể là anh em sinh đôi
với Sam.”
“Không đâu, con mèo đó bị ghẻ lở,” bà Chauncey nói, trung thành cho tới
cùng. Người chở hàng thuê nhún vai, leo lên chiếc xe ngựa và quay về. Bà
Chauncey đi vào nhà, đặt những con cá
trích ánh bạc trên bàn, ngồi xuống và bật khóc.
May mắn là ngày hôm sau – nghĩa là tròn năm ngày trước kỳ trăng rằm kế tiếp
– bà nhận được thư của cô em dâu ở Shanklin, trên đảo Wight, mời bà đến thăm họ
một thời gian.
“Emma thân mến. Thỉnh thoảng chắc chị
cảm thấy rất cô độc khi phải câm lặng trong ngôi nhà cọt kẹt cách quá xa những
láng giềng khác đó. Thật tuyệt là chị có con Sam làm bầu bạn, nhưng nói cho
cùng, như Georges bảo, một con thú nuôi cũng chỉ là một con thú nuôi. Và tất cả
chúng em nghĩ rằng đã tới lúc chị nên tới nghỉ với chúng em. Lúc này em đang
nhìn ra cửa sổ. Biển rất tĩnh lặng như một hồ nước nhỏ, với một màu xanh biếc
tuyệt đẹp. Những con thuyền đánh cá đang tới gần với những cánh buồm nâu. Đây
là thời điểm tốt nhất trong năm đối với chúng em, vì mùa dạo chơi đang tới rất
gần và ở đây có rất ít khách viếng thăm, và trời thì trong vắt không một đám
mây. Goerges bảo chị phải tới. Anh ấy sẽ đánh cỗ xe hai ngựa tới đón chị ở ga.
Tất cả chúng em đang mong gặp chị trong vài ngày tới. Emmie dạo này đã khỏi ho
– chỉ kêu khục khặc khi nó nhớ tới chứng ho và không bao giờ ốm đau gì hết. Em
yêu của chị. (Bà) Gertrude Chauncey.”
Trước lòng tốt đó và với mọi nỗi lo buồn đủ thứ, bà Chauncey hầu như kiệt
sức. Sau đó khoảng một hai giờ, khi người chủ hàng thịt tới giao thịt, ông ta
mang về làng một bức điện tín của bà. Hôm thứ Hai, hành lý của bà đã thu xếp
xong, và tất cả những gì còn lại là bỏ con Sam vào một cái giỏ để chuẩn bị cho cuộc hành trình. Nhưng tôi
buộc phải nói rằng người bảo vệ cũ của nó cần phải hành động nhiều hơn là chỉ
những lời thuyết phục để thực hiện được việc này. Thật ra ông Cullings đã phải
dúi con vật xuống với đôi tay có mang găng trong lúc bà Chauncey đóng nắp giỏ
và ấn một cái xiên qua đó để giữ chặt nắp. “Điều gì cần thực hiện phải được
thực hiện,” người chở hàng thuê nói khi ông ta chà một nhúm đất lên những chỗ
bị mèo quào. “Và ý tôi là, nên thực hiện nó cho xong. Hãy nhớ lấy lời tôi,
ma-đam ạ.”
Bà Chauncey rút trong cái ví da ra một đồng si-ling, nhưng không trả lời.
Thật sự, mọi sự phiền toái đó rốt cuộc tỏ ra là vô ích. Ở ga đầu mối
Blackmoor cách Haggurdsdon ba mươi dặm, bà Chauncey phải đổi tàu. Cái rương của
bà và cái giỏ đựng Sam được đặt cùng nhau trong sân ga bên cạnh nửa tá lon sữa
rỗng và vài con gà trong một cái thùng thưa, còn bà Chauncey thì đi tới hỏi
thăm ông xếp ga để chắc chắn về cửa lên tàu của mình.
Tiếng cục tác hoảng hốt của mấy con gà khiến cho bà phải vội vã quay trở
lại chỗ để đồ đạc, chỉ để nhận ra rằng bằng cách nào đó Sam đã đẩy được cái
xiên ra khỏi ống giữ của cái giỏ. Nắp giỏ mở toang và trong giỏ trống rỗng.
Thật sự, một con gà mái khốn khổ nằm hấp hối ở đó là chứng cứ không chỉ cho khả
năng của Sam mà cả sự hung ác không biết xót thương của nó.
Vài hôm sau, khi bà Chauncey đang ngồi trong chính căn phòng mà cô em dâu
đã viết lá thư mời, nhìn ra mặt nước bình yên của vịnh English Channel và
vầng mặt trời dịu dàng tỏa nắng trên bầu trời, lá thư của ông Cullings tới nơi.
Nó được viết bằng bút chì trên lưng của một vỏ hộp bánh.
“Bà thân mến, tôi xin được gửi thư này
tới bà để báo về con vật mà tôi đã cố giúp nhét vào giỏ. Nó đã quay lại ngôi
nhà trống theo đường ray và bắt một số gà mái ở làng hồi khuya hôm Chủ nhật.
Tôi nhìn thấy nó đang ngồi xổm trong phòng khách đầy gió nhìn ra tôi một cách
độc ác đến nỗi máu tôi muốn đông lại trong mạch máu, và những ánh đèn và những
tiếng kêu rền rĩ mà tôi không bao giờ hy vọng nghe thấy lại ở một ngôi nhà của
người theo đạo. Và bà cụ ở Hogges Bottom ngồi ở ngay cổng tôi nói rằng chỗ đó
không tốt và con mèo đó đã bị ma thuật phù chú. Ông Flint chủ tiệm thịt cũng
đồng ý với tôi rằng bây giờ chỉ còn một cách duy nhất và như tôi đã nói, tôi
rất sẵn lòng thuê lại ngôi nhà với một giá thấp khi xét tới tiếng xấu của nó ở
những vùng quanh làng Haggordsdon này. Tôi mong nhận được hồi âm của bà. Trân
trọng. William Cullings.”
Khi nhìn bà Chauncey, bạn có thể cho rằng bà là một người cứng cỏi. Bạn có
thể cho rằng lời ám chỉ thô lỗ về tiếng xấu của ngôi nhà gia tộc của bà hẳn
phải làm cho bà xấu hổ vô kể. Dù sao đi nữa, bà không bao giờ đưa lá thư đó cho
cô em dâu đọc và cũng không trả lời trong suốt nhiều ngày. Bà ngồi ở chỗ dạo
chơi, nhìn ra biển khơi và triền miên suy ngẫm trong bầu không khí ấm áp, thơm
mặn mùi biển. Đó là một vấn đề đau đớn. Nhưng cuối cùng bà thở dài với chính
mình, “Không, nó phải đi theo con đường của nó, ta đã làm hết khả năng vì nó.”
Bà Chauncey không bao giờ quay lại Post Houses. Cuối cùng bà bán cả ngôi
nhà và khu vườn với một số tiền nhỏ mọn cho ông Cullings. Lúc đó, Sam đã biến
mất và không còn ai trông thấy nó nữa.
Nó đã đi theo con đường riêng của nó.
Bà Chauncey vẫn nhớ tới nó. Bất cứ khi
nào có tiếng vỗ cánh mơ hồ của một con chim mòng biển vọng xuống từ không trung
trên đầu bà, hoặc tiếng rít xé gió của một viên pháo thăng thiên để phục vụ cho
các du khách phá vỡ sự im lặng của bầu trời bên trên mặt biển; bất cứ khi nào
bà ý thức tới tiếng kêu sột soạt của chiếc váy bằng lụa vân mặc ngày Chủ nhật
khi bà đi tới nhà thờ từ căn nhà nhỏ mà bà đang thuê ở khu Shanklin Esplanade.
Không khi nào bà chú ý tới những điều như thế mà không ngay lập tức hình dung
lại căn phòng ngủ của bà ở Post Houses, nhìn thấy lại con vật dối trá lạ lùng
mà trước đó từng là Sam của bà đang đứng thẳng trên hai chân sau trên giường
bà, hai chân trước giơ lên như thể đan len.
[1] (Kathleen yêu dấu) Một bài hát nổi tiếng
của nhạc sĩ Anh Frederick Nicholls
Crouch (1808 – 1896) phổ từ thơ của thi sĩ Anne Crawford.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét