Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

CÂU CHUYỆN ĐỜI TÔI - HELEN KELLER - PHẦN IV (Chương X & XI)


Nguyễn Thành Nhân dịch







CHƯƠNG X


          Ngay trước khi Học viện Perkins đóng cửa nghỉ hè, nhà trường bố trí cho cô giáo và tôi trải qua kỳ nghỉ ở Brewster, trên Mũi Cá Thu (Cape Cod) với người bạn thân mến của chúng tôi, bà Hopkins. Tôi rất vui sướng, vì tâm trí tôi tràn ngập những trò vui sắp tới và những câu chuyện tuyệt vời tôi từng nghe về biển.
          Hồi ức sống động nhất của tôi về mùa hè đó là đại dương. Tôi luôn sống sâu trong đất liền, và chưa bao giờ hưởng nhiều bầu không khí nồng nàn mùi muối; nhưng tôi đã đọc một cuốn sách lớn tựa là “Thế giới của chúng ta”, một mô tả về đại dương khiến tâm hồn tôi tràn ngập sự diệu kỳ và một khao khát khôn tả được chạm vào biển cả mênh mông và cảm nhận tiếng gầm của nó. Vì thế quả tim bé nhỏ của tôi như nhảy chồm lên vì nôn nao phấn khích khi tôi biết rằng ao ước của mình rốt cuộc sẽ trở thành hiện thực.
            Vừa khi tôi được giúp mặc bộ đồ tắm vào người, tôi chạy vù ra bờ cát ấm và không chút e sợ lao mình vào lòng nước mát. Tôi cảm thấy những làn sóng lớn rung chuyển và chìm xuống. Chuyển động sôi nổi của nước khiến lòng tôi tràn ngập một niềm vui to lớn, xôn xao. Đột nhiên trạng thái mê ly của tôi nhường chỗ cho nỗi kinh hoàng; vì bàn chân tôi va mạnh vào một tảng đá và giây phút kế tiếp, một làn sóng lớn ập xuống đầu tôi. Tôi quờ tay để tìm một thứ gì đó chở che, tôi chộp vào nước và những chùm rong biển mà sóng hất vào mặt tôi. Nhưng mọi nỗ lực điên cuồng của tôi chỉ luống công vô ích. Dường như những đợt sóng đang đùa cợt với tôi, nhồi dập tôi từ đợt này sang đợt khác trong trò đùa hoang dại của chúng. Điều đó thật đáng sợ! Mặt đất vững chắc, tốt lành đã trượt khỏi đôi chân tôi, và mọi thứ dường như bị khép kín khỏi môi trường lạ lùng, bao trùm tất cả cuộc sống, bầu không khí, hơi ấm và tình yêu này. Tuy nhiên, cuối cùng như thể đã thấm mệt với thứ đồ chơi mới của nó, biển ném trả tôi lên bờ cát, và khoảnh khắc kế tiếp tôi được ôm chặt trong vòng tay của cô tôi. Ôi, sự an ủi của cái ôm kéo dài, hiền dịu! Ngay khi tôi tỉnh hồn lại sau cơn hoảng loạn đủ để nói bất cứ điều gì, tôi hỏi: “Ai đã bỏ muối vào nước vậy?”
          Sau khi tôi đã hồi phục từ trải nghiệm đầu tiên trong lòng nước, tôi nghĩ thật là vui thú khi ngồi trên một tảng đá lớn trong bộ đồ tắm và cảm nhận hết lượn sóng này tới lượn sóng khác vỗ vào tảng đá, bắn tung những đợt mưa bụi nước bao trùm lấy người tôi. Tôi cảm thấy những hòn sỏi kêu lạo xạo khi những lượn sóng ập mạnh vào bờ cát; toàn bộ bãi biển dường như bị cuốn trôi trước sự tấn công khủng khiếp của chúng, và bầu không khí rung chuyển vì những nhịp đập của chúng. Những đợt sóng lớn cuộn lại, gom tụ để phóng vọt lên cao hơn, và tôi bám vào tảng đá, căng thẳng, bị mê hoặc, khi cảm thấy sự rung chuyển và tiếng gầm của biển cả đang cuộn sóng!
          Tôi không thể ở đủ lâu trên bờ biển. Sự rung ngân của bầu không khí biển trong lành và tự do giống như một ý nghĩ lặng lẽ trầm tư, và những vỏ sò, những hạt sỏi và rong biển với những sinh vật bé xíu bám vào chúng không bao giờ khiến tôi hết thích thú. Một hôm, cô Sullivan hướng sự chú ý của tôi tới một đối tượng lạ lùng mà cô bắt được khi nó đang phơi nắng trong lòng nước mát. Nó là một con sam – con đầu tiên tôi từng thấy. Tôi sờ nó và nghĩ thật lạ khi nó vác cái nhà của nó trên lưng. Đột nhiên tôi nảy ra ý nghĩ rằng nó có thể trở thành một con thú cưng thú vị; vì thế tôi tóm lấy cái đuôi của nó với cả hai tay và xách nó về nhà. Kỳ công này khiến tôi rất đỗi hài lòng, vì cơ thể nó rất nặng, và tôi phải dốc hết sức để lôi nó đi suốt nửa dặm đường. Tôi không để cho cô Sullivan yên cho tới khi cô đặt con sam vào một cái máng nước gần giếng, nơi tôi chắc rằng nó sẽ được an toàn. Nhưng sáng hôm sau khi tôi tới chỗ cái máng nước, thì trông kìa, nó đã biến mất tăm! Không ai biết nó đã đi đâu, hoặc nó tẩu thoát bằng cách nào. Nỗi thất vọng của tôi lúc ấy thật là cay đắng; nhưng dần dà tôi nhận ra rằng không phải là điều khôn ngoan khi ép buộc sinh vật lặng câm tội nghiệp này tách khỏi môi trường của nó, và sau đó ít lâu tôi cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ có lẽ nó đã quay về biển cả.

 

 

CHƯƠNG XI


          Vào mùa thu, tôi quay trở về ngôi nhà miền Nam của mình với một quả tim tràn ngập những hồi ức vui tươi. Khi tôi nhớ lại chuyến đi miền Bắc ấy, tôi rất kinh ngạc với sự phong phú và đa dạng của những trải nghiệm trong chuyến đi. Dường như đó là sự khởi đầu của mọi sự. Những kho báu của một thế giới mới mẻ, xinh đẹp được đặt dưới chân tôi, và tôi thu thập niềm vui và thông tin ở từng bước ngoặt. Tôi hòa nhập vào mọi sự vật. Tôi không bao giờ tĩnh lặng trong một phút giây nào; cuộc đời tôi tràn đầy chuyển động như những côn trùng nhỏ bé gom toàn bộ sự tồn tại vào một ngày ngắn ngủi. Tôi đã gặp nhiều người trò chuyện với tôi bằng cách viết vào tay tôi, và ý tưởng trong bản hòa âm hân hoan nhảy lên để gặp gỡ ý tưởng, và một phép lạ đã được hoàn thành thế đó! Những nơi chốn khô cằn giữa tâm trí tôi và tâm trí của những người khác bừng nở như một đóa hoa hồng.
          Tôi trải qua những tháng mùa thu với gia đình tôi ở ngôi nhà nghỉ hè của chúng tôi, trên một ngọn núi cách Tuscumbia chừng mười bốn dặm. Nó được gọi là Mỏ đá Dương xỉ, vì ở gần đó có một mỏ đá vôi, đã bị bỏ hoang từ lâu. Ba dòng suối nhỏ vui nhộn chảy qua đó từ những khe suối trong những tảng đá bên trên, vọt lên ở chỗ này và nhào xuống ở chỗ khác trong những thác nước reo vui ở những nơi các tảng đá cố chặn đứng con đường của chúng. Khu đất trống mọc đầy những lùm dương xỉ phủ kín toàn bộ những mảng đá vôi và ở đôi chỗ che kín những dòng suối. Phần còn lại của ngọn núi là rừng cây rậm rạp. Ở đây có những cây sồi to lớn và những loài cây xanh quanh năm tuyệt diệu có thân giống như những cây cột đầy rêu, và từ những cành cây rủ xuống những chùm dây thường xuân và tầm gửi; và những cây quả hồng, với mùi hương lan tỏa khắp mọi ngóc ngách của khu rừng – một thứ mùi thơm huyền ảo khiến quả tim vui sướng. Ở nhiều chỗ, những dây nho xạ và nho dại trải từ cây này sang cây khác, tạo thành những cái giàn luôn có đầy lũ bướm và những côn trùng vo ve. Thật là vui thú khi đắm mình vào những khoảng trống xanh um của khu rừng rậm rạp đó vào chiều muộn, và ngửi những mùi thơm tinh tế, tuyệt vời xông lên từ mặt đất khi ngày khép lại.
          Ngôi nhà của chúng tôi là một loại trại thô sơ, tọa lạc một cách xinh đẹp trên đình núi, giữa những cây sồi và thông. Những căn phòng nhỏ được bố trí ở mỗi phía của một cái sảnh trống dài. Quanh nhà là một hàng hiên rộng, nơi những cơn gió núi thổi qua, ngọt ngào với đủ loại hương rừng. Chúng tôi ở ngoài hiên trong hầu hết thời gian - ở đó chúng tôi làm việc, ăn và chơi đùa. Ở cửa sau có một cây óc chó trắng to lớn, quanh nó là những bậc thềm, và tôi đứng trước những cây cối này, sát đến độ tôi có thể chạm vào chúng và cảm thấy gió lay động những cành lá của chúng, hay những chiếc lá đang xoay tròn rơi xuống trong ngọn gió thu.
          Có nhiều khách tới viếng thăm Mỏ đá Dương xỉ. Vào chiều tối, bên cạnh bếp lửa trại, những người đàn ông chơi đánh bài và giết thì giờ bằng cách chuyện trò về những môn thể thao. Họ kể những câu chuyện về các chiến công tuyệt vời của mình với lũ chim, cá và thú bốn chân – họ đã bắn được bao nhiêu con vịt trời và gà tây, họ đã bắt được những con cá hồi “hung tợn” nào, và họ đã săn được những con cáo xảo quyệt nhất, đánh lừa những thú có túi thông minh nhất, và đuổi kịp con nai chạy nhanh nhất ra sao, cho tới khi tôi nghĩ chắc chắn là loài sư tử, cọp, gấu và số còn lại của muông thú chốn rừng hoang sẽ không thể nào đứng trước những tay thợ săn mưu mẹo này. “Mai đi săn nhé!” là câu hét chào buổi tối của họ khi cái vòng tròn vui vẻ của những người bạn tản ra để về ngủ tối. Những người đàn ông ngủ trong cái sảnh ở mé ngoài cửa của chúng tôi, và tôi có thể cảm thấy hơi thở sâu của lũ chó và những tay thợ săn khi họ nằm trên những cái giường tạm bợ của họ.
          Vào rạng đông, tôi bị đánh thức bởi mùi cà phê, tiếng sột soạt của những khẩu súng, và những bước chân nặng nề của những người đàn ông khi họ đi lại quanh quẩn, tự hứa với mình sẽ gặt hái được may mắn lớn nhất của mùa săn. Tôi còn có thể cảm thấy tiếng gõ móng của những con ngựa mà họ đã cởi tới từ thị trấn và đang cột cạnh những gốc cây, nơi chúng đứng suốt đêm, hí vang lừng, nôn nao muốn lên đường. Cuối cùng những người đàn ông lên ngựa, và trong lúc họ hát vang những bài ca cũ, đàn chiến mã phi xa dần với tiếng reo của dây cương và tiếng roi vụt, đàn chó săn chạy dẫn đầu, và đoàn thợ săn vô địch xa dần “với tiếng hò reo, thúc ngựa và suỵt chó sôi nổi!”
Sau đó một chút, chúng tôi chuẩn bị cho bữa nướng thịt ngoài trời. Một đống lửa được đốt lên trong một cái hố đào sâu xuống đất, những chiếc que lớn được đặt chéo ngang qua miệng hố, và thịt được xiên và trở trên ngọn lửa. Những người da đen ngồi xổm quanh đống lửa, xua lũ ruồi bằng những nhánh cây dài. Mùi thịt thơm ngon khiến tôi thấy đói từ lâu trước khi bàn ăn được dọn ra.
          Khi công việc chuẩn bị nhộn nhịp và phấn khích lên tới cao trào, đoàn thợ săn xuất hiện, đi thành từng nhóm hai hoặc ba người, những người đàn ông nóng nực và mệt nhoài, những con ngựa sủi đầy bọt mép, và lũ chó săn kiệt sức thở hổn hển và chán nản – và chả có một con mồi săn nào hết! Mỗi người đều tuyên bố rằng ông ta đã nhìn thấy ít nhất một con nai, và con vật đã tới rất gần; nhưng tuy đàn chó đã đuổi theo con mồi sát nút, tuy những khẩu súng đã hướng vào mục tiêu rất chuẩn, khi họ bóp cò, chẳng có con nai nào trong tầm mắt hết. Họ khá may mắn khi cậu trai nhỏ bảo cậu ta đã hầu như nhìn thấy một con thỏ - cậu ta thấy dấu vết của nó. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau đó hội thợ săn quên đi nỗi thất vọng, và chúng tôi ngồi xuống, không phải để chén thịt thú rừng săn được, mà là một bữa tiệc thịt bê và lợn nướng.
          Một mùa hè nọ ở Mỏ đá Dương xỉ tôi có một con ngựa nhỏ. Tôi gọi nó là Ngựa ô Xinh đẹp, vì tôi vừa mới đọc xong cuốn sách, và nó giống với chú ngựa cùng tên ở mọi khía cạnh, từ bộ lông đen mượt cho tới cái ngôi sao trắng ở trán. Tôi đã trải qua nhiều giờ hạnh phúc trên lưng nó. Thỉnh thoảng, khi hoàn toàn an toàn, cô giáo của tôi sẽ buông sợi dây cương hướng dẫn, và chú ngựa nhỏ thong thả bước hay dừng lại để gặm cỏ hay gặm lá của những cây cối mọc bên cạnh con đường mòn hẹp.
          Vào những buổi sáng khi tôi không quan tâm tới việc cởi ngựa, cô giáo và tôi sẽ đi dạo chơi trong rừng sau bữa điểm tâm, và tự cho phép mình lạc lối giữa những cây cối và những dây nho, và chẳng có con đường nào để đi theo trừ những lối mòn do lũ bò và ngựa tạo ra. Thường thường chúng tôi bắt gặp những chỗ rậm không thể vượt qua buộc chúng tôi phải đánh một cái vòng qua chúng. Chúng tôi luôn luôn quay về nhà với cả ôm nguyệt quế, cúc dại, dương xỉ, và những bông hoa đầm lầy rực rỡ chỉ mọc ở miền Nam
          Đôi khi tôi cùng đi với Mildred và những đứa em họ nhỏ của tôi để nhặt quả hồng. Tôi không ăn chúng; nhưng tôi yêu mùi thơm của chúng và thích săn tìm chúng trong những lớp lá và cỏ. Chúng tôi cũng đi nhặt quả hạch, và tôi giúp chúng mở những lớp vỏ quả có gai và đập vỡ lớp vỏ của những quả hạch và quả óc chó – những quả óc chó to, ngọt ngào!
          Ở chân núi có một đường thiết lộ, và lũ trẻ con quan sát những con tàu chạy vèo qua. Đôi khi một hòi còi kinh khủng giục chúng tôi ra chỗ những bậc thềm, và Mildred nói cho tôi biết trong niềm phấn khích rằng một con bò hay con ngựa đã đi lạc vào đường sắt. Cách khoảng một dặm có một cái giàn cầu bắt ngang qua một hẽm núi sâu. Rất khó đi qua đó, những mối nối cách nhau xa và hẹp đến độ người ta cảm thấy như thể đang đi trên những lưỡi dao. Tôi chưa bao giờ băng ngang qua nó cho tới một hôm nọ, Mildred, cô Sullivan và tôi bị lạc lối trong rừng, và sau suốt nhiều giờ lang thang chúng tôi vẫn không tìm thấy một lối mòn nào.
          Đột nhiên Mildred chỉ bàn tay nhỏ nhắn của nó và kêu lên: “Có một cái giàn cầu!” Chúng tôi thà chọn bất kỳ đường nào khác còn hơn con đường này; nhưng đã muộn và trời sắp tối, và cái giàn cầu là một con đường tắt về nhà. Tôi phải cảm nhận những thanh đường ray bằng ngón chân của mình; nhưng tôi không sợ, và đi rất tốt, cho tới khi đột ngột có một tiếng “phụt phụt” mơ hồ từ xa.
“Em nhìn thấy con tàu!” Mildred kêu lên, và một khoảnh khắc sau đó hẳn nó đã cán lên chúng tôi nếu chúng tôi không trèo xuống khỏi cái giàn trong lúc con tàu lướt qua trên đầu chúng tôi. Tôi cảm thấy hơi nóng của máy tàu trên mặt mình, và bụi khói hầu như khiến chúng tôi nghẹt thở, Khi con tàu lao qua, cái giàn cầu rung động và đu đưa cho tới khi tôi nghĩ có lẽ chúng tôi sẽ bị hất xuống cái vực bên dưới. Với sự khó khăn lớn nhất, chúng tôi tiếp tục con đường. Rất lâu sau khi trời tối chúng tôi mới về tới nhà và phát hiện ra cả ngôi nhà trống rỗng; cả nhà đã ra ngoài để tìm kiếm chúng tôi.

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2013

CÂU CHUYỆN ĐỜI TÔI - HELEN KELLER - PHẦN III (Chương VII-Chương IX)


Nguyễn Thành Nhân dịch








CHƯƠNG VII


Bước quan trọng kế tiếp trong việc giáo dục tôi là học đọc.
          Ngay khi tôi có thể đánh vần vài từ, cô giáo cho tôi một số tấm bìa cứng trên có những chữ in bằng mẫu tự nổi. Tôi nhanh chóng hiểu rằng mỗi từ in đại diện cho một đối tượng, một hành động hay một phẩm chất. Tôi có một cái khung, trong đó tôi có thể sắp xếp các từ thành những câu ngắn; nhưng trước khi đặt câu trong cái khung, tôi thường đặt câu với những vật thể. Tôi tìm những mảnh bìa thể hiện các từ, chẳng hạn “búp bê”, “thì” “trên”, “giường” và đặt mỗi cái tên lên đối tượng của nó; rồi tôi đặt con búp bên lên giường với những từ thì, trên, giường được xếp cạnh con búp bê, và do vậy tạo một câu từ những từ đó, đồng thời thực hiện ý tưởng của một câu với chính bản thân những sự vật.
          Một hôm, cô Sullivan kể với tôi, tôi đã ghim từ cô gái lên cái tạp dề và đứng trong tủ quần áo. Trên kệ tôi sắp xếp các từ: thì, trong, tủ quần áo. Không có gì khiến tôi vui thú bằng trò chơi này. Cô giáo và tôi chơi nó suốt nhiều giờ mỗi lần. Thông thường, mọi vật trong phòng đều được sắp xếp thành câu.
          Từ tấm bìa in chữ chỉ còn một bước nữa là tới sách in. Tôi lấy cuốn “Tập đọc cho Người bắt đầu học” và săn tìm những từ tôi đã biết; khi tìm thấy chúng, niềm vui của tôi giống như khi chơi trò trốn tìm. Tôi bắt đầu đọc như vậy đó. Thời gian tôi bắt đầu đọc nối liền với những câu chuyện mà sau đó tôi sẽ nói.
          Suốt một thời gian dài tôi không có những bài học chính thức. Thậm chí khi tôi học nghiêm chỉnh nhất cũng có vẻ như tôi đang chơi đùa chứ không phải làm việc. Cô Sullivan minh họa mọi thứ cô dạy cho tôi bằng một câu chuyện thú vị hay một bài thơ. Khi có bất cứ thứ gì khiến tôi thích thú và vui sướng cô sẽ thảo luận nó với tôi như thể chính cô là một cô gái nhỏ. Cái mà nhiều trẻ em nghĩ tới với sự khiếp hãi, như việc lần dò khó nhọc qua ngữ pháp, những bài toán cộng khó và những định nghĩa còn khó hơn, ngày nay là những ký ức quý báu đối với tôi.
          Tôi không thể lý giải được sự đồng cảm khác thường mà cô Sullivan dành cho những niềm vui thú và những khao khát của tôi. Có lẽ đó là kết quả của một quá trình gắn bó lâu dài với người mù. Ngoài ra cô còn có một khả năng mô tả tuyệt diệu. Cô nhanh chóng bỏ qua những chi tiết không thú vị, và không bao giờ làm khổ tôi bằng những câu hỏi để xem tôi có nhớ bài học hôm trước hay không. Cô giới thiệu những vấn đề chuyên môn khoa học dần dần từng chút một, làm cho mỗi chủ đề trở nên có thật đến độ tôi không thể không nhớ những gì cô đã dạy.
          Chúng tôi đọc và học ở ngoài trời, thích những cây cối ngập nắng hơn là trong nhà. Tất cả những bài học đầu đời của tôi đều chất chứa hơi thở của cây cối – mùi thơm dịu của những lá thông trộn lẫn với mùi nho dại. Ngồi dưới bóng mát của một cây uất kim hương dại, tôi học cách suy nghĩ rằng mọi thứ đều có một bài học và một gợi ý. “Sự đáng yêu của vạn vật dạy cho tôi tất cả các công dụng của chúng.” Thật sự, mọi thứ có thể kêu vo ve, vù vù, hay bung nở, đã góp phần cho việc học của tôi – những chú ếch ồn ào, những con châu chấu voi và dế được giữ trong tay tôi cho tới khi chúng quên đi sự bối rối của mình và cất lên giai điệu của chúng, những con gà con đầy lông tơ và những cây hoa dại, cây sơn thù du nở hoa, những cây hoa cúc tím trên đồng cỏ và những cây ăn quả đang phát triển. Tôi cảm thấy những quả cây bông đang nổ tung và sờ ngón tay vào những hạt có xơ mềm của chúng; tôi cảm thấy tiếng rì rào khe khẽ của ngọn gió lướt qua những thân ngô, tiếng sột soạt êm như lụa của những chiếc lá dài, và tiếng khịt mũi giận dữ của con ngựa pony của tôi khi chúng tôi bắt nó trong đồng cỏ và đưa mẩu thức ăn vào miệng nó – chao ôi! Tôi nhớ làm sao cái mùi cỏ ba lá hăng hăng trong hơi thở của nó!
          Thỉnh thoảng tôi thức dậy lúc bình minh và lẻn vào vườn trong lúc những giọt sương nặng còn nằm trên cỏ và những bông hoa. Ít có người biết niềm vui khi cảm nhận những bông hồng khẽ ép trong tay, hay chuyển động xinh đẹp của những bông loa kèn khi chúng đu đưa trong làn gió nhẹ. Đôi khi tôi bắt được một con côn trùng trong bông hoa mà tôi đang hái, và tôi cảm thấy tiếng động mơ hồ của một đôi cánh cọ vào nhau trong một cơ khiếp hãi đột ngột, khi con vật nhỏ xíu ý thức được một sức ép từ bên ngoài.
          Một nơi lui chốn ưa thích khác của tôi là vườn cây ăn quả, nơi quả cây chín vào đầu tháng Bảy. Những quả đào to phủ lông tơ sà xuống tay tôi, và khi những ngọn gió hân hoan thổi qua cây cối, những quả táo rụng xuống chân tôi. Hay niềm vui mà với nó tôi gom các thứ quả trong tấm tạp dề của tôi, áp mặt tôi vào lớp vỏ mịn của những quả táo vẫn còn ấm nắng, rồi tung tăng trở về nhà!
          Chuyển tản bộ ưa thích nhất của chúng tôi là tới Bến Keller’s, một bến đò làm bằng gỗ ghép cũ kỹ đổ nát trên sông Tennessee River, được những người lính dùng để đổ bộ hồi thời Nội chiến. Ở đó chúng tôi trải qua nhiều giờ hạnh phúc, chơi đùa với việc học địa lý. Tôi dựng những đập nước bằng sỏi, làm những hòn đảo và hồ nước, đào những lòng sông, tất cả chỉ để tìm vui, không hề nghĩ rằng tôi đang học một bài học. Tôi lắng nghe với sự ngạc nhiên ngày càng tăng những mô tả của cô Sullivan về cái thế giới hình tròn to lớn với những ngọn núi bùng cháy, những thành phố bị chôn vùi, những dòng sông băng di động, và nhiều thứ khác lạ lùng không kém. Cô làm những tấm bản đồ nổi bằng đất sét để tôi có thể cảm nhận những chóp núi và thung lũng, và lần dò những ngón tay theo dòng chảy ngoằn ngoèo của những dòng sông. Tôi cũng thích việc này; nhưng việc phân chia địa cầu thành những khu vực và hai cực khiến tâm trí tôi bối rối hoang mang, Những sợi dây minh họa và những nhánh cam thể hiện hai cực có vẻ thật đến độ thậm chí mãi tới ngày nay chỉ một lời nhắc đơn thuần tới khu vực ôn đới cũng gợi lên một chuỗi những vòng tròn bằng dây bện; và tôi tin rằng nếu có ai bắt đầu nhắc tới chuyện đó, anh ta có thể thuyết phục tôi rằng những con gấu trắng đang thật sự trèo lên cực Bắc.
Dường như số học là môn duy nhất mà tôi không thích. Ngay từ đầu tôi đã không quan tâm tới môn khoa học về những con số. Cô Sullivan cố dạy tôi đếm bằng những chuỗi hạt cườm xếp thành nhóm, và bằng cách sắp xếp những cái ống hút bằng giấy tôi học cách cộng và trừ. Khi đã hoàn thành việc này, lương tâm tôi yên ổn suốt cả ngày, và tôi nhanh chóng ra ngoài để tìm những bạn cùng chơi.
          Tôi đã học động vật và thực vật học cũng theo cách thức nhàn nhã này.
          Có lần một quý ông mà tôi đã quên tên gửi cho tôi một bộ sưu tập các vật hóa thạch – những cái vỏ động vật nhuyễn thể tí hon xinh đẹp, và những mảnh sa thạch trên in vết móng của các loài chim, và một tấm phù điêu chạm hình cây dương xỉ đáng yêu. Với tôi, những vật này là chìa khóa để mở những kho báu của thế giới thời tiền sử. Với những ngón tay run rẩy tôi lắng nghe những mô tả của cô Sullivan về những con dã thú kinh khủng, với những cái tên hoang dã, không thể phát âm, mà trước kia từng lặn lội ngang dọc những khu rừng tiền sử, giật đứt những nhánh của các loài cây khổng lồ để ăn, và chết trong những đầm lầy tối tăm của một thời đại chưa được biết tới. Suốt một thời gian dài những sinh vật lạ lùng này ám ảnh những giấc mơ của tôi, và thời kỳ ảm đạm này hình thành một cảnh nền buồn thảm cho Hiện tại tươi vui, tràn ngập ánh nắng và hoa hồng và vang vang tiếng gõ vó khẽ khàng của con ngựa pony nhỏ của tôi.
          Một lần khác, tôi được cho một cái vỏ sò xinh đẹp, và với sự ngạc nhiên và niềm vui thơ trẻ, tôi hiểu được một động vật nhuyễn thể nhỏ tí đã xây dựng cái vòng xoắn bóng láng cho nơi ngụ cư của nó như thế nào, và trong những đêm yên lặng, ở nơi không có những làn gió nhẹ khuấy động những làn sóng, con ốc anh vũ lướt đi ra sao trên mặt nước xanh thẳm của Ấn Độ Dương trong “con tàu bằng ngọc trai” của nó. Sau khi tôi đã học được rất nhiều điều thú vị về cuộc sống và những thói quen của những đứa con của biển cả - những sinh vật ruột khoang nhỏ xíu đã xây dựng những hòn đảo san hô xinh đẹp của Thái Bình Dương giữa sóng dồi gió dập như thế nào, và nhưng con trùng lỗ đã tạo những ngọn đồi phấn của nhiều vùng đất ra sao – cô giáo của tôi đọc cho tôi nghe bài thơ “Ốc anh vũ” và chỉ cho tôi biết quá trình tạo vỏ của những con động vật nhuyễn thể là biểu tượng của sự phát triển tâm trí. Cũng giống như lớp vỏ được tạo nên một cách diệu kỳ của con ốc anh vũ thay đổi chất liệu nó hấp thu từ nước và biến nó thành một phần của loài sinh vật này, những mẩu kiến thức nhỏ mà một người thu thập sẽ thực hiện một thay đổi tương tự và trở thành những hạt ngọc trai của tư tưởng.
          Một lần nữa, chính sự tăng trưởng của một loài thực vật cung cấp văn bản cho một bài học. Chúng tôi mua một cây hoa huệ và đặt nó lên một bệ cửa sổ tràn ánh nắng. Chẳng bao lâu sau, những nụ non xanh mượt đã cho thấy dấu hiệu của sự hé mở. Những chiếc lá mỏng manh như những ngón tay ở phía ngoài chậm rãi, miễn cưỡng mở ra, tôi nghĩ, để hé lộ vẻ đáng yêu mà chúng che giấu; tuy nhiên, khi đã thực hiện được bước khởi đầu, quá trình hé mở tiếp tục rất nhanh, nhưng có trật tự và hệ thống. Luôn luôn có một nụ hoa to hơn và đẹp hơn số còn lại; cái nụ này đẩy lớp vỏ che bên ngoài của nó với vẻ phô trương tráng lệ hơn hẳn, như thể vẻ đẹp trong những lớp áo mềm như lụa biết rằng nàng là nữ hoàng hoa huệ bằng trực giác đúng đắn, trong lúc những chị em rụt rè hơn của nàng cởi bỏ lớp áo choàng xanh của họ một cách thẹn thùng, cho tới khi cả cây hoa trở thành một nhánh đong đưa tràn hương thơm và vẻ đẹp.
          Lần nọ tôi có mười một con nòng nọc đựng trong một bể nước hình tròn đặt trong một cửa sổ đầy cây cỏ. Tôi nhớ sự nôn nao khi tiến hành những khám phá về chúng. Thật là vui thú khi nhúng bàn tay vào cái bể con và cảm thấy những con nòng nọc đang nô đùa xung quanh, và để cho chúng lượn qua lại giữa những ngón tay. Một hôm nọ, một chàng nòng nọc nhiều tham vọng hơn phóng vọt ra ngoài rìa bể nước và rơi xuống sàn nhà, nơi mà tôi tìm thấy nó, với dáng vẻ hầu như sắp chết. Dấu hiệu duy nhất của sự sống là cái đuôi của nó khẽ vung vẩy. Nhưng chẳng bao lâu sau khi quay lại môi trường của nó, nó lặn vù xuống đáy, bơi lòng vòng hăng hái và vui vẻ. Nó đã thực hiện cú nhảy, nó đã nhìn thấy thế giới rộng lớn, và hài lòng sống trong căn nhà thủy tinh xinh đẹp của mình dưới bóng một cây hoa vân anh lớn cho tới khi nó đạt được phẩm cách của một chàng ếch nhỏ. Sau đó nó chuyển tới sống ở cái ao đầy cây lá ở đầu kia khu vườn, nơi nó khiến cho những đêm mùa hạ rộn ràng tiếng nhạc với bản tình ca ngộ nghĩnh của nó.
          Tôi học từ chính bản thân cuộc sống như vậy đó. Hồi đầu tôi chỉ là một khối nhỏ những khả năng. Chính cô giáo của tôi là người đã mở ra và phát triển chúng. Khi cô tới, mọi thứ quanh tôi tràn hơi thở của tình yêu, niềm vui và đầy ý nghĩa. Từ đó trở đi, cô chưa bao giờ bỏ lỡ một cơ hội nào để chỉ ra vẻ đẹp nằm trong mọi sự vật, cũng chưa bao giờ ngưng cố gắng trong tư tưởng, hành động và là tấm gương mẫu mực để làm cho cuộc đời tôi trở nên ngọt ngào và hữu ích.
          Chính thiên tài của cô tôi, sự cảm thông nhanh chóng, sự tế nhị  tràn đầy tình thương của cô đã khiến cho những năm học đầu tiên của tôi trở nên đẹp đẽ. Đó là vì cô đã nắm bắt được khoảnh khắc đúng để truyền đạt kiến thức, khiến nó trở nên rất thú vị và dễ chấp nhận đối với tôi.  Cô nhận ra rằng tâm trí của một đứa bé giống như một con suối cạn sẽ gợn sóng lăn tăn và nhảy múa vui vẻ trên nền đá của việc học hành của nó và lung linh phản chiếu nơi này một bông hoa, nơi kia một bụi cỏ, xa hơn một vầng mây nhẹ xốp; và cô cố gắng dẫn dắt tâm trí tôi trên con đường của nó, biết rằng giống như một dòng suối nhỏ sẽ được nuôi dưỡng bởi những khe suối trên núi và những mạch nước ngầm, cho tới khi nó mở rộng ra thành một dòng sông sâu, có khả năng phản chiếu trên bề mặt tỉnh lặng của nó những ngọn đồi cát gợn, những cái bóng tỏa sáng của cây cối và bầu trời xanh thẳm, cũng như gương mặt ngọt ngào của một bông hoa bé nhỏ.
          Bất kỳ người thầy nào cũng có thể đưa một đứa bé tới trường, nhưng không phải người thầy nào cũng có thể làm cho nó hiểu biết. Nó sẽ không vui vẻ làm việc cho tới khi nó cảm thấy tự do chính là nó, dù là nó bận rộn hay nghỉ ngơi; nó phải cảm thấy niềm phấn khích của thắng lợi và cảm giác trái tim chìm xuống đầy thất vọng trước khi nó sẵn sàng đón nhận những công việc không vừa ý nó và quyết tâm nhảy múa tung tăng một cách quả cảm qua công việc đọc những cuốn sách giáo khoa hàng ngày buồn tẻ.
          Cô giáo gần gũi với tôi đến nỗi tôi sợ nghĩ tới việc phải cách xa cô. Tôi không bao giờ có thể nói được niềm vui thú của tôi đối với tất cả những gì xinh đẹp có bao nhiêu phần mang tính bẩm sinh, và bao nhiêu phần là do ảnh hưởng của cô. Tôi cảm thấy con người của cô không thể tách rời khỏi con người của tôi, và những bước chân của cuộc đời tôi nằm trong những bước chân của cô. Tất cả những gì tốt đẹp trong tôi đều thuộc về cô – không một tài năng, hay một khát vọng hay một niềm vui nào trong tôi mà không được đánh thức bởi cái chạm đầy tình thương mến của cô.

CHAPTER VIII


Giáng sinh đầu tiên sau khi cô Sullivan tới Tuscumbia là một sự kiện lớn. Mọi người trong nhà chuẩn bị cho tôi những sự ngạc nhiên, nhưng điều làm tôi hài lòng nhất là cô Sullivan và tôi cũng chuẩn bị cho mọi người khác những sự ngạc nhiên. Bí mật vây quanh những món quà là niềm vui sướng và thích thú nhất của tôi. Các bạn của tôi làm tất cả những gì có thể để kích thích óc tò mò của tôi với những gợi ý và những câu chỉ viết nửa phần mà họ vờ như chỉ tiết lộ vào đúng lúc. Cô Sullivan và tôi tiếp tục trò chơi suy đoán và trò này dạy cho tôi cách sử dụng ngôn ngữ còn nhiều hơn bất kỳ bài học nào trước đó. Mỗi tối, ngồi quanh một đống lửa bập bùng, chúng tôi chơi trò suy đoán, vốn ngày càng phấn khích hơn khi Giáng sinh sắp tới gần.
          Đêm Noel, học sinh ở Tuscumbia chuẩn bị một cây thông và mời tôi tới dự. Ở giữa lớp học là một cây thông đẹp đẽ chói sáng và lung linh dưới ánh sáng dịu, những cành thông treo đầy các thứ quả lạ lùng, tuyệt diệu. Đó là một khoảnh khắc hạnh phúc cực kỳ. Tôi khiêu vũ và nhảy lò cò quanh cây thông trong trạng thái xuất thần. Khi biết rằng mỗi đứa trẻ sẽ nhận một món quà, tôi rất vui sướng, và những người tốt bụng đã chuẩn bị cây thông cho phép tôi trao quà cho lũ trẻ. Trong niềm vui khi thực hiện việc này, tôi không dừng lại để nhìn vào những món quà của chính mình; nhưng khi tôi đã sẵn sàng cho chúng, sự nôn nóng của tôi đối với lễ Giáng sinh thật sự bắt đầu hầu như vượt khỏi vòng kiểm soát. Tôi biết những món quà mà tôi đã có không phải là những món mà bạn bè đã đưa ra những lời gợi ý rất trêu ngươi, và cô giáo tôi bảo rằng những món quà tôi sắp có thậm chí còn đẹp hơn những món này. Tuy nhiên, cô thuyết phục tôi tự hài lòng với những món quà lấy từ cây thông và chừa lại số quà kia cho tới sáng.
          Đêm đó, sau khi treo đôi vớ, tôi nằm thao thức hồi lâu, giả vờ đã ngủ và luôn cảnh giác để xem Santa Claus sẽ làm gì khi ông tới. Cuối cùng tôi ngủ thiếp đi với một con búp bê mới và một con gấu bông trắng trong vòng tay. Sáng hôm sau, tôi là người đánh thức cả nhà với lời chúc “Giáng sinh vui vẻ!” đầu tiên. Tôi tìm thấy những sự ngạc nhiên, không chỉ trong đôi vớ, mà cả trên bàn, trên tất cả những cái ghế, ở chỗ cánh cửa, trên bệ cửa sổ; thật sự, tôi hầu như không thể bước đi mà không trượt chân trên một món quà Giáng sinh gói bằng giấy lụa. Nhưng khi cô giáo tặng tôi một con chim hoàng yến, chiếc cốc hạnh phúc của tôi quả thật đã chảy tràn trề.
          Tim bé nhỏ thuần tính đến độ nó thường nhảy nhót trên ngón tay tôi và ăn những qảu anh đào tẩm mật từ bàn tay tôi. Cô Sullivan dạy tôi cách chăm sóc con vật cưng mới. Mỗi sáng, sau giờ điểm tâm, tôi chuẩn bị cho nó tắm, dọn dẹp sửa sang cái lồng, đổ đầy các cốc đựng ngủ cốc và nước ngọt lấy từ ngôi nhà che giếng, và treo một nhánh kê thảo lên cái cầu đu của nó.
          Một sớm nọ, tôi để cái lồng trên bệ cửa sổ trong lúc đi lấy nước cho nó tắm. Khi quay lại, tôi cảm thấy một con mèo chạy vụt qua tôi khi tôi mở cửa. Thoạt tiên tôi không nhận ra chuyện gì đã xảy ra; nhưng khi tôi đưa tay vào lồng và đôi cánh xinh đẹp của Tim không chạm vào tay tôi và những cái vuốt nhỏ của nó không bám lấy ngón tay tôi, tôi biết rằng tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy chàng ca sĩ tí hon xinh xắn của mình nữa.

CHƯƠNG IX


          Sự kiện trọng đại kế tiếp trong đời tôi là chuyến viếng thăm Boston vào tháng Năm, 1888. Như thể chỉ mới hôm qua, tôi nhớ những công việc chuẩn bị, chuyến khởi hành với cô giáo và mẹ tôi, cuộc hành trình, và cuối cùng là việc tới đích ở Boston. Cuộc hành trình này thật khác biệt so với chuyến đi Baltimore của tôi hai năm trước! Tôi không còn là một con bé bồn chồn, dễ bị kích động, đòi hỏi sự chú ý của mọi người trên tàu để tìm thú tiêu khiển. Tôi ngồi lặng lẽ bên cạnh cô Sullivan, chú ý với vẻ nôn nao những điều cô kể về các thứ cô nhìn thấy ở bên ngoài cửa sổ: dòng sông Tennessee xinh đẹp, những cánh đồng trồng bông vải rộng lớn, những ngọn đồi và những khu rừng, và những đám đông người da đen đang cười nói ở các nhà ga, vẫy tay chào những người trên tàu và đưa những viên kẹo và những cục bỏng ngô qua cửa sổ. Trên ghế đối diện với tôi là con búp bê lớn bằng giẻ của tôi, Nancy, mặc một chiếc váy bông kẻ mới và đội một cái mũ xếp nếp, đang nhìn tôi từ đôi mắt hạt cườm. Thỉnh thoảng, khi không quá tập trung vào những mô tả của cô Sullivan, tôi nhớ tới sự hiện hữu của Nance và bế nó lên, nhưng nói chung tôi tự xoa dịu lương tâm bằng cách tin rằng nó đang nằm ngủ.
          Vì tôi sẽ không có dịp nói tới Nancy lần nữa, tôi muốn kể lại đây một trải nghiệm buồn của nó sau khi chúng tôi tới Boston không lâu. Nó phủ đầy đất bẩn – những thứ còn lại của những cái bánh bằng bùn mà tôi buộc nó phải ăn, dù nó không bao giờ cho thấy một sự thích thú đặc biệt nào đối với chúng. Chị thợ giặt ở Học viện Perkins bí mật mang nó ra ngoài để tắm cho nó. Điều đó là quá nhiều đối với Nancy tội nghiệp. Tiếp theo đó, khi tôi nhìn thấy nó, nó chỉ còn là một đống vải không hình thù, mà hẳn tôi sẽ không bao giờ nhận ra nếu không có đôi mắt hạt cườm nhìn tôi đầy oán trách.
          Rốt cuộc, khi con tàu lăn bánh vào nhà ga Boston, như thể một câu chuyện cổ tích đã biến thành hiện thực. “Ngày xửa ngày xưa” chính là hiện tại; “đất nước xa xôi” chính là đây.
          Chúng tôi tới Học viện Perkins dành cho người mù vừa đúng lúc tôi bắt đầu kết bạn với những đứa bé mù. Tôi vui sướng không thể tả khi thấy rằng chúng biết đọc bảng mẫu tự bằng tay. Thật là hân hoan khi được trò chuyện với những đứa trẻ khác bằng ngôn ngữ của chính chúng tôi! Cho tới lúc đó, tôi là một người ngoại quốc nói chuyện thông qua một người thông dịch. Trong ngôi trường nơi đã dạy dỗ Laura Bridgman, tôi là đang người ở trên đất nước của mình. Tôi mất một thời gian để thấu hiểu thực tế rằng những người bạn mới của tôi đều khiếm thị. Tôi biết tôi không thể nhìn thấy; nhưng dường như không có khả năng rằng tất cả những đứa trẻ nôn nao, đầy tình thương mến đang quây quần quanh tôi và nồng nhiệt tham gia những trò vui nhộn của tôi cũng là những người mù. Tôi nhớ sự ngạc nhiên và đau đớn tôi cảm thấy khi nhận ra rằng chúng đặt tay của chúng lên tay tôi khi tôi trò chuyện với chúng và rằng chúng đọc sách với những ngón tay. Dù tôi đã nghe nói về việc này trước đó, và dù tôi hiểu những khiếm khuyết của chính mình, nhưng tôi đã mơ hồ tưởng rằng vì chúng có thể nghe, chúng phải có một loại “thị lực thứ hai”, và tôi đã không chuẩn bị để phát hiện ra đứa trẻ này hay đứa trẻ khác cũng thiếu hụt món quà quý giá đó như tôi. Nhưng chúng tỏ ra hạnh phúc và hài lòng đến nỗi tôi đánh mất mọi cảm giác đau đớn trong niềm vui bè bạn.
          Một ngày trải qua với đám trẻ mù khiến tôi cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong môi trường mới, và tôi nôn nóng nhìn từ trải nghiệm thứ vị này sang trải nghiệm thú vị khác trong lúc những ngày trôi qua vùn vụt. Tôi không thể hoàn toàn tự thuyết phục mình rằng còn nhiều phần thế giới khác nữa, vì tôi xem Boston là nơi bắt đầu và nơi kết thúc của sự sáng tạo.
          Trong lúc ở Boston, chúng tôi đến tham quan đồi Bunker, và ở đó tôi đã học bài học lịch sử đầu tiên. Câu chuyện về những con người quả cảm đã chiến đấu trên mảnh đất nơi chúng tôi đứng khiến tôi vô cùng phấn khích. Tôi trèo lên đài tưởng niệm, đếm những bậc thềm, và tự hỏi khi tôi đi lên càng lúc càng cao rằng không biết những người lính có trèo lên những bậc thang vĩ đại này để bắn vào quân thù trên mặt đất bên dưới hay chăng.
          Hôm sau chúng tôi tới Plymouth bằng đường thủy. Đây là chuyến du hành trên đại dương và trên một chiếc tàu hơi nước đầu tiên của tôi. Nó thật đầy tràn sức sống và chuyển động! Nhưng tiếng ầm ầm của động cơ khiến tôi nghĩ trời đang có sấm sét, và tôi bắt đầu khóc, vì tôi sợ rằng nếu trời mưa chúng tôi sẽ không thể ngồi ăn ngoài trời. Tôi nghĩ tôi chú ý tới tảng đá lớn nơi Những người hành hương[1] đã lên bờ hơn bất kỳ thứ gì khác ở Plymouth. Tôi có thể sờ vào nó, và có lẽ điều đó khiến việc Những người hành hương tới đây và những lao tâm khổ tứ và những việc làm vĩ đại của họ có vẻ có thật hơn đối với tôi. Tôi thường nắm trong tay một mô hình nhỏ của Tảng đá Plymouth mà một quý ông tốt bụng đã cho tôi ở viện bảo tàng Pilgrim Hall, và tôi đã đưa ngón tay dò theo những đường cong, vết nứt ở giữa và các con số “1620” chạm nổi của nó, và ôn đi ôn lại trong đầu tất cả những gì tôi biết về câu chuyện kỳ diệu của Những người hành hương.
          Trí tưởng tượng trẻ con của tôi bừng lên chói lọi với sự nghiệp tuyệt vời của họ! Tôi lý tưởng hóa họ như là những con người quả cảm nhất và hào phóng nhất từng tìm kiếm một quê hương trên một miền đất lạ. Tôi nghĩ họ khát khao sự tự do cho đồng bào họ cũng như cho chính họ. Nhiều năm sau, tôi khá ngạc nhiên và thất vọng khi biết những hành động ngược đãi của họ, những hành động khiến chúng ta nhoi nhói niềm hổ thẹn, thậm chí ngay trong lúc chúng ta tôn vinh sự can đảm và nguồn sức mạng đã đem đến cho chúng ta “Đất nước đẹp tươi” này.
Trong số nhiều người mà tôi đã kết bạn ở Boston có ông  William Endicott và cô con gái của ông. Sự tốt bụng của họ đối với tôi là hạt mầm mà từ đó nhiều hồi ức thú vị đã đâm chồi. Một hôm chúng tôi tới thăm ngôi nhà xinh đẹp của họ ở Trang trại Beverly.  Tôi nhớ với niềm vui sướng tôi đã đi qua vườn hồng của họ ra sao, lũ chó của họ, con Leo to lớn và con Fritz bé nhỏ lông xoăn với đôi tai dài, đã ra chào đón chúng tôi thế nào, và Nimrod, con ngựa nhanh nhất trong đàn, đã thúc mũi vào đôi bàn tay của tôi để được vỗ nhẹ một cái và được cho một cục đường ra sao. Tôi cũng nhớ bãi biển, nơi lần đầu tiên tôi chơi đùa trên cát. Đó là thứ cát cứng mịn, rất khác với thứ cát rời rạc, sắc bén, lẫn lộn với tảo bẹ và vỏ sò ở Brewster. Ông Endicott kể cho tôi nghe về những con tàu lớn xuất phát từ Boston để tới châu Âu. Sau đó tôi còn gặp ông nhiều lần, và ông luôn là một người bạn tốt của tôi; thật sự, tôi đã nghĩ tới ông khi tôi gọi Boston là “Thành phố của Những quả tim nhân hậu.”



[1] The Pilgrims: Những tín đồ Thanh giáo Anh đã di cư sang Mỹ năm 1620 và thành lập khu kiều dân Plymouth.

Thứ Hai, 25 tháng 11, 2013

Câu chuyện đời tôi - Helen Keller- Phần II (chương IV-VI)







CHƯƠNG IV


Ngày quan trọng nhất trong đời mà tôi nhớ là ngày cô giáo của tôi, Anne Mansfield Sullivan, đến với tôi. Tôi vô cùng kinh ngạc khi xét tới sự tương phản không thể đo lường giữa hai cuộc sống mà nó nối kết. Đó là ngày 3/3/1887, ba tháng trước khi tôi lên bảy tuổi.
Vào buổi chiều của cái ngày đầy sự kiện đó, tôi đứng trên thềm cổng, lặng câm, mong ngóng. Tôi mơ hồ phỏng đoán từ những dấu hiệu của mẹ tôi và từ sự đi lại lăng xăng của cả nhà rằng có gì đó khác thường sắp xảy ra, vì thế tôi ra cửa và chờ đợi trên những bậc thềm. Ánh nắng chiều xâm nhập vào khối lá khúc khắc che phủ vòm cổng, và rơi xuống gương mặt ngẩng lên của tôi. Những ngón tay của tôi bất giác nấn ná trên những chiếc lá và những nụ hoa vừa hé nở để đón chào mùa xuân ngọt ngào ở miền Nam. Tôi không biết tương lai mang tới điều tuyệt diệu hay sự ngạc nhiên nào cho tôi, Giận dữ và cay đắng đã giày vò tôi liên tục nhiều tuần và một sự suy nhược trầm trọng đã tiếp bước cho cuộc đấu tranh sôi nổi này.
Bạn có bao giờ ở trên biển trong một màn sương mù dày đặc, khi dường như thề một bóng tối màu trắng toát gần như có thể sờ thấy nuốt lấy bạn, và con tàu lớn, căng thẳng và lo lắng, dò tìm đường tới bờ biển với dây dọi và dây dò độ sâu, và bạn chờ đợi với quả tim đập dồn dập một điều gì đó sắp xảy ra? Tôi cũng giống như con tàu đó trước lúc việc học hành của tôi bắt đầu, chỉ có điều tôi không có la bàn và dây dò độ sâu, và không cách gì biết được bến cảng gần tới mức nào. ‘Ánh sáng! Cho tôi ánh sáng!” là tiếng gào thét không lời của linh hồn tôi, và ánh sáng của tình yêu soi sáng tôi vào chính giờ khắc ấy.
Tôi cảm nhận có những bước chân tới gần. Tôi giơ tay ra vì cho đó là mẹ tôi. Ai đó nắm lấy nó, và tôi bị nhấc bổng lên, bị giữ chặt trong vòng tay của cô ấy, người đã tới để hé lộ cho tôi mọi thứ, và hơn tất cả những điều khác, để thương yêu tôi.
Buổi sáng hôm sau ngày cô giáo tôi tới, cô dắt tôi vào phòng cô và đưa cho tôi một con búp bê. Những đứa trẻ mù ở Học viện Perkins đã gửi nó tới và Laura Bridgman đã mặc quần áo cho nó; nhưng mãi sau này tôi mới biết điều đó. Khi tôi đã chơi đùa với nó được một lúc, cô Sullivan chậm rãi viết lên bàn tay tôi từ “d-o-l-l” (búp bê). Tôi chú ý tới trò chơi ngón tay này ngay tắp lự và cố bắt chước theo. Rốt cuộc, khi tôi thành công trong việc viết lại đúng những mẫu tự, mặt tôi đỏ bừng với niềm vui và tự hào trẻ con. Tôi chạy xuống thang, tới chỗ mẹ tôi và giơ tay ra, viết những mẫu tự của từ doll. Tôi không biết là tôi đang ráp vần một từ hay thậm chí rằng những từ tồn tại; tôi chỉ đơn giản ngoáy những ngón tay theo kiểu bắt chước giống như loài khỉ. Trong những ngày sau đó, tôi học ráp vần theo cách thức thiếu hiểu biết này khá nhiều từ, trong đó có từ kim gút, mũcốc và một vài động từ như ngồi, đứngđi. Nhưng cô giáo của tôi phải mất nhiều tuần nữa trước khi tôi hiểu rằng mọi sự vật đều có một cái tên.
Một hôm, trong lúc tôi đang chơi đùa với con búp bê mới, cô Sullivan đặt con búp bê lớn làm bằng giẻ của tôi vào lòng tôi, viết vần “d-o-l-l” và cố làm cho tôi hiểu rằng từ “d-o-l-l” đó áp dụng cho cả hai con búp bê. Trước đó trong ngày, chúng tôi đã có một cuộc tranh cãi với các từ “m-u-g” (bùn) và “w-a-t-e-r” (nước). Cô Sullivan đã cố nhấn mạnh với tôi rằng “b-ù-n” là bùn và “n-ư-ớ-c” là nước, nhưng tôi vẫn cứ mãi lẫn lộn giữa hai từ đó. Thất vọng, cô gác lại đề tài đó trong một thời gian, chỉ nhắc lại nó khi có cơ hội đầu tiên. Tôi trở nên mất kiên nhẫn với những nỗ lực lặp đi lặp lại của cô, và, tóm lấy con búp bê mới, tôi quật mạnh nó xuống sàn. Tôi rất khoái chí khi cảm nhận được những mảnh của con búp bê vỡ dưới chân tôi. Sau cơn bộc phát cảm xúc đó, tôi không buồn cũng không ân hận. Tôi đã yêu mến con búp bê đó. Trong thế giới tối tăm, thinh lặng mà tôi sống không có tình cảm mạnh mẽ của sự dịu dàng. Tôi cảm thấy cô giáo của tôi quét những mảnh vỡ sang một phía lò sưởi, và tôi có một cảm giác mãn nguyện rằng nguyên do của sự bực dọc của tôi đã được dời đi chỗ khác. Cô mang tới cho tôi cái mũ, và tôi biết tôi sẽ ra ngoài dưới ánh mặt trời ấm áp. Ý nghĩ này, nếu một cảm xúc vô ngôn có thể được gọi là một ý nghĩ, khiến tôi nhảy cẩng lên vì vui sướng.

Ảnh: Deane, 1887
HELEN KELLER NĂM BẢY TUỔI


          Chúng tôi đi theo con đường tới cái nhà che giếng, bị hấp dẫn bởi hương thơm của lùm khúc khắc mọc trùm lên ngôi nhà. Có ai đó đang kéo nước và cô giáo của tôi đặt tay tôi dưới cái ống máng. Khi dòng nước mát trào lên một bàn tay, cô viết vào bàn tay kia từ nước, đầu tiên chậm rãi, rồi nhanh hơn. Tôi đứng yên, toàn bộ sự chú ý gắn vào những cử động ngón tay của cô. Đột nhiên tôi cảm thấy một ý thức mù mịt như sương về một điều đã bị lãng quên – một chấn động của ý nghĩ quay trở lại; và theo cách nào đó, bí mật của ngôn ngữ đã hé lộ với tôi. Lúc đó tôi biết rằng “n-ư-ớ-c” có nghĩa là thứ gì đó mát rượi tuyệt vời đang trút xuống bàn tay tôi. Cái từ sống động đó đã đánh thức linh hồn tôi, trao cho nó ánh sáng, hy vọng, niềm vui, đã giải phóng nó! Vẫn còn có những rào chắn, điều đó đúng, nhưng là những rào chắn sẽ bị quét đi vào đúng lúc.[1]
          Tôi rời khỏi ngôi nhà che giếng, nôn nao muốn học. Mọi thứ đều có một cái tên, và mỗi cái tên sinh ra một ý tưởng mới. Khi chúng tôi quay về nhà, mỗi đối tượng tôi chạm vào dường như run rẩy với sự sống. Đó là vì tôi nhìn thấy mọi vật với một thị giác mới, lạ lùng đã đến với tôi. Khi bước vào cửa, tôi nhớ tới con búp bê bị vỡ. Tôi lần mò tới chỗ lò sưởi và nhặt những mảnh vỡ lên. Tôi cố gắng gắn chúng lại một cách vô ích. Rồi đôi mắt tôi rưng lệ; vì tôi nhận ra mình đã làm gì, và lần đầu tiên tôi cảm thấy ăn năn và buồn bã.
Hôm đó tôi đã học được khá nhiều từ mới. Tôi không nhớ hết tất cả những từ đó là gì; nhưng tôi biết trong số đó có từ mẹ, cha, em gái, cô giáo – những từ khiến thế giới bừng nở như một đóa hoa đối với tôi, “như chiếc gậy của Aaron[2], với những bông hoa”. Hẳn là khó tìm được đứa trẻ nào hạnh phúc hơn tôi khi tôi nằm trong túp lều nhỏ của mình vào cuối một ngày đầy sự kiện và tận hưởng những niềm vui nó đã mang tới cho tôi, và lần đầu tiên khao khát một ngày mới sẽ đến.


CHƯƠNG V

         


       Tôi nhớ lại nhiều sự kiện trong mùa hè năm 1887 tiếp theo sự tỉnh thức đột ngột của tâm hồn tôi. Tôi không làm việc gì khác ngoài việc khám phá đôi bàn tay của mình và học tên của mọi đồ vật tôi chạm phải; và càng sờ tới nhiều thứ, học hỏi tên gọi và công dụng của chúng, cảm giác về mối quan hệ giữa tôi và phần còn lại của thế giới càng thêm phần vui thích và tự tin.
          Khi mùa hoa cúc và hoàng mao lương tới, cô Sullivan nắm tay dắt tôi băng qua những cánh đồng, nơi những người đàn ông đang chuẩn bị đất để gieo hạt, tới bờ sông Tennessee, và tại đó, ngồi trên lớp cỏ ấm áp, tôi đã học được những bài học đầu tiên về lòng từ ái của thiên nhiên. Tôi học để biết mặt trời và mưa đã giúp những cây cối ưa nhìn và cung cấp hoa trái ngọt ngào cho những bữa ăn đâm chồi nẩy lộc ra sao; lũ chim làm tổ, sinh sống và phát triển lan tràn từ vùng này sang vùng khác thế nào; loài sóc, nai, sư tử và mọi sinh vật khác làm thế nào để tìm kiếm thức ăn và nơi trú ẩn. Khi kiến thức về vạn vật của tôi tăng lên, tôi ngày càng cảm thấy vui thích với thế giới mình đang sống. Khá lâu trước khi tôi học cách làm toán cộng hay mô tả hình dáng địa cầu, cô Sullivan đã dạy tôi cách tìm ra vẻ đẹp trong những cánh rừng thơm ngan ngát, trong mỗi lá cỏ, và trong những nét lồi chỗ lõm trên bàn tay của bé gái em tôi. Cô kết nối những ý tưởng đầu tiên của tôi với thiên nhiên, và khiến tôi cảm thấy “chim chóc, hoa cỏ và tôi là những người bạn ngang hàng đầy hạnh phúc.”

Nhưng cũng vào khoảng thời gian này tôi đã có một trải nghiệm dạy cho tôi biết rằng không phải lúc nào thiên nhiên cũng tốt bụng. Một hôm cô giáo và tôi đang trở về nhà sau một cuộc dạo chơi rong ruổi dài. Buổi sáng rất đẹp, nhưng trời càng lúc càng ấm lên và oi bức khi cuối cùng chúng tôi quay mặt hướng về nhà. Chúng tôi dừng lại giải lao hai ba lần dưới một táng cây ven đường. Chặng nghỉ cuối của chúng tôi là dưới một cây anh đào dại cách nhà không xa lắm. Bóng râm thật dễ chịu, và cây anh đào dễ trèo đến độ với sự trợ giúp của cô giáo tôi có thể trườn lên một chỗ ngồi giữa những cành cây. Ở trên cây mát mẻ đến nỗi cô Sullivan đề nghị chúng tôi ngồi ăn bữa trưa ở đó. Tôi hứa sẽ ngồi yên trong lúc cô về nhà để lấy thức ăn.
          Đột ngột một thay đổi lướt qua cây anh đào. Toàn bộ hơi ấm của mặt trời rời khỏi bầu không khí. Tôi biết bầu trời đang tối sầm, vì mọi sức nóng, với tôi có nghĩa là ánh sáng, đã tắt lịm trong bầu khí quyển. Một mùi lạ lùng xông lên từ mặt đất. Tôi biết nó, nó là cái mùi luôn luôn tới trước một trận mưa giông, và một nỗi sợ hãi không tên bóp nghẹt tim tôi. Tôi cảm thấy cô đơn cực độ, bị cắt rời khỏi những bạn bè và mặt đất vững vàng. Sự mênh mông và điều không biết bao trùm lên tôi. Tôi vẫn ngồi im và mong ngóng; một cảm giác ớn lạnh kinh khủng bò dọc người tôi. Tôi mong mỏi cô giáo của tôi trở lại; nhưng trên hết tôi muốn trèo xuống cái cây đó.
          Có một khoảnh khắc lặng im hiểm độc, rồi một cơn chấn động liên miên của những chiếc lá. Một cái rùng mình chạy qua khắp thân cây, và cơn gió vụt qua thật mạnh đến nỗi đáng lẽ tôi đã bị hất xuống đất nếu tôi không dốc hết sức bám vào cành cây. Thân cây lắc lư vặn vẹo. Những nhánh nhỏ bị đứt rời và rơi xuống tôi như mưa. Một thôi thúc điên cuồng muốn nhảy xuống xâm chiếm lấy tôi, nhưng nỗi sợ kềm tôi lại. Tôi nép mình vào chạc ba của thân cây. Những cành nhánh quăng quật quanh tôi. Tôi cảm thấy những chấn động rời rạc thỉnh thoảng xuất hiện, như thể có vật nặng nào đó rơi xuống và cơn chấn động cứ men dần lên cho tới lúc nó vươn tới cành cây tôi đang ngồi. Nó khiến tâm trạng hồi hộp của tôi lên tới cực điểm, và vừa khi tôi nghĩ cây anh đào và tôi sẽ ngã xuống cùng một lúc, cô giáo của tôi chộp lấy tay tôi và giúp tôi trèo xuống. Tôi bám vào cô, run rẩy vì vui sướng khi cảm thấy một lần nữa mặt đất dưới chân mình. Tôi đã học được một bài học mới – rằng Thiên nhiên “phát động chiến tranh chống lại những đứa con của Người, và bên dưới sự vuốt ve trìu mến nhất ẩn chứa những móng vuốt đầy xảo trá.”
          Sau trải nghiệm này, lâu lắm tôi mới lại trèo lên một cây khác. Chỉ ý nghĩ đó thôi cũng phủ đầy trong tôi niềm khiếp hãi. Chính sự quyến rũ ngọt ngào của cây hoa mimosa đang trổ hoa rốt cuộc đã vượt qua nỗi sợ của tôi. Một sớm mùa xuân tuyệt đẹp khi đang ngồi đọc sách một mình trong ngôi nhà hóng mát, tôi dần dần nhận ra một mùi thơm tuyệt dịu trong không khí. Tôi đứng lên và đưa hai tay ra theo bản năng. Như thể linh hồn của mùa xuân vừa lướt qua ngôi nhà hóng mát. “Gì thế nhỉ?” Tôi tự hỏi, và khoảnh khắc sau tôi nhận ra mùi hoa mimosa đang nở. Tôi lần dò tới cuối vườn, biết rằng cây mimosa ở gần hàng rào, ở chỗ ngoặt của con đường. Vâng, nó đứng đó, run rẩy thân hình trong nắng ấm, những cành trĩu hoa hầu như chạm vào lớp cỏ cao. Đã từng có thứ gì đẹp đẽ thanh tú như thế trong trần gian trước đó hay chăng! Những đóa hoa thanh tú co lại với cú chạm trần tục nhẹ nhàng nhất; cứ như thể một loài cây chốn thiên đường đã được cấy trồng trên mặt đất. Tôi lần dò tìm đường đi qua một cơn mưa cánh hoa tới thân cây to lớn và đứng đó phân vân một lúc; thế rồi, tôi đặt một bàn chân lên khoảng rộng giữa những cánh có nhánh, đu người lên cây. Tôi gặp đôi chút khó khăn trong việc bám giữ, vì những cành cây rất to và lớp vỏ cây làm tay tôi đau. Nhưng tôi có một cảm giác thú vị rằng tôi đang làm một điều gì đó khác thường và tuyệt diệu, vì thế tôi tiếp tục trèo lên ngày càng cao, cho tới khi tôi tới một chỗ ngồi nhỏ mà ai đó đã làm sẵn trước đó lâu đến độ nó đã phát triển thành một phần của cây hoa. Tôi ngồi thật lâu, cảm thấy giống như một nàng tiên ngồi trên một đám mây hồng. Sau đó tôi trải qua nhiều giờ hạnh phúc trên thân cây của chốn thiên đường, nghĩ những ý nghĩ tươi vui và mơ những giấc mơ rực rỡ.

CHƯƠNG VI


          Giờ tôi đã có chiếc chìa khóa cho mọi ngôn ngữ, và tôi nôn nóng học cách sử dụng nó. Trẻ con nghe được thủ đắc ngôn ngữ mà không cần nỗ lực đặc biệt nào; có thể nói chúng nắm bắt ngay tức khắc những từ rời khỏi đôi môi kẻ khác một cách vui thú, trong lúc một đứa trẻ nhỏ bị điếc phải trải qua một quá trình chậm chạp và đau khổ. Nhưng bất chấp quá trình đó ra sao, kết quả thật tuyệt vời. Lần hồi, từ việc gọi tên một đối tượng chúng tôi nhích dần từng bước cho tới khi vượt qua khoảng cách mênh mông giữa nguyên âm lắp bắp đầu tiên và dòng tư tưởng trong một câu thơ của Shakespeare.
Đầu tiên, khi cô giáo nói với tôi về một thứ mới tôi đặt ra rất ít câu hỏi. Những ý tưởng của tôi mơ hồ, và vốn từ vựng của tôi chưa tương thích; nhưng khi kiến thức về các sự vật của tôi gia tăng và tôi đã học được nhiều từ hơn, lãnh vực thắc mắc của tôi mở rộng ra, và tôi thường quay trở lại một chủ đề nhiều lần, nôn nóng biết thêm thông tin. Đôi khi một từ mới làm sống lại một hình ảnh mà một trải nghiệm nào đó trước kia đã in sâu vào óc não tôi.
Tôi nhớ buổi sáng khi tôi hỏi lần đầu tiên ý nghĩa của từ “yêu”. Việc này xảy ra trước khi tôi biết nhiều từ. Tôi đã tìm ra một vài bông cúc tím nở sớm trong vườn và mang chúng tặng cô giáo của tôi. Cô cố hôn tôi, nhưng vào thời gian đó tôi không thích bất kỳ ai hôn mình trừ mẹ tôi. Cô Sullivan dịu dàng vòng tay ôm tôi và viết vào bàn tay tôi: “Cô yêu Helen.”
“Yêu là gì?” Tôi hỏi.
Cô kéo tôi tới gần hơn và chỉ vào tim tôi, cô nói, “Nó ở đây,” đó là lần đầu tiên tôi ý thức về nhịp đập của nó. Những từ của cô khiến tôi rất bối rối vì khí đó tôi không hiểu bất cứ thứ gì trừ khi tôi chạm vào nó.
          Tôi ngửi những bông cúc tím trong tay cô và hỏi, nửa bằng từ ngữ, nửa bằng dấu hiệu, một câu hỏi có nghĩa là: “Có phải yêu là mùi thơm của hoa không?”
          “Không phải.” Cô giáo của tôi trả lời.
          Tôi lại suy nghĩ. Mặt trời ấm áp đang chiếu vào chúng tôi.
          “Có phải đây là tình yêu không?” Tôi hỏi, chỉ về phía sức nóng xuất phát. “Có phải đây là tình yêu không?”
          Với tôi, dường như không có gì đẹp hơn mặt trời với sự ấm áp khiến tất cả mọi vật sinh sôi nẩy nở. Nhưng cô Sullivan lắc đầu, và tôi rất bối rối, thất vọng. Tôi nghĩ thật lạ lùng khi cô giáo không thể chỉ cho tôi biết tình yêu.
          Một hoặc hai hôm sau, tôi xâu những hạt cườm có nhiều kích cỡ khác nhau theo những nhóm đối xứng – hai hạt to, ba hạt nhỏ, vân vân. Tôi đã phạm nhiều sai lầm, cô Sullivan chỉ ra chúng hết lần này tới lần khác với sự nhẫn nại dịu dàng. Cuối cùng tôi nhận ra một lỗi rất hiển nhiên trong chuỗi hạt và ngay lập tức tôi tập trung chú ý vào bài học và cố suy nghĩ xem tôi nên sắp xếp những hạt cườm thế nào. Cô Sullivan chạm vào trán tôi và viết với sự nhấn mạnh dứt khoát ‘Suy nghĩ.”
          Trong chớp mắt, tôi biết từ đó là tên của cái quá trình đang diễn ra trong đầu tôi. Đó là nhận thức có ý thức đầu tiên của tôi về một ý tưởng trừu tượng.
          Tôi ngồi im suốt một hồi lâu – tôi không nghĩ tới những hạt cườm trong lòng tôi mà cố tìm một ý nghĩa cho từ “yêu” dưới ánh sáng của ý tưởng mới này. Mặt trời đã bị mây che khuất cả ngày và có những cơn mưa nhỏ; nhưng đột nhiên mặt trời lại ló ra với tất cả nét tuyệt vời ở miền nam của nó.
          Một lần nữa, tôi hỏi cô giáo: “Có phải đây là tình yêu không?”
          “Tình yêu là một thứ giống như những đám mây trên trời trước khi mặt trời ló ra,” cô đáp. Rồi với những từ đơn giản hơn, mà vào thời điểm đó tôi không thể hiểu, cô giải thích: “Em không thể chạm vào những đám mây, em biết đó; nhưng em cảm thấy mưa và biết những cây hoa và lòng đất đang khát vui mừng thế nào khi mưa xuống sau một ngày trời nóng. Em cũng không thể chạm vào tình yêu, nhưng em có thể cảm thấy sự ngọt ngào rót vào mọi thứ. Không có tình yêu em sẽ không cảm thấy hạnh phúc hay muốn chơi đùa.”
          Sự thật đẹp đẽ bùng nổ trong tâm trí tôi – tôi cảm thấy có những đường nối vô hình trải ra giữa linh hồn tôi và linh hồn của những người khác.
          Ngay từ khi bắt đầu giáo dục tôi, cô Sullivan thực hành việc nói chuyện với tôi như  với bất kỳ đứa trẻ nghe được nào; điều khác biệt duy nhất là cô viết những câu nói đó vào tay tôi thay vì nói ra chúng. Nếu tôi không biết những từ và thành ngữ cần thiết để thể hiện những ý nghĩ của mình, cô sẽ cung cấp chúng, thậm chí đề nghị trò chuyện khi tôi không thể tham gia cuộc đối thoại.
          Quá trình này tiếp diễn suốt nhiều năm; bởi đứa trẻ khiếm thính không học trong một tháng hay thậm chí hai hoặc ba năm vô số những cách diễn tả và thành ngữ được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày đơn giản nhất. Trẻ em nghe được học những thứ này bằng cách thường xuyên lặp lại và bắt chước. Cuộc đối thoại nó nghe được trong nhà kích thích tâm trí nó, đưa ra những chủ đề và gợi ra cách thể hiện tự phát những ý nghĩ của chính nó. Sự trao đổi ý tưởng tự nhiên này khép kín đối với một đứa trẻ điếc. Cô giáo của tôi nhận ra điều đó và quyết tâm cung cấp những loại kích thích mà tôi thiếu. Cô thực hiện điều này bằng cách lặp lại với tôi càng nhiều càng tốt, theo đúng những gì cô nghe được, và bằng cách chỉ cho tôi cách tham gia vào cuộc trò chuyện. Nhưng có một thời gian dài trước khi tôi đánh bạo bắt đầu câu chuyện, và còn lâu hơn nữa trước khi tôi tìm ra một điều thích hợp để nói ra đúng lúc.
          Người mù và người điếc thấy rất khó thủ đắc sự thú vị của việc trò chuyện. Sự khó khăn này còn tăng thêm biết bao lần trong trường hợp của những kẻ vừa mù vừa điếc! Họ không thể phân biệt được tiếng của giọng nói hoặc, nếu không có sự hỗ trợ, dõi theo âm điệu lên xuống của giọng nói vốn mang tới ý nghĩa cho những từ; họ cũng không thể quan sát biểu hiện trên mặt của người nói, và vẻ mặt thường chính là linh hồn của những gì một người nói ra.


Ảnh: Deane, 1877
HELEN KELLER VÀ JUMBO



[1]
[2] Em trai của Mose, theo Thánh kinh, chiếc gậy của Aarn có quyền lực rất kỳ diệu.

Thứ Ba, 19 tháng 11, 2013

MỘT LỜI TUYÊN CHIẾN:CON GIUN XÉO LẮM CŨNG QUẰN


Bao nhiêu ý nghĩ cảm xúc xáo trộn trong đầu, nhưng tôi cố bình tĩnh lại để chia sẻ cùng những bè bạn của tôi, và đồng thời tuyên bố dứt khoát với những người muốn xem tôi là đối thủ, thậm chí xa hơn nữa là kẻ thù giai cấp: 
"Tôi chỉ là một người cầm bút bình thường nhưng còn có lòng tự trọng, tôi ghét chính trị và những trò chó má của nó,  vì vậy cho tới bây giờ tôi vẫn không có một thái độ, việc làm nào có thể gọi là chống đối chế độ cộng sản hay chính quyền này, dù tôi không có chút hảo cảm nào với nó. Tôi đã chọn làm một con sâu, một con lừa mũ ni che tai, Có lẽ đó là sai lầm của tôi. Vậy tôi xin tuyên bố: Từ chỗ là một phó công dân dù không ủng hộ nhưng vẫn âm thầm chịu đựng, chua xót chịu đựng, tôi đã trở thành người đối lập với các vị, với chính thể này."
Những bức xúc đó nằm ở nơi đâu? So đi nhìn lại, tôi may mắn hơn những bậc đàn anh của những thời Nhân văn giai phẩm. Họ đã chịu quá nhiều để đánh đổi một điều đơn giản là được viết lên sự thật. Nhưng thời của họ KHÔNG PHẢI LÀ THỜI CỦA TÔI, CỦA CHÚNG TÔI! Thời đại mọi sự bị im lìm xử lý đã qua rồi. Trong thời đại này, công lý nếu chưa có, cũng khó mà ém nhẹm những việc làm khuất tất.
Vì vậy xin nhắc lại, tôi, từ một người cầm bút biết tôn trọng người đọc và sự thật, đã bị các vị có chức có quyền biến thành kẻ thù. OK, nếu các vị coi tôi là một kẻ thù. TÔI CÔNG KHAI TUYÊN CHIẾN VỚI QUÝ VỊ!

Có lẽ người đọc bài này sẽ tự hỏi vì sao mà tôi bức xúc quá vậy. Vì sao nổi cơn điên rồ làm vậy. Tôi xin cố dằn lòng để giải thích, dù không muốn chút nào, vì nó sẽ giống như tôi tự đánh bóng mình, trong khi tôi chỉ tự cố biện minh cho tấm lòng, cây bút của mình, và cho sự thật.

Mùa xa nhà, nếu như bạn nào đã đọc, tôi không biết bạn nghĩ làm sao, có cảm xúc nào, nhưng tôi không hề nghĩ bạn cho tôi là một thằng sạo sự. Từng dòng tôi viết, ẩn sau những tính cách nhân vật, những nhân vật hư cấu mà trong nghề có thể gọi bình dân là "câu khách", các tình tiết và sự kiện đều có thể kiểm chứng lại với những người hiện còn đang sống. Tôi bị các anh lính 77, 79 chê là chỉ viết có 30% sự thật. Các anh ơi, các anh có biết, để công bố 30% sự thật đó, tôi đã phải trả cái giá nào không?

MXN một lần nữa bị cấm lưu hành. Và tôi chỉ còn biết khóc bằng máu và sẵn sàng đem máu ra để lấy lại danh dự và lòng tự trọng của một nhà văn. Tôi là một nhà văn chân chính. Tôi dám tự hào khẳng định điều này mà không có chút ngượng ngùng. Bạn đọc có thể chê tôi viết chả có gì hay ho hấp dẫn; bạn đọc có thể nói tôi cả đời có viết được bao lăm mà bày đặt nhí nhố um xùm. Và bạn đọc vô cùng chí lý. Nhưng bạn đọc ơi, bạn có hiểu không khi những khi viết mà cứ phải sửa lại chỗ này chỗ khác để tác phẩm mình có thể làm vừa lòng các vị quan gác cánh cửa đền văn học. Và hơn 10 năm nay tôi không viết; nói đúng hơn là viết mà không biết để làm gì, cũng không công bố dù chỉ trên blog cá nhân của mình. Tôi đã trở nên già nua lọm khọm, an phận thủ thường, khác với thằng tôi lính chiến của ngày xưa.
Nhưng chính những vị quan to gác cửa đền văn học đã khơi dậy dòng máu chiến đấu trong tôi. Tôi sẵn sàng tranh luận với các vị về những vấn đề các vị cho là không ổn. Còn nếu các vị không cho tôi tranh luận, mà khép tội tôi gì gì đi nữa, tôi sẵn sàng đương đầu với nó. Năm nay tôi đã 50 tuổi. Vợ con không có, gia sản chỉ có một đống sách. Tôi còn vô sản chuyên chính hơn vô vàn các vị. Tôi không còn gì để mất, và tôi chấp nhận cuộc chiến này vốn do các vị bày ra.

Sài Gòn, 19/11/2013
Nguyễn Thành Nhân