Sách đã ra. Bạn đọc có thể mua tại NXB Tổng hợp, số 62 Nguyễn Thị Minh Khai, P. Đa Kao, Q, 1, Tp. HCM hoặc mua online tại: https://nxbhcm.com.vn/7/tro-lai-co-huong-3691
VỀ TÁC GIẢ
Thomas
Hardy (2/6/1840 - 11/1/1928) – tiểu thuyết gia, nhà
thơ và nhà soạn kịch nổi tiếng người Anh chào đời tại làng Higher
Bockhampton, một trong những làng quê xa xôi hẻo lánh nhất của hạt Dorset, Anh
Quốc. Ông là con cả trong số bốn người con của Thomas Hardy, một thợ xây, và Jemima,
một thôn nữ có học thức. Ông lớn lên trong một ngôi nhà tranh nằm biệt lập ở
rìa một cánh đồng thạch nam. Những trải nghiệm đầu đời của ông về đời sống nông
thôn, với nhịp điệu theo mùa và nền văn hóa dân gian truyền khẩu, là nền tảng
cho phần lớn các tác phẩm sau này của ông. Ông được mẹ dạy học tại nhà cho tới
năm tám tuổi; sau một năm học ở trường làng, ông chuyển tới trường học ở
Dorchester, một thị trấn gần đó. Tại đây ông đã tiếp thu được một nền tảng vững
chắc về toán học và tiếng Latin. Năm 1856, ông trở thành người học việc của
John Hicks, một kiến trúc sư địa phương; năm 1862, ông chuyển tới London và trở
thành chuyên viên bản vẽ kỹ thuật trong văn phòng của Arthur Blomfield, một
kiến trúc sư nổi tiếng. Do sức khỏe kém, năm 1867 ông trở về Dorset, lại làm
việc cho Hicks và sau đó cho kiến trúc sư G.R. Crickmay ở thị trấn Weymouth.
Dù nghề kiến
trúc mang lại cho Hardy sự thăng tiến ở cả hai mặt kinh tế và xã hội, giữa
những năm 1860, sự thiếu thốn tài chính và sự sụt giảm niềm tin tôn giáo đã
buộc ông phải từ bỏ khát vọng học đại học và trở thành một linh mục. Ông bắt
đầu tập trung vào sáng tác thơ, nhưng do các tác phẩm này bị từ chối xuất bản,
ông miễn cưỡng quay sang sáng tác văn xuôi.
Trong hai năm
1867-68, ông viết tiểu thuyết đầu tay Chàng
trai nghèo và nàng tiểu thư (The Poor Man and the Lady). Dù được ba nhà
xuất bản ở London xem xét với sự cảm thông, tác phẩm này không bao giờ được
xuất bản và thất lạc luôn. Sau đó, theo lời khuyên của George Meredith,
một người điểm sách của nhà xuất bản, ông viết Các liệu pháp tuyệt vọng (Desperate Remedies -1871), một tác phẩm
chịu ảnh hưởng của dòng tiểu thuyết“cảm giác”của Wilkie Collins. Tuy nhiên,
trong tác phẩm tiếp theo, Dưới tán cây
xanh (Under the Greenwood Tree -1872), Hardy đã tìm thấy giọng điệu riêng
biệt của chính mình.
Tháng 3/1870,
Hardy được cử đến để trùng tu ngôi nhà thờ St. Juliot đổ nát ở Cornwall. Ông đã
gặp Emma Lavinia Gifford, người trở thành vợ của ông bốn năm sau đó. Bà đã tích
cực khuyến khích và hỗ trợ ông trong những nỗ lực văn chương, và cuốn tiểu
thuyết kế tiếp của ông, Mắt biếc (A
Pair of Blue Eyes -1873), được viết dựa trên chính những trải nghiệm lãng mạn
trong mối tình giữa ông và Emma.
Mùa hè năm 1872,
Hardy dứt khoát từ bỏ sự nghiệp kiến trúc và toàn tâm theo đuổi văn chương khi tạp
chí Tinsley ký kết hợp đồng sử dụng Mắt
biếc trong 11 kỳ đăng mỗi tháng. Sau đó, Cornhill, một tạp chí có uy tín
hơn nhiều mời ông cung cấp một tác phẩm đăng nhiều kỳ. Kết quả là tác phẩm Xa đám đông điên loạn (Far From the
Madding Crowd – 1874) ra đời, giới thiệu
cái tên Wessex lần đầu. Và cũng từ đây trở đi, hầu hết các tác phẩm của ông,
đều có bối cảnh nền là Wessex, vốn là một vương quốc
của người Anglo-Saxon ở miền nam đảo Great Britain từ năm 519 cho tới đầu thế
kỷ 10, khi vua Æthelstan của người Anglo-Saxon thống nhất nước Anh; với Hardy, địa danh
Wessex bao gồm các hạt ở vùng tây nam Anh Quốc hiện nay.
Tháng 9/1874, Hardy kết hôn
với Emma Gifford, bất chấp sự phản đối của gia đình cả hai bên. Trong thời gian
đầu, họ liên tục di chuyển, khi sống ở London, khi ở Dorset. Trong thời gian
này ông viết tiểu thuyết Bàn tay của
Ethelberta (The hand of Ethelberta - 1876); tác phẩm này được đón nhận khá
thờ ơ và không phổ biến mấy. Bù lại, tiểu thuyết Trở lại cố hương (The Return of the Native – 1878) ngày càng được
nhiều người hâm mộ do bối cảnh nổi bật của Egdon Heath, dựa trên vùng hoang địa
ảm đạm và khắc nghiệt mà ông từng biết hồi thời thơ ấu.
Cái chết của đột ngột của
Emma vào năm 1912 kết thúc hai mươi năm sống chung với nhau trong tình trạng xa
lạ, nhưng nó cũng khơi gợi lại những tháng ngày tươi đẹp trong mối tình của họ,
và là nguồn cảm hứng để ông hoàn thành một số tác phẩm thơ xuất sắc. Năm 1914,
Hardy kết hôn với Florence
Emily Dugdale, trẻ hơn ông 38 tuổi. Dù đôi khi người vợ thứ hai này gặp khó
khăn, vì Hardy quá nặng lòng với những hoài niệm về người vợ cũ, bà vẫn toàn
tâm chăm sóc cho sức khỏe tuổi già của ông cho tới lúc ông qua đời vào tháng
11/1928. Tro cốt của ông được đặt trong “Góc của các nhà thơ” (Poets’ Corner) tại
Tu viện Westminster, còn quả tim được chôn cất chung một nấm mộ với Emma tại nghĩa trang giáo xứ Stinsford.
Trọn đời văn nghiệp, Thomas Hardy đã
sáng tác tổng cộng 14 tiểu thuyết (các tác phẩm nổi bật nhất là Far From the Madding Crowd, The Return of
the Native, The Major of Casterbridge, Tess of d’Urbervilles, và Jude the Obcure), hàng trăm truyện ngắn,
hai vở kịch, và chín tập thơ. Ông được công nhận rộng rãi là một nhà văn lớn
của thế kỷ 19 và nhà thơ lớn của thế kỷ 20. Ngoài ra, ông được vinh hạnh đề cử
cho giải Nobel Văn chương nhiều lần (1910 - 1914, 1920, 1923 - 1927)[1].
Nhiều tác phẩm của ông được chuyển
thể thành phim như Tess of d’Urbervilles
(1913; 1979; 1998, 2008) The Return of
the Native (1994), Jude the Obscure
(1996), The Mayor of Casterbridge
(2000, 2003), Under the Greenwood Tree
(2005), Far From the Madding Crowd
(2015).
Nhiều nhà văn trẻ hơn, bao gồm D. H. Lawrence, John Cowper Powys, và Virginia Woolf rất hâm mộ các tác phẩm của
ông.
Một số nhà soạn nhạc
nổi tiếng, bao gồm Gerald Finzi, Benjamin
Britten, và Gustav Holst đã
lấy thơ của ông để phổ nhạc. Holst cũng soạn bản
giao hưởng dựa trên chủ đề của tiểu thuyết The
Return of the Native nhan đề Egdon Heath: A Homage to Thomas Hardy vào năm 1927.
***
GIỚI THIỆU
Có lẽ Trở lại cố
hương được Thomas Hardy khởi thảo vào cuối năm 1876 và hoàn thành vào mùa
xuân 1878. Đây là cuốn tiểu thuyết thứ sáu của ông. Trong thời gian này, ông
sống tại thị trấn Sturminster Newton, hạt Dorset, vừa mới quay về sau những
chuyến du lịch châu Âu với người vợ mới cưới Emma. Sau thành công của Xa đám đông điên loạn[2]
(1874), Hardy đã thể nghiệm thể loại trào phúng xã hội trong Bàn tay của Ethelberta (The hand of Ethelberta; 1876), tuy nhiên tác phẩm này không được đón
nhận nồng nhiệt mấy, và ông quay lại với môi trường Wessex thời trai trẻ, gắn
vào bối cảnh nông thôn truyền thống này một ý thức hiện đại hơn, thông qua nhân
vật Clym Yeobright, một “kẻ trở lại cố hương,” giống như ông. Hardy đã giao bản
thảo ban đầu của Trở lại cố hương cho
Leslie Stephen, để đăng nhiều kỳ trên tạp chí Cornhill. Stephen từ chối bản
thảo vì cho rằng cách xử lý quan hệ nam nữ không phù hợp với giới độc giả thời
Victorian; ví dụ, lúc đầu Thomasin đã sống với Wildeve suốt một tuần trước khi
phát hiện ra rằng lễ kết hôn không đúng thể thức. Hardy đã chỉnh sửa lại bản
thảo và cuối cùng nó được đăng trên tờ Belgravia
vào năm 1878. Tháng 11 năm đó, một phiên bản hơi khác đã được in bởi nhà
xuất bản Smith, Elder & Co. Thật
sự, Hardy đã chỉnh sửa tác phẩm này hai lần nữa – cho bản in năm 1895 của Osgood Mcllvaine, và bản in năm 1912 của
Macmillan.
Được công nhận rộng rãi
là một trong những tiểu thuyết nổi bật nhất của Thomas Hardy, tác phẩm này tìm
cách giải mã mối xung đột giữa tình yêu và tình cảm gia đình, giữa hiện thực và
khát vọng, giữa tự nhiên hay định mệnh tàn ác vô tình và đời người hữu hạn.[3]
TÓM TẮT CỐT TRUYỆN:
Cuốn tiểu
thuyết mở đầu với hai nhân vật trên con đường băng qua vùng đất Egdon, Venn,
người bán thuốc nhuộm với cỗ xe ngựa chở Thomasin và Thuyền trưởng Vye, ông
ngoại của Eustacia. Cuộc hôn nhân giữa Thomasin và Wildeve bị trì hoãn do một
sơ sót trong thủ tục kết hôn. Thomasin tức giận và bỏ chạy khỏi nhà thờ một
mình, sau đó nàng gặp Venn và nhờ gã đưa nàng về nhà của bà Yeobright, bác gái
của nàng ở Bloom-Ends. Trước đó, Wildeve và Eustacia yêu nhau nhưng do nàng rất
kiêu kỳ, y chủ động chia tay với nàng và quay sang Thomasin.
Khi nghe ông
nàng báo tin về cuộc kết hôn không thành, Eustacia đốt một đống lửa trước nhà
nàng trên đồi Mistover để ra hiệu cho Wildeve, vì nàng nghĩ hôn lễ không thành
là do y còn yêu nàng. Họ gặp lại nhau sau một thời gian xa cách; nhưng một lần
nữa Wildeve chứng tỏ y không phải là một người tình hoàn hảo như khao khát của
nàng. Và nàng vô cùng buồn phiền chán nản.
Venn tình cờ
biết được mối tình lãng mạn giữa Eustacia và Wildeve, vì đã từng yêu Thomasin
nhưng bị nàng từ chối, gã quyết ra tay trợ giúp để nàng tìm được hạnh phúc của
mình. Nhưng nỗ lực của Vennn
nhằm thuyết phục Eustacia chịu nhường Wildeve cho Thomasin, cũng như đề xuất với bà Yeobright rằng gã sẽ tự lấy Thomasin đều thất bại.
Trong tình cảnh rối loạn này, Clym Yeobright, con của bà quả phụ
Yeobright, anh họ của Thomasin quay về từ Paris vào dịp lễ Giáng sinh. Eustacia
nhận ra Clym có thể là người giúp nàng thoát khỏi vùng hoang địa mà nàng vô
cùng căm ghét. Thậm chí trước khi gặp Clym, nàng đã tự thuyết phục mình yêu
Clym, và quyết định kết thúc mối tình bế tắt với Wildeve. Sau đó Wildeve và
Thomasin lấy nhau.
Phần do chủ tâm của Eustacia, phần do số phận run rủi, Clym gặp nàng
trong đêm diễn kịch dân gian tại nhà anh, khi nàng giả làm một thành viên trong
đội kịch để được nhìn thấy anh. Sau đó, anh tới nhà của ông ngoại nàng trên đồi
Mistover để giúp các người dân trong làng kéo cái xô bị rơi xuống giếng của
ông. Lần gặp này đã dẫn tới tình yêu giữa họ. Bất chấp sự phản đối gay gắt của
bà Yeobright, Clym và Eustacia kết hôn với nhau, và sống trong một ngôi nhà nhỏ
do Clym thuê ở cách Bloom-Ends vài dặm.
Với cuộc kết hôn này, khoảng cách giữa Clym và mẹ anh ngày càng xa. Trong
thời gian đó, mâu thuẫn cũng bắt đầu này sinh giữa đôi vợ chồng trẻ. Clym là
một thanh niên yêu quê hương và có những khát vọng hơi ảo tưởng: anh muốn mở
một trường học để dạy trẻ con ở quê mình, với quan niệm kiến thức cần thiết hơn
sự giàu có. Anh miệt mài đắm mình vào nghiên cứu để sớm đủ khả năng thực hiện
kế hoạch của mình, không hề quan tâm tới những mong muốn của Eustacia. Do quá
cố gắng, mắt anh bị viêm cấp tính và mất đi một phần thị lực. Anh trở thành một
thợ cắt kim tước, điều này càng khiến cho Eustacia thêm đau khổ. Tuy nhiên, với
bản chất kiên cường, nàng quyết định phải tìm vui cho chính mình, để vơi bớt
phần nào sự buồn bã và thất vọng. Nàng tới dự một lễ hội khiêu vũ ở làng bên
cạnh, và ở đó nàng tình cờ gặp lại Wildeve. Kể từ lúc ấy, Wildeve cảm thấy y
ngày càng yêu nàng hơn cả trước kia.
Với sự
thuyết phục của Venn, bà Yeobright mong muốn làm hòa với đôi vợ chồng trẻ, và
đã lên đường tới thăm họ vào một ngày trời rất oi bức. Tình cờ, khi bà tới nhà
họ, Wildeve cũng đang có mặt trong nhà. Y tới một cách công khai, và có ý định
gặp cả hai vợ chồng, nhưng lúc y đến Clym đã ngủ say do làm việc vất vả. Khi y
và Eustacia đang nói chuyện, bà Yeobright tới gõ cửa. Khi nghe gõ cửa, Eustacia
tới bên cửa sổ nhìn ra, và thấy bà Yeobright, nhưng nàng lưỡng lự không muốn mở
cửa cho bà; khi bà gõ cửa lần thứ hai, Clym nằm mơ và cất tiếng gọi mẹ. Do
tưởng rằng Clym đã thức và tự mình ra mở cửa, Eustacia tiễn Wildeve ra về theo
lối cửa sau, và ở lại ngoài vườn một lúc. Bà Yeobright thất vọng ra về. Trên
đường, bà bị kiệt sức do trời quá nóng nên nằm xuống nghỉ mệt trên một bãi cỏ và
bị rắn cắn. Do không biết sự tình trở nên nghiêm trọng như vậy, Eustacia cũng
không nói gì với Clym về cuộc thăm viếng bất ngờ của Wildve.
Chiều hôm
đó, do linh tính, Clym quyết định phải tới thăm mẹ. Anh tìm gặp bà Yeobright
giữa đường, đưa bà tới một túp lều bỏ hoang và tìm người tới giúp. Nhưng do
kiệt sức và nhiễm độc quá nặng, bà không qua khỏi.
Clym tự
trách mình rất nhiều về cái chết của mẹ; sau đó, khi biết thêm tình tiết về cái
ngày bi thảm này, anh và Eustacia đã cãi nhau gay gắt và chia tay nhau. Nàng
trở về sống với ông ngoại, còn Clym trở về ngôi nhà của mẹ mình ở Bloom-Ends.
Lại một lần nữa đêm đốt lửa Năm tháng Mười một tới. Charley, chàng trai trẻ giữ
ngựa cho Thuyền trưởng Vye, vốn rất yêu mến Eustacia, tự gom góp củi để đốt lửa
vì biết nàng rất thích. Khi được báo tin về đống lửa, nàng yêu cầu Charley tắt
nó đi, nhưng trong lòng nàng cũng không dứt khoát. Khi nhìn thấy đống lửa,
Wildeve lên đồi Mistover để gặp nàng, và y hứa sẽ giúp nàng tới cảng Budmouth
để đáp tàu sang Paris. Mọi tình tiết lên tới đỉnh điểm vào một đêm giông bão;
trên đường đi tới chỗ hẹn với Wildeve, Eustacia chợt nhớ ra nàng không có đủ
tiền để sang Paris, và như thế, nếu muốn đi, nàng buộc phải đi cùng với
Wildeve, phụ thuộc vào y. Tác giả không nói rõ nàng chết đuối do tai nạn hay do
cố tình, nhưng từ diễn biến câu chuyện, có thể tin rằng nàng đã tự trầm mình để
giữ gìn phẩm cách trong sạch. Khi nhảy xuống cứu nàng, Wildeve cũng chết đuối,
Clym bị ngất nhưng sau đó hồi tỉnh lại.
Ở phần Vĩ
Thanh, rốt cuộc Thomasin và Venn lấy nhau, sống một cuộc đời hạnh phúc. Clym
trở thành một người thuyết giảng lưu động về Điều răn thứ Mười một của Chúa
Jesus.
VÀI PHÂN TÍCH SƠ LƯỢC:
Vùng đất hoang mênh mông mà trong tác phẩm này
Thomas Hardy gọi là Egdon Heath gắn liền với nền văn hóa dân gian và những tập
tục, truyền thống xa xưa, hầu hết có tính chất ngoại giáo; như việc đốt lửa vào
đêm Năm tháng Mười một, diễn kịch dân gian vào dịp Giáng sinh, hay những cuộc
khiêu vũ tưng bừng trong lễ hội Một tháng Năm… Những chấm phá này tạo một bức
nền thật sự sinh động cho tác phẩm.
Trong Trở lại
cố hương, có một xung đột mạnh mẽ giữa tự nhiên hay số phận, đại diện là
Egdon Heath, và con người, đại diện là các nhân vật trong tiểu thuyết, đặc biệt
là Eustacia. Tiêu đề của chương đầu tiên, “Một gương
mặt mà trên đó thời gian không tạo được nhiều ấn tượng” cho thấy cánh đồng hoang có một vai trò quan trọng
hơn nhiều, chứ không chỉ đơn thuần là bối cảnh cho câu chuyện. Từ “gương mặt”
khiến độc giả nghĩ về Egdon Health với tư cách một cá thể con người, và về bản
chất, một nhân vật chính trong tiểu thuyết: “Hiện tại, vùng đất này là một nơi chốn hoàn toàn hòa hợp với bản chất
loài người – không kinh khủng, mang vẻ thù ghét hay xấu xí; cũng không tầm
thường, vô nghĩa hay đã bị thuần hóa; mà, giống như con người, nhẹ dạ và giàu
chịu đựng; và cũng chứa đầy lạ lùng bí ẩn trong nét đơn điệu tối tăm của nó.
Giống như với vài cá nhân nào đó từng sống cách biệt lâu ngày, sự cô đơn quạnh
quẽ dường như toát ra ở vẻ ngoài của nó. Nó có một gương mặt cô độc, chất chứa
những khả năng bi đát”.
Và, trong khi các nhân vật đấu
tranh, trở nên mệt mỏi và vỡ mộng, hoặc chết, vùng hoang địa vẫn trơ trơ không
thay đổi. Nó là một biểu tượng của sự vĩnh cửu. Các khía cạnh khác của bối cảnh
cũng mang tính biểu tượng, và chúng gia tăng tính chất bi thảm của tác phẩm. Sự
thống trị của bóng tối mở ra ngay từ đầu tác phẩm: những đống lửa trên cánh
đồng hoang, những nguồn sáng nhỏ nhoi giữa màn đêm mù mịt nhanh chóng tàn lụi
và biến mất, như hạnh phúc ngắn ngủi nhất thời của Eustacia và Clym. Vầng trăng
bị che khuất trong đêm nguyệt thực dự báo cho kết cuộc của tình yêu giữa họ.
Vào đêm Eustacia chết, cơn mưa bão dữ dội là tiếng vọng cho những cảm xúc mãnh
liệt của nàng khi nàng đau đớn kêu lên những lời phản kháng số phận đắng cay: “Ôi chao, sự độc ác của việc
đặt tôi vào thế giới dại dột này! Tôi có nhiều khả năng; nhưng tôi đã bị làm tổn thương, trở nên thân tàn
ma dại và bị nghiền nát bởi những thứ nằm ngoài khả năng kiểm soát của tôi! Ôi,
Trời cao khắc nghiệt biết bao khi nghĩ ra những hình phạt như thế cho tôi, kẻ
không hề làm điều gì hại tới Trời cao!”
Nhiều
nhà phê bình tin rằng trong tác phẩm này số phận hoàn toàn chiếm ưu thế; và các
nhân vật là những nạn nhân bất lực của nó. Phải thừa nhận rằng số phận đóng một
vai trò quan trọng; ví dụ, Eustacia tình cờ gặp lại Wildeve trong lễ hội khiêu
vũ; bà Yeobright tình cờ chọn một ngày rất nóng để tới thăm Clym, tình cờ đến
nơi khi Wildeve đang ở đó, và tình cờ bị rắn hổ lục cắn khi đang nằm nghỉ mệt;
Eustacia không nhận được lá thư của Clym vì ông ngoại của nàng cho rằng nàng đã
ngủ, vân vân. Tuy nhiên, có thể truy nguyên hầu hết các tấn thảm kịch từ các
động cơ, quyết định và hành động của các nhân vật.
Bà
Yeobright có thể bị coi là nạn nhân vì Eustacia không mở cửa cho bà, nhưng
chúng ta phải nhớ rằng bà chưa bao giờ chấp nhận Eustacia và cố gắng tác động
để Clym từ bỏ nàng. Bà cho rằng mình có địa vị xã hội cao hơn nhiều so với
Eustacia, và không tin tưởng nàng vì nàng là một con người tự do; bà cho rằng
nàng là kẻ lười nhác và vô trách nhiệm, gợi ý rằng nàng có mối quan hệ khinh
suất với Wildeve; nói chung là ghen tị với nàng vì bà muốn giữ Clym cho chính
mình. Bà từ chối tham dự đám cưới của Clym và đối xử với Eustacia một cách
trịch thượng khi họ nói chuyện với nhau gần ao nước. Sau đó bà tránh xa con
trai và vợ của anh, đủ lâu để đào sâu thêm khoảng cách giữa họ.
Clym cũng tự mang
lại cho mình nhiều rắc rối. Anh hài lòng với sự quan tâm và tình cảm say đắm mà
Eustacia dành cho mình, nhưng không bao giờ thực sự nhìn thấy nàng với tư cách
một cá thể hoàn toàn khác biệt. Không chú ý tới sự căm ghét cánh đồng hoang
cũng như khao khát rời khỏi nó của Eustacia, anh cho rằng nàng sẽ là một phần
quan trọng trong sứ mệnh giảng dạy của mình. Sau khi kết hôn, Clym bỏ mặc nàng
và dành thời gian cho việc nghiên cứu; sự suy giảm thị lực có thể là một biểu
tượng cho sự mù quáng trước thực tế của anh. Ngay cả khát vọng trở thành một
giáo viên của anh cũng ích kỷ và không thực tế; anh cố thoát khỏi những xung
đột của đời sống bằng cách tự xây dựng một hiện thực xa vời và ảo tưởng, và
muốn áp đặt quan điểm của mình lên người khác. Hình ảnh của Clym ở cuối truyện
mang tính chất mỉa mai cay đắng: một nhà thuyết giảng lang thang chưa tới ba
mươi ba tuổi.
Eustacia là nhân vật ấn
tượng nhất, nhưng cũng mơ hồ nhất của tác phẩm. Chúng ta hãy nghe Thomas Hardy
miêu tả nàng: “Eustacia Vye là nguyên liệu thô
của một nữ thần. Hẳn nàng sẽ đóng tốt vai trò đó trên đỉnh Olympus với chút ít
chuẩn bị. Nàng có những đam mê và bản năng tạo nên một nữ thần kiểu mẫu, nghĩa
là, những phẩm chất hoàn toàn không thể tạo ra một phụ nữ kiểu mẫu.” Với một số người, như Susan Nunsuch, nàng là một phù
thủy đáng sợ và đáng ghét. Với bà Yeobright là một cô gái lập dị, có những thói
quen khác người và lười nhác. Với đa số đàn ông, nàng là một sức hút khó lòng
cưỡng lại. Nàng là bóng tối, cũng vừa là ánh sáng.
Nàng khao khát được yêu đến điên cuồng. Nàng cảm thấy Egdon Heath là một địa
ngục, nơi giam cầm tuổi trẻ, sắc đẹp và những khao khát của mình. Lời cầu
nguyện thường ngày của nàng là: “Ôi,
hãy đưa tim tôi ra khỏi chốn ảm đạm quạnh hiu đáng sợ này; hãy gửi đến cho tôi
tình yêu vĩ đại từ đâu đó, không thì tôi sẽ chết.” Nàng
đã thua cuộc và chết, nhưng cái chết của nàng khiến cho tính chất bi kịch của
đời người thêm sâu sắc, và nó biến nàng thành nhân vật không thể nào quên trong
câu chuyện.
Trên đây là một số điểm
sơ lược mà người dịch nghĩ có lẽ quý vị độc giả muốn biết trước khi thưởng thức
tác phẩm. Dù sao, một tác phẩm lớn có thể được nhìn nhận, cảm và hiểu từ nhiều góc độ khác nhau, và việc đó xin
nhường lại cho quý vị. Rất mong nhận được sự ủng hộ của quý vị đối với bản dịch
này.
Sài Gòn, 12/2017
Nguyễn Thành Nhân
[1] Nguồn:
https://www.nobelprize.org/nomination/archive/show_people.php?id=3892
[2] Bản dịch của Hà Linh, NXB Văn hóa –Thông tin, 2014.
[3] Tác phẩm đã được BBC chuyển thể thành phim truyền hình vào năm 1994,
do Jack Gold đạo diễn; vai Eustacia do nữ diễn viên Catherine Zeta-Jones thủ
diễn. Phim đã được đề cử giải thưởng Golden Globe For Best Miniseries or
Television Film. Quý vị độc giả có thể xem phim online theo link sau: http://www.dailymotion.com/video/x2kur3v.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét