Mình sẽ mang niềm đau khổ của mình tới và
đặt nó lên trên những rễ cây bên dưới những tán sồi xanh.
NHỮNG LỚP SÓNG
Dịch từ nguyên tác The Waves
(1931)
của Virginia Woolf
Dịch giả giữ bản quyền bản tiếng Việt
Copyright © 2019 Nguyễn Thành Nhân
GIỚI THIỆU
“Mặt trời chưa mọc. Không thể phân biệt giữa biển và
trời, ngoại trừ việc mặt biển hơi gờn gợn, giống như những nếp nhăn trên một
mảnh vải. Khi bầu trời rạng dần, một vạch sậm nằm trên chân trời tách biển khỏi
bầu trời và tấm vải xám biến thành vải sọc, với những đường sọc dày di động,
sọc này nối tiếp sọc kia bên dưới bề mặt, chạy theo nhau, đuổi theo nhau, liên
miên không dứt.
Khi chúng tới gần bờ, từng đường sọc dựng lên, cuộn thành khối, vỡ tung, và
quét một màn nước trắng mỏng manh qua bãi cát. Lượn sóng dừng lại, rồi rút lui,
thở dài như một kẻ ngủ mê, hơi thở đến và đi trong vô thức. Dần dà, đường vạch
sậm trên chân trời trở nên trong trẻo, như thể chất cặn trong một chai rượu
vang cũ đã lắng xuống và trả lại màu xanh cho cái ly. Phía sau nó, bầu trời
cũng trong dần, như thể chất cặn màu trắng ở đó đã lắng xuống, hay như thể cánh
tay của một phụ nữ đang nằm bên dưới chân trời đã giơ lên một ngọn đèn, và
những vạch trắng, lục và vàng mịn màng trải ngang qua bầu trời như những nan
quạt của một chiếc quạt xếp. Rồi nàng nâng ngọn đèn lên cao hơn và dường như
không gian bị tách thành từng thớ sợi từ bề mặt màu lục, lung linh và bùng cháy
trong những thớ sợi đỏ và vàng như ánh lửa mờ khói tỏa ra từ một viên pháo hoa.
Dần dần, những thớ sợi của viên pháo hoa tan chảy thành một làn sương mù, một
sự nóng chảy nâng sức nặng của bầu trời màu len xám lên tới đỉnh và biến nó
thành một triệu nguyên tử của màu xanh êm dịu. Bề mặt của biển dần trở nên
trong suốt và gợn sóng lăn tăn, lấp lánh, cho tới khi những đường sọc tối hầu
như bị xóa sạch. Cánh tay cầm ngọn đèn chậm rãi nâng nó lên cao hơn, cao hơn
nữa, cho tới khi một ánh lửa tỏa rộng hiện ra; một vòng cung lửa bùng cháy trên
mép chân trời, và biển tỏa ánh vàng quanh nó.”
Tôi bỡ ngỡ bước vào Những lớp sóng từ những dòng đầu tiên trích dẫn bên trên, và từ đó
câu chuyện, hoặc không có câu chuyện nào hết, mà chỉ những dòng văn xuôi đẹp
như thơ, những hình ảnh và âm thanh, nhịp điệu và sắc màu, hiện tại và quá khứ
của các nhân vật trộn lẫn vào nhau chảy thành một dòng miên man liên tục từ đầu
đến cuối, dõi theo cuộc đời của bảy con người, bảy cá thể, và những suy tư,
thao thức, trở trăn của từng người trong cuộc kiếm tìm ý nghĩa cuộc đời thông
qua tình bạn, tình yêu, lẽ sống. Một cuộc kiếm tìm “bản lai diện mục”, với những
câu hỏi mà từng nhân vật luôn đặt ra, lặp đi lặp lại với chính mình: “Tôi là
ai?”, “Bạn là ai?” “Ý nghĩa của cuộc sống này là gì?”
Rốt cuộc
mỗi cá nhân cũng tự xác định được cho mình con đường phải bước, vui vẻ, hạnh
phúc, chấp nhận, hoặc miễn cưỡng, đau khổ, đắng cay, và biết ở cuối chặng đường
đó là cái chết không ai tránh khỏi. Cái chết cũng là một ám ảnh khôn nguôi
trong Những lớp sóng. “Cái chết là
gì, và ta phải đối phó với nó như thế nào?” Có lẽ từng nhân vật trong tác phẩm,
và mỗi chúng ta phải tự trả lời cho mình câu hỏi đó, bởi mỗi cá nhân đều phải đối
mặt với cái chết, theo cách của mình. Trong tác phẩm này, Percival chết vì ngã
ngựa ở Ấn Độ trong lứa tuổi giữa hai mươi. Rhoda tự sát. Và Bernard, ở những
dòng cuối cùng, tự xác định với mình: “Kẻ thù nào chúng ta nhận thấy đang tiến lên chống lại
chúng ta, ngươi, con ngựa mà ta đang cưỡi lúc này, khi chúng ta đứng trên vỉa
hè này, có biết không? Đó là cái chết. Cái chết là kẻ thù. Đó là cái chết mà để
chống lại nó tôi cưỡi trên lưng ngựa với ngọn giáo vắt ngang và mái tóc bay ngược
về phía sau như mái tóc của một chàng trai trẻ, như mái tóc của Percival, khi cậu
ấy phi nước đại ở Ấn Độ. Tôi thúc đinh vào con ngựa của tôi. Để chống lại
ngươi, ta sẽ lao tới trước, bất khả chiến bại và bất khuất, hỡi Cái chết!”
Những lớp sóng dõi theo cuộc đời của bảy người bạn,
Bernard, Louis, Neville, Percival (nam), và Susan, Jinni, Rhoda (nữ), từ lúc họ
cùng sống với nhau ở một nhà trẻ vùng duyên hải cho đến chặng cuối cuộc đời của
mỗi người. (Riêng Percival không xuất hiện với tư cách một nhân vật có tiếng
nói của riêng mình mà chỉ hiện lên qua những suy nghĩ và hồi ức của các bạn anh
ta.) Tác phẩm gồm có chín phần. Mở đầu
cho từng phần là một miêu tả chung cảnh biển khơi, môi trường xung quanh
và thời điểm (vị trí của mặt trời trên bầu trời) trong ngày. Các miêu tả đi từ
sáng sớm, lúc mặt trời chưa mọc ở phần đầu, khi các nhân vật còn là những đứa
trẻ, cho tới lúc mặt trời đã lặn ở phần cuối, khi các nhân vật tới chặng cuối
cuộc đời của họ. Trừ những miêu tả mang tính chất trung tính, khách quan, những
phần đều là dòng ý thức và độc thoại của các nhân vật.
Sau đây xin được tóm tắt nội dung
cơ bản của từng phần:
Phần 1:
Miêu tả cảnh mặt trời đang mọc và
ngày dần đến. Câu chuyện bắt đầu với những độc thoại ngắn của từng nhân vật về
những gì họ nhìn thấy ở môi trường xung quanh lúc mặt trời vừa rạng. Sau đó là
những triển khai đi sâu hơn vào tính cách, suy tư của các nhân vật trong cuộc sống
của họ ở nhà trẻ.
Phần 2:
Miêu tả mặt trời vẫn đang mọc,
sóng vỗ mạnh hơn. Các cô bé và cậu bé rời nhà trẻ để tới trường nội trú riêng của
họ. Mạch độc thoại nêu chi tiết những phản ứng và suy nghĩ của họ ở trường nội
trú và trong thời gian họ trở về nhà nghỉ hè. Phần này giới thiệu nhân vật nam
Percival, kẻ đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của tất cả các nhân vật
còn lại nhưng không có tiếng nói nào trong tác phẩm. Ở cuối phần này, Susan trở
về nhà, Neville và Bernard chuyển sang học đại học. Rhoda và Jinni tới London
và Louis tìm được một việc làm.
Phần 3:
Mặt trời đã mọc và chim chóc kêu
hót vang lừng. Các nhân vật đang cố cải thiện tính cách của mình trong lúc đấu
tranh để làm hòa với chính mình. Bernars và Neville cùng học chung một trường đại
học. Bernard cố gắng phát triển bản thân với tư cách một nhà văn, còn Neville học
văn chương và mơ tưởng tới Percival. Louis sống ở London với tư cách một thư
ký. Rhoda và Jinny có cùng một giai tầng xã hội ở London. Tuy nhiên Jinny thích
giao tế rộng rãi trong khi Rhoda chán ghét môi trường xã hội và rút lui sâu hơn
vào chính mình. Susan trở về nhà sau khi du học ở nước ngoài.
Phần 4:
Mặt trời ở đang thời điểm sáng
chói. Độc thoại của Bernard mở đầu phần này và ngay lập tức anh thông báo về việc
mình đã đính hôn. Anh đang trên đường tới London để gặp các bạn khác trong một
buổi tiệc đêm tiễn chân Percival sang Ấn Độ. Đây là lần đầu tiên từ hồi còn bé
họ gặp nhau với tư cách một nhóm và những độc thoại của họ thể hiện những suy
tư của họ. Percival là người tới sau cùng và khi anh tới, số còn lại cảm thấy
nhẹ nhõm.
Phần 5:
Mặt trời lên tới vị trí cao nhất
và sóng vỗ mạnh vào bờ. Bi kịch bắt đầu với cái chết của Percival. Phần này đi
sâu vào những cảm giác và phản ứng của Neville, Bernard và Rhoda đối với cái chết
của người bạn thân. Neville cực kỳ đau đớn. Bernard buồn phiền nhưng cũng vui mừng
vì sự ra đời của con anh. Với Rhoda, cái chết khẳng nhận sự trống rỗng của cuộc
đời cô.
Phần 6:
Mặt trời bắt đầu đi xuống và sóng
rút ra xa, vỗ vào những tảng đá ngoài khơi và tràn vào các hang động. Các nhân
vật giờ là những cá nhân trưởng thành chín chắn và đang đi theo con đường họ đã
chọn. Susan và Bernard có vẻ hài lòng với cuộc sống nhất trong số các nhân vật,
và đều đã có con cái. Neville và Jinny tới gần với mục tiêu thành đạt của mình
nhất, cả hai đều sống cuộc sống tròn đầy. Louis thành công trong công việc
trong lúc có một quan hệ tình cảm với Rhoda chán đời. Cái chết của Percival vẫn
treo lơ lửng bên trên họ, nhưng nặng nề nhất là với Neville, luôn so sánh những
mối tình sau này với mối tình đầu dành cho Percival.
Phần 7:
Mặt trời xuống thấp hơn và sóng vỗ
bờ. Các nhân vật giờ đã ở lứa tuổi trung niên và những độc thoại của họ quay
ngược về quá khứ. Bernard suy nghĩ về một cuộc sống thất vọng và sự đổ vỡ tình
cảm với vợ mình trong lúc đi du lịch ở Rome. Susan hài lòng với cuộc sống quê
mùa, nhưng nhớ tiếc thời tuổi trẻ. Jinny suy nghĩ về ngoại hình ở lứa trung
niên của mình và tự trấn an rằng cô vẫn còn hấp dẫn đối với những chàng trai trẻ.
Louis tiếp tục thành công trong sự nghiệp, nhưng cố thể hiện khía cạnh tâm hồn
của mình nhiều hơn. Rhoda du lịch ở Tây Ban Nha sau khi cắt đứt tình cảm với
Louis, cô vẫn không nhẹ nhõm hơn và toan tự sát khi đứng trên rìa một vách đá.
Neville trở thành một nhà thơ, nhưng cũng giống như Jinny, cảm nhận được những
tác động của tuổi tác đối với cuộc sống của mình.
Phần 8:
Mặt trời đang lặn và lũ chim săn
mồi xuất hiện thay cho những con chim bé nhỏ hiền lành. Sáu người bạn lại đoàn
tụ một lần nữa ở cung điện Hampton Court. Như lần họp mặt trước, nó bắt đầu một
cách không thoải mái rồi dần dần trở nên dễ chịu hơn. Vào cuối bữa ăn, họ gạt bỏ
quá khứ sang bên và đi dạo trong công viên Hampton. Louis và Rhoda thảo luận về
cuộc chia tay của họ.
Phần 9:
Mặt trời đã lặn, ngày kết thúc.
Phần này chỉ bao gồm độc thoại duy nhất của Bernard. Xuyên suốt tác phẩm, anh
luôn là người kể chuyện và lúc này anh kể lại câu chuyện đời mình với một thực
khách không quen biết. Anh mô tả những người bạn cũng như cuộc đời của chính
mình với một tinh thần tranh đấu. Cuối cùng, anh quyết định bỏ lại cuốn sổ tay ở
nhà hàng, cố gắng quay lại với việc tạo ra những cụm từ đơn giản hồi còn thơ ấu.
***
Những lớp sóng là cuốn tiểu thuyết thứ bảy của Virginia
Woolf. Bà khởi thảo tác phẩm này vào khoảng tháng 9/1929 và hoàn thành nó vào
tháng 2/1931, sau mười chín tháng miệt
mài viết và chỉnh sửa nhiều lần. Ban đầu bà định đặt tên tác phẩm là Moths (Bướm
đêm). Tháng 4/1930 bà hoàn thành bản thảo đầu tiên, nhưng ngay từ tháng
10/1929, những ý tưởng mới nảy sinh và bà cảm thấy tựa đề cũng như chủ đề của bản
thảo này chưa thỏa đáng, và quyết định viết lại toàn bộ. Ngày 13/6/1930 bà viết
bản thảo thứ hai và mãi tới đầu 1931 mới hoàn thành nó, nhưng vẫn còn có những
chỉnh sửa quan trọng khác sau đó. Đây là tác phẩm gây khó cho Virginia Woolf nhất,
khiến bà lao tâm khổ tứ nhiều nhất, mất thời gian nhiều nhất trong quá trình tạo
tác so với toàn bộ các tiểu thuyết khác của bà. Một phần vì mong muốn chảy bỏng
viết ra một tác phẩm mà theo bà là “tác phẩm đầu tiên của tôi theo phong cách của
chính tôi” (“my first book in my own style” – Diary IV, 1983, tr. 53). Phần
khác là vì những hồi ức thương tâm đối với người anh trai Thoby đã mất, mà bà bắt
buộc phải gợi lại, vì ông là nguyên mẫu của nhân vật Percival.
Đây cũng là một tác phẩm cực kỳ
thách thức, cực kỳ khó đọc, thậm chí đối với những độc giả mà tiếng Anh là tiếng
mẹ đẻ. Nhưng tôi hy vọng rằng với các độc giả
đã quen với văn phong của tác giả qua các tác phẩm khác như Tới ngọn hải đăng, Bà Dalloway hoặc Căn phòng của Jacob, sự tiếp cận và cảm
thụ Những lớp sóng sẽ ở một mức độ lạc
quan hơn rất nhiều. Nói như thế, không có nghĩa rằng đây là một tác phẩm không
đáng đọc. Cho tới nay, nó được đại đa số các nhà nghiên cứu phê bình và một số
lượng tương đối các độc giả yêu thích tác phẩm văn chương hiện đại đánh giá rất
cao. Có vô số công trình nghiên cứu, không thể liệt kê hết ra đây, phân tích và
đánh giá Những lượn sóng từ các góc độ
khác nhau như văn học, triết học, nhân văn, kinh tế chính trị, phê bình sinh
thái… Bản thân tôi cũng chỉ có thời gian để đọc lướt qua vài tác phẩm tình cờ
tìm được trên mạng trong số đó, chẳng hạn như Porous Identity in Virginia Woolf’s The Waves: Anticipating a Digital
Subjectivity của Tiến sĩ Elise Takehana (University of Florida), The mind grows rings – Mindscape, Lanscape and the Biotic
Community in Virginia Woolf’s The Waves của
tác giả Hesinggin Yliopisto (University of Hensingki), một luận văn cao học thuộc lĩnh
vực phê bình sinh thái, hoặc “One World
One Life”: the Politics of Personal Connection in Virginia Woolf’s The Waves
của Jocelyn Rodal (MIT).
Dù không thành công về mặt thương
mại, Những lớp sóng được công nhận rộng
rãi là một tuyệt phẩm văn chương hiện đại. Trong cuộc bình chọn do BBC tổ chức
vào năm 2015 với sự tham dự của 77 nhà phê bình văn học từ khắp nơi trên thế giới
(không có ai là người Anh), tác phẩm này được xếp hạng thứ 16 trong số 100 tiểu
thuyết Anh hay nhất mọi thời đại.
Tác phẩm này cũng khơi gợi cảm hứng
cho một số tác phẩm âm nhạc. Nhà soạn nhạc nổi tiếng người Canada Gary Kulesha đã viết tác phẩm The Boughs of
Music. Tựa đề của bản giao hưởng
này là một cụm từ trong The Waves (trong độc thoại của Rhoda).
Khi Virginia qua đời, mười năm
sau khi Những lớp sóng được công bố,
Leonard Woolf, chồng bà, đã khắc hai dòng cuối của Những lớp sóng lên tấm bia mộ nơi đặt tro cốt của bà ở sân sau tòa
nhà Monk’s House ở Rodmell:
“Để chống lại ngươi, ta sẽ
lao tới trước, bất khả chiến bại và bất khuất, hỡi Cái chết!
Những lượn
sóng vỡ tung trên bờ biển.”
(“Against you I will fling myself, unvanquished and unyielding, O Death!
The waves
broke on the shore”)
Nhân
tiện, tôi xin giải thích đôi lời về tựa đề của bản dịch này. Tôi chọn Những lớp sóng thay vì Những lượn sóng, bởi Những lớp sóng hàm ý nhiều hơn. Những lớp
sóng vừa bao gồm những lượn sóng ở một thời điểm cụ thể, như những thời điểm cụ
thể trong chín phần của The Waves, vừa
chỉ ra sự biến thiên thay đổi, lớp sóng này thế chỗ cho lớp sóng kia, thế hệ
này thế chỗ cho thế hệ kia. Như một câu đã trở thành sáo ngữ nhưng vẫn có một ý
nghĩa hay ho nhất định: “Sóng Trường Giang lớp sau xô lớp trước”.
Cuối
cùng, tôi xin mượn vài dòng nhận xét của nhà văn Anh trẻ tuổi và nổi tiếng
đương thời Amy Sackville thay cho
lời kết của phần giới thiệu này:
Tôi đọc cuốn sách này lần đầu có lẽ vào năm mười sáu tuổi; tôi từng nghe nói nó là cuốn tiểu thuyết khó đọc nhất của Woolf, và, vốn là một cô gái cứng đầu, tôi đã quyết định rằng đây là nơi để bắt đầu [nghiên cứu] sự nghiệp
văn chương của bà…. với tư
cách một độc giả, một nhà văn, tôi thường xuyên quay lại, vì tính chất trữ tình, u sầu, nhân văn của nó. Bản chất của cái tôi, sự suy
nghiệm về thế giới bằng những ngôn từ, cái cách thức mà trong đó cả hai vấn đề
đều bất khả giải quyết; đây là những mối quan tâm mà tôi quay lại hết lần này
sang lần khác. ‘Điều gì nằm bên dưới sự giống nhau của sự vật’; ‘Tôi cần một
ngôn ngữ nhỏ nhẻ như thứ ngôn ngữ mà những cặp tình nhân sử dụng’; có những cụm
từ cứ tràn qua bờ tâm trí xao lãng của tôi, lặp đi lặp lại, một phần của nhịp
điệu nội tâm của tôi, mỗi lần lại xuất hiện theo cách khác nhau.”
Vì là một tác phẩm rất khó đọc,
dĩ nhiên Những lớp sóng cũng là một
tác phẩm rất khó dịch. Vì vậy mong độc giả lượng thứ nếu có chi tiết nào sơ thất
trong bản dịch, và tôi rất mong nó được đón nhận với niềm đồng cảm. Xin trân trọng
cám ơn.
Sài Gòn, ngày 23/10/2019
Nguyễn Thành Nhân
1
Mặt trời chưa mọc. Không thể phân biệt giữa biển và trời, ngoại trừ việc
mặt biển hơi gờn gợn, giống như những nếp nhăn trên một mảnh vải. Khi bầu trời
rạng dần, một vạch sậm nằm trên chân trời tách biển khỏi bầu trời và tấm vải
xám biến thành vải sọc, với những đường sọc dày di động, sọc này nối tiếp sọc
kia bên dưới bề mặt, chạy theo nhau, đuổi theo nhau, liên miên không dứt.
Khi chúng tới gần bờ, từng đường sọc dựng lên, cuộn thành khối, vỡ tung, và
quét một màn nước trắng mỏng manh qua bãi cát. Lượn sóng dừng lại, rồi rút lui,
thở dài như một kẻ ngủ mê, hơi thở đến và đi trong vô thức. Dần dà, đường vạch
sậm trên chân trời trở nên trong trẻo, như thể chất cặn trong một chai rượu
vang cũ đã lắng xuống và trả lại màu xanh cho cái ly. Phía sau nó, bầu trời
cũng trong dần, như thể chất cặn màu trắng ở đó đã lắng xuống, hay như thể cánh
tay của một phụ nữ đang nằm bên dưới chân trời đã giơ lên một ngọn đèn, và
những vạch trắng, lục và vàng mịn màng trải ngang qua bầu trời như những nan
quạt của một chiếc quạt xếp. Rồi nàng nâng ngọn đèn lên cao hơn và dường như
không gian bị tách thành từng thớ sợi từ bề mặt màu lục, lung linh và bùng cháy
trong những thớ sợi đỏ và vàng như ánh lửa mờ khói tỏa ra từ một viên pháo hoa.
Dần dần, những thớ sợi của viên pháo hoa tan chảy thành một làn sương mù, một
sự nóng chảy nâng sức nặng của bầu trời màu len xám lên tới đỉnh và biến nó
thành một triệu nguyên tử của màu xanh êm dịu. Bề mặt của biển dần trở nên
trong suốt và gợn sóng lăn tăn, lấp lánh, cho tới khi những đường sọc tối hầu
như bị xóa sạch. Cánh tay cầm ngọn đèn chậm rãi nâng nó lên cao hơn, cao hơn nữa,
cho tới khi một ánh lửa tỏa rộng hiện ra; một vòng cung lửa bùng cháy trên mép
chân trời, và biển tỏa ánh vàng quanh nó.
Ánh sáng đổ xuống những cây cối trong vườn, khiến một chiếc lá trở nên
trong suốt, rồi tới chiếc lá khác. Một con chim cất tiếng líu lo từ tít trên
cao; rồi dừng lại; một con khác líu lo đáp lại ở mé thấp hơn. Mặt trời làm cho
những bức tường của ngôi nhà trở nên sắc nét, rồi đáp xuống, như chóp của một
chiếc quạt xếp, trên một tấm màn trắng và tạo ra một dấu vân tay màu xanh bên
dưới chiếc lá cạnh cửa sổ phòng ngủ. Tấm màn lay động khẽ, nhưng tất cả mọi thứ
bên trong đều mờ tối mơ hồ. Lũ chim hát lên giai điệu không lời của chúng ở bên
ngoài.
“Mình nhìn thấy một chiếc nhẫn treo lơ lửng bên trên. Nó lay động và lơ
lửng trong một vòng ánh sáng.” Bernard nói.
“Mình nhìn thấy một mảng vàng nhạt đang lan ra mãi cho tới khi gặp
một vạch màu tía.” Susan nói.
“Mình nghe một âm thanh, chiêm chiếp, chiêm chiếp; vút cao rồi hạ thấp.”
Rhoda nói.
“Mình nhìn thấy một quả cầu chảy nhẻo xuống thành giọt nước ớ bên sườn một
ngọn đồi lớn.” Neville nói.
“Mình nhìn thấy một núm tua đỏ thắm được se lẫn với chỉ vàng.” Jinny nói.
“Mình nghe thấy con gì đó đang dậm chân. Một chân của con thú lớn bị xiềng.
Nó dậm, dậm, dậm mãi.”
“Nhìn tấm mạng nhện ở góc ban công kia xem. Trên đó có những giọt nước,
những giọt ánh sáng trắng.” Bernard nói.
“Những chiếc lá bao quanh cửa sổ giống như hai cái tai nhọn.” Susan nói.
“Một cái bóng đổ trên con đường mòn giống như một khuỷu tay gập lại.” Louis
nói.
“Những đảo ánh sáng đang bơi trên cỏ. Chúng đã rơi qua những tàng cây.”
Rhoda nói.
“Mắt của lũ chim sáng rực trong những đường hầm giữa những chiếc lá.”
Neville nói.
“Những cuống lá phủ đầy những sợi lông thô ngắn và những giọt nước bám vào
chúng.” Jinny nói.
“Một con sâu bướm cuộn thành một vòng tròn màu xanh, phân đốt, với những
cái chân ngắn ngủn.” Susan nói.
“Con ốc sên vỏ xám bò ngang đường mòn và đè bẹp những phiến lá cỏ phía sau
nó.” Rhoda nói.
“Và những ánh sáng bùng lên từ kính cửa sổ phán chiếu lấp lóe trên bãi cỏ.”
Louis nói.
“Hai bàn chân của mình bị lạnh vì những hòn đá. Mình cảm nhận được từng hòn
riêng biệt, tròn hay nhọn.” Neville nói.
“Mu bàn tay của mình đang bốc cháy, nhưng lòng bàn tay thì lạnh và ẩm ướt
vì sương.” Jinny nói.
“Lúc này con gà trống cất tiếng gáy như một tia nước cứng, đỏ vọt ra từ
thủy triều trắng.” Bernard nói.
“Lũ chim đang hót từ mọi nơi quanh chúng ta, trầm và bổng, trong và ngoài.”
Susan nói.
“Con thú dậm chân; con voi với một chân bị xiềng; con thú lớn trên bãi biển
dậm chân.” Louis nói.
“Nhìn ngôi nhà kia, với mọi cửa sổ đều trắng xóa với những tấm màn.” Jinny
nói.
“Trong phòng rửa bát, nước lạnh bắt đầu chảy từ cái vòi nước lên con cá thu
trong cái bát.” Rhoda nói.
“Những bức tường nứt nẻ với những vết rạn màu vàng, và có những cái bóng
màu xanh giống như những ngón tay của những chiếc lá gần cửa sổ.” Bernard nói.
“Bây giờ bà cụ Constable đang kéo đôi tất dày màu đen của mình lên.” Susan
nói.
“Khi khói bốc lên, giấc ngủ cuộn ra khỏi mái nhà như một làn sương mù.”
Louis nói.
“Lũ chim đồng thanh hót trước tiên. Rồi cánh cửa phòng rửa bát mở ra. Chúng
bay ùa đi. Chúng bay ùa đi như một nắm hạt bị ném vung vải. Nhưng có một chú
chim hót một mình cạnh cửa sổ phòng ngủ.” Rhoda nói.
“Những bọt nước xuất hiện trong lòng của cái chảo. Rồi chúng dâng lên, ngày
càng nhanh, trong một chuỗi màu bạc, tới mép chảo.” Jinny nói.
“Lúc này Billy đánh vẩy cá bằng một con dao mẻ trên một tấm thớt.” Neville
nói.
“Lúc này cửa sổ phòng khách màu xanh thẫm, và không khí gợn sóng lăn tăn
bên trên những ống khói.” Bernard nói.
“Một con chim sẻ đang đậu trên cột thu lôi. Và Biddy đã đặt mạnh cái xô
xuống nền nhà bếp.” Susan nói.
“Đó là tiếng điểm giờ đầu tiên của chuông nhà thờ. Rồi những cái chuông
khác điểm giờ theo; một, hai; một, hai; một, hai.” Louis nói.
“Hãy nhìn tấm vải trải bàn bay phấp phới dọc theo cái bàn kia. Lúc này có
những bộ tách bằng sứ trắng, và những vệt màu bạc bên cạnh mỗi cái đĩa.” Rhoda
nói.
“Đột nhiên một con ong kêu vo vo trong tai mình. Nó ở đây; nó đã lướt qua.”
Neville nói.
“Mình bốc cháy, mình run rẩy, rời khỏi mặt trời này, bước vào bóng tối
này.” Jinny nói.
“Giờ cả bọn đã đi khỏi.” Louis nói. “Chỉ còn lại một mình mình. Chúng đã
vào nhà để ăn sáng, bỏ mình đứng đây cạnh bức tường, giữa những khóm hoa. Trời
còn rất sớm, trước giờ học. Bông hoa này kế tiếp bông hoa kia rải rác giữa
những chiều sâu xanh ngắt. Những cánh hoa là những chú hề. Những cuống hoa nhú
lên từ những chỗ trũng tối đen bên dưới. Những bông hoa bơi như đàn cá được tạo
thành từ ánh sáng bên trên mặt nước xanh thẫm. Mình cầm một cái cuống hoa trong
tay. Mình là cái cuống hoa. Rễ của mình cắm xuống những chiều sâu của thế giới,
qua đất khô và gạch, và đất ẩm, qua những mạch quặng chì và bạc. Cả người mình
là thớ sợi. Mọi chấn động khiến mình chao đảo, và trọng lượng của quả đất ép
mạnh lên những xương sườn của mình. Ở trên này mắt mình là những chiếc lá xanh,
không nhìn thấy. Ở trên này mình là một thằng bé mặc đồ bằng vải fla-nen xám
với một cái thắt lưng được khóa lại bởi một con rắn bằng đồng. Ở dưới đó mắt
mình là đôi mắt không có mí của một pho tượng đá trong một sa mạc cạnh sông
Nile.
Mình nhìn thấy những người đàn bà đi ngang qua để ra sông với những bình đựng
nước màu đỏ; mình nhìn thấy lũ lạc đà bước đi với thân hình lắc lư qua lại và
những người đàn ông đội khăn xếp. Mình nghe thấy những tiếng dậm chân, những
rung động, những huyên náo quanh mình.
Ở trên này Bernard, Neville, Jinny và Susan (nhưng không
có Rhoda) đang cầm vợt bắt bướm lướt qua những luống hoa. Chúng chụp những con
bướm chập chờn trên những nụ hoa lay động. Chúng quét những cái vợt qua bề mặt
thế gian. Vợt của chúng đầy những cánh bướm lao xao. "Louis! Louis!
Louis!" Chúng hét to. Nhưng chúng không thể nhìn thấy mình. Mình đang ở mé
bên kia bờ rào. Chỉ có những khe hở nhỏ xíu giữa những chiếc lá. Chà, cứ mặc
cho chúng đi qua. Chà, cứ mặc cho chúng đặt lũ bướm lên một chiếc khăn tay trải
trên lớp sỏi. Cứ mặc cho chúng đếm những con bướm đốm nâu, bướm vạch đỏ và bướm
trắng đốm đen. Nhưng đừng để chúng nhìn thấy mình. Mình xanh như một cây thủy
tùng trong bóng râm của bờ rào. Tóc của mình được làm bằng lá. Mình đâm rễ vào
giữa lòng trái đất. Cơ thể mình là một cái cuống hoa. Mình ấn lên cái cuống
hoa. Một giọt rỉ ra từ cái lỗ ở miệng dần dần dày hơn, dần dần to hơn. Ngay lúc
này, một thứ gì đó hồng hồng lướt qua kẻ lá. Ngay lúc này một ánh mắt xuyên qua
kẻ lá. Ánh mắt ấy rọi vào mình. Mình là một thằng bé mặc bộ đồ xám bằng vải
fla-nen. Jinny đã tìm thấy mình. Mình bị vỗ nhẹ lên gáy. Nó đã hôn mình. Mọi thứ
đều tan vỡ.”
“Mình đang chạy, sau khi ăn sáng.” Jinny nói. “Mình nhìn
thấy những chiếc lá lay động ở một khe hở trên bờ rào. Mình nghĩ, ‘Đó là một
con chim đang nằm trong tổ.’ Mình vạch những chiếc lá ra và nhìn; nhưng không
có con chim nằm trong tổ nào hết. Lá cây vẫn tiếp tục lay động. Mình thấy sợ.
Mình chạy ngang qua Susan, qua Rhoda, và Necille và Bernard đang nói chuyện
trong nhà kho chứa dụng cụ làm vườn. Mình hét lên trong lúc chạy càng lúc càng
nhanh. Cái gì khiến cho những chiếc lá rung rinh? Cái gì làm cho tim mình xao động,
chân mình run rẩy? Và mình lao tới đây, nhìn thấy đằng ấy xanh ngắt như một bụi
cây, như một cành cây, rất tĩnh lặng, Louis ạ, với đôi mắt bất động. ‘Bạn ấy chết
rồi sao?’ Mình nghĩ, và hôn đằng ấy, với trái tim đập rộn lên bên dưới cái váy
hồng của mình, giống như những chiếc lá, vốn vẫn tiếp tục rung rinh, dù không
có gì tác động tới chúng. Giờ mình ngửi thấy mùi hoa phong lữ; mình ngửi thấy
mùi đất xốp. Mình nhảy múa. Mình gợn lên như những làn sóng lăn tăn. Mình trùm
lên đằng ấy như một tấm lưới ánh sáng. Mình run rẩy gieo người lên đằng ấy.”
“Mình nhìn thấy nó hôn bạn ấy qua kẻ lá trên bờ rào.” Susan nói. “Mình
ngẩng đầu lên khỏi cái chậu hoa và nhìn qua một kẻ lá trên bờ rào. Mình nhìn
thấy nó hôn bạn ấy. Mình nhìn thấy chúng, Jinny và Louis, đang hôn nhau. Giờ
mình sẽ gói nỗi đau khổ của mình trong chiếc khăn tay. Nó sẽ bị vo chặt thành một cuộn tròn. Mình sẽ đi tới rừng sồi một mình, trước giờ học.
Mình sẽ không ngồi ở một cái bàn, làm những bài toán số học. Mình sẽ không ngồi
cạnh Jinny và Louis nữa. Mình sẽ mang niềm đau khổ của mình tới và đặt nó lên
trên những rễ cây bên dưới những tán sồi xanh. Mình sẽ kiểm tra nó và cầm nó
giữa những ngón tay. Chúng sẽ không tìm thấy mình. Mình sẽ ăn quả hạch và nhìn
kỹ những quả trứng qua những bụi mâm xôi, mái tóc của mình sẽ bị rối bù và mình
sẽ ngủ dưới những bờ rào, uống nước từ những cái mương và chết tại đó.”
“Susan mới đi ngang qua bọn mình.” Bernard nói. “Nó đã đi
qua cửa kho chứa dụng cụ với chiếc khăn tay bị vo tròn. Nó không khóc, nhưng
đôi mắt, vốn rất đẹp, thu hẹp lại như mắt lũ mèo trước khi phóng tới. Mình sẽ
đi theo nó, Neville ạ. Mình sẽ khẽ khàng đi phía sau nó, với đầu óc tò mò, và sẵn
sàng an ủi nó ngay khi nó nổi cơn thịnh nộ và nghĩ: ‘Tôi cô đơn.’
“Lúc này nó băng ngang cánh đồng với một nhịp đi nhún nhảy,
thờ ơ, để đánh lừa bọn mình. Rồi nó đi tới chỗ đất trũng; nó nghĩ không bị bọn
mình trông thấy; nó bắt đầu chạy với hai bàn tay nắm chặt vung ra phía trước.
Những cái móng tay của nó gặp nhau trong chiếc khăn tay cuộn tròn. Nó đang hướng
tới khu rừng sồi ở mé ngoài vùng ánh sáng. Nó dang rộng hai tay khi tới đó và
chìm vào bóng tối như một người đang bơi. Nhưng nó bị lóa mắt do chạy từ nơi
sáng vào nơi tối và tự quăng mình lên lớp rễ bên dưới tán cây, nơi ánh sáng dường
như khi mờ khi tỏ. Những cành cây chĩa lên trên và xuống dưới. Có tâm trạng đau
buồn và bối rối ở đây. Có bóng tối ảm đạm. Ánh sáng chập chờn. Có nỗi thống khổ
ở đây. Rễ cây tạo thành một bộ xương trên mặt đất, với những chiếc lá chết chất
đống ở các góc. Susan đã trải nỗi thống khổ của mình ra. Nó đặt chiếc khăn tay
lên lớp rễ của những cây sồi và khóc nức nở, ngồi co ro ngay tại nơi đã bị té
nhào.”
“Mình thấy nó hôn bạn ấy.” Susan nói. “Mình nhìn qua kẻ
lá và trông thấy nó. Nó nhảy múa với những ánh sáng lóng lánh như bụi kim
cương. Và mình đang ngồi chồm hỗm, Bernard ạ, mình thấp nhỏ mà. Mình có đôi mắt
nhìn thấy rõ mặt đất và những côn trùng trong cỏ. Nắng vàng ấm áp ở phía của
mình biến thành đá khi mình thấy Jinny hôn Louis. Mình sẽ ăn cỏ và chết trong một
con mương đục ngầu nơi những chiếc lá chết đã mục rửa.”
“Mình trông thấy đằng ấy đi.” Bernard nói. “Khi đằng ấy
đi ngang cửa nhà kho chứa công cụ, mình nghe đằng ấy khóc và nói, ‘Tôi thật bất
hạnh.’ Mình đặt con dao xuống. Mình đang gọt gỗ để làm những chiếc thuyền con với
Neville. Và tóc của mình khá bù xù, vì khi bà Constable bảo mình chải tóc, có một
con ruồi vướng vào mạng nhện và mình tự hỏi: ‘Mình có nên giải thoát cho con ruồi
không? Hay cứ mặc cho nó bị xơi tái?’ Mình vẫn luôn chậm trễ như thế đó. Tóc
mình chưa được chải và dính đầy vụn gỗ. Khi nghe đằng ấy khóc, mình đi theo sau và thấy đằng ấy đặt chiếc khăn
tay xuống, với những nút thắt chứa đầy giận dữ và căm ghét. Nhưng điều đó sẽ sớm
kết thúc. Giờ cơ thể chúng ta đang rất gần nhau. Đằng ấy nghe mình thở. Đằng ấy
cũng nhìn thấy một con bọ cánh cứng đang cõng trên lưng một chiếc lá. Nó bò về
phía này rồi về phía nọ, khiến ngay cả khao khát chiếm hữu một thứ độc nhất của
đằng ấy (hiện giờ là Louis), cũng phải chập chờn chao động, như ánh sáng khi mờ
khi tỏ dưới tán sồi, trong lúc đằng ấy quan sát con bọ; và rồi những ngôn từ,
đang âm thầm di động trong tầng sâu tâm trí sẽ gỡ bung cái nút thắt này trên
chiếc khăn tay của đằng ấy.”
“Mình yêu,” Susan nói, “và mình ghét. Mình chỉ
mong muốn một điều. Mắt mình rất tinh. Mắt của Jinny vỡ ra thành một ngàn ánh
sáng. Mắt của Rhoda giống như những bông hoa nhợt nhạt mà lũ bướm đêm tìm tới
lúc đêm về. Mắt của đằng ấy chững chạc,
chân thành và không bao giờ dao động. Nhưng mình đã nhất quyết với theo đuổi của
mình. Mình nhìn thấy những con côn trùng trong cỏ. Dù mẹ mình vẫn đan cho mình
những đôi tất trắng và những cái áo khoác không tay viền vải và mình là một đứa
bé con, mình yêu và mình ghét.”
“Nhưng khi bọn mình ngồi bên
nhau,” Bernard nói, “bọn mình tan chảy vào nhau với những cụm từ. Sương mù viền
quanh bọn mình. Bọn mình tạo ra một lãnh thổ phi vật chất.”
“Mình nhìn thấy con bọ cánh cứng.”
Susan nói. “Nó màu đen, mình nhìn thấy; nó màu xanh, mình nhìn thấy; mình bị cột
chặt với những từ đơn lẻ. Nhưng đằng ấy tha hồ ba hoa chích chòe, đằng ấy nói
năng lưu loát; đằng ấy vươn lên cao hơn, với những từ này từ khác trong những cụm
từ.”
“Bây giờ chúng
ta hãy khám phá.” Bernard nói. “Có ngôi nhà màu trắng nằm giữa khu rừng. Cho đến nay
nó nằm ở đó, bên dưới bọn mình. Bọn mình sẽ chìm như những người đang bơi chỉ
chạm đất bằng đầu ngón chân. Bọn mình sẽ chìm qua không gian màu xanh của cây
lá, Susan ạ. Bọn mình chìm trong lúc chạy. Những lượn sóng khép lại bên trên bọn
mình, những chiếc lá sồi gặp nhau trên đầu bọn mình. Có cái đồng hồ bền bỉ với
những cây kim mạ vàng lấp lánh. Kia là những căn phòng và mái nhà cao của ngôi
nhà rộng lớn. Trong sân có thằng bé chăm nom chuồng ngựa đi ủng cao su. Đó là
Elvedon.”
“Bây giờ bọn mình đã rơi qua ngọn cây xuống đất. Không
khí không còn cuộn những lượn sóng tím, dài, buồn bã qua bọn mình nữa. Bọn mình
chạm đất; bọn mình bước đi trên mặt đất. Đó là bờ rào vừa được xén của khu vườn
của các quý bà. Ban trưa họ xách kéo ra đó để xén những cây hoa hồng. Giờ chúng
ta đang ở trong khu vườn có tường bao quanh. Đây là Elvedon. Mình đã trông thấy các bảng chỉ dẫn ở ngã tư đường với một
cánh tay chỉ ‘Đến Elvedon’. Chưa từng có ai tới đó. Những lùm dương xỉ có mùi rất
nồng, và có những cây nấm đỏ mọc bên dưới chúng. Bây giờ bọn mình đánh thức lũ
quạ gáy xám đang ngủ vốn chưa từng nhìn thấy bóng người nào; bây giờ bọn mình dẫm
lên những cái vú lá sồi
mục rửa, đỏ ửng do lâu ngày, và trơn trợt. Có một vòng tường bao quanh khu rừng
này; không có ai đến đây cả. Hãy lắng nghe kìa! Đó là tiếng nhảy lạch bạch của
một con cóc bự kếch xù trong lùm cây thấp; đó là tiếng chạm đất của quả linh
sam già cổi nào đó, rơi xuống để hoai mục giữa những lùm dương xỉ.”
“Hãy đặt chân lên viên gạch này. Nhìn qua bức tường. Đó
là Elvedon. Vị phu nhân đang ngồi viết giữa hai ô cửa sổ dài. Những người làm
vườn đang quét dọn bãi cỏ với những cây chổi to tướng. Bọn mình là những người
đầu tiên đến đây. Bọn mình là kẻ khám phá ra một vùng đất chưa ai biết tới. Đừng
làm ồn; nếu những người làm vườn trông thấy bọn mình, họ sẽ bắn bọn mình. Bọn
mình phải đứng im như thóc. Kìa! Đừng nhúc nhích. Hãy bám chặt những nhành
dương xỉ trên đỉnh bức tường.”
“Mình nhìn thấy quý bà đang viết. Mình nhìn thấy những
người làm vườn đang quét rác.” Susan nói. “Nếu bọn mình chết ở đây, sẽ không có
ai chôn bọn mình đâu.”
“Chạy!” Bernard nói. “Chạy! Người làm vườn có bộ râu đen
đã nhìn thấy bọn mình! Bọn mình sẽ bị bắn! Bọn mình sẽ bị bắn như những con
chim giẻ cùi và bị ghim vào tường! Bọn
mình đang ở trong một đất nước thù địch.
Bọn mình phải trốn vào rừng sồi. Bọn mình phải nấp dưới những tán cây.
Mình đã bẻ một nhánh cây làm dấu trên đường tới đây. Có một lối mòn bí mật. Cố
khom người càng thấp càng tốt. Cứ theo mình và đừng nhìn lại. Họ sẽ nghĩ bọn
mình là những con cáo. Chạy!”
“Giờ thì an toàn rồi. Giờ bọn mình có
thể đứng thẳng người trở lại. Giờ bọn mình có thể dang tay dưới vòm cây cao
này, trong khu rừng rộng lớn này. Mình không nghe thấy gì. Đó chỉ là tiếng lao
xao của những làn sóng trong bầu không khí. Đó chỉ tiếng một con bồ câu rừng
đang rời khỏi chỗ nấp trên ngọn cây sồi. Nó đang vỗ đập không khí; nó đang vỗ đập
không khí với đôi cánh gỗ.”
“Khi thì đằng ấy hạ giọng,” Susan nói, “tạo nên những cụm
từ. Khi thì đằng ấy vươn lên như một sợi dây bóng bay, càng lúc càng cao qua những
tầng lá, vượt xa tầm với. Khi thì đằng ấy tụt lại phía sau. Khi thì đằng ấy kéo
váy mình, ngoái nhìn lại, tạo nên những cụm từ. Đằng ấy đã trốn thoát khỏi tay
mình. Đây là khu vườn. Đây là bờ rào. Đây là Rhoda trên con đường mòn, đang đu
đưa tới lui những cánh hoa trong cái thau màu nâu của nó.”
“Tất cả những con tàu của mình đều là màu trắng.” Rhoda
nói. “Mình không muốn những cánh hoa thục quỳ hay phong lữ màu đỏ. Mình muốn những
cánh hoa trắng bồng bềnh khi mình chao nghiêng cái chậu. Mình có một đoàn tàu
đang bơi từ bờ này sang bờ kia. Mình sẽ thả một nhánh cây để làm bè cho một thủy
thủ bị đắm tàu. Mình sẽ thả một hòn đá vào và thấy bong bóng nổi lên từ đáy biển.
Neville đã đi và Susan đã đi; có lẽ Jinny đang ở trong vườn nhà bếp hái nho với
Louis. Mình có một thời gian ngắn một mình, trong khi cô Hudson trải những cuốn
vở tập viết của bọn mình lên cái bàn trong phòng học. Mình có một không gian tự
do ngắn ngủi. Mình đã nhặt tất cả những cánh hoa rơi và cho chúng bơi. Mình đã
gieo rắc những giọt mưa lên một số cánh hoa. Mình sẽ dựng một ngọn hải đăng ở
đây, với một chùm hoa cải gió. Và bây giờ mình sẽ đu đưa cái chậu nâu từ bên
này sang bên kia để những con tàu có thể cưỡi lên sóng. Một số sẽ bị chìm. Một
số sẽ lao mình vào vách đá. Một con tàu lênh đênh một mình. Đó là con tàu của mình. Nó tiến vào những hang động
băng giá nơi những con gấu Bắc cực gầm gừ và những thạch nhũ đong đưa những chuỗi
màu xanh. Những lượn sóng nổi lên; đỉnh của chúng cuộn tròn; hãy nhìn những ngọn
đèn trên đỉnh cột buồm. Chúng đã ly tán, chúng đã bị chìm, tất cả, ngoại trừ
con tàu của mình; nó cưỡi lên sóng, lướt nhanh ở phía trước cơn bão và đi tới
những hòn đảo nơi lũ vẹt huyên thuyên ríu rít và những loài dây leo…”
“Bernard đâu rồi?” Neville nói. “Nó giữ con dao của mình.
Bọn mình đang ở trong nhà kho làm những chiếc thuyền và Susan đi ngang qua cửa.
Thế là Bernard bỏ rơi chiếc thuyền và đi theo nó, mang theo con dao của mình,
con dao sắc bén dùng để gọt thuyền. Nó giống như một sợi dây treo lơ lửng, một
sợi dây chuông bị đứt, luôn luôn vặn vẹo. Nó giống như mớ rong biển treo ngoài
cửa sổ, khi ẩm ướt, khi khô ráo. Nó bỏ mặc mình trong tình cảnh khó khăn, nó đi
theo Susan; và nếu Susan khóc, nó sẽ đưa con dao của mình ra và kể cho con nhỏ
đó nghe những câu chuyện. Lưỡi dao lớn là một hoàng đế; lưỡi dao mẻ là một gã
da đen. Mình ghét những thứ lơ lửng; mình ghét những thứ ẩm ướt. Mình ghét đi
lang thang và trộn lẫn mọi thứ với nhau. Giờ chuông đang reo và bọn mình sẽ bị
trễ. Giờ bọn mình phải rời bỏ những món đồ chơi. Giờ bọn mình phải cùng tới lớp.
Những quyển vở tập viết được đặt cạnh nhau trên cái bàn phủ nỉ xanh.”
“Mình sẽ không chia động từ,” Louis nói, “cho đến khi
Bernard làm việc đó. Cha mình là một nhân viên ngân hàng ở Brisbane và mình nói
bằng giọng Úc. Mình sẽ chờ và bắt chước Bernard. Nó là người Anh. Tất cả bọn
chúng đều là người Anh. Cha của Susan là một giáo sĩ. Rhoda không có cha.
Bernard và Neville là con trai của các quý ông. Jinny sống với bà ngoại ở
London. Khi thì chúng ngậm bút. Khi thì chúng xoắn những cuốn vở tập viết của
chúng, và nhìn trộm cô Hudson, đếm các nút áo màu tím trên ngực áo của cô.
Bernard có một vụn gỗ trên mái tóc. Mắt của Susan hoe đỏ. Cả hai đều đỏ bừng mặt
mũi. Nhưng mình nhợt nhạt; mình gọn gàng, và cái quần ống túm của mình được giữ
chặt trên eo bằng một chiếc thắt lưng có một con rắn bằng đồng. Mình thuộc lòng
bài học. Mình biết nhiều hơn những gì chúng sẽ biết. Mình biết những điều kiện
và giới tính của mình; mình có thể biết mọi thứ trên đời nếu muốn. Nhưng mình
không muốn bước lên vị trí hàng đầu và đọc bài học của mình. Cội rễ của mình được
xâu chuỗi lại, giống những thớ sợi trong chậu hoa, cuộn tròn quanh thế giới.
Mình không muốn bước tới vị trí hàng đầu và sống trong ánh sáng của chiếc đồng
hồ to, mặt vàng, với những tiếng tích tắc tích tắc này. Jinny và Susan, Bernard
và Neville liên kết với nhau thành một sợi dây da nhằm quất vào mình. Chúng chế
nhạo sự ngăn nắp của mình, giọng Úc của mình. Giờ mình sẽ cố gắng bắt chước
Bernard nhẹ nhàng bập bẹ tiếng Latin.”
“Đó là những từ trắng,” Susan nói, “giống như những hòn đá người ta nhặt
được trên bờ biển.”
“Chúng quật đuôi sang phải và trái khi mình lên tiếng.”
Bernard nói. “Chúng quật đuôi; chúng vẫy đuôi; chúng di chuyển qua không khí
theo bầy, lúc hướng này, lúc hướng kia, tất cả cùng nhau di chuyển, lúc chia rẽ,
lúc đoàn kết.”
“Đó là những từ màu vàng, đó là những từ bốc lửa.” Jinny
nói. “Mình thích một chiếc váy bốc lửa, một chiếc váy màu vàng, một chiếc váy
màu da bò để mặc vào buổi tối.”
“Mỗi thì [tense] có một ý nghĩa khác nhau.” Neville nói.
“Có một trật tự trong thế giới này; có sự phân biệt, có sự khác biệt trong thế
giới này, mình bước trên bờ của chúng. Bởi đây chỉ là một sự khởi đầu.”
“Giờ cô Hudson đã đóng cuốn sách lại.” Rhoda nói. “Giờ sự
kinh hoàng đang bắt đầu. Giờ cô ấy cầm cục phấn vẽ những con số sáu, bảy, tám, rồi
một hình chữ thập, rồi một đoạn thẳng trên bảng đen. Câu trả lời là gì? Những
người khác nhìn; họ nhìn với sự hiểu biết. Louis viết; Susan viết; Neville viết;
Jinny viết; ngay cả Bernard bây giờ cũng đã bắt đầu viết. Nhưng mình không thể
viết. Mình chỉ nhìn thấy những con số. Những người khác đang đưa ra câu trả lời
của họ, từng người một. Bây giờ đến lượt mình. Nhưng mình không có câu trả lời.
Những người khác được phép đi ra. Họ đóng sầm cửa. Cô Hudson đi ra. Mình còn lại
một mình để tìm một câu trả lời. Lúc này những con số chẳng có ý nghĩa gì. Ý
nghĩa đã biến mất. Đồng hồ tích tắc. Hai cây kim là đoàn xe diễu hành qua một
sa mạc. Các vạch đen trên mặt đồng hồ là những ốc đảo xanh. Cây kim dài đã tiến
lên phía trước để tìm nước. Cây kim còn lại loạng choạng một cách đau đớn giữa
những tảng đá nóng trên sa mạc. Nó sẽ chết trong sa mạc. Cánh cửa bếp đóng sầm
lại. Lũ chó hoang sủa ngoài xa. Coi kìa, vòng tròn của con số đang bắt đầu được
thời gian lấp đầy; nó cầm giữ thế giới trong đó. Mình bắt đầu vẽ một con số và
thế giới bị khép kín trong đó, và bản thân mình ở bên ngoài cái vòng tròn mà
lúc này mình muốn tham gia; nhưng nó đã bị niêm phong và trở nên toàn vẹn. Thế
giới thì toàn vẹn, và mình ở bên ngoài nó, đang khóc, ‘Ôi, hãy cứu giúp tôi, đừng
để tôi mãi mãi bị thổi ra bên ngoài vòng tròn của thời gian!’”
“Rhoda ngồi đó, trong lớp học, nhìn chằm chằm vào bảng
đen,” Louis nói, “trong khi bọn mình rong chơi đây đó, hái một mớ cỏ xạ hương ở
chỗ này, ngắt một lá ngải yêu ở chỗ kia, và Bernard kể một câu chuyện. Hai
xương bả vai của nó giao nhau trên lưng như đôi cánh của một con bướm nhỏ. Và
khi nó nhìn chằm chằm vào những con số viết bằng phấn, tâm trí nó cư ngụ trong
những vòng tròn trắng đó, tâm trí nó bước qua những vòng tròn trắng, đi vào cõi
trống rỗng, cô đơn. Chúng không có ý nghĩa gì với nó. Nó không có câu trả lời
cho chúng. Nó không có cơ thể như những người khác có. Và mình, kẻ nói bằng giọng
Úc, có cha là nhân viên ngân hàng ở Brisbane, không sợ nó giống như mình sợ những
đứa khác.”
“Bây giờ bọn mình hãy bò dưới vòm lá nho
và kể những câu chuyện.” Bernard nói. “Bọn mình hãy sống trong thế giới ngầm. Bọn
mình hãy chiếm hữu lãnh thổ bí mật này, được thắp sáng bởi những bụi nho Hy Lạp
đối xứng nhau như những chúc đài, phía này lóng lánh đỏ, phía kia đen. Ở đây,
Jinny ạ, nếu co người sát bên nhau, bọn mình có thể ngồi dưới vòm lá nho và
quan sát những cái lư hương đu đưa qua lại. Đây là vũ trụ của bọn mình. Những
người khác đi xuôi theo con đường dành cho xe ngựa. Váy của cô Hudson và cô
Curry quét qua như những cái chụp nến. Kia là đôi vớ trắng của Susan. Kia là
đôi giày đi cát gọn gàng của Louis in đậm dấu trên lớp sỏi. Ở đây có những cơn
gió ấm áp của lá cây đang phân hủy, của thảm thực vật mục nát. Bây giờ bọn mình
đang ở trong một đầm lầy; trong một khu rừng rậm. Có một con voi trắng bệch vì
lũ giòi, bị giết bởi một mũi tên chết người ghim vào mắt nó. Những đôi mắt sáng
của lũ chim năng động – chim ưng, kền kền - là
chuyện hiển nhiên. Chúng lầm tưởng bọn mình là những cái cây đã đổ.
Chúng nhắm tới một con sâu - đó là một con rắn hổ mang chúa - và tặng cho nó một
vết sẹo mưng mủ màu nâu mà lũ sư tử sẽ tiếp tục hành hạ. Đây là thế giới của
chúng ta, được vầng trăng lưỡi liềm và những vì sao thắp sáng; và những cánh
hoa lớn trong suốt nửa phần che chắn những chỗ trống như những ô cửa sổ màu
tím. Mọi thứ đều kỳ lạ. Những thứ rất lớn và rất nhỏ. Những cuống hoa to lớn
như cây sồi. Những chiếc lá cao như mái vòm của những thánh đường rộng lớn. Bọn
mình là những gã khổng lồ, đang nằm ở đây, những kẻ có thể làm cho những cánh rừng
rung chuyển.”
“Điều này là ở đây,” Jinny nói, “điều này là hiện giờ.
Nhưng bọn mình sẽ sớm đi thôi. Cô Curry sẽ sớm thổi còi. Bọn mình sẽ bước đi. Bọn
mình sẽ chia tay. Đằng ấy sẽ đi học. Đằng ấy sẽ có những ông thầy đeo thánh giá
và thắt cà vạt trắng. Mình sẽ có một cô giáo trong một trường học ở East Coast,
kẻ ngồi dưới một bức chân dung của Nữ hoàng Alexandra. Đó là nơi mình sẽ đến,
cùng với Susan và Rhoda. Điều này chỉ là ở đây; điều này chỉ là hiện giờ. Giờ bọn
mình nằm dưới những bụi nho và mỗi khi làn gió khuấy động, bọn mình bị lốm đốm
khắp cả người. Bàn tay của mình giống như da rắn. Hai đầu gối của mình là hai
hòn đảo nổi màu hồng. Khuôn mặt của đằng ấy giống như một cây táo có lưới treo
bên dưới.”
“Hơi nóng đang đến từ cánh rừng.” Bernard nói. “Những chiếc
lá vỗ những đôi cánh đen bên trên bọn mình. Cô Curry đã thổi còi ở sân trường.
Bọn mình phải bò ra khỏi cái mái hiên của những chiếc lá nho và đứng thẳng lên.
Có mấy nhánh cây nhỏ trên mái tóc của đằng ấy, Jinny ạ. Có một con sâu bướm
xanh trên cổ đằng ấy. Bọn mình phải chia thành từng cặp. Cô Curry đang yêu cầu
bọn mình bước nhanh chân, trong lúc cô Hudson ngồi ở bàn giấy xử lý những số
sách của cô.”
“Việc đi bộ dọc theo con đường lộ không có cửa sổ nào để
nhìn, không có đôi mắt thủy tinh màu xanh lam nào rơi xuống vỉa hè thật là buồn
tẻ.” Jinny nói.
“Bọn mình phải chia thành từng cặp,” Susan nói, “và đi
theo thứ tự, không lê bước, không tụt lại phía sau, Louis sẽ đi đầu, vì Louis
lanh lợi và không phải là một người hay mơ mộng.”
“Vì mình cho rằng mình quá yếu ớt để đi cùng với chúng,”
Neville nói, “vì mình rất dễ mệt mỏi và sau đó bị ốm, mình sẽ sử dụng giờ khắc
cô đơn này, sự từ bỏ cuộc trò chuyện này, để đi vòng men theo ngôi nhà và phục
hồi, nếu mình có thể, bằng cách đứng trên nấc giữa cầu thang, với những gì mình
đã cảm thấy khi nghe được qua cánh cửa tự động hồi đêm qua về người đàn ông đã
chết, khi người đầu bếp cứ đi ra đi vào để đưa những cái bánh nướng tro. Ông ta
được tìm thấy với cổ họng bị cắt đứt. Những chiếc lá của cây táo đã trở nên bất
động trên nền trời; trăng ngời sáng; mình không thể nhấc chân lên cầu thang.
Ông ta được tìm thấy trong rãnh nước. Máu của ông ta chảy òng ọc xuống rãnh.
Hàm dưới của ông ta trắng như một con cá tuyết đã chết. Mình sẽ mãi mãi gọi cái
chết khắc nghiệt, thê thảm này là ‘chết giữa những cây táo.’ Có những đám mây
xám nhạt trôi bềnh bồng; và cái cây không thể xoa dịu; cái cây không thể xoa dịu
với lớp vỏ cây ánh bạc của nó. Gợn sóng của cuộc đời mình là vô tác dụng. Mình
đã không thể vượt qua. Có một trở ngại. ‘Tôi không thể vượt qua trở ngại khó hiểu
này,’ mình nói. Và những người khác đã chết. Nhưng những cây táo, cái cây không
thể xoa dịu đó, mà bọn mình không thể vượt qua, là số phận của bọn mình, hết thảy
bọn mình.”
“Giờ thì sự khắc nghiệt và sự thê thảm đã kết thúc; và
mình sẽ tiếp tục cuộc khảo sát những vùng phụ cận của ngôi nhà vào lúc xế chiều,
dưới ánh hoàng hôn, khi mặt trời tạo nên những đốm dầu trên tấm vải sơn lót
sàn, và một đường rạn của ánh sáng quỳ gối trên bức tường, khiến những cái chân
ghế trông như bị gẫy.”
“Mình đã trông thấy Florrie trong khu vườn nhà bếp,”
Susan nói, “khi bọn mình đi bộ về tới, với những quần áo mới giặt bay phấp phới
xung quanh, những bộ pyjama, những chiếc quần đùi, những chiếc váy ngủ căng phồng
vì gió thổi. Và Ernest đã hôn chị ta. Anh ta đeo tấm tạp dề len màu xanh lục;
đang rửa những dao nĩa bạc; miệng anh ta
lúc bị nút trông như một cái ví đầy những nếp nhăn, và anh ta ôm chặt chị ta, với
những bộ pyjama tung bay giữa họ. Anh ta mù như một con bò đực, còn chị ta ngất
đi trong nỗi thống khổ, chỉ có những mạch máu nhỏ tô sọc đỏ lên đôi má trắng của
chị ta. Bây giờ, dù họ đang chuyền những đĩa bánh mì và bơ và những cốc sữa vào
thời điểm uống trà, mình nhìn thấy một vết nứt trên quả đất và hơi nước nóng
sèo sèo bốc lên; và cái bình pha trà rống lên giống như Ernest đã rống, và mình
bị gió thổi tung hệt như những bộ pyjama, thậm chí trong lúc hai hàm răng của
mình ngập trong bánh mì và bơ mềm, và mình đang ừng ực nốc sữa ngọt. Mình không
sợ trời nóng, cũng không sợ mùa đông giá lạnh. Rhoda vừa mơ mộng vừa nhấm nháp
một mẩu vỏ bánh mì chấm sữa; Louis chăm chú nhìn bức tường đối diện với đôi mắt
ốc nhồi màu xanh lục; Bernard nặn bánh mì của mình thành những viên nhỏ và gọi
chúng là ‘mọi người’. Neville đã xong bữa, với cung cách sạch sẽ và quyết đoán.
Cậu ấy cuộn tròn tấm khăn ăn và luồn nó qua chiếc nhẫn bạc. Jinny xoay xoay những
ngón tay trên tấm khăn trải bàn, như thể chúng đang nhảy múa dưới ánh nắng mặt
trời trong vũ điệu xoay tròn. Nhưng mình không sợ trời nóng hay mùa đông giá lạnh.”
“Giờ tất cả bọn mình đứng lên, rời khỏi
ghế.” Louis nói. “Cô Curry đang mở rộng
cuốn sách bìa đen trên cây đàn harmonium. Thật khó mà không khóc khi bọn mình
hát, khi bọn mình cầu nguyện rằng Chúa Trời sẽ giữ cho bọn mình an toàn trong
giấc ngủ, tự gọi mình là những đứa bé. Khi bọn mình buồn và run rẩy vì sợ hãi,
thật ngọt ngào khi được hát cùng nhau, người hơi nghiêng; mình nghiêng về phía
Susan, Susan về phía Bernard, tay nắm chặt tay, e sợ nhiều thứ, mình e sợ giọng
nói của mình, Rhoda e sợ những con số; thế nhưng kiên quyết chinh phục.”
“Bọn mình lũ lượt lên gác như những con ngựa pony,”
Bernard nói, “dẫm mạnh chân, dúi người vào nhau, người này sau người kia chờ tới
lượt vào phòng tắm. Bọn mình xô đẩy, bọn mình đánh nhau, bọn mình nhảy tưng
tưng trên những cái giường trắng, cứng. Đã đến lượt của mình. Mình tới ngay. Bà
Constable, với một chiếc khăn tắm quấn quanh người, lấy miếng bọt biển màu vàng
chanh và ngâm nó trong nước; nó chuyển sang màu nâu sô-cô-la; nó nhỏ giọt; và,
giơ cao nó bên trên mình, đang run rẩy bên dưới bà ấy, bà ấy vặn mạnh nó. Nước
chảy dọc xương sống của mình. Nhũng mũi tên sáng rực của cảm giác bắn vào hai
bên sườn. Mình được bao phủ bởi da thịt ấm áp. Lớp da khô nứt nẻ của mình được
làm ướt; cơ thể lạnh lẽo của mình được sưởi ấm; nó được cọ rửa và sáng lấp
lánh. Nước đổ xuống và trùm kín mình như một con lươn. Rồi những tấm khăn lau
nóng bao bọc lấy mình, và sự thô ráp của chúng, khi mình chà lưng, khiến máu mình
kêu rừ rừ như mèo kêu. Những cảm giác phong phú và nặng nề hình thành trên mái
nhà tâm trí; những cơn mưa rào trong ngày - khu rừng; và Elvedon; Susan và con
chim bồ câu. Đổ xuống những bức tường của tâm trí mình, chạy cùng nhau, ngày
rơi thật thừa thãi, thật rực rỡ. Giờ mình mặc bộ pyjama rộng thùng thình, và nằm
dưới tấm vải mỏng đang trôi bềnh bồng trong làn ánh sáng nông, giống như một
màn nước mỏng được kéo qua mắt mình bởi một lượn sóng. Mình nghe thấy xuyên qua
nó, từ xa, xa lắm, mơ hồ và xa xăm, bản đồng ca bắt đầu cất lên; những cái bánh
xe; những con chó; đám đàn ông đang la hét; tiếng chuông nhà thờ; bản đồng ca bắt
đầu.”
“Vì mình đã gấp cái váy và cái áo sơ-mi,” Rhoda nói, “thế
nên mình cũng từ bỏ mong muốn vô vọng sẽ
trở thành Susan, trở thành Jinny. Nhưng mình sẽ duỗi những ngón chân để chúng
chạm vào những thanh ngang ở cuối giường; mình sẽ tự đảm bảo với mình về việc
chạm chân vào những thanh ngang, về một điều gì đó khó khăn. Giờ mình không thể
chìm, không thể hoàn toàn rơi qua tấm vải mỏng. Giờ mình duỗi dài cơ thể trên tấm
nệm mỏng manh này và treo lơ lửng. Giờ mình đang ở trên trái đất. Mình không
còn ở tư thế đứng thẳng, bị tấn công và gây thương tổn. Tất cả đều mềm mại và uốn
cong. Những bức tường và những cái tủ nhuộm trắng và uốn cong những ô vuông màu
vàng mà trên đó một cái ly nhợt nhạt đang sáng lấp lánh. Giờ tâm trí mình có thể
tuôn trút khỏi cơ thể của mình. Mình có thể nghĩ về con tàu Armadas của mình
đang cưỡi trên những lượn sóng cao. Mình được giải thoát khỏi những tiếp xúc và
va chạm mạnh. Mình lái tàu đi một mình, dưới những vách đá trắng. Ồ, nhưng mình
chìm, mình rơi! Đó là góc tủ; đó là tấm gương trong căn phòng trẻ nhỏ. Nhưng
chúng kéo dài, chúng giãn ra. Mình chìm xuống những sợi lông vũ màu đen của giấc
ngủ; nó đè mạnh đôi cánh dày lên mắt mình. Khi du hành xuyên qua bóng tối, mình
nhìn thấy những luống hoa trải dài, và bà Constable chạy từ phía sau góc của
bãi cỏ bông bạc để báo rằng cô của mình đã đến đón mình bằng xe ngựa. Mình trèo
lên xe; mình trốn thoát; mình vươn người trên đôi ủng cao gót mùa xuân bên trên
những ngọn cây. Nhưng hiện giờ mình rơi vào cỗ xe ngựa ở cửa hội trường, nơi cô
ấy ngồi gật đầu, với cái mũ gắn những cọng lông vũ màu vàng và đôi mắt nghiêm
trang như hai viên bi lóe sáng. Chà, phải tỉnh thức khỏi giấc mơ thôi! Nhìn
kìa, có một cái ngăn kéo. Mình hãy tự kéo mình ra khỏi những lượn sóng này.
Nhưng chúng tự chất chồng lên mình; chúng quét mình đi giữa những đôi vai to lớn
của chúng; mình bị xoay tròn; mình bị hất lộn nhào; mình bị kéo giãn ra, giữa
những ánh sáng dài này, những lượn sóng dài này, những con đường bất tận này, với
những người đang mưu cầu, đang theo đuổi.”