Mời bạn click links bên dưới để nghe nhạc:
Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2013
Thứ Tư, 3 tháng 4, 2013
Bích Câu chuyện cũ còn không
Lại nhặt được một tàn
tích cũ. Giật mình! Có thời mình đã yêu ghê gớm vậy sao?!
“Ta không
còn nữa, Cây ơi
Thì xin lá
mới xuân đời thay ta
Nhắn người
lữ khách đi qua
Rằng: Thi
nhân ấy đã là Tình nhân.”
RABINDRANATH
TAGORE
Thơ Dâng (Riêng cho AH)
Thoảng
trong nỗi nhớ mơ màng
Dường như
có chút nắng vàng rất trong
Thu dài
những nhớ cùng mong
Nửa đêm
cất tiếng khẽ khàng gọi tên
Ơi người
em nhỏ xa xăm
Đêm nay em
có nhớ không, chút gì ?
Thu vàng
mấy nỗi biệt ly
Cho ta nghe
nặng rèm mi thoáng buồn
Hình như
một mối sầu chung
Mà sao
cách trở trùng trùng đại dương
“Mùa này
lất phất hạt tuôn …”
Hạt nào
ghét hạt nào thương hở trời ?
Mai này em
bỏ cuộc chơi
Qua sông
tóc gió thôi bay. Ngậm ngùi.
Dù tình
chỉ rất xa xôi
Cũng xin
dâng hết cho người chút hương…
Này dâng
khúc điệu nghê thường
Lung linh
trăm đoá sao vương tóc thề
Này dâng
khúc điệu đê mê
Êm êm sóng
vỗ ru bờ triền miên
Này dâng
khúc điệu u huyền
Mênh mang
khói toả quanh miền thiên thai
Này dâng
biếc mắt nồng môi
Nửa đêm
ảo mộng bồi hồi tỉnh mê
Này dâng
máu ứa tràn trề
Tim yêu
thao thức chưa hề ngủ yên
Này dâng
tiếng khóc chim quyên
Chơi vơi
trên suốt lênh đênh phận người
Dâng… Dâng…
Dâng trọn tình tôi
Dâng… Dâng…
Dâng cả hồn này cho em…
Chỉ xin
lại chút êm đềm:
Cho tôi
nghe tiếng cười em ngọt ngào !
Bích Câu chuyện cũ còn không?
Ngày xưa có gã si
tình
Yêu nàng Tố nữ
trong tranh đắm hồn….
Tôi vẽ em …
Bằng nỗi nhớ đang rung ngân rơi lả tả như muôn hoa-sao
rụng.
Đêm trong và mềm như
hơi thở của em.
Đêm thơm ngát mùi lá non và cỏ dại, hay mùi tóc em
đây?
Nét cọ vờn quanh áo mỏng…
Áo em là mây hay dệt bằng tơ trời? Làm sao tôi vẽ
nổi!
Tóc em đen hay nâu, dài hay ngắn?
Tóc em mềm và thơm chảy tràn xuống mộng.
Dáng em như thế nào?
Nét mặt em ra sao?
Tôi chắc là dáng em gầy nhỏ thanh thanh, nét mặt em
hiền dịu hơi buồn …
Mà nào có cần chi phải biết.
Trong tôi, em là thơ là nhạc, là nắng ấm bình minh,
là trăng non thẹn thùng e ấp… Là tất cả. Tất cả - những gì thanh cao
và đẹp đẽ nhất đời tôi.
Màu tôi nghèo, chút tài mọn tôi cũng đã xác xơ, hộp
màu năm xưa chỉ còn vài tuýp dở dang, biết làm sao vẽ tóc em như
suối mơ huyền?
Tấm toile bằng các tông này đã được quét lên một
lớp sơn lót từ bảy năm rồi. Và nó
chờ tôi đã bảy năm rồi. Tôi không biết vẽ gì, cũng không còn gì để
vẽ. Hồn tôi trơ trọi miền sa mạc. Hồn tôi khô cằn giãy chết những
niềm đau…Nó nằm ở một xó căn gác hiu quạnh của tôi bên cạnh những
cây cọ cứng còng queo tơi tả nhớ mùi sơn cũng đã bảy năm dài. Bảy
năm dài như một cơn ác mộng triền miên…
Sao đêm nay cảm hứng chợt tràn về ?
Sao đêm
nay tôi nhớ em đến vậy?
Nỗi nhớ này không còn lời để nói.
Cọ ơi!
Màu ơi!
Cọ hãy tung bay lả lướt.
Màu hãy thắm chút tình tôi.
Để ướp chút nắng trong vào nỗi nhớ.
Và để nắng thu rực vàng trên sâu thẳm tình tôi …
… Tranh đã vẽ xong rồi. Trong cơn mộng mị. Mộng thật
đẹp và nắng thật trong.
Tôi run run quỳ xuống tạ ơn em. Tạ ơn đời. Tạ ơn tất
cả. Vì đã cho tôi biết mình vẫn còn chút rung động thánh thiện hồn
nhiên.
Đêm thơm mùi hoa quỳnh mộng tưởng.
Quỳnh hoa nở rồi một đoá mong manh.
Cánh quỳnh xôn xao nụ tình trong trắng.
Tôi đê mê ngây ngất.
Men tình nồng lảo đảo hồn hoang…
Chút tình xa này dâng tặng cho em
Chuyện cũ Bích Câu là chuyện thần tiên
Tôi như đứa trẻ nghe cổ tích
Ngủ say rồi mơ giấc bình yên
Em như đứa trẻ nghe cổ tích
Mai dậy rồi, đừng nhớ nghe em!
Thơ là chút tàn dư năm tháng cũ
Tranh là tình mới thức dậy xôn xao
Thơ tranh chỉ chút tình tôi nhỏ bé
Trao tặng em: Lời chúc đẹp duyên đầu
Mai tôi chết mùa thu rơi chút nắng
Xuống hồn tôi ru khúc hát chơi vơi
Em có nhớ xin cúi đầu lẳng lặng
Thả giùm tôi một sợi cỏ khô rời
Cỏ úa khô bay về miền xa khuất
Nắng mênh mang và gió mênh mang
Cỏ sẽ hoá thành muôn hoa thắm rực
Ướp môi tôi chút mát ngọt dương trần…
(Xin được bắt chước
cố thi sĩ Nguyễn Vỹ nói câu này: “Viết trong lúc say. Viết xong hãy
còn say”)
Tháng 8/2002
Hát trong im lặng
Một bài thơ (hay cái khỉ gió gì chỉ có Trời mới biết!) viết từ lâu nhưng thất lạc trong vùng hỗn mang bộ nhớ PC, tình cờ tìm lại được.
ngày tàn nhanh quá tôi chưa kịp đếm
có bao lá vàng rơi xuống chiều mưa
trời chìm trong những lo toan vừa chớm
em hỏi làm chi
tôi nói cũng thừa
là ai... hay chỉ mộng thôicó bao lá vàng rơi xuống chiều mưa
trời chìm trong những lo toan vừa chớm
em hỏi làm chi
tôi nói cũng thừa
là ai... tôi một đời trôi
theo cơn mưa
theo giòng nước
như chiếc thuyền giấy trắng tả tơi
là em... giữa mênh mông
chập chùng cơn mộng
say giữa đêm vơi
tiếng hát buồn vương mãi trên môi
là em... giữa hoang vu
một vùng phố thị
tôi đi...
tôi đi...
đi từng bước hoang mang
là ai... để bao năm tôi hoài sám hối
để bao năm tôi chỉ gặp tôi
để bao năm trong một giấc ngủ
nhỏ nhoi
vẫn không tìm thấy Người
đêm vắng không ai
mưa rớt giọt dài
mưa đan một chiếc
thòng lọng cho người
cho người không tim
cho người không yêu
cho người vô thần
mà lòng thì thương mênh mông
mà lòng thì chơi vơi buồn
ngày đã rã rời
từng phím chữ cũng rã rời
từng giai điệu xưa
một thuở xây mơ
cũng rã rời....
ai... ai đi về đâu đó
tôi... tôi đi về nơi đâu?...
nửa đời dừng lại
mây trắng trên đầu
vẫn không hiểu
vẫn không hiểu
muôn ngàn lần không hiểu
rốt cuộc rồi
ta đi về nơi đâu...
5/7/2011
Thứ Hai, 1 tháng 4, 2013
Những bà mẹ quê xa
Đêm nay bỗng dưng muốn viết một cái
gì đó. Nhưng giờ đây, nhìn lên màn hình máy tính trống trơn trước
mắt, tôi lại ngồi tư lự. Cuộc sống
từng giờ từng phút đổi thay, như một dòng sông luôn chảy xuôi ra biển,
mà sao lòng tôi cứ ngược về ngày tháng đã qua. Thời áo lính mới đó
đã xa xôi hơn hai chục năm rồi. Có lúc tôi tưởng chừng đã quên hết
cả. Nhưng không, nó vẫn chìm khuất đâu đó trong ký ức, rồi một
thoáng giây nào đó lại quay về.
Nhà thơ Chế Lan Viên có một câu thơ
rất hay: Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.” Ở đâu ta yêu thương
và được yêu thương; ở đâu tình yêu làm tim ta mềm xuống, chứa chan ân
tình dịu ngọt; ở đâu ta đã sống những tháng ngày tràn ngập vui
buồn, cay đắng, chua xót, ngọt bùi, ở đó sẽ trở thành quê hương mà
ta tự nguyện xin làm một phần máu thịt. Ở mảnh đất mà tôi xin được
nhận làm quê hương thứ hai của mình,
dĩ nhiên tình yêu đã quá hào phóng hiến tặng cho tôi. Nó hiến tặng
cho tôi với tình đồng đội thiêng liêng cao cả; với những cảm xúc đẹp
đẽ trong sáng của tuổi thanh xuân; với tiếng tim đập rộn ràng, giọng
nói trong veo, nụ cười êm ái của một người con gái; với những đôi
mắt hằn sâu vết chân chim ánh lên tình thương mến cảm thông, những chăm
sóc nhỏ nhoi mà thấm đượm bao tình nghĩa của những bà mẹ quê nghèo.
Tình đồng đội, tình yêu của người con gái, tôi xin được gác lại, để
được nói, hôm nay, đôi lời về những bà mẹ không sinh ra tôi, không nuôi
dưỡng tôi khôn lớn, không cùng máu thịt với tôi, nhưng tôi đã từng, và
sẽ mãi mãi coi như là những người mẹ của tôi – những bà mẹ nông dân
Khmer nghèo nàn chất phác ở vùng xa hẻo lánh tây bắc Bát Đom Boong
(nay là Ban Teay Meanchey).
Đó là những bà mẹ vô danh thầm
lặng. Như hàng triệu bà mẹ Việt Nam vô danh thầm lặng đã nuôi dưỡng,
chở che cho lớp lớp cha anh tôi trong những năm tháng chiến tranh trên
đất Việt. Mẹ Việt Nam ơi! Chắc là Mẹ sẽ hiểu được lòng con. Bởi
vì, dù con có ca ngợi những bà mẹ khác chủng tộc, màu da, nói cho
rốt ráo, cũng vì lòng con thương Mẹ vô cùng. Bởi vì những người mẹ
đó đã thay mẹ của con vỗ về an ủi, thương yêu con trong những ngày xa
cách quê hương. Và những người mẹ đó chưa bao giờ làm con quên lãng
bóng hình một bà mẹ quê nhà đang mỏi mắt ngóng trông. “Nắng bên
hiên nhà xin giùm sưởi ấm. Gió qua đêm hè ru giấc mẹ giùm tôi. Và
giùm tôi nhắn lời. Rằng lòng con nhớ hoài dáng mẹ hiền yêu dấu.
Hằng mong sao có ngày con sẽ về bên mẹ. Mẹ ơi!” Đó là những lời
hát chân tình xuất phát từ đáy lòng tôi trong những ngày xa mẹ. Qua
những người mẹ nuôi Khmer, bóng hình mẹ tôi càng lồng lộng sáng trong
suốt một mùa chinh chiến.
Tôi nhớ nhà thơ Hồ Dzếnh đã từng
viết những câu chứa chan ân tình về quê ngoại của mình: “Hỡi nước
Việt Nam, tôi nghiêng lòng xuống Người, trên những luống cày mà hương
thơm còn phảng phất, vì tôi đã từng uống nước và nói tiếng nói của
Người, vì tôi đã thề yêu Người trên bậc tuyệt vời của tôn giáo. Trên
dải đất xúc tích những tinh hoa của văn chương, những công trạng lịch
sử, tôi còn ghi dấu những bóng dáng người xưa tôi thương yêu…”[1]
Tôi cũng xin được như ông, nghiêng lòng xuống đất Mẹ Campuchia, vì tôi
đã từng uống nước của Người, nói tiếng nói của Người.
Mẹ thứ nhất là mẹ của một cô gái,
người yêu một đồng đội của tôi. Bà đã từng thương yêu bạn tôi hơn cả
một đứa con rứt ruột đẻ ra. Bà từng bao phen cười vui rồi khóc thầm
vì anh ấy. Sau đó, khi anh đã xa, lòng bà mênh mông lại đón nhận tôi.
Mẹ của con ơi! Làm sao con quên được giọng nói, dáng hình gầy guộc
mong manh của mẹ. Làm sao con quên mắt mẹ hiền từ. Làm sao con quên
những bát canh chua, những gói mắm tép, nhộng rang mẹ cất công mang
vào cho bữa cơm chúng con bớt phần đạm bạc. Làm sao con quên những khi
ngồi trò chuyện, bộc lộ nỗi nhớ niềm thương cho mẹ nghe cùng. Ngày con lên đường về nước, đoàn xe chạy ngang qua cuối phum, con
thoáng trông thấy bóng mẹ đứng lẻ loi gầy guộc bên đường, mắt lệ
rưng rưng dõi tìm con trong màn bụi trắng mờ, nhưng mẹ nào có thấy
được con.
Mẹ thứ hai là mẹ của người tôi thương mến. Mẹ hiền từ nhẫn nhục. Mẹ không biết nói những lời hoa
mỹ. Thậm chí mẹ không nói cả những câu yêu thương ấm áp. Nhưng lòng
mẹ thương con. Con rất biết. Những lần con đi chiến dịch xa, những lần con
phải lên đường dời cứ, mẹ vẫn luôn hỏi con bằng một câu hỏi vô cùng
ngắn ngủi: “Tâu na tiết?” (Đi đâu nữa?) Vẫn chỉ là một câu hỏi giản
dị khô khan đó. Mà con hiểu lòng mẹ lo lắng xót xa biết đến dường
nào.
Và còn bao nhiêu bà mẹ Khmer khác. Những mẹ
áo vá vai mà lòng quảng đại. Những mẹ chịu bao sợ hãi lo buồn, đau
thương vất vả vì chồng, vì con, vì hoàn cảnh đất nước chiến tranh
tang tóc. Những mẹ như những hòn đá vọng phu dãi dầu sương gió nắng
mưa. Những mẹ đã cho con, cho tất cả chúng con, những người lính tình
nguyện trẻ Việt Nam, một thứ không có gì so sánh nổi.
Từ những người mẹ này, tim tôi thêm
hiểu rõ bài học thương yêu con người. Tim tôi biết yêu thương, thông
cảm, ngay cả đối với quân thù, bởi vì họ cũng là những đứa con có
mẹ. Nói như thế không có nghĩa là đánh đồng, xoá nhòa tất cả, xem
bạn cũng như thù. Nguy hiểm và thường gây ngộ nhận, âu đó cũng là
thuộc tính bản chất của ngôn từ. Chỉ xin hiểu cho rằng từ khi tôi
học được bài học thương yêu, lòng tôi hằng mong mỏi nguyện cầu cho
những người mẹ không còn phải xa con, những người vợ trẻ không còn
phải xa chồng nữa.
Văng vẳng bên tai, tôi nghe giọng ngây
thơ của Anne Frank: “Tôi thấy trần gian này đang ngày một biến thành
sa mạc, tôi nghe ra tiếng gầm lớn mãi thêm của sấm đang tiến lại gần
và dễ thường báo hiệu cái chết của chúng tôi. Tôi xót xa cho hàng
triệu người, ấy thế mà khi ngắm nhìn bầu trời, tôi nghĩ rằng rồi
sẽ đổi thay, và mọi sự sẽ trở lại tốt đẹp, rằng chuỗi ngày bất
nhẫn này sẽ kết liễu, trần gian sẽ hưởng lại trật tự, an nghỉ và
thái hòa.”[2]
Và tôi ước mơ một cơn mưa trong lành
của tình nhân loại sẽ rơi xuống khắp trần gian, gột sạch mọi thù
hằn phân biệt, mở ra một thời đại mới. Một thời đại trong đó mọi
người đều học được bài học thương yêu, biết nói cùng một thứ ngôn
ngữ của tình thương và lòng trắc ẩn. Để những Anne Frank sẽ thôi
không run sợ nữa. Để tất cả mọi bà mẹ rồi sẽ không còn rơi nước
mắt.
My far-country mothers
For no reason at all, I want to write something tonight. Yet
now, looking at the empty screen before me, I just sit pensively. The life
changes in every moment, like a river flows down to the sea, but my heart still
backs to the past. My soldier time, seeming not so long, is also over twenty
years from now. Sometimes I just imagine that I’ve forgotten everything. But I am
not, things still always hide somewhere in my memory, then they suddenly come back in a flash.
Che Lan Vien, a famous poet, has a very fantastic line, “Love makes strange land one’s motherland.”
Where we love and are loved; where love makes our heart soften and full of
sweet deep affections; where we have the days full of joy and sorrow, bitterness
and pain and happiness, that place will become our motherland that we
voluntarily want to be part of its flesh and blood. In the land that I want to
call my second motherland, of course love gave me generously. It gave me
through our sacred and noble comradeship; through good and pure feelings of my
prime; through my bustling heart beatings and a young girl’s sweet voice and
tender smiles; through the crow’s-feet eyes full of compassion and affection,
and the little cares but containing great love of many mothers in a poor country land.
My comradeship and the girl’s love, today I’d like to put aside to say some
words about the mothers who didn’t give birth to me, didn’t rear me to grown-up,
who were not the same flesh and blood with me, but I considered and will
forever consider as my mothers – the poor plain Khmer peasant women in a remote
land in the Northwestern of Battambang (Banteay Meanchey now).
They are quiet unknown mothers. Like millions unknown
Vietnamese mothers who reared and protected my generations and generations of
elders during the war times in Vietnam.
Oh, my Mother Vietnam! Perhaps you understand my heart. For although I praise the mothers of
different race and skin, it is after all because I love you so much. For those
mothers took the place of my own mother to console me and love me in the days I was
away from home. And they never made me forget my Mom who was waiting for me
with sorrow. “Please, sunshine at my
house, warm my Mom. Please, the wind in summer nights, make my mother’s sleep
sound. And help me to say to her. That I miss you so much. And I hope I’ll come
back to you someday, my beloved Mom!” These are lines of a song came from
my heart bed during the days being separated from my mother. Through my
adoptive Khmer mothers, my mother’s image was greater and more beautiful during
my whole season of war.
I remember touching sentences that Ho Dzenh wrote about his mother’s
country, “Oh, Vietnam, I bent down my
heart to You, on the furrows that the scents still float in the air, for I drank
your water and spoke your language, for I swore to love you more than fantastic
level of religion. On the land contains the quintessence of literature and historical
merits, I still bear in my mind the images of old-time people whom I loved…”
I too, would like to do the same, to bend down my heart to my Motherland Cambodia,
for I drank Her water, spoke Her language.
The first one is mother of a girl who was my comrade’s
lover. She had loved my comrade more than her own son. She had many times
smiled and silently wept because of him. Then, when he was far away, her
immense heart once again opened to me. Oh my mother! How can I forget your
voice, your thin figure? How can I forget your indulgent eyes? How can I forget
the bowls of sour soup, the packs of little salted shrimp or roasted silkworm
cocoon that you brought in to give us, made ours frugal meals more delicious?
How can I forget the time when I talked to you all my nostalgia and sorrow and
homesick. The day I was driven back my country, the army trucks passed your
phum, I spotted your thin figure standing lonely on the sidewalk, your eyes
dewed with tears looking for me in the white dust, but how could you see me.
The second one is my lover’s mother. She was gentle and resigned.
She didn’t speak florid words. But she loved me, I knew it. The times I
operated to the far areas, the times we removed our bases, she still asked me
the same very short questions: “Tau na tik?” (Where do you go again?) It was
the same simple and dry question. But I understood her heart was full of worry and love.
And there were many other Khmer mothers. The mothers whose clothes
were all worn but whose hearts were generous. The mothers who suffered so much fear
and worry and sorrow and pain and hard works because of their husbands and
children; because of their mournful country in a time of war. The mothers who
were like the stones that looked like women waiting for their husbands exposing to
the rain and wind. The mothers who gave me, gave all of us, the young
Vietnamese voluntary soldiers, something that was incomparable.
From these mothers, my heart understood much more about the
lesson of loving human. My heart knew how to love and sympathize, even to our
enemy, for they were also their mothers' sons. Saying this, it by no way
means to equate everything, to erase all borders, to consider enemy just like
friends. Being dangerous and often brings mistakenness, it is perhaps the nature
and attribute of language. Just understand that since I learnt the lesson of
love, my heart always hoped and prayed that mothers would never be parted from
theirs sons, wives from their husbands.
Vaguely, I hear Anne Frank’s[1]
innocent voice, “I see the world gradually being turned into
a wilderness, I hear the ever approaching thunder, which will destroy us too, I
can feel the sufferings of millions and yet, if I look up into the heavens, I
think that it will all come right, that this cruelty too will end, and that
peace and tranquility will return again.”
And I dream that a pure rain of human love would fall down
all over the world, erasing all hostilities and discriminations, opening a new
age. An age in which everyone learns the lesson of love, everyone knows how to
speak the same language of love and compassion. So that the Anne Franks would
no longer fear; every mother would no longer shed their tears.
May 2008
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)