Đêm nay bỗng dưng muốn viết một cái
gì đó. Nhưng giờ đây, nhìn lên màn hình máy tính trống trơn trước
mắt, tôi lại ngồi tư lự. Cuộc sống
từng giờ từng phút đổi thay, như một dòng sông luôn chảy xuôi ra biển,
mà sao lòng tôi cứ ngược về ngày tháng đã qua. Thời áo lính mới đó
đã xa xôi hơn hai chục năm rồi. Có lúc tôi tưởng chừng đã quên hết
cả. Nhưng không, nó vẫn chìm khuất đâu đó trong ký ức, rồi một
thoáng giây nào đó lại quay về.
Nhà thơ Chế Lan Viên có một câu thơ
rất hay: Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.” Ở đâu ta yêu thương
và được yêu thương; ở đâu tình yêu làm tim ta mềm xuống, chứa chan ân
tình dịu ngọt; ở đâu ta đã sống những tháng ngày tràn ngập vui
buồn, cay đắng, chua xót, ngọt bùi, ở đó sẽ trở thành quê hương mà
ta tự nguyện xin làm một phần máu thịt. Ở mảnh đất mà tôi xin được
nhận làm quê hương thứ hai của mình,
dĩ nhiên tình yêu đã quá hào phóng hiến tặng cho tôi. Nó hiến tặng
cho tôi với tình đồng đội thiêng liêng cao cả; với những cảm xúc đẹp
đẽ trong sáng của tuổi thanh xuân; với tiếng tim đập rộn ràng, giọng
nói trong veo, nụ cười êm ái của một người con gái; với những đôi
mắt hằn sâu vết chân chim ánh lên tình thương mến cảm thông, những chăm
sóc nhỏ nhoi mà thấm đượm bao tình nghĩa của những bà mẹ quê nghèo.
Tình đồng đội, tình yêu của người con gái, tôi xin được gác lại, để
được nói, hôm nay, đôi lời về những bà mẹ không sinh ra tôi, không nuôi
dưỡng tôi khôn lớn, không cùng máu thịt với tôi, nhưng tôi đã từng, và
sẽ mãi mãi coi như là những người mẹ của tôi – những bà mẹ nông dân
Khmer nghèo nàn chất phác ở vùng xa hẻo lánh tây bắc Bát Đom Boong
(nay là Ban Teay Meanchey).
Đó là những bà mẹ vô danh thầm
lặng. Như hàng triệu bà mẹ Việt Nam vô danh thầm lặng đã nuôi dưỡng,
chở che cho lớp lớp cha anh tôi trong những năm tháng chiến tranh trên
đất Việt. Mẹ Việt Nam ơi! Chắc là Mẹ sẽ hiểu được lòng con. Bởi
vì, dù con có ca ngợi những bà mẹ khác chủng tộc, màu da, nói cho
rốt ráo, cũng vì lòng con thương Mẹ vô cùng. Bởi vì những người mẹ
đó đã thay mẹ của con vỗ về an ủi, thương yêu con trong những ngày xa
cách quê hương. Và những người mẹ đó chưa bao giờ làm con quên lãng
bóng hình một bà mẹ quê nhà đang mỏi mắt ngóng trông. “Nắng bên
hiên nhà xin giùm sưởi ấm. Gió qua đêm hè ru giấc mẹ giùm tôi. Và
giùm tôi nhắn lời. Rằng lòng con nhớ hoài dáng mẹ hiền yêu dấu.
Hằng mong sao có ngày con sẽ về bên mẹ. Mẹ ơi!” Đó là những lời
hát chân tình xuất phát từ đáy lòng tôi trong những ngày xa mẹ. Qua
những người mẹ nuôi Khmer, bóng hình mẹ tôi càng lồng lộng sáng trong
suốt một mùa chinh chiến.
Tôi nhớ nhà thơ Hồ Dzếnh đã từng
viết những câu chứa chan ân tình về quê ngoại của mình: “Hỡi nước
Việt Nam, tôi nghiêng lòng xuống Người, trên những luống cày mà hương
thơm còn phảng phất, vì tôi đã từng uống nước và nói tiếng nói của
Người, vì tôi đã thề yêu Người trên bậc tuyệt vời của tôn giáo. Trên
dải đất xúc tích những tinh hoa của văn chương, những công trạng lịch
sử, tôi còn ghi dấu những bóng dáng người xưa tôi thương yêu…”[1]
Tôi cũng xin được như ông, nghiêng lòng xuống đất Mẹ Campuchia, vì tôi
đã từng uống nước của Người, nói tiếng nói của Người.
Mẹ thứ nhất là mẹ của một cô gái,
người yêu một đồng đội của tôi. Bà đã từng thương yêu bạn tôi hơn cả
một đứa con rứt ruột đẻ ra. Bà từng bao phen cười vui rồi khóc thầm
vì anh ấy. Sau đó, khi anh đã xa, lòng bà mênh mông lại đón nhận tôi.
Mẹ của con ơi! Làm sao con quên được giọng nói, dáng hình gầy guộc
mong manh của mẹ. Làm sao con quên mắt mẹ hiền từ. Làm sao con quên
những bát canh chua, những gói mắm tép, nhộng rang mẹ cất công mang
vào cho bữa cơm chúng con bớt phần đạm bạc. Làm sao con quên những khi
ngồi trò chuyện, bộc lộ nỗi nhớ niềm thương cho mẹ nghe cùng. Ngày con lên đường về nước, đoàn xe chạy ngang qua cuối phum, con
thoáng trông thấy bóng mẹ đứng lẻ loi gầy guộc bên đường, mắt lệ
rưng rưng dõi tìm con trong màn bụi trắng mờ, nhưng mẹ nào có thấy
được con.
Mẹ thứ hai là mẹ của người tôi thương mến. Mẹ hiền từ nhẫn nhục. Mẹ không biết nói những lời hoa
mỹ. Thậm chí mẹ không nói cả những câu yêu thương ấm áp. Nhưng lòng
mẹ thương con. Con rất biết. Những lần con đi chiến dịch xa, những lần con
phải lên đường dời cứ, mẹ vẫn luôn hỏi con bằng một câu hỏi vô cùng
ngắn ngủi: “Tâu na tiết?” (Đi đâu nữa?) Vẫn chỉ là một câu hỏi giản
dị khô khan đó. Mà con hiểu lòng mẹ lo lắng xót xa biết đến dường
nào.
Và còn bao nhiêu bà mẹ Khmer khác. Những mẹ
áo vá vai mà lòng quảng đại. Những mẹ chịu bao sợ hãi lo buồn, đau
thương vất vả vì chồng, vì con, vì hoàn cảnh đất nước chiến tranh
tang tóc. Những mẹ như những hòn đá vọng phu dãi dầu sương gió nắng
mưa. Những mẹ đã cho con, cho tất cả chúng con, những người lính tình
nguyện trẻ Việt Nam, một thứ không có gì so sánh nổi.
Từ những người mẹ này, tim tôi thêm
hiểu rõ bài học thương yêu con người. Tim tôi biết yêu thương, thông
cảm, ngay cả đối với quân thù, bởi vì họ cũng là những đứa con có
mẹ. Nói như thế không có nghĩa là đánh đồng, xoá nhòa tất cả, xem
bạn cũng như thù. Nguy hiểm và thường gây ngộ nhận, âu đó cũng là
thuộc tính bản chất của ngôn từ. Chỉ xin hiểu cho rằng từ khi tôi
học được bài học thương yêu, lòng tôi hằng mong mỏi nguyện cầu cho
những người mẹ không còn phải xa con, những người vợ trẻ không còn
phải xa chồng nữa.
Văng vẳng bên tai, tôi nghe giọng ngây
thơ của Anne Frank: “Tôi thấy trần gian này đang ngày một biến thành
sa mạc, tôi nghe ra tiếng gầm lớn mãi thêm của sấm đang tiến lại gần
và dễ thường báo hiệu cái chết của chúng tôi. Tôi xót xa cho hàng
triệu người, ấy thế mà khi ngắm nhìn bầu trời, tôi nghĩ rằng rồi
sẽ đổi thay, và mọi sự sẽ trở lại tốt đẹp, rằng chuỗi ngày bất
nhẫn này sẽ kết liễu, trần gian sẽ hưởng lại trật tự, an nghỉ và
thái hòa.”[2]
Và tôi ước mơ một cơn mưa trong lành
của tình nhân loại sẽ rơi xuống khắp trần gian, gột sạch mọi thù
hằn phân biệt, mở ra một thời đại mới. Một thời đại trong đó mọi
người đều học được bài học thương yêu, biết nói cùng một thứ ngôn
ngữ của tình thương và lòng trắc ẩn. Để những Anne Frank sẽ thôi
không run sợ nữa. Để tất cả mọi bà mẹ rồi sẽ không còn rơi nước
mắt.
My far-country mothers
For no reason at all, I want to write something tonight. Yet
now, looking at the empty screen before me, I just sit pensively. The life
changes in every moment, like a river flows down to the sea, but my heart still
backs to the past. My soldier time, seeming not so long, is also over twenty
years from now. Sometimes I just imagine that I’ve forgotten everything. But I am
not, things still always hide somewhere in my memory, then they suddenly come back in a flash.
Che Lan Vien, a famous poet, has a very fantastic line, “Love makes strange land one’s motherland.”
Where we love and are loved; where love makes our heart soften and full of
sweet deep affections; where we have the days full of joy and sorrow, bitterness
and pain and happiness, that place will become our motherland that we
voluntarily want to be part of its flesh and blood. In the land that I want to
call my second motherland, of course love gave me generously. It gave me
through our sacred and noble comradeship; through good and pure feelings of my
prime; through my bustling heart beatings and a young girl’s sweet voice and
tender smiles; through the crow’s-feet eyes full of compassion and affection,
and the little cares but containing great love of many mothers in a poor country land.
My comradeship and the girl’s love, today I’d like to put aside to say some
words about the mothers who didn’t give birth to me, didn’t rear me to grown-up,
who were not the same flesh and blood with me, but I considered and will
forever consider as my mothers – the poor plain Khmer peasant women in a remote
land in the Northwestern of Battambang (Banteay Meanchey now).
They are quiet unknown mothers. Like millions unknown
Vietnamese mothers who reared and protected my generations and generations of
elders during the war times in Vietnam.
Oh, my Mother Vietnam! Perhaps you understand my heart. For although I praise the mothers of
different race and skin, it is after all because I love you so much. For those
mothers took the place of my own mother to console me and love me in the days I was
away from home. And they never made me forget my Mom who was waiting for me
with sorrow. “Please, sunshine at my
house, warm my Mom. Please, the wind in summer nights, make my mother’s sleep
sound. And help me to say to her. That I miss you so much. And I hope I’ll come
back to you someday, my beloved Mom!” These are lines of a song came from
my heart bed during the days being separated from my mother. Through my
adoptive Khmer mothers, my mother’s image was greater and more beautiful during
my whole season of war.
I remember touching sentences that Ho Dzenh wrote about his mother’s
country, “Oh, Vietnam, I bent down my
heart to You, on the furrows that the scents still float in the air, for I drank
your water and spoke your language, for I swore to love you more than fantastic
level of religion. On the land contains the quintessence of literature and historical
merits, I still bear in my mind the images of old-time people whom I loved…”
I too, would like to do the same, to bend down my heart to my Motherland Cambodia,
for I drank Her water, spoke Her language.
The first one is mother of a girl who was my comrade’s
lover. She had loved my comrade more than her own son. She had many times
smiled and silently wept because of him. Then, when he was far away, her
immense heart once again opened to me. Oh my mother! How can I forget your
voice, your thin figure? How can I forget your indulgent eyes? How can I forget
the bowls of sour soup, the packs of little salted shrimp or roasted silkworm
cocoon that you brought in to give us, made ours frugal meals more delicious?
How can I forget the time when I talked to you all my nostalgia and sorrow and
homesick. The day I was driven back my country, the army trucks passed your
phum, I spotted your thin figure standing lonely on the sidewalk, your eyes
dewed with tears looking for me in the white dust, but how could you see me.
The second one is my lover’s mother. She was gentle and resigned.
She didn’t speak florid words. But she loved me, I knew it. The times I
operated to the far areas, the times we removed our bases, she still asked me
the same very short questions: “Tau na tik?” (Where do you go again?) It was
the same simple and dry question. But I understood her heart was full of worry and love.
And there were many other Khmer mothers. The mothers whose clothes
were all worn but whose hearts were generous. The mothers who suffered so much fear
and worry and sorrow and pain and hard works because of their husbands and
children; because of their mournful country in a time of war. The mothers who
were like the stones that looked like women waiting for their husbands exposing to
the rain and wind. The mothers who gave me, gave all of us, the young
Vietnamese voluntary soldiers, something that was incomparable.
From these mothers, my heart understood much more about the
lesson of loving human. My heart knew how to love and sympathize, even to our
enemy, for they were also their mothers' sons. Saying this, it by no way
means to equate everything, to erase all borders, to consider enemy just like
friends. Being dangerous and often brings mistakenness, it is perhaps the nature
and attribute of language. Just understand that since I learnt the lesson of
love, my heart always hoped and prayed that mothers would never be parted from
theirs sons, wives from their husbands.
Vaguely, I hear Anne Frank’s[1]
innocent voice, “I see the world gradually being turned into
a wilderness, I hear the ever approaching thunder, which will destroy us too, I
can feel the sufferings of millions and yet, if I look up into the heavens, I
think that it will all come right, that this cruelty too will end, and that
peace and tranquility will return again.”
And I dream that a pure rain of human love would fall down
all over the world, erasing all hostilities and discriminations, opening a new
age. An age in which everyone learns the lesson of love, everyone knows how to
speak the same language of love and compassion. So that the Anne Franks would
no longer fear; every mother would no longer shed their tears.
May 2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét