từ nguyên tác Collected Stories For Children
Thuở trước có một thủy thủ tên là John Bumps. Anh có
đôi mắt màu xanh biển nhạt và hai bên vành tai anh đeo lủng lẳng hai cái khoen
vàng. Khi câu chuyện này bắt đầu, dù Bumps vẫn còn trẻ, anh đã có ba đứa con:
Topsy, Emmanuel và Kate. Chúng sống với mẹ chúng trong một ngôi nhà nhỏ xinh
xắn có những cánh cửa sổ vuông ở Portsmouth,
còn anh thì ngao du khắp nơi trên thế giới. Anh đã từng tới hầu hết tất cả các
hải cảng với đủ loại thời tiết khác nhau; và hiếm có một hòn đảo xinh đẹp lạ
lùng nào mà anh chưa từng đặt chân lên.
Một hôm nọ, trước khi mùa mưa kéo tới ít lâu, anh lại đi
tới vùng duyên hải Tây Phi. Con tàu của anh, chiếc Sư tử Già mà anh làm phó thủy thủ đoàn, đang giong buồm xuôi xuống
phía nam vùng duyên hải rộng lớn đó, đi ngang qua quần đảo Canaries và Green Island,
ngang qua bờ biển Ngà, bờ biển Vàng và bờ biển Nô lệ để tới Banana và Congo. Và chẳng
bao lâu sau đó Mr. Bump đã lên bờ. Anh đã chèo xuồng ngược dòng sông Quanza
xanh thẳm, đi ngang qua Dondo để ghé thăm một người bạn cũ. Và ở đó, trong một
ngôi làng của người da đen, anh ta đã dùng hai chiếc vòng chuỗi hạt màu xanh và
đỏ và một con dao xếp để đổi lấy một con khỉ.
Thỉnh
thoảng Bumps cũng có mua những con khỉ khác, anh biết rằng đây là một cái giá cao
ở vùng này. Nhưng bạn của anh, tù trưởng bộ lạc Mlango-Nlango, một anh chàng
cực kỳ to béo, quấn quanh người hai tấm chăn bên ngoài những chuỗi hạt và ngà
voi các thứ, đã cam đoan với Bumps rằng nó không phải là một con khỉ bình
thường.
Gương
mặt đen tròn, với đôi hàm răng sáng bóng của ông tù trưởng dãn ra thành một nụ
cười toe toét khi ông ta nói với Bumps: “Ló kông p’ải nà một
con khỉ dớ dẩn âu, kông[1]”,
ông ta nói bằng tiếng Anh, vì thường mua bán với người Anh. “Ló….,”
nhưng thay vì kết thúc câu, ông ta nhắm mắt lại và đặt một bàn tay đen đúa lên
đầu mình, dù ý nghĩa chính xác của việc đó là gì, Bumps không thể nói. Tuy
nhiên, khi thoáng nhìn thấy con khỉ này lần đầu tiên, Bumps đã biết ngay dù ông
tù trưởng có ý muốn nói gì đi nữa, đó là sự thật. Ngoài ra, ông ta còn là một
người bạn cũ của anh, và không nói dối với anh.
Mặt khác, vì con vật bé nhỏ lông lá thấp hơn khoảng hai
phân so với chiều cao bình thường của loại khỉ này, nó không có vóc dáng to lớn
cho lắm, ngoài ra, chưa có nét nổi bật nào khác hiện ra. Lúc đó thì chưa. Khi
Bumps ôm nó trên cánh tay, trong tấm
choàng màu đỏ thắm mà vợ ông tù trưởng đã may lại từ một miếng vải hoàng gia,
nó còn nhẹ hơn cả Kate, đứa con gái út của anh. Và bản thân con bé cũng rất nhỏ
so với lứa tuổi của nó.
Nhưng nó
có một cái đầu gọn ghẽ, xinh xắn, hai bàn tay thanh mảnh và những ngón tay cái
dài. Khi nó quay đôi mắt nghiêm trang màu lục nhạt sang nhìn anh, Bumps đột
nhiên cảm thấy thật sự nhớ nhà. Anh đã từng đi ngao du hơn nửa vòng trái đất mà
chưa có cảm giác đó bao giờ. “Mong nhớ chẳng ích gì, anh thường nói, “khi bạn
phải chờ đợi.”
Thế rồi
một chuyện mà Bumps không hề mong đợi đã xảy ra. Đôi mắt anh, như đã nói, có
một màu xanh biển nhạt đặc thù, và khi màu xanh của đôi mắt anh bắt gặp đôi mắt
lục nhạt của con khỉ, con vật cựa quậy trên cánh tay anh, há miệng nó ra, và
thốt lên một nhận xét. Bumps chưa bao giờ quan tâm tới những thứ tiếng nước
ngoài, và anh không hiểu nó nói gì. Tuy nhiên, anh hiểu ý của nó. Anh biết chắc
rằng những âm tiết lí nhí, nhão nhoẹt phát ra từ miệng con vật là một thông
điệp bạn bè.
Anh chào tạm biệt vị tù trưởng, hôn tay anh rồi vẫy về phía
người phụ nữ da đen đã mang con khỉ vào lều cho anh, rồi lên đường trở xuống
dòng sông. Anh đã mang lên con tàu Sư tử
Già khá nhiều quả hạch, chuối và những loại trái cây khác. Chiều hôm đó anh
ngoảnh nhìn lại bờ biển đang lấp lánh những tia nắng cuối cùng – lúc này chiếc Sư tử Già đã ra khơi được vài dặm – rồi
quay sang con khỉ và nói, “Mày có thích cái tên Jasper không, nhóc?”
Con khỉ khẽ quay sang anh như để trả lời, nhưng lần này nó
không nói gì cả.
Thế là nó được gọi là Jasper, dù thật ra đây là một sự nhầm
lẫn của Bumps. Cái đã xuất hiện trong đầu anh khi anh đứng ở lan can đuôi tàu
nhìn lại bờ biển châu Phi là hai câu thánh ca mà mẹ anh rất thích:
Từ những đỉnh núi phủ băng Greenland
Tới những dãy san hô Ấn Độ.
Tới những dãy san hô Ấn Độ.
Nhưng khi
nhẩm lại những từ đó với mình, anh đã nhớ nhầm từ cuối. Anh đã nói:
Từ những đỉnh núi phủ băng Greenland
Tới những dãy thạch anh (jasper) Ấn Độ.
Tới những dãy thạch anh (jasper) Ấn Độ.
Tuy nhiên, anh nghĩ, Jasper là một cái tên đẹp hơn Coral
(San hô), và thế là cái tên Jasper được giữ lại.
Chưa
từng có con khỉ nào học hỏi nhanh như thế, nghiêm trang học tập như thế, với
một thái độ rất lặng lẽ và vui vẻ nên Bumps có thể đoán nó khoảng bao nhiêu
tuổi, anh bảo, “có lẽ năm tuổi.” Và vì đứa con trai bé nhỏ nổi tiếng của John Evelyn[2]
thậm chí còn chưa tới tuổi đó khi biết nói tiếng Hy Lạp, Latin và Hebrew, việc
Jasper chẳng bao lâu sau đã bắt đầu nói vài chữ tiếng Anh cũng chẳng có gì to
tát lắm. Tuy nhiên, trước đó khá lâu, nó đã học được cách ngồi ở bàn và cầu
nguyện (bằng thứ tiếng riêng của nó); cách dùng dao và nĩa, và uống nước trong
một cái ca; cách cúi đầu chào khi có ai đó nói với mình; cách đong đưa cái võng
của nó, và những việc nhỏ nhặt đại loại như thế.
Nó
thường len lén bò tới để quan sát người thủy thủ đang điều khiển bánh lái hay
người đầu bếp đang nấu nướng trong bếp hay trên boong. Nó thường nhìn chăm chú
suốt nhiều phút vào chiếc kim chỉ nam trong cái la bàn, và chào ông thuyền
trưởng bất cứ khi nào nó gặp ông ta trên cầu tàu. Nó biết tên thánh của mọi
thủy thủ, và khi mỗi người trong số họ ngủ trong khoang tàu trước, nó có thể
xoay xở nối lại một đoạn dây, và biết sự khác biệt giữa một cái nút dễ tuột và
một cái nút khó tuột, giữa một cái thòng lọng và một cái nút thắt của ngư dân!
Bất chấp cái áo choàng đỏ kiểu cô dắc của nó, nó có thể chạy vụt qua những sợi
dây buồm lên những chiếc xe hàng hay leo tới tận đỉnh cột buồm chính nhanh gấp
hai bất kỳ một cậu bé bồi tàu nào, dù dĩ nhiên không có thằng bé bồi tàu nào có
đuôi để trợ giúp.
Ngoài
tất cả những thứ này, Bumps còn dạy cho Jasper nhiều thứ khác. Không phải anh
bắt nó ngồi xuống và buộc nó phải học. Việc này giúp anh tiêu khiển còn Jasper
thì thích thú. Ngoài ra, đó cũng là một chuyến đi dài. Chiếc Sư tử Già đang len lỏi trong những vùng
lặng gió và có rất nhiều thời gian.
Khi
những ngày tháng dần ngắn lại, Jasper trở nên thoải mái hơn trên chiếc Sư tử Già với người bạn Bumps của nó như
thể nó sinh ra để đi biển. Chỉ vì nó nhỏ nhắn và đầy lông lá, có một gương mặt
nhỏ bé, mũi tẹt và hay nhe răng ra khi nói chuyện, lúc đầu những người thủy thủ
hay chọc ghẹo và cười nhạo nó, chỉ xem nó như một con thú nuôi hay một vật tiêu
khiển. Tuy nhiên, sau khi nó bắt đầu nói thứ tiếng Anh của đức vua, họ không
chế nhạo nó nữa. Nó nói những điều mà họ ghi nhớ.
Bumps
không biết anh sẽ làm gì với nó khi anh đã yên ổn trở về ngôi nhà ở Portsmouth. Anh chắc rằng
Emma, vợ anh, sẽ hài lòng khi gặp người bạn mới của anh, và không còn nghi ngờ
gì về thái độ của Topsy, Emmanuel và Kate. Nhưng lúc đó làm sao anh có thể chia
tay với Jasper? Thế nhưng làm sao có thể hy vọng nó thích sống cuộc đời trên
biển cả? Tuy nhiên, không cần thiết phải quyết định bất cứ điều gì trong hiện
tại; và trong lúc này anh anh luôn chăm sóc nó tận tình – tìm cho nó những món
ăn ngon, lo lắng thuốc men khi nó ốm đau – giống như anh đang chăm nom cho bé
Kate của anh.
Cuối
cùng thì Bumps cũng quyết định rằng anh không bao giờ muốn lìa xa khỏi Jasper.
Chiếc Sư tử Già đang tiến tới gần eo
biển nước Anh. Nó đã gần về tới quê hương. Và một buổi chiều mù sương tháng
Mười một, nó chầm chậm trôi xuôi dòng sông Thames, thả neo trong cảng London. Trời lạnh tê
người, nhưng tĩnh lặng, và một quầng sáng màu đồng hun lơ lửng trên bầu trời
thành phố. Và ở giữa, giống như một cái tổ ong bằng chì khổng lồ nổi lên trên
bầu trời u ám là mái vòm của nhà thờ Thánh Paul.
Sáng sớm
hôm sau Bumps lên bờ, với con khỉ trùm kín trên tay, một ít quà cho vợ con anh
trong túi xách, mạnh mẽ bước về phía nhà ga. Anh đã cách xa nước Anh già cỗi
nhiều tháng trời, nên điều đầu tiên trong đầu anh là xuống ga Portsmouth càng
sớm càng tốt. Nhưng quầng sáng treo cao trên thành phố hôm qua giờ đây đang hạ
xuống những đường phố, và Bumps phải dò dẫm đi về hướng Đài Tưởng niệm và phố Pudding Lane
qua một làn sương mù ngày càng dâng lên dầy dặc.
Cuối
cùng anh biết mình đã đi lạc hướng. Và sau đó, khi anh đi tới một quán rượu
nhỏ, quán Ba con Thiên nga, với những
khung cửa sổ mờ sáng trong màn sương, anh quyết định đi vào đó để hỏi đường. Nhưng,
cách nào đó, anh lại không muốn cho Jasper cũng vào trong. Anh liếc nhìn vào
gương mặt bé nhỏ bên trong lớp vải trùm, và thấy nó có vẻ rất lạnh và buồn bã.
Nhưng anh e là khói thuốc dầy đặc và mùi bia rượu trong quán sẽ làm nó đổ bệnh.
Vì vậy
anh nói, ‘Mày ngồi đây một lát nhé, Jasper.” Anh đặt nó xuống bên cạnh cột đèn
đường và đặt cái túi xách kế bên nó. “Và đừng cựa quậy gì cho tới khi tao trở
ra.”
Nhưng
chao ôi, Bumps đã ở trong quán Ba con
Thiên nga lâu hơn nhiều so với dự tính của anh, và khi anh trở ra, dù cái
túi xách của anh vẫn còn nằm đó, Jasper đã biến mất.
Thật ra,
Jasper ngồi chờ trong màn sương dưới ánh sáng tù mù của ngọn đèn đường chưa đầy
năm phút thì một kẻ lạ mặt bước tới gần. Hắn ta đội một cái nón đen, có một bộ
râu đen và mặc một chiếc áo choàng dài gần chấm gót. Nếu con khỉ không nhúc
nhích vào lúc ấy, mọi chuyện có thể vẫn ổn. Nhưng khi nghe thấy tiếng bước chân
của người lạ mặt trong con đường London xa lạ, lạnh lẽo, con vật cô đơn đã
ngẩng mặt lên và thò một cánh tay ra ngoài, vì nó đã kết bạn với nhiều người
trên boong tàu. Và kẻ lạ mặt cúi xuống nhìn nó,
Thật
ngẫu nhiên, khó mà biết có phải là do trời xui đất khiến hay không, cái gã có
bộ râu đen này là một tay buôn bán mọi loại thú vật. Hắn ta có một cửa tiệm
trong một ngỏ hẻm cách dòng sông không xa lắm. Cái cửa tiệm đang suy sụp, và
thỉnh thoảng cũng nhích lên vài bước. Từ đầu này tới đầu kia của nó là những
cái chuồng của đủ loại chim và thú nhỏ, bên cạnh những bồn cá có vài lồng nhốt
rắn và thằn lằn, và có cả những cái lồng phủ lượt để nhốt bướm nằm trên những
hàng kệ. Hắn nhốt những con thú lớn hơn trong một cái sân lát đá có che mưa ở
bên ngoài.
Hắn cúi
xuống. Cái áo choàng đen cáu bẩn của hắn quét lên mặt đường lót đá. Hắn nhìn
một hồi lâu vào mặt của Jasper trong màn sương mờ mờ rồi nắm lấy bàn tay bé nhỏ
và lắc khẽ.
“Chào
anh bạn,” hắn nói bằng giọng mũi một cách tâng bốc. “Rất vui được gặp anh bạn,
ta chắc thế.”
Jasper,
với cung cách lịch thiệp thường lệ của nó, cho rằng hắn không có gì nguy hiểm,
nhìn lên mặt hắn và thốt ra vài lời, giống kiểu tiếng Anh của dân đi biển một
cách lạ thường.
Kẻ lạ
mặt giật mình một cái, vụng trộm liếc nhanh qua vai hắn, mở một nút táo trên
cái áo choàng to rộng ra, rón rén nhấc Jasper lên nhét vào bên dưới, rồi nhanh
chóng bỏ đi.
Vào khoảng
gần trưa, Jasper nhận ra nó đang ngồi xổm trong một cái lồng, với một ít quả
hạch và một can nước bên cạnh. Xung quanh là nhiều cái lồng khác, trong đó,
ngoài những con chó mẹ đang sủa và lũ chó con đang bò lổm ngổm, là hàng chục
con thỏ trắng, chuột, mèo mướp, mèo xiêm, mèo Manx[3],
sóc, chồn sương, chồn nâu, rùa, chim cú, vẹt, vẹt xanh, vẹt đuôi dài, vẹt Nam
Mỹ và chim hoàng yến; với những tiếng kêu gào ầm ĩ còn điếc tai hơn cả những
thứ nó từng nghe trong những cánh rừng Tây Phi của nó, hay trong một cơn bão
giữa biển khơi. Nó ngồi rùng mình và run rẩy trong chiếc áo choàng, cuối cùng
thò đầu ra khỏi tấm vải che và lẩm bẩm bằng một giọng khỉ khe khẽ, buồn thảm.
“Ông Bumps, ông Bumps, ôi, ông Bumps!”
Nhưng
sau khi từ bỏ một cách đau khổ việc tìm kiếm người bạn thất lạc, Bump đã lên
tàu từ lâu và đang trên đường quay về ngôi nhà có những khung cửa sổ vuông của
anh ở Portsmouth, về với Emma, Topsy, Emmanuel và Kate thân yêu của anh.
Jasper
không ở lâu trong cửa tiệm thú vật của Moss, chỉ chín ngày mười đêm. Nhưng vào
cuối thời gian đó nó đã bắt đầu buồn nhớ và ủ rủ, hầu như không ăn gì và hiếm
khi mở mắt. Nó nhớ người thủy thủ bạn nó, sự tốt bụng và sự chăm sóc của anh
ta; dù bất cứ khi nào Moss hay gã thanh niên có cái mũi nhọn và khuôn mặt nhờn mỡ
phụ việc trong tiệm nhìn vào lồng và nói chuyện với nó, nó cũng nghiêm trang
nhìn lại, không hề nhe răng hay tỏ vẻ giận dữ. Nó không bao giờ chạm tới những
thứ thức ăn khi chúng được nhét vào qua cánh cửa dây thép, và cũng không thèm
đáp lại những gì họ nói với nó. Nó ngồi ở đó, đôi tay giấu bên dưới cái áo
choàng, như một vị vua lông lá bé nhỏ bị cướp mất vương quốc của mình. Moss và
tay phụ việc của hắn chưa bao giờ gặp con khỉ nào như thế trước đó, và ngay
trong thời gian ngắn đó, cả hai đã phát hiện ra rằng họ không thể đối diện với
đôi mắt đăm đăm của con vật bé nhỏ.
Tuy suốt
ngày Jasper chỉ ngồi lặng lẽ và bất động trong lồng, nhưng đôi tai và đầu óc
của nó (và đôi khi cả đôi mắt của nó) luôn bận rộn. Nó quan sát những con chim
hoàng yến Bỉ mà Moss cho ăn suốt hàng giờ với những loại hạt đặc biệt và ớt Cayenne để làm sáng màu
lông của chúng trong thời gian chúng thay lông. Có một con trăn khổng lồ nằm
cuộn mình trong lớp rơm cách nó không xa, và suốt một thời gian dài nó không
dám nhìn tới đó. Nhưng cuối cùng nó cũng cố quan sát cả con trăn đó. Và nó
không bao giờ ngừng lắng nghe những lời chuyện trò giữa Moss với tên phụ việc
hay với những người lạ đi vào tiệm. Nó cũng lắng nghe cả những gì những người
lạ vào tiệm nói với nhau giữa đám bạn bè bị cầm tù của nó.
Moss
không bao giờ cảm thấy hoàn toàn thoải mái với ý nghĩ rằng hắn đã đánh cắp con
khỉ này. Và những chuyện lạ lùng, xui xẻo bắt đầu xảy ra trong cửa tiệm. Hắn đã
tự đánh đổ một cái hộp thủy tinh đầy những con bướm Đầu Tử thần. Những cái chân
bé xíu của chúng trên lớp da của hắn và những cái vỗ cánh sầu thảm của chúng
làm hắn sợ hãi. Một đêm nọ, con trăn đã tìm cách bò ra khỏi cái bồn, nuốt trửng
ngay lập tức một con vịt và trốn thoát vào London. Và khi tên phụ việc trượt chân trên
cái chổi nằm trên sàn và bị gãy chân, ông chủ của hắn bắt đầu nghĩ rằng tốt hơn
nên tống khứ Jasper đi càng nhanh càng tốt.
Một
chiều nọ, khi một người quen của hắn, người từng là một ông bầu và huấn luyện
viên thú cho một gánh xiệc, bước vào tiệm và hỏi hắn muốn bán Jasper với giá
bao nhiêu, hắn ra một cái giá khiêm tốn đến nỗi bạn hắn móc tiền ra trả ngay.
Khi nhìn thấy Jasper lần đầu, ông bầu này bỗng thấy nhớ ánh đèn sân khấu, những
tràng dây kim tuyến, những con ngựa phi nước kiệu và quyết định bắt đầu trở
lại.
“Anh gọi
nó là gì?” Ông ta hỏi Moss.
“Gọi nó
ư? Jasper, đó là cái mà nó tự gọi nó, suốt ngày đêm và cả trong giấc ngủ của
nó!”
“À,
Jasper hả?” Bạn gã lặp lại.
Ông ta
là một người đen đúa, gầy gò, má hóp, tóc dài phủ tai. Tên của ông là J. Smith,
nhưng ông đổi tên thành Signor[4]
Dolcetto Antonio trên những tờ chương trình và những tấm áp phích quảng cáo khi
trình diễn. Không như những tên đê tiện có trái tim đen tối làm trong nghề của
ông, ông tin vào lòng tốt và lương tri.
“Amy ạ,
có năm thứ,” ông thường bảo với vợ ông, “mà tất cả những gì biết hít thở - từ
những con trâu cho tới những chim sẻ - đều cần đến; như bà và tôi, đó là thức
ăn, nơi ở, giấc ngủ, tình bạn và sự tự do.” Và ông cho những con thú của ông
nhiều như chúng mong muốn – tất cả, trừ thứ cuối cùng.
Xa khỏi
sự lạnh lẽo, ồn ào, hôi hám và tối tăm trong cửa tiệm của gã Moss, chẳng bao
lâu Jasper bắt đầu trở lại là chính nó. Nó thèm ăn trở lại, mắt nó sáng lên,
trông nó mượt mà và nhanh nhẹn. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ có thể lại ổn thỏa
trong tình trạng người bạn tri kỷ Bumps đã ra đi, và bản thân nó đang cách xa
quê nhà của nó.
Để có
thể chăm sóc con vật tốt hơn, ông Antonio mang nó về nơi ông đang sống với vợ
ông, ở tầng trên một ngôi nhà trong phố Jay, Soho.
Một phần của ngôi nhà này là một cửa tiệm bán rượu vang, dầu, cà phê, mì ống,
quả ô-liu, xúc xích và những loại thức ăn, nước uống nước ngoài khác. Phần còn
lại, từ tầng một lên tới mái là nơi ông bà Smith sống. Ở đây, họ đặt Jasper bên
cạnh cái lò sưởi nhỏ, cố làm cho nó thấy thoải mái tối đa trong một căn phòng
nhỏ xíu dành cho nó.
Mỗi
sáng, ông Antonio dành ra hai giờ để trò chuyện với Jasper và dạy nó các ngón
nghề biểu diễn. Khi ông ra ngoài có việc, bà Smith, dù bận rộn với bếp núc và
việc nội trợ, cũng trò chuyện với nó. Bà là một phụ nữ rất to béo, còn to béo
hơn cả ông tù trưởng bộ lạc Mlango-Nlangoes. Và, giống như ông ta, bà cũng rất
vui tính, hài hước và tốt bụng. Bà đặc biệt thích trẻ con và những loài thú
vật. Khi tới Vườn Bách thú, bà không chỉ huýt sáo với những con chim và vuốt ve
những con linh dương mà còn gật đầu chào và mỉm cười với những con đười ươi và
hà mã. Bà đối xử với Jasper như thể nó là một đứa con trai lâu ngày thất lạc.
Chẳng
bao lâu, ông chồng đã phát hiện ra rằng Jasper là một con khỉ có một không hai.
Nó khác với những con khỉ khác như bơ khác với phấn. Nó học hỏi mọi thứ được
dạy bảo một cách dễ dàng và nhanh nhẹn, và chẳng bao lâu đã có thể chuyện gẩu
với bạn của nó, như thể nó đã biết tiếng Anh suốt cả đời. Nhưng dù nó rất dễ
dạy, tốt nết và có cung cách nghiêm trang, ở nó có cái gì đó khiến cho ông
Smith không bao giờ thôi bối rối.
Ông đặc
biệt cảm thấy điều này những khi kết thúc xong bài học và Jasper ngồi trên cái
ghế của nó, chờ tới bữa ăn trưa. Vào những lúc như thế nó có vẻ như đang suy
ngẫm một điều gì đó mà ông không thể biết. Nó có vẻ xa vắng đến nỗi không bao
giờ ông Smith dám đánh liều hỏi nó rằng nó đang suy nghĩ về cái gì, hay kêu nó
quay về Soho.
Chỉ cần
nhìn Jasper cũng đã là một niềm an ủi cho đôi mắt. Dù Smith là một người có bản
tính tốt, ông là người vụng về và lóng ngóng như một cái chảo với một cái tay
cầm quá dài. Người ông toàn là góc cạnh. Bà Smith, người thậm chí còn tốt tính
hơn cả chồng, nhưng khi ngồi nói chuyện thì cũng chẳng khác chi cái nệm nhồi
lông chim. Nhưng Jasper, thậm chí khi không động đậy thân hình bé nhỏ, một cái
quay đầu, một cử chỉ của bàn tay hay bàn chân của nó cũng lặng lẽ như nước chảy
và thanh tú như những bông hoa bên cạnh nó. Khi nó chạm vào ai, như thể những
đầu ngón tay nó có gắn một những núm bông gòn. Khi nó duỗi những ngón tay ra để
cầm một trái táo, cử động đó giống như chuyển động của một cái bóng lướt qua
không khí. Nó đi lướt qua cái cọc treo màn của bà Smith mà không làm rung động
một cái vòng gỗ nào; và nếu bà ở gần, nó sẽ được phép theo bà đi ra cửa sổ mái
nhà, nơi thỉnh thoảng bà lên ngồi, vừa may vá vừa đưa mắt ngắm nhìn thành phố
London, bất chấp khói và nhọ nồi. Jasper sẽ ngồi trên rìa của cái chụp ống khói
cao nhất, nhìn ngó khắp tứ phía mà không dùng đến một đầu ngón tay để giữ thăng
bằng!
Nếu bề
ngoài nó là như vậy, nó có thể là gì
trong cái đầu bí ẩn của nó – những ký ức, những giấc mơ, những suy tư bình
thản, con sông và cánh rừng, những nỗi kinh hoàng, những mối nguy cơ và những
niềm vui của châu Phi rộng mênh mông, hay đúng hơn là một góc rừng xanh âm u
riêng biệt của riêng nó?
Một hôm
ông Smith nói với vợ mình, khi Jasper đang ngồi ngủ trên ghế: “Điều mà tôi nghĩ
về anh bạn của chúng ta đằng kia, là nó có thể học ở tôi hơn là tôi có thể học
ở nó –về cái, ý tôi là những vấn đề,
bà thân yêu ạ. Nó rất riêng tư thế nhưng lại lễ phép khiến cho người ta không
biết mình đang ở đâu nữa. Và tôi cũng nghĩ rằng có một cái gì đó giống như là
điều đáng xấu hổ trong việc để cho một nhóm người trả tiền chỉ để nhìn nó. Nó
nói chuyện với chúng ta, nhưng, lạy Chúa, nó chỉ nói với chúng ta về thứ mà nó
biết chúng ta có thể hiểu. Nó không nói cho chúng ta biết những bí mật của nó.
Không bao giờ. Sự thật là nó không nên bị mang đi khỏi nơi mà từ đó nó đến đây,
dù không ai biết nơi đó là đâu. Gã Moss chưa bao giờ biết tới một điều bí ẩn
như thế. Chưa hề. Nó có một quá khứ kỳ lạ, cái anh chàng tu sĩ bé nhỏ đó; hãy
nhớ lời tôi nói.”
Và dù
trong thâm tâm đồng ý với ông chồng, bà Smith nghĩ nói thế là không khôn
ngoan.
“Ông
đừng bực bội, Jim ạ,” bà đáp. “Nó có nhiều thứ để ăn và giữ cho nó bận rộn. Lo
âu à? Nó không thế đâu! Nhìn nó xem, đang ngủ bình an như một em bé, như thể
không có một trái dừa hay một người da đen nào trên thế giới này. Nó đang hạnh
phúc cũng giống như ngày thì dài.”
“Những
trái dừa!” Chồng bà nói, nhưng ông không có vẻ tin cho lắm.
Cuối
cùng, một buổi sáng sớm, bà Smith chợt nảy ra một ý nghĩ vui vẻ.
“Mọi thứ
sẽ công bằng và thẳng thắn, Jim ạ,” bà nói khi đang chải tóc trước tấm gương,
“mọi thứ sẽ tốt đẹp và đúng đắn, nếu ông lấy một nửa số tiền ông kiếm được từ
Jasper và nó lấy nửa kia. Khi nó bắt đầu kiếm được ít tiền, chúng ta sẽ dạy cho
nó biết tiền có nghĩa là gì. Nói cho cùng, Jim ạ, chỉ là chút bánh mì, pho mát,
bàn ghế, quần áo và nhà cửa – đừng quan tâm tới thời gian cần có để làm ra
chúng; và chẳng bao lâu nó sẽ nhặt nhạnh đủ. Khi đó, nó có thể có một ít đồ đạc
nho nhỏ cho chính nó. Nó có thể muốn gầy dựng, với ít tiền gửi nhà băng, với tư
cách là một con người độc lập. Xét theo những gì tôi đã thấy trên đời, nó có lý
trí gấp đôi hầu hết mọi người, và không hề có thói xấu nào, và tôi không thấy
có cái gì chống lại điều này.”
Ông
Smith nhìn vợ một cách kinh ngạc. Không phải vì bà đang nói khi miệng ngậm đầy
những cái kẹp tóc, mà là vì lâu nay dường như bà chưa bao giờ nhất trí với một
lời nào ông nói, thế rồi đột nhiên bà lại nảy ra một ý tưởng khiến cho mọi sự
trở nên đơn giản và dễ dàng. Với Jasper cũng vậy.
Khoảng
chín tháng sau khi mang nó về nhà, ông Smith hoàn toàn chắc chắn rằng ông không
thể dạy nó thêm điều gì khác nữa. Jsper có thể phát biểu cảm tưởng, ca hát, vẽ
tranh về những cánh rừng và những con tàu với một hộp phấn màu. Nó có thể
nguệch ngoạc viết ra những bài toán chia đơn giản trên một tấm bảng đen, và tìm
ra lời giải. Nó có thể thay đổi quần áo một cách thích hợp. Trong tuần, nó mặc
quần ống túm màu đỏ thắm và một cái áo xanh lá cây, với những cái nút bằng ngà.
Vào những ngày Chủ nhật, nó mang một cái cổ áo hồ cứng quanh cổ, một cái áo
choàng dài tới gót và một đôi giày đẹp. Để đi dạo phố, nó có hai hoặc ba cái áo
khoác không tay khác nhau. Ông Smith không bắt nó phải mặc quần áo hay làm theo
cách thức của con người. Jasper đã đồng ý rằng nó phải trở nên quen thuộc với
chúng. Lúc nào nó nổi hứng, nó không mặc chi hết, và nếu nó muốn, nó có thể mặc
hai bộ đồ dành cho ngày Chủ nhật trong một tuần. Nhưng điều này rất hiếm.
Nó biết
nhiều khúc ca đơn giản, và ông Smith đã làm cho nó một cây hạc cầm nhỏ - rất
thô kệch nhưng tiếng đàn khá du dương. Với cây đàn, nó có thể hát những khúc ca
đó, và những điệu khúc khác, và cả một điệu nhạc lạ lùng mà nó giữ kín ý nghĩa.
Thật sự, nhiều sáng sớm ông Smith đã bị đánh thức bởi tiếng đàn của Jasper ở
phòng bên cạnh. Và trong những từ và giai điệu dường như đều là của chính nó
sáng tạo ra hay nhớ lại từ đâu đó trong những khúc ca của nó có một nhịp điệu
nào đó gần như khiến ông muốn khóc. May mắn là bà Smith ngủ say hơn ông nhiều.
Dù sao,
không còn ngờ gì rằng nếu Signor Antonio và bác sĩ Jasper – như họ tự xưng
trong các áp phích quảng cáo – có lúc làm giàu, thì giờ đây thời điểm đó đã bắt
đầu. Từ lâu, ông Smith đã tới gặp ông giám đốc nhà băng nơi ông gửi tiền tiết
kiệm và đã thu xếp với ông ta để mở một tài khoản với tên của bác sĩ Jasper.
Mỗi tuần sau đó, ông trả cho Jasper phần chia trong tổng thu nhập ngày càng
tăng vọt.
“Ông
biết đó,” ông đã giải thích ngay từ đầu với ông giám đốc nhà băng, “phải một
thời gian nữa anh bạn của tôi mới có thể tới đây và tự đóng tiền. Nhưng tôi muốn mọi thứ phải để
công khai và thẳng thắn. Khi anh ta kiếm ra tiền, chuyện này sẽ chóng tới thôi,
anh ta sẽ nhận một nửa và tôi nhận một nửa. Và khi chúng tôi đã kiếm được đủ
tiền, theo ý anh ta, khi đó anh ta sẽ chọn cách mà anh ta nghĩ là tốt nhất.”
Ông
Johnson, giám đốc, người cho tới lúc đó chỉ nhìn thấy vài tấm ảnh, không giống
lắm, của bác sĩ Jasper, mỉm cười với sự thu xếp này. Nhưng chắc chắn là mọi
chuyện đều công khai và thẳng thắn, và ông thực hiện mọi ý muốn của ông Smith.
Bác sĩ
Jasper xuất hiện lần đầu trên sân khấu vào tháng Mười hai. Sân khấu này ở London. Lễ Giáng sinh năm
ấy có mưa đá, và một đợt gió lạnh cuốn qua những đường phố London sáng rực ánh
đèn khi Signor Antonio và bà Smith cùng lên một cỗ xe ngựa đi tới rạp Tương lai, một nhà hát nổi tiếng được
đặt tên theo rạp Tương lai cũ vào
thời của Nữ hoàng Bess[5],
và những bà vợ vui vẻ ở lâu đài Windsor. “Chưa
đầy hai mươi năm sau khi được xây dựng nó đã bị thiêu cháy rụi,” ông Smith nói
với Jasper, “trong vòng hai tiếng đồng hồ.”
“Trong
vòng hai tiếng đồng hồ!” Jasper nói.
Và bà
Smith, đang lặng lẽ tựa người vào lớp nhung tím trong xe, quay lưng về phía hai
con ngựa và quay mặt về phía Jasper, bên cạnh ông chồng bà, cũng có thể chính
là một trong những bà vợ vui vẻ đó đã hồi sinh trở lại!
Trong cơn gió bấc lạnh lẽo, những bông tuyết nhỏ li ti biến
mất khi rơi qua không gian đen tối, và với hàng đoàn người vui vẻ đổ ra đường
trong những bộ quần áo lông, khăn choàng và áo khoác mùa đông, London trông sáng rực như một nhà hát.
Jasper
hơi run một chút, không phải vì lạnh, khi nó nhìn ra cửa sổ chiếc xe vào những
khách qua đường. Ông bà Smith nói chuyện một cách hài hước để giúp nó giữ tinh
thần, và đôi khi bịa ra những chuyện vui thật hóm hỉnh về những ông bà ăn mặc
phô trương quá đáng mà họ có thể trông thấy từ trong cỗ xe. Vì cả trái tim của
họ cũng đang hồi hộp. Nhưng bản thân nó thì chỉ ngồi im lặng trong cái góc tối
ấm áp của mình. Cỗ xe lăn dọc theo ngã tư Charing vào quảng trường Trafalgar.
Ông Smith đã bảo người đánh xe đi vòng theo đường này tới nhà hát vì ông muốn
Jasper nhìn thấy những con sư tử.
“Nhìn kìa, Jasper,” bà Smith nói, khi ông chồng giơ tay
chỉ, “ở đằng kia là ngài Nelson vĩ đại. Có lẽ ông ấy lạnh dữ lắm trong chiếc mũ
ba góc không vành, chỉ còn có một cánh tay và một con mắt – với cơn mưa đá đang
rơi giữa những vì sao.”
Jasper
ngẩng gương mặt lặng lẽ của nó lên và trông thấy mơ hồ hình dáng im lặng to lớn
bằng đá gra-nít nổi lên trên bầu trời.
“Biển,”
nó thì thầm. “Thủy thủ.” [Seaman] Nhưng thật lạ lùng, bà Smith, người bình
thường rất nhanh trí với những gì nó nói, lại cho rằng ý nó muốn nói là see [nhìn thấy] chứ không phải sea [biển] và e rằng nó hẳn rất lo lắng
về cái tượng ở trước mặt đến nỗi đã quay trở về cách nói trẻ con cũ của nó – Thấy... Người [See… Man…] khi nó mới bắt
đầu học tiếng Anh. Nhưng Jasper có những ý nghĩ khác.
Cỗ xe
ngựa chạy dọc theo bờ sông, và trên đường có khá nhiều mưa đá tan ra đến mức
những chiếc bánh sắt lăn một cách im lặng. Cỗ xe cứ tiến về phía trước, qua
những cửa hàng sáng trưng và những con người vội vã; và giây lát sau ngoặt vào
một con đường nhỏ sau lưng nơi có một cột đèn bằng sắt trên bệ vỉa hè soi sáng
cửa vào nhà hát.
Ông
Smith xuống xe. Ông trả tiền và tặng người đánh xe thêm nửa đồng crown. Rồi ông
yêu cầu anh ta tới đó đợi họ vào lúc mười một giờ. “Đúng mười một giờ,” ông
nói.
Sau khi
đỡ bà Smith xuống xe, ông leo lên ba bậc thềm, đẩy mạnh cánh cửa. Nó mở đánh ầm
một tiếng làm Jasper tội nghiệp run bắn người lên, rồi cả ba cùng bước vào nhà
hát.
“Chào
buổi tối, Sam,” ông Smith nói với một người to béo đang ngồi trong một lô ghế
bên dưới cánh cửa sổ mở cạnh cửa ra vào.
“Chào
buổi tối,” ông ta đáp, nhưng đôi mắt xám ướt át của ông ta không nhìn ông Smith
mà dán vào Jasper. Nó quay đầu và đưa ngón tay chạm khẽ ông Smith để ra hiệu
rằng nó muốn được đặt xuống. Thế là, lần lượt từng người, ông Smith, Jasper, bà
Smith – cả ba người bước lên những bậc cầu thang đá để đi vào phòng thay đồ đã
được ông giám đốc nhà hát dành riêng cho họ. Ở đây, ông Smith giúp Jasper đánh
vần những mô tả về chính nó bằng những chữ in hoa to lớn trên tấm áp phích treo
trên tường. “CUỘC RA MẮT ĐẦU TIÊN CỦA BÁC SĨ JASPER THÔNG THÁI VÀ NỔI TIẾNG,”
ông đọc một cách chậm rãi, Jasper nghiêm nghị gật đầu sau từng chữ, “MỘT NHÂN
VẬT PHI THƯỜNG CỦA XỨ KHỈ VÀ BẬC THẦY VỀ BẮT CHƯỚC CỦA CON NGƯỜI!”
“Đấy,”
ông Smith nói, “nó nói về chú mày, Jasper ạ! Chú mày nghĩ sao về điều đó?”
Nhưng Jasper không đáp. Lúc này, hơi run một chút, nó đang nhìn chăm chú bức
tranh của chính mình bên dưới dòng chữ. Bức tranh đã đưa nó quay về với quê
hương một lần nữa. Vì người họa sĩ, dù chắc chắn đã cố hết sức mình, đã vẽ nó
giống như một con khỉ đột con!
Sau khi
bà Smith, với đôi tay mũm mĩm nhưng khéo léo của mình, đã trang điểm xong cho
nó, và chồng bà cũng đã sẵn sàng, cả ba lại bước xuống những bậc cầu thang đá
và bước vào cánh gà của sân khấu. Họ im lặng đứng chờ ở đó, trong bóng tối.
Chẳng bao lâu nữa sẽ tới tiết mục của Jasper. Trong cái xó những phong cảnh vẽ
này – tất cả mọi thứ hoa cỏ, cây cối và chim bướm – Jasper nhìn quanh quẩn. Đó
là đêm hôm sau ngày lễ Giáng sinh, và nhà hát, từ nền nhà cho tới trần nhà,
đông nghẹt những con người ở đủ mọi lứa tuổi, nhưng nhiều nhất là trẻ con.
Jasper
đứng nhón chân nhìn qua một cái lỗ nhỏ trên tấm vải và nó nhìn thấy những hàng
ghế đầy các gương mặt xa lạ xếp chồng lên nhau cho tới cao tít. Đôi mắt của họ
gắn vào năm “Con Voi Cực kỳ Xinh đẹp xứ Ethiopi Đã được thuê Với Chi phí Khổng
lồ” lúc đó đang ngồi quanh huấn luyện viên của chúng trên sân khấu. Khi nhìn
thấy những gương mặt đó nó run bắn từ đầu đến chân. Và nó quay mặt đi, nhìn vào
những con voi.
Bốn
trong số đó là những con thú to lớn, được trang điểm bằng những nhánh tầm gửi
và trên lưng chúng là những tấm phủ màu xanh sáng và bạc. Con thứ năm, nhỏ
nhất, được cho ăn mặc như một anh hề, gương mặt nó bôi phấn trắng xóa, và một
con mắt được viền quanh bằng một hình thoi màu đỏ. Chúng đang ngồi trên những cái
đôn với những cái vòi có đeo vòng hoa trang sức. Chúng chào người huấn luyện
bằng một tiếng rống đồng thanh át cả tiếng kèn của ban nhạc. Chúng đi bằng chân
sau, chúng bước qua cái chai. Chúng quay tay nắm của những chiếc đàn quay. Và
hai con voi lớn nhất cùng nhảy một điệu polka nặng nề, trong khi hai con nhỏ
hơn ngồi phe phẩy quạt cho chính chúng, còn con nhỏ nhất thì đánh nhịp với một
cái que sơn màu xanh đỏ.
Rồi từng
con một, những con thú to lớn và nghiêm trang đó, với những đôi mắt bé xíu lấp
lánh vì kích động, những cái đuôi mập mạp vung vẩy, bước ra khỏi sân khấu để
vào khu vực của chúng. Màn hạ xuống. Đã tới lượt của Jasper.
Ngay sau
đó, mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng cho nó. Một cái bàn trên có nhiều cuốn
sách, một cái giá đựng bút mực trống không, vài xấp giấy và một cái chuông lắc.
Hai cái ghế mạ vàng phủ satin xanh sáng đặt bên cạnh bàn, và một cái ghế sofa –
món đồ nội thất duy nhất, ngoài một cái giá cắm dù, một cây cọ trong một cái
chậu và một tấm thảm Axminster xanh và đỏ.
Tiếng
nhạc ngưng. Màn chầm chậm kéo lên trở lại. Và kìa, giữa sân khấu, là Signor
Antonio, hóa trang như một thằng đầy tớ
trong một cái áo đuôi tôm đen, trông có vẻ đang lăng xăng bận rộn sắp xếp lại
căn phòng để chuẩn bị cho sự trở về của chủ nhân của hắn. Và trong khi hắn đang
dọn dẹp mấy cuốn sách và lia nhanh nhát chổi cuối cùng qua những cái ghế bọc
satin và cây cọ trong chậu, hắn nói chuyện với chính mình, dù khá lớn để mọi
người có thể nghe thấy. Hắn giải thích hắn là ai – một người hầu trung thực của
bác sĩ Themistocles Marmoset Jasper vĩ đại, một ông chủ tốt bụng và thông minh
nhất mà những người hầu từng có, và cũng là nhà y học nổi tiếng nhất ở châu Âu.
– “Có phải tôi vừa nói là ở châu Âu không nhỉ?” Hắn la to, giơ chổi đập vào
chân mình. “Không, trên toàn THẾ GIỚI!”
“Nào,
Jasper,” bà Smith thì thào, cúi xuống đầu người bạn bé nhỏ. “Thế giới, Jasper: đó là từ của con, đó
là gợi ý cho con! Ra đi con, và cầu phúc cho con, Jasper! Và nếu, bé khốn khổ,”
bà thở hổn hển, “con lo lắng bằng một nửa nỗi lo của ta, trong vóc dáng của ta,
ồ… ra đi, Jasper!”
Nó ngẩng
nhìn bà; rời khỏi tay bà. Nó bước khỏi bóng tối và đi vào vùng ánh sáng.
Trong
cái quần kẻ sọc, cái áo chẽn kiểu Pháp màu xám, cái áo choàng dài buổi sáng màu
đen, với sợi dây đeo đồng hồ vàng và cái cổ áo hồ cứng, mũ chỏm cao trong tay,
nó ưỡn ẹo bước về phía trước. Đôi giày da sơn hơi dài một chút, nhưng nó xoay
xở với chúng một cách dễ dàng.
Khi nhìn
thấy ông chủ, gã người hầu Jennings
bước tới ngay lập tức. Bác sĩ Jasper trao cho hắn cái mũ, cây gậy và đôi găng
tay màu vàng của ông. “Cám ơn ngài. Rất tốt, thưa ngài,” Jennings nói. Hắn treo cái mũ lên một cái móc
rồi cắm cây gậy vào giá.
Vị bác
sĩ hơi ngẩng đầu lên khi ông đi tới cái bàn thấp và đặt tay lên một cuốn sách.
“S-sáng nay là một ngày đẹp trời, Jennings,” ông nói. “Hôm
nay, ai là bệnh nhân đầu tiên của ta?”
Một sự
im lặng phủ lên nhà hát với âm thanh đầu tiên của những từ với giọng cao the
thé và tiếng sì sì khe khẽ lập lại chữ s, khác thường đến mức người ta không
chỉ có thể nghe thấy tiếng một cây kim rơi, mà còn có thể nói được nó rơi mũi
kim hay đít kim xuống trước! Rồi một em bé gái, ngồi trên hàng ghế cao bắt đầu
khóc thút thít. Nhưng chẳng bao lâu nó nín lặng, và Jennings giải thích với ông
chủ hắn rằng bệnh nhân đầu tiên là ngài nữ bá tước xứ Crumpet; “và đó là một
phu nhân rất xinh đẹp nữa, thưa ngài, như người ta bảo với tôi, có quan hệ bà
con gần với lãnh chúa Muffin ở lâu đài Teacake, thưa ngài.”
Nghe
thấy thế, ông chủ của hắn móc cái đồng hồ trong túi ra và nói, “Đã mười giờ năm
phút rồi, Jennings.
Ta e rằng con tàu của bà ta tới muộn.”
“Tôi sẽ
đi xem, thưa ngài,” Jennings
nói, “có thể bà ấy ở trong phòng đợi.” Và hắn lui vào.
“Mọi
chuyện tốt đẹp, bà nó ạ, mọi chuyện tốt đẹp, đừng lo, nó an toàn.” Ông thì thầm
với bà Smith, khi nhanh chóng và lặng lẽ lướt tới bên bà như một cái bóng.
Trong khi ông Smith đi khỏi, Jasper đã ngồi lên một cái ghế
ở cái bàn mạ vàng, rút một cây bút lông ngỗng dài từ lọ mực khô và cúi cái đầu
nhỏ bé của nó xuống cho tới khi cái mũi tẹt gần chạm vào tờ giấy, vờ như đang
viết lên đó.
“Sẽ là
ba đồng ghi-nê,” nó thở dài với chính mình, gần như là một tên keo kiệt khi nó
nguệch ngoạc với cây bút. “Thêm ba đồng ghi-nê nữa!” Nhưng dù nó nói mấy từ đó
như thể nói với chính mình, chúng cũng khá lớn như giọng của ông Smith, để mọi
người trong khán phòng nghe được; thế nhưng chúng được nói một cách nghiêm
trang đến nỗi không có ai cười cả.
Lúc này
Signor Antonio đã quay trở lại sân khấu từ sau cánh gà. Nhưng trong lúc đi ra,
ông đã đội vào đầu một cái mũ đàn bà, mặc một cái váy viền ren tím có khung
lót, với một cái đuôi dài thượt, và ông mang theo một cây dù sọc xanh. Tất
nhiên, lúc này ông là bà bá tước xứ Crumpet. Bác sĩ Jasper cúi đầu chào bà bá
tước, rồi cả hai ngồi xuống. Và bác sĩ Jasper nói với bà bá tước, “Sáng nay
trời thật đẹp. Xin phu nhân vui lòng thè lưỡi ra.”
Rồi ông
đứng lên trên ghế để nhìn vào lưỡi của bà ta và nói, “Ồ, thứ lỗi cho tôi, thưa
phu nhân, một cái lưỡi thật đáng tiếc, một cái lưỡi đáng sợ.” Cũng chưa có ai
cười. Nhưng khi bà bá tước, với nụ cười điệu đà, thò ra một bàn tay đàn ông to
tướng trong một cái găng tay trắng từ bên dưới cái khăn choàng có nhiều họa
tiết cho bác sĩ Jasper bắt mạch – thì mọi người phá lên cười. Và sau đó, ngoại
trừ khi bác sĩ Jasper còn lại một mình trên sân khấu, họ hầu như không thể dừng
cười để thở.
Vở diễn
cứ thế tiếp tục, Jasper nói lời thoại vai kịch của mình như thể đó là một việc
đơn giản và dễ dàng chẳng khác chi việc những con khỉ hình người và khỉ có đuôi
khác nhá quả hạch và lột vỏ chuối. Nhưng dù đối với mọi ngưòi đang xem từ những
hàng ghế cao và thấp trong nhà hát nó có vẻ giống như lời của ông giám đốc nhà
hát nói về nó – Bậc thầy về Bắt chước của Con người – điều này không đúng. Đó
chỉ là cách con người nhìn nó.
Lúc nào
nó cũng thật sự và đúng là chính bản thân nó và chỉ là bản thân nó mà thôi –
suy nghĩ những ý nghĩ của chính nó, khi nó hướng đôi mắt sáng, nhanh nhạy, sâu
thẳm và bây giờ gần như có màu hổ phách dưới ánh sáng sân khấu chói chang vào
mọi người ở phía bên ngoài và vào Signor Antonio trong chiếc áo choàng, đôi
găng tay, mũ và khung áo. Và dù nó mỉm cười khi trò chuyện, thậm chí còn nhếch
mép cười thành tiếng khi bà bá tước cố tình ngồi lầm xuống nền nhà thay vì trên
ghế, nó có vẻ nghiêm nghị bên dưới lớp ngoài đó, nếu người ta có thể nhìn nó
gần hơn.
Tiết
trời nhiều gió của London
với nó quá lạnh lẽo. Và dù nó thích ông bà Smith, hai người rất tốt đối với nó,
và nó biết rất rõ theo cách suy nghĩ riêng của nó một hộp tiền có nghĩa là gì,
nó không thích gương mặt to lớn, đôi má phị và bộ ria đen của ông giám đốc nhà
hát; và chịu bắt tay ông ta chỉ vì lịch sự. Nó đã làm tốt mọi việc. Thế nhưng
nó vẫn mong ngóng một người bạn thất lạc lâu ngày và muốn quay về với những
người của nó.
Khi màn
đã hạ sau tiết mục của nó, nét mặt nó cau lại như thể bên dưới một cái mặt nạ,
và mắt nó đột nhiên nhắm lại khi nghe những giọng nói vỡ òa ra ở bên ngoài. Màn
kéo lên lần nữa – nó và Signoer Antonio đứng giữa sân khấu; cứ thế một lần nữa
rồi một lần nữa – lúc này bác sĩ Jasper chỉ còn lại một mình; và lại một lần
nữa, lúc này tay trong tay với ông giám đốc ở một bên và ông Smith ở bên còn
lại. Khán giả la đến khản tiếng và vỗ đến mỏi cả tay!
Cuối
cùng, khi màn đã hạ và nằm yên, nó loạng choạng bước đi, tay nắm chặt chiếc váy
của bà Smith. “Ôi chao, tội nghiệp cho bé con khốn khổ!” Bà chỉ có thể nói thế
với nó, mắt bà rưng rưng, phần vì vui mừng và phần vì thương xót, và bà vuốt ve
những ngón tay lạnh cóng của nó như thể nó là một đứa bé. Nhưng dù bé nhỏ, thậm
chí đối với chủng loại khỉ của chính nó, nó đã thành công rực rỡ. Trên mặt của
ông giám đốc nở một nụ cười toe toét, xởi lởi, khi ông ta bắt tay với nó một
lần nữa và cúi đầu chào, dù việc đó chẳng có gì khác hơn ngoài sự giễu cợt, và
nói lời tạm biệt.
Cứ thế,
phần tiền của Jasper được rót vào nhà băng cho tới khi nó trở thành một con khỉ
giàu nhất thế giới, mặc dù nó cũng là con khỉ duy nhất trên thế giới biết điều
đó. Ông bà Smith luôn đối đãi với nó một cách trung thực, và dĩ nhiên, cả họ
cũng sớm trở nên giàu có.
Một ngày
nọ, John Bumps trở về nhà sau một chuyến đi vòng quanh thế giới, như anh đã
thực hiện nhiều lần trước đó, dù không bao giờ thấy vui thú nữa. Và mặc dù anh
sống ở Portsmouth, một nơi rất xa London, chỉ hai ngày sau khi đoàn tụ với gia
đình, anh đã đọc thấy trên báo cái tít in lớn tên của bác sĩ Jasper, và những
gì ông ta thực hiện.
“Jasper,”
anh lặp lại với chính mình, “thật kỳ lạ, đúng thế! Jasper!” Anh đọc lại một lần
nữa và vỗ vào chân mình. “Cùng một cái tên như nhau, đúng quá,” anh tự nhủ. “Và
lạy thánh Solomon Davy, chắc chắn không thể có hai Jasper, không thể như thế!
Và nếu không có hai Jasper, thì Jasper này chính là Jasper của mình!”
Thế là
anh quyết định, vì anh vẫn còn một số tiền kha khá sau chuyến đi biển, anh có
thể đưa chị Bumps, Topsy, Emmmanuel và Kate tới London để họ có thể tới nhà hát
Tương lai và tận mắt nhìn thấy
Jasper. Ngay cả khi nó không phải là người bạn cũ của anh ở Malango-Nlangoes và
chỉ là một sự trùng hợp, đây sẽ là một dịp để thết đãi cả nhà anh. Và Bumps
luôn thết đãi mọi người trong gia đình khi anh đi biển về. Anh không nói gì với
bọn trẻ về anh bạn Jasper vì e chúng có thể thất vọng, nhưng anh nói với chị
Bumps. Sáng thứ Bảy hôm sau, sau khi khoá cửa, cả gia đình cùng nhau lên đường
trong những bộ quần áo đẹp nhất và đón chuyến tàu hỏa sớm nhất.
Emmanuel
và Kate chưa bao giờ tới London
trước đó. Mỗi đứa ngồi một góc, nhìn chăm chú ra cửa sổ toa tàu. Những đồng
lúa, bãi cỏ, những ngôi làng và nhà thờ, những dãy đồi và nông trại lướt nhanh
qua mắt chúng. Khi chúng vừa ăn xong cái bánh bao nhân nho mà chị Bumps mua cho
chúng ăn lót dạ thì con tàu bắt đầu luồn vào cái hang có mái kính lớn của một
nhà ga gọi là Waterloo – được đặt tên theo Công tước xứ Wellington, Công tước
Thép, ông già Mũi to (như chị Bumps giải thích).
Họ còn
trọn một ngày trước mặt, và khi Bumps chiêu đãi họ, không bao giờ anh để phí
một phút nào. Ngay lập tức anh dẫn cả bọn vào một chiếc xe buýt hai tầng và họ
tới, đầu tiên là tu viện Westminster, rồi tới nhìn những người lính kỵ binh ở
Whitehall, rồi tới nhà thờ Thánh Paul. Và ở đó, chị Bumps chỉ cho bọn trẻ nơi
thi hài của Đô đốc Nelson yên nghỉ trong ngôi mộ làm từ khẩu đại bác mà ông đã
thu được của quân Pháp. “Ông ấy là một một thủy thủ lớn, ngài đô đốc Nelson
ấy,” Bumps nói.
“Ý cha
là một người thủy thủ giống như cha, phải không ạ?” Topsy hỏi to.
“Suỵt!
Topsy!” chị Bumps thì thào. “Con không được nói to như thế. Đây là nhà thờ.”
Ở sân
nhà thờ Thánh Paul, trên một cái ghế ngoài chỗ trống – mặt trời đang rọi sáng,
dù trời khá lạnh – họ ăn bữa trưa mà chị Bumps đã đặt sẵn vào trong cái giỏ đan
bằng cành liễu. Thế rồi sau khi xem nơi hai vị hoàng tử nhỏ đã ngủ lần cuối
trong tòa Tháp London, họ tới dùng trà ở một tiệm trà. Ba đứa trẻ được cho mỗi
đứa một quả trứng luộc, còn anh chị Bumps thì thích món trứng rim của họ hơn.
Sau đó họ lại ra phố. Và sau khi cho bọn trẻ đứng nhìn vào các cửa tiệm ở
Cheapside một lúc, đặc biệt là một tiệm bán đồ chơi có cả một cái cây treo
những chiếc máy bay như một cây dù to lớn, Bumps nhét tất cả vào một cỗ xe ngựa
và họ lên đường tới nhà hát Tương lai.
Dù giờ
đây Bumps đã là trưởng thủy thủ đoàn của chiếc Sư tử già, anh vẫn chưa phải là một người giàu có. Vì thế, anh
không có khả năng mua vé ở tầng dưới, ngoại trừ một chỗ gọi là Cái Hố. Và anh
không mua vé trong Cái Hố vì chị Bumps nói chị luôn thích nhìn từ trên xuống
khi vào một nhà hát. Họ đến cực kỳ sớm và nhờ may mắn vẫn còn năm chỗ ngồi ở lô
thượng, ngay chính giữa hàng đầu. Họ rất hài lòng khi có thể ngồi lặng lẽ trong
những cái ghế nhồi rơm dễ chịu đó để nghỉ ngơi và nhìn ngắm mọi người sau khi
đi bộ vòng vòng suốt cả ngày trời ở London.
Thật ra, gần như khi họ vừa kịp ngồi vào ghế thì Kate, mới năm tuổi và đã mệt
lử, đã ngủ thiếp đi trong chiếc ghế.
Tuy
nhiên, Topsy và Emmanuel vẫn tỉnh táo, vừa ngồi hút món nước quả lê (vì chị
Bumps nghĩ những chỗ ngồi đó quá gần tâm điểm chú ý), vừa thì thào, trò chuyện
và quan sát mọi thứ đang diễn ra. Chưa bao giờ trong đời họ từng nhìn thấy
nhiều quý bà quý cô xinh đẹp, với những đôi vai trần và những viên kim cương
lóng lánh trên mái tóc, hoặc nhiều quý ông mặc áo đen dài và đeo cổ cồn cao đến
thế.
Từng
người một trong ban nhạc lần lượt mang nhạc cụ len lỏi đi tới chỗ ngồi của họ ở
trước sân khấu, và bắt đầu thổi thử những cây kèn oboe và trombone. Cả người
nhạc công đánh trống cũng gõ khe khẽ trên cái trống của ông ta, nhưng không thử
trên cái phách tam giác hay những cái chũm chọe. Cuối cùng ông nhạc trưởng tới
với chiếc đũa điều khiển làm bằng ngà voi.
“Cái đó
để làm gì nhỉ?” Emmanuel thỏ thẻ.
“Nó dùng
để điều khiển ban nhạc,” chị Bumps nói.
Ông nhạc
trưởng ngồi xuống cái ghế bọc nhung nhỏ của mình và chờ đợi.
Bumps
lôi cái đồng hồ bạc ra. “Vừa đúng giờ,” anh thì thầm với chị Bumps. “Tôi tự hỏi
họ còn chờ cái gì nữa không biết.”
Anh không cần phải đợi lâu. Đột ngột, với
một ám hiệu của người nhạc trưởng, tiếng nhạc vỡ toang, khiến bé Kate tội
nghiệp giật bắn cả người, mọi người trong nhà hát đứng lên và ban nhạc chơi bài
quốc ca. Giây lát sau, vua nước Anh, rồi hoàng hậu, con trai họ, Hoàng tử xứ
Wales, và một công chúa nước ngoài với những búp tóc đen loăn xoăn và một cây
quạt bé xíu bước tới cái lô ghế lớn bên cạnh sân khấu đã được trang trí bằng
dây nhựa ruồi và dây tầm gửi. Theo sau họ là một số phu nhân và quý ông xinh
đẹp. Nhà vua đứng ở trước lô ghế, ngay chính giữa, trong lúc bản quốc ca tiếp tục.
“Đó là
nhà vua,” chị Bumps thì thầm với Emmanuel.
“Và kia
là hoàng hậu,” Bumps nói. “Và nhìn kia, Topsy, Manny, Kitty, đó là Hoàng tử xứ Wales!”
Phải mất
một lúc lâu Kate mới nhìn thấy tất cả, nó vừa mới ngủ quá say sưa. Khi nốt nhạc
cuối cùng chấm dứt, cả năm người bọn họ reo hò to hết sức, và mọi người khác
trong nhà hát cũng thế. Nhà vua cúi đầu chào. Họ lại reo hò. Rồi nhà vua ngồi
xuống. Tấm màn với những nếp gấp nặng nề được kéo lên một cách chầm chậm, lặng
lẽ và tiết mục biểu diễn bắt đầu.
Trước tiên
là những nghệ sĩ nhào lộn trong những bộ quần áo bó đính trang kim. Kế tiếp là
một nghệ sĩ tung hứng và đứa con gái bé xíu của ông ta. Những quả bóng, những
chiếc vòng và những cái đĩa mà họ tung hứng trông như thể những vật sống. Sau
đó, một người đàn ông bước ra và hát bài “Vịnh Biscay”, dù Bumps biết về cái
vịnh đó hơn anh ta nhiều. Và sau anh ta, năm con voi Ethiopi lần lượt bước ra
sân khấu. Khi chúng xuất hiện, trong lúc ba đứa trẻ há mồm tròn như chữ O và vỗ
đến rát cả tay, Bumps hầu như không thở được. Tất nhiên không phải là vì anh
chưa bao giờ nhìn thấy những con voi trước đó. Trái lại, anh đã từng nhìn thấy
rất nhiều voi – đang đi một cách hoang dã và thanh bình trong những đầm lầy ở
châu Phi, đang nằm tắm bùn trong ánh nắng nóng của mặt trời xích đạo, hay đang
phun những tia nước lóng lánh như bạc vào nhau khi trời sắp tối. Và dù năm con
voi này trình diễn những trò rất xuất sắc, anh đã từng nhìn thấy những con voi
khác hữu dụng hơn nhiều ở chính quê hương của chúng. Anh không xem thường lũ voi
mà chỉ quá quen thuộc với chúng.
Không.
Bumps đang chờ đợi bác sĩ Jasper và hầu như không chịu đựng nổi sự trì hoãn.
Anh đang chờ bác sĩ Jasper trình diễn vở kịch mới “Hành động lớn” như tấm áp
phích cho biết, một vở kịch “được đặc biệt sáng tác để phục vụ cho Hoàng gia,
và được tài trợ bởi Vua Ba Tư, Hoàng đế Abyssinia và những nhà vua khác”. Và
giờ đây anh biết trước khi anh đếm tới năm mươi nó sẽ bắt đầu.
Sau khi
quỳ xuống cúi đầu chào để thể hiện lòng biết ơn đối với những tràng vỗ tay hoan
hô, những con thú to lớn vụng về lững thững đi ra phía sau sân khấu. Chúng đứng
thành một hàng trong làn ánh sáng mờ mờ ở đó, những cái vòi cất cao bên trên
đầu chúng. Rồi một giây im lặng; rồi một chùm tia sáng mỏng quét xuống từ phía
trên cánh gà. Một tiếng rống như tiếng kèn trumpet đột ngột vỡ ra từ cổ họng
của những con voi, lớn đến nỗi có thể át cả âm thanh của hai mươi dàn nhạc.
Và tiến
vào chùm ánh sáng di chuyển theo mỗi bước chân của nó là Jasper, với một cái áo
choàng nhung đỏ thắm viền đăng ten bằng vàng thật khoác trên vai, một cái mũ
cao bằng lông chồn trên phủ những chùm lông chim trĩ và có đính một viên kim
cương ở phía trước, trong tay phải là một cây vương trượng nhỏ nạm bạc. Bây giờ
nó không còn là một ông bác sĩ kê những toa thuốc cho nữ bá tước xứ Crumpet mà
là Hoàng đế Hùng mạnh của Toàn xứ Ethiopi, Đức vua Toàn năng Ammanabi Nana
Dâh.
Theo sau
ngài là hai người da đen lùn bé nhỏ mang đầu tóc giả xoăn tít đeo những lông đà
điểu và mặc những cái váy màu bạc, vàng và đỏ son. Một trong hai tên này cầm
chiếc lọng che hoàng gia của đức vua, còn tên kia thì mang chiếc ngai mạ vàng
của ngài (vì nó rất nhẹ). Theo sau hai tên da đen là Signoer Antonio (ông
Smith), bây giờ không còn là người hầu hay nữ bá tước nữa, mà là một trong
những bà vợ cao nhất và gầy nhất của Hoàng đế!
Khi
tiếng rống của mấy con voi đã tắt hẳn và những chiếc chũm choẹ, trống đã ngưng,
một tiếng đồng thanh reo hò vang dội từ mọi người nổi lên trong nhà hát. Khắp
bốn phía cách đó nửa dặm, người ta có thể nghe thấy tiếng reo hò đó. Ngay cả
nhà vua của nước Anh, đang ngồi mỉm cười trong lô ghế hoàng gia của ngài, cũng
không nhớ là từng được chào mừng với tiếng hoan hô to hơn thế hay không. Và
rồi, như thể tiếng ồn to lớn này tự nó ngưng lại, một sự im lặng cực kỳ rơi
xuống. Sau khi kéo cái áo choàng đỏ thắm gọn lại quanh người, Hoàng đế đã ngồi
xuống chiếc ngai vàng, trên đầu là cái lọng đỏ như một cây nấm khổng lồ. Mười
hai tấm da báo được trải ra quanh chân ngài.
Ngài
ngồi đó một lúc – bé nhỏ, lưng ưỡn thẳng, hoàn toàn bất động – và nhìn tất cả
mọi người. Không một cái lưỡi nào ngọ nguậy, trong khắp nhà hát không có một
tiếng thở dài hay tiếng ho nào. Người duy nhất cục cựa, và không ai chú ý tới
nó, là bé Kate. Nó chưa bao giờ nhìn thấy những thứ đó hay bất cứ cái gì giống
như chúng trước đó. Nó xoay đầu ra khỏi tầm nhìn của sân khấu và giấu mặt vào
lòng của mẹ nó.
Hoàng đế Jasper nhìn quanh. Bây giờ ngài đã quen với những
tia nhìn chòng chọc và cả một biển mặt người, với những tràng pháo tay và những
tiếng cười to. Ngài biết ngài đang ở đâu, và ngài cũng biết – dù chỉ có mình
bản thân ngài có thể nói – ngài là ai
và ngài làm gì. Và có lẽ vì lý do
này, khi ngài đang ngồi nhìn quanh từ cái ngai vàng, những người đang nhìn ngài
cảm thấy một cơn lạnh kỳ lạ đang luồn trong máu họ.
Như thể
họ không chỉ cảm thấy không thoải mái trước sự hiện diện của ngài – với cái đầu
nhỏ xíu, bất động, đôi mắt đăm đăm – mà còn thấy sợ hãi. Ngay cả hoàng hậu cũng
băn khoăn nhìn nghiêng sang nhà vua, nhưng nhà vua thì lại đang nhìn Hoàng đế.
Còn Hoàng đế lúc này đang nhẹ nhàng đưa bàn tay trái lên và mở miệng ra để nói…
Có lẽ
nếu Bumps suy nghĩ chút xíu về tất cả những cảnh tượng này, hẳn anh sẽ ngồi yên
với gia đình trong hàng ghế trước của lô Thượng và sẽ không nói gì cả. Anh hẳn
sẽ đợi cho tới hết tiết mục rồi tìm cách tới cửa sân khấu và trao tấm danh
thiếp của mình cho ông giám đốc. Trên đó anh có in khi được lên chức trưởng
thủy thủ đoàn của chiếc Sư tử già như
sau: Mr. John Bumps, Trưởng thủy thủ đoàn
của tàu SƯ TỬ GIÀ, số 7 đường The Transoms, Portsmouth. Lẽ ra đó là điều đúng đắn cần
làm. Nhưng Bumps, vốn là một thủy thủ và không quen tự kềm chế khi có chuyện
cần thực hiện, đã không đắn đo suy tính gì cả.
Khi
Hoàng đế mở miệng ra và nói, “Chúng ta…” anh gọi lớn, “Jasper!...” Và như thể
cùng một lúc, mọi gương mặt trong nhà hát và mọi gương mặt trong lô ghế hoàng
gia, đều quay lại nhìn anh. Hơn nữa, vị hoàng đế nhỏ bé trên sân khấu trong
chiếc áo choàng đỏ và vàng lóng lánh của mình không nói thêm gì ngoài từ đầu
“Chúng ta” mà ngài phát âm như thể chúng ta đánh vần, và cũng đang nhìn anh.
Tất cả mọi chuyện khác ngoài nỗi sung sướng vô ngần biến mất khỏi tâm trí của
ngài. Và, với đôi mắt long lanh, không chút vội vã, không thốt một lời nào,
cũng không gật đầu, ngài đã rời khỏi ngai vàng, và nhẹ nhàng đi tới chỗ những
ngọn đèn chiếu, hay đúng hơn tới bên cạnh những ngọn đèn chiếu đối diện với lô
ghế hoàng gia.
Lúc bấy
giờ sân khấu được trang hoàng, ở phía trên và hai bên cánh gà, bằng một vòm
cổng bằng gỗ và thạch cao được chạm trổ và trang trí bằng những thứ quả cây,
hoa, những tượng thần ái tình nhỏ, những sợi ruy băng, những con cá heo và chim
chóc, sáng lóng lánh với lớp vàng mạ và những sắc màu. Tấm màn được cuộn lên
ngay sau cái vòm cổng này. Tương lai
là một trong những nhà hát đẹp nhất ở London.
Thế rồi,
trong bầu không khí lặng yên phăng phắc đó, Jasper bắt đầu từ từ, không hề hấp
tấp, leo lên cái cổng, cái áo choàng hoàng gia đong đưa tự do ở phía sau. Nó
khá nặng với những viền ren bằng vàng, nên Hoàng đế leo rất chậm. Nhưng dù sao
thì ngài cũng leo lên, lên mãi, bị quan sát bởi mọi cặp mắt, cho tới khi ngài
lên tới đầu cái lan can của Mr. Bumps. Ở đây có một bức tường gỗ thấp để ngăn
cho mọi người không rơi khỏi hành lang. Những người ngồi dãy đầu hành lang này
tì sát đầu gối vào đó để ngó xuống sân khấu, và – để giúp cùi chỏ của họ thoải
mái cũng như để trang trí cho đẹp mắt – đầu tường được lót lông ngựa và bọc lại
bằng một thứ vải nhung lông màu hạt dẻ.
Thế là
Jasper tiến tới, một mình, và lúc này vội vã, dọc theo bức tường ở trước chỗ
ngồi của mọi người, hai bàn chân bé nhỏ không gây nên một tiếng động nào. Gương
mặt mọi người phản chiếu lại ánh đèn sân khấu trông trắng bệch như đồ sứ Trung
Hoa. Nó lặng lẽ nhón bước trên con đường chóng mặt này cho tới khi nó tới chỗ
Bumps đang ngồi. Nó dừng lại ở đó, nhìn Bumps và cúi đầu chào. Rồi nó nói gì đó
mà chỉ một vài người nghe thấy và không ai hiểu cả. Nó đưa hai bàn tay về phía
Bumps. Và hai người bạn nắm chặt lấy tay nhau.
Trong
suốt thời gian này mọi người hoàn toàn yên lặng để quan sát. Nhưng khi họ nhìn
thấy điều vừa diễn ra giữa hai kẻ ở đó, Jasper và Mr. Bumps, dù họ không thật
sự biết nghĩ gì hay nói gì, họ bắt đầu nói, một số người la to và thậm chí cả
huýt sáo phản đối. Họ nổi giận. Họ đang bị lừa. Đây không phải là cái mà họ
phải trả tiền để xem! Chị Bumps khốn khổ thậm chí không thể nghe thấy những
người ngồi gần đó đang nói gì. Càng lúc chị càng cảm thấy nóng mặt và bối rối.
“Ồ, John! Ồ, John!” Chị cứ lặp đi lặp lại câu đó mãi.
Lúc này
ông giám đốc - kẻ mà Jasper ngày càng không ưa sau nhiều đêm diễn - xuất hiện
và bước lên sân khấu. Ông ta cúi đầu chào nhà vua, hoàng hậu và Hoàng tử xứ
Wales, rồi nói thật to rằng ông ta rất tiếc về chuyện xảy ra; rằng ông ta rất
tiếc vì tất cả những điều đó; rằng ông ta đã trả rất nhiều tiền để Jasper tới
và giúp vui cho họ, và bây giờ cái gã đứng đó đang quyến rũ nó đi. Ông ta hét
oang oang, “Hoàng đế Jasper, Hoàng đế Jasper, hãy xuống đây, thưa ngài!”
Thế rồi
một số người ngồi ở những hàng ghế phía sau của nhà hát hét to, “Đuổi anh ta
ra!” và một tiếng reo hò lớn vang lên, kẻ hét thế này, người hét thế nọ. Ông
giám đốc đứng đó một mình, béo phị, đen đúa và bất lực ở giữa sân khấu, tiếp
tục hét gọi Jasper xuống một cách vô ích. Về phần ông Smith, vì ông hóa trang
làm một trong các bà vợ của Hoàng đế, và bẩm sinh là một nghệ sĩ, ông cảm thấy
đây không phải là chỗ để ông nói, nhất là trước mặt hoàng gia. Đôi mắt ông đảo
tròn trên gương mặt bôi đen nhưng ông chẳng nói gì cả.
Trong
khi đó, đã an toàn trở lại với Bumps, Jasper không tỏ ra dấu hiệu nhỏ nhất nào
rằng nó nghe thấy tiếng gọi của ông giám đốc. Và lúc này nhiều người đang hét
to, ngày càng lớn hơn, “Đưa nó quay lại!” Và một số khác gầm lên, “Cứ để nó ở
đấy!”. Tiếng la hét càng lúc càng ồn ào.
Cuối
cùng đức vua đứng lên trong lô ghế hoàng gia và giơ tay lên. Ngay lập tức nhà
hát im lặng lại. Mọi người đều im tiếng. Đức vua nói, “Con khỉ kỳ diệu này là
của ai?”
Ngài cau mặt nhìn xuống ông giám đốc. Và người giám đốc
không đáp lại một từ nào. Đức vua quay mắt sang nhìn Bumps, ngài nói, “Người
đàn ông kia, hãy đứng lên.” Bumps đứng lên.
“Anh là ai?” Đức vua hỏi.
“Tôi là
John Bumps, thưa bệ hạ,” Bumps nói một cách đơn giản. “Trưởng thủy thủ đoàn của
tàu Sư tử già, hiện đang sống ở Portsmouth.”
“Anh
đang làm gì ở đây?” Đức vua hỏi.
“Thưa bệ
hạ, tôi đến với hy vọng gặp lại một người bạn. Còn bên cạnh tôi là bà Bumps và
lũ trẻ.”
“Ai thế?” Đức vua hỏi.
Lúc này chị Bumps nắm chặt tay chồng, vì nó nằm khuất sau
đầu bức tường gỗ bọc nhung. Giọng anh hơi ngập ngừng. Anh chạm bàn tay còn lại
vào cái mũ lông chồn của Jasper.
“Đây,
thưa bệ hạ,” anh nói.
“Ý của anh là,” đức vua nói, mỉm cười, “Hoàng đế toàn năng
Ammanabi Nana Dâh? Xin mời ngài hoàng đế đứng lên.”
Sự pha trò vui vẻ của đức vua làm hài lòng tất cả mọi người
ở đó, và lúc này mọi cặp mắt đều dán vào Bumps.
“Nào, Jasper,” anh thì thào, “Vua nước Anh đang nói với mày
đó.”
Jasper
nháy mắt một cái với người bạn cũ, nắm chặt bàn tay của anh và đứng lên trên
cái lan can bọc nhung, trước tất cả mọi người.
Đức vua
nói, với đôi mắt hấp háy, “Người em họ,
người có muốn ở lại với anh bạn trung thành của chúng ta, Mr. Bumps,
hay..” và ông vẫy tay về phía ông giám đốc và những ngọn đèn chiếu. Sau đó là
một khoảnh khắc im lặng.
Thế rồi
Jasper xì xồ nói, “Đây là ông Bumps, thưa ngài, là người bạn đầu tiên của tôi. Ông Ssmith là một
người bạn khác của tôi. Bạn đầu tiên của tôi là….” Nhưng từ kế tiếp đã chìm đi
trong tiếng hò hét vui vẻ từ cả ngàn cái cổ họng dội lên tới mái nhà hát như
tiếng gầm của tuyết lở. May cho ông giám đốc là ông ta đã rời khỏi sân khấu và
đi ra phía sau nhà hát.
Thế là
anh chị Bumps và ba đứa nhỏ cùng Jasper được dẫn xuống lô ghế hoàng gia để diện
kiến đức vua. Trước tiên, nhà vua, hoàng hậu, Hoàng tử xứ Wales và cô công chúa
nhỏ bé người nước ngoài bắt tay với Jasper, rồi nó nói chuyện với họ. Và nhà
vua rút khỏi ngón tay chiếc nhẫn của chính ông, treo nó vào cổ của Hoàng đế
Ethiopi. Người ta có thể nói rằng họ gặp gỡ nhau như những kẻ ngang hàng.
Nhưng
Bumps vốn là một thủy thủ và một người trung thực. Vì thế, khi nhà hát đã vắng,
những ngọn đèn đã tắt và mọi người đã đi khỏi, anh ngồi lại trong một căn phòng
nhỏ sau sân khấu với ông giám đốc và ông bà Smith, trong lúc chị Bumps và lũ
trẻ chờ họ ở phòng thay đồ của Jasper. Ở đây, bốn người cùng uống một chai rượu
vang đỏ và ngồi thương lượng để ông giám đốc không thiệt hại quá nhiều tiền. Họ
thỏa thuận rằng trong suốt ba ngày kế tiếp, ngoại trừ giờ ăn hay uống trà,
Jasper sẽ ngồi trên sân khấu nhà hát Tương
lai trong chiếc áo choàng vàng và đỏ thắm, đội chiếc mũ lông chồn, chiếc
nhẫn của nhà vua đeo trên cổ, và mọi người - đàn ông, đàn bà, trẻ con muốn và
có tiền trả để nhìn nó - sẽ đi ngang qua trước ngai vàng của nó từ cửa này sang
cửa kia. Ông giám đốc sẽ giữ một nửa số tiền thu được, còn ông Smith một phần
tư và Jasper một phần tư. Bumps sẽ không lấy gì cả. Trong ba ngày đó, ông giám
đốc đã thu lợi nhiều hơn số tiền mà trước đó ông từng thu được trong một
tháng!
Sau ba
ngày đó, thời hạn nghỉ phép của Bumps cũng đã hết, và tất cả bọn họ trở về lại Portsmouth. Với lòng tốt
của vị thuyền trưởng tàu Sư tử già,
Jasper sẽ được lên tàu – đó là ý muốn của nó – và quay lại châu Phi. Nó cũng có
thể chọn cách ở lại nước Anh và sống trong một tòa lâu đài suốt quãng đời còn
lại nếu muốn. Danh tiếng của nó đã nổi như cồn khắp vương quốc, và vượt xa khỏi
biên giới. Những bức điện tín đã đến từ Paris, Rome, Vienna và Budapest, và tất
cả các vùng ở Mỹ, để mời chào nó viếng thăm những nơi đó.
Ngoài
những bức điện tín, mỗi sáng người nhân viên bưu cục còn mang cho Jasper cả một
túi thư – từ những phu nhân già trong nước muốn nhận nó làm con nuôi, từ những
nhà bác học thông thái ở trường Oxford và Cambridge muốn chia sẻ trí thông minh
của nó, từ những kẻ gian manh hy vọng sẽ moi được tiền của nó, từ đủ mọi loại
người đã trường thành và cả những đứa trẻ yêu cầu nó ký tên vào những cuốn sổ
sinh nhật của chúng. Và đức vua cũng không quên nó. Nhưng Jasper từ chối mọi
thứ - ngoại trừ những cuốn sổ sinh nhật. Nó chỉ mong mỏi trở lại quê nhà.
Đồng
thời nó cũng tự kiếm quà cho tất cả những người bạn của nó, đặc biệt là bé
Kate, theo những gì mà nó nghĩ là họ sẽ thích nhất. Phần còn lại của số tiền –
sau khi nó chào từ giã ông Smith – được nhà băng đóng gói lại thành hai mươi
tám tráp nhỏ. Những cái tráp này được chất trong ngăn phòng đã được bố trí cho
nó trên tàu Sư tử già. Và chúng tạo
thành cả một đống thật to.
Ngoài
ra, với sự chấp thuận của vị thuyền trưởng, Jasper và anh chị Bumps đã mua một
số lượng lớn mọi loại nữ trang rẻ tiền, đồ chơi, vải linen và lụa, những thứ
món ăn ngon và thức uống nào không bị hư hỏng trong chuyến hành trình, dù gặp
bất kỳ loại thời tiết nào. Jasper đã nghĩ tới mọi thứ mà đồng loại của nó ở
quanh vùng Dondo có thể thích thú và muốn thưởng thức. Và đức vua cũng đã ra
lệnh trong chuyến hành trình đó, tàu Sư
tử già sẽ không treo cờ hiệu đỏ mà treo phù hiệu hoàng gia.
Một đám
đông đã tụ tập chật cứng ở bến cảng và ngó ra từ những cánh cửa sổ và mái nhà
gần đó để tiễn chân Jasper, và có một số người ở hàng đầu đã bị rơi tòm xuống
nước. Tất cả, trừ một người, đều chỉ bị ướt sũng và được những chiếc xuống chèo
vớt lên bình an. Ông giám đốc, kẻ đã chen lấn qua những thằng nhóc để nhìn rõ
hơn đã bị chết đuối.
Đội kèn
đồng hay nhất ở Portsmouth
đã chơi bài Nước Anh thống trị, và
thủy thủ đoàn nhổ neo khi bài hát kết thúc.
Con tàu
rung động, lắc lư. Một cơn gió nhẹ nổi lên giữa bầu trời xanh ngắt và mặt nước
lấp lánh thổi phồng những cánh buồm của nó. Nó lướt đi trên mặt nước, qua cảng
Nomansland, nơi một khẩu súng nổ một loạt dài để chào mừng nó, và tiếng súng
ngày càng nhỏ dần. Khi Bumps và lũ trẻ ngồi xuống uống trà, nó đã khuất khỏi
tầm mắt của đất liền.
Bumps đã
nói chuyện riêng với Jasper nhiều lần trong ngăn phòng của nó suốt những ngày
sau đó. Chưa bao giờ con tàu cũ này gặp thời tiết đẹp hơn. Cả hai người bạn đều
buồn thắt ruột, vì Bumps biết rằng bây giờ dù có nói gì anh cũng không thể
thuyết phục được Jasper đừng quay lại với đồng loại của nó. Jasper đã cam đoan
với anh rằng đó là ước muốn duy nhất của nó, với tất cả vốn từ mà nó có, và
Bumps không thể nói gì được nữa.
Lúc bấy
giờ, ngôi làng nơi ông bạn tù trưởng bộ lạc Malango-Nlangoes của Bumps sinh
sống nằm cách những nhà băng của Quanza khoảng hơn kém một dặm. Nó nằm ở mé
ngoài một đầm lầy nơi có một rừng xoài, lãnh địa của vô số cá sấu, dù có những
con tê giác hai sừng ngăn giữ ở bờ sông. Giữa dòng sông và đầm lầy (nơi, nếu có
hàng trăm con cá sấu thì cũng phải có tới hàng ngàn con khỉ!) là một bãi cát và
rừng cây.
Chỗ này
khuất khỏi tầm nhìn từ dòng sông, nhưng gần với rừng cây. Những người da đen mà
ông tù trưởng bộ lạc Malango-Nlangoes tốt bụng bạn của Bumps đã cho anh mượn
khiêng tới đó không chỉ những cái thùng gỗ, những hộp và thùng tròn đựng những
loại hát và trái cây quý hiếm, nước trái cây, bánh bích quy, những chuỗi hạt,
những thứ trang sức linh tinh rẻ tiền và đại loại, mà cả những thùng tiền chất
đầy những đồng xôvơren vàng và những đồng tiền bằng bạc. Bởi lẽ dù anh chị
Bumps có nói gì đi nữa, họ vẫn không thể thuyết phục được Jasper rằng số tiền
này của nó chỉ là thế và không là gì hơn, và chẳng có công dụng gì hơn so với
những cái vỏ quả hạch hay những viên đá cuội đối với lũ bạn bè của nó ở trên
ngọn cây, có lẽ chỉ ngoại trừ vẻ đẹp. Nó cứ khăng khăng rằng số tiền đó đã được
trao cho nó bởi những gì nó đã làm, và vì vậy nó muốn mang tất cả về cho đồng
loại của nó – dĩ nhiên ngoại trừ số tiền mà nó đã mua quà tặng cho anh chị
Bumps và những bạn bè khác của nó.
Và vì dù
họ có lập luận thế nào Jasper vẫn một mực muốn mang theo số tiền của nó, dĩ
nhiên Bumps đã nói, “Cứ thế mà làm”. Giống như đức vua đã nói.
Khi tất
cả tài sản của Jasper đã được chất vào một chỗ trống nằm giữa dòng sông và khu
rừng mà nó chọn làm nơi cắm trại, và khi một túp lều nhỏ đã được dựng lên, trời
đã xế chiều. Những âm thanh kỳ lạ của mọi loại thú rừng và chim chóc vang lên
trong tai họ khi Bumps chào tạm biệt bạn anh.
“Tao hy
vọng là, Jasper ạ,” anh nói, “còn hơn cả hy vọng nữa, rằng họ hàng bà con của
mày sẽ hài lòng khi gặp mày. Tao hy vọng thế. Nhưng chúng đã khá im lặng.” Anh
nói điều này với một trái tim mệt mỏi, mỉm cười nhìn người bạn nhỏ trong chiếc
áo vàng vàng đỏ đỏ và cái mũ lông chồn. Vì Bumps đã hứa sẽ trở lại sáng hôm
sau, đây không phải là chào từ biệt mà chỉ là chào buổi tối.
Sáng hôm
sau, khi Bumps trở lại đó, Jasper chào anh với vẻ buồn bã. Dù nó nghe trong
bóng đêm tiếng trò chuyện và tiếng lê chân, không có người bạn nào mà nó từng
quen biết trước đây, không một ai, tới gần nó. Vì thế, theo lời khuyên của
Bumps, họ mở một số thùng và hộp chứa những món ăn ngon có mùi thơm ngọt ngào
và mạnh nhất, và rắc vãi chúng thành những đống cách căn lều của Jasper một
khoảng cách và gần với khu rừng để dẫn dụ lũ khỉ.
Sáng hôm
sau, những thứ này đã biến mất. Thế nhưng
Jasper vẫn nằm lẻ loi một mình trong lều và không có ai thăm viếng suốt
đêm dài. Nó không chợp mắt được tí nào. Không sao, nó bảo với Bumps, chắc là
bạn bè nó mắc cỡ và e dè. Nó chắc chắn rằng chúng sẽ vui lòng gặp nó, mong muốn
chuyện trò với nó và chào mừng nó trở lại.
Hết buổi
sáng này sang buổi sáng khác, những đống đồ ngày càng ít dần đi; tất cả các thứ
thức ăn đã biến mất; những thứ đồ chơi và đồ trang sức vặt vãnh nằm rải rác bên
ngoài những cái hộp; chỉ có tiền, những đồng tiền vàng và tiền bạc, là còn
nguyên. Và những con khỉ đã ngửi chúng, chạm tay vào chúng, vẫn không thèm lấy
chúng. Cuối cùng, Jasper nghĩ rằng đó hẳn là vì bộ quần áo hoàng gia của nó, vì
đôi dép bằng da linh dương, vì cái mũ và những màu sắc của nó đã khiến bạn bè
nó không nhận ra nó là ai. Nó mỉm cười nói điều này với Bumps, nhưng có vẻ như
nó không hoàn toàn tin vào điều đó.
Tối hôm
đó, khi họ tạm biệt nhau, bầu không khí châu Phi rất nặng nề, oi bức và bầu
trời hạ thấp. Những tia chớp im lặng thỉnh thoảng lại lóe lên trên những cánh
rừng xa, và họ có thể nghe thấy tiếng trống bập bùng của bộ lạc Malngo-Nlangoes
nổi lên từ những sân khiêu vũ của họ. Jasper đã cởi bỏ tất cả những thứ đồ
trang sức của nó, và đứng bên cạnh chiếc lều trong bộ lông của chính nó – một
con khỉ nhỏ bé, như nó trước kia. Bumps bắt tay nó.
“Buổi
tốt tốt lành, anh bạn cũ,” anh nói, “và chúc may mắn.”
Sáng hôm
sau, khi anh quay lại đó sau cơn bão, cái mũ, cái váy, đôi dép và cây vương
trượng mạ vàng đã biến mất. Căn lều bị thổi tung. Và Jasper cũng đã biến mất.
Bumps gọi, gọi mãi. Không có giọng nói nào đáp lại anh. Cánh rừng nằm đó, âm u
và im lặng. Với lòng tốt của vị thuyền trưởng, người mà anh đã cử một người da
đen tới báo tin, anh ở đó ba ngày để chờ, chờ mãi. Nhưng vô ích. Và vào ngày
thứ tư, con tàu Sư tử già căng buồm
trở ra khơi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét