từ nguyên tác Collected Stories For Children
Ngôi nhà
nơi cụ Bolsover sinh sống khoác một màu vàng hoa anh thảo đã phôi phai. Đó là
một ngôi nhà dài, nhưng chỉ có hai tầng. Thế nhưng ngay cả từ những cửa sổ tầng
dưới của nó cũng có thể nhìn ra những đồng cỏ trải dài xanh ngát dưới ánh nắng
ban mai. Một mái hiên hẹp rũ bóng xuống các khung cửa sổ. Cái mái hơi dốc bằng
đồng thau bấy giờ đã ngả sang màu xanh xám nhạt. Những cây ông lão và hoa lài
leo quanh những cây cột gỗ mảnh mai của nó. Ở cả hai đầu mái hiên đều có một bệ
đá thấp đã dãi dầu mưa nắng. Bên trên hai bệ đá này là hai vị thần đồng áng
bằng chì, vị này luôn thì thầm những tiếng nói lặng thầm với vị kia xuyên qua
những bụi hoa quế trúc và cẩm chướng. Và những bụi cẩm chướng đang nở đầy những
bông hoa trắng như tuyết, tỏa khắp không gian một mùi thơm nồng nàn như xạ hương.
Một cái
đồng hồ treo tường nhỏ vừa gõ mười tiếng và cụ Bolsover, trong chiếc áo khoác
trắng mát mẻ, bước ra khỏi lớp cửa kính hành lang của phòng điểm tâm cùng cô
cháu nhỏ Letitia của ông. Letitia có lối đi đứng nói năng và quay đầu nhanh
nhẹn của một con
chim non. Còn cụ
Bolsover, với đôi mắt và cái mũi của ông, cũng khá giống một con chim, nhưng
thuộc về loài chim có đuôi dài, cao lớn, nghiêm trang – những con chim hồng hạc
hay cò. Họ cùng dừng chân lại và nhìn ra những cánh đồng cỏ.
“Ồ, cậu
Tim, thật là một buổi sáng hoàn toàn đáng yêu!” Letitia nói.
“Một
buổi sáng hoàn toàn đáng yêu,” người
cậu nói. “Cứ như thể nó được hoàn thành để xứng hợp với người bạn nhỏ của ta!
Letitia như một ngày đáng yêu
Cô đến; và rồi đi mất tiêu!”
“A, cậu
Tim,” Letitia nói, “như thế gọi là tâng bốc đấy.”
“Chà,
cháu yêu của cậu,”
người cậu đáp, liếc nhìn cô bên dưới hai lớp gương của đôi kính lão, “gọi là gì cũng chẳng có chi là quan trọng!”
“Ồ, cháu
biết tất cả mọi loài cây cỏ đó!” Letitia nói. “Và cứ nghĩ mà xem, chính xác đã tròn một
năm từ lần trước cháu tới đây! Thế mà cậu vẫn không tin là một bông hoa cẩm
chướng đơn độc thì khác hơn. Điều đó thật buồn cười, phải không cậu? Chúng ta thật buồn cười. Và, vâng,
sao chứ” cô vội vàng nói tiếp, lắc lắc đầu trên chiếc cổ thanh mảnh, “cả cái
anh chàng bù nhìn lạ lùng ở đằng kia, chỗ gần những cây liễu. Anh ta cũng chẳng
thay đổi chút xíu nào.”
“Đúng
thế, đúng thế,” cậu Tim nói, nhìn ra đồng cỏ. “Dù thật tình mà nói, cháu thân
mến ạ, không đúng hoàn toàn khi nói anh ta không thay đổi chút nào. Anh ta đã
đổi cái nón của mình. Năm ngoái đó là một cái nón cũ, còn bây giờ nó là một cái
nón rất cũ, một cái nón khó coi. Không có gì lạ khi anh ta che đi một mắt dưới
cái vành nón. Nhưng bất kể cháu nhìn anh ta bao lâu, anh ta sẽ nhìn lâu hơn cháu.”
Dù sao
thì Letitia cũng tiếp tục nhìn đăm đăm vào gã bù nhìn, đôi mắt hơi cau lại. “Cậu
biết không, anh ta khá lạ lùng, nếu cậu nhìn anh ta lâu một tí. Và cậu có thể
dễ dàng vờ như cậu
không hoàn toàn nhìn anh ta. Dường như cậu cũng chẳng nhớ,” cô nghiêm trang nói
tiếp, “rằng chính buổi sáng cuối cùng cháu ở đây lần trước, cậu đã chân thành hứa với cháu sẽ
kể cho cháu nghe về anh ta. Nhưng cậu đã không kể, vì mẹ cháu tới ngay đúng lúc cháu vừa yêu cầu
cậu, và cậu đã quên khuấy mất chuyện này.”
“Thế
sao, ừ đúng vậy,” cụ Bolsover nói. “Đó là chuyện phải đến đối với một trí nhớ
giống như một cái giỏ bị lủng lỗ. Đó là chuyện phải đến đối với những lời hứa
mong manh như vỏ bánh– chúng cứ tan ra trong miệng người ta… Tuy nhiên, cái anh chàng Già Joe
đó ổn thôi. Quá già,
cháu ạ, gần như cháu sắp phải nói lời chia tay giữa chúng ta rồi!”
“Xin cậu
đừng nói thế, cậu Tim ạ - không phải thế đâu. Cậu vẫn là ông cậu Tim vừa trẻ
nhất vừa già nhất vừa tốt nhất như lúc nào. Thế đấy. Nhưng cậu sẽ kể cho cháu
nghe gì về Già Joe? Anh ta từ đâu tới? Anh ta dùng để làm gì, ý cháu là ngoại
trừ những con quạ? Có một bài hát về Già Joe phải không ạ? Có phải kia là anh
ta không? Hãy kể
cho cháu biết ngay đi.” Letitia kêu lên. “Chúng ta hãy tới ngồi lên mấy tảng
đá. Sờ xem! Chúng ấm như là bánh mì nướng do ánh nắng. Còn bây giờ thì xin cậu
kể đi.”
Cụ
Bolsover ngồi xuống. Letitia cũng ngồi xuống, cạnh bên nhau, như ông Punch và con chó Toby của ông ta. Và đây là câu
chuyện ông cụ kể về Già Joe…
“Cậu phải bắt đầu, Letitia à, ngay từ
đầu,” ông nói. “Đó là chỗ tốt nhất để kể cho tới kết cục. Lúc bấy giờ, khi cậu vào khoảng tuổi cháu bây giờ, thỉnh thoảng cậu thường tới chơi và ở lại với một
người bạn già của mẹ cậu, bà ngoại của cháu. Tên của bà là Sara Lumb. Bà là một phụ nữ rất to
béo, có mái tóc đen mượt, đôi má hồng hào và có lúm đồng tiền. Cậu nhớ, bà thường đội một cái nón
nhung màu tím thạch anh, rũ xuống đôi tai, và một thứ đăng ten gì đó trùm lên
đôi vai bà. Bây giờ cậu vẫn có thể nhìn thấy bà – gương mặt rộng tươi cười, những ngón tay mập
mạp đeo nhẫn nạm ngọc lục bảo và thạch anh, thậm chí cả cái ghim hoa nạm ngọc
lục bảo trên cổ bà. Bà không phải là cô của cậu, càng không phải là mẹ đỡ đầu của cậu, nhưng bà cực kỳ tốt với cậu. Gần giống như cậu tốt với cháu vậy! Bà rất thích
những món ăn và thức uống ngon lành và có một người đầu bếp có thể làm mọi loại
bánh cực kỳ - bảy trái nho khô và chín trái nho Hy Lạp cho mỗi hai phân vuông.
Mứt, mứt cô đặc, dâu nấu sữa, bánh rán, bánh kếp, bánh qui kem tẩm rượu – chúng
là những thứ bánh ngon nhất mà cậu từng nếm. Những quả trứng nhồi thịt và món chả hàu ở những
buổi tiệc Giáng sinh cũng thế. Ôi chao!”
“Ổ, cậu
Tim,” Letitia nói, “cậu thật háu ăn.”
“Điều tệ
nhất là cậu
chẳng bao giờ bỏ được thói này,” ông cụ nói. “Tự cháu sẽ thấy trong bữa cơm
trưa. Và nếu cậu
không nhầm, cậu
đã có thể ngửi thấy mùi của món thịt hầm táo. Nhưng đừng để ý tới chuyện đó - nó chẳng ích gì - cho tới khi bữa ăn đã sẵn sàng.
Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, Letitia ạ, cậu chắc là cháu sẽ đồng ý rằng bà bạn già
Lump của cậu
là loại bạn già rất phù hợp đối với một cậu nhóc có một cái bao tử khá to. Tất
nhiên, cậu
chỉ tới ở với bà vào những dịp nghỉ lễ. Và trong những ngày đó, trong lúc có
rất nhiều thứ thức ăn khó nhá ở trường, “các bài phạt”, gậy ba toong, cuống cải
bắp, cá tuyết, bột nhào tráng mỡ, dầu hải ly, những thứ thường ngày và không
thường ngày, không có gì kinh khủng cho bằng một nhiệm vụ trong kỳ nghỉ. Những
nhiệm vụ trong kỳ nghỉ, cháu ạ, luôn nhắc cậu nhớ tới một cô bé gái muốn đi bơi:
Mẹ
ơi cho phép con nha
Ra
ngoài bơi lội chút cho khỏe người?
Con
yêu của mẹ, được thôi!
Nhưng
con nhớ xếp cho ngay áo quần
Và
con nhớ chớ tới gần
Nước
nôi, kẻo sẽ chết chìm nghe con!
“Bài hát mà
cháu biết là “Hãy treo quần áo của con lên một cành cây.” Letitia nói.
“Tất cả đều rất hay,” ông cụ nói, “nhưng cháu cứ
hát cho cậu nghe một lần. Rồi chúng ta sẽ kết hợp cả hai lại như vầy:
Mẹ
ơi cho phép con nha
Ra
ngoài bơi lội chút cho khỏe người?
Con
yêu của mẹ, được thôi!
Nhưng
con nhớ xếp cho ngay áo quần
(Đó
là lời của cậu Tim)
Hay
treo chúng ở một cành cây tươi
(Letitia
nói với người)
Và
con chớ tới gần nơi sông hồ!
“Cháu thân mến, ý cậu muốn nói là vào thời đó không một
đứa bé ngoan nào lại ngồi nhà gạo bài trong mùa nghỉ lễ và nói một cách đơn giản là chúng ghét cay ghét
đắng việc phải ngồi đọc một cuốn sách. Nhưng đó hoàn toàn là chuyện giữa chính
chúng ta. Chúng ta không bao giờ nên chỉ trích những người lớn tuổi. Và dù thế
nào đi nữa, ở nhà bà bạn già Lumb của cậu không cần thiết phải làm điều đó.
Đó là niềm hạnh phúc.
“Trước
tiên, đó là một ngôi nhà cũ rộng lạ lùng, lâu đời hơn ngôi nhà này nhiều, và ít
nhất cũng lớn hơn nó gấp ba lần rưỡi. Kế đến, xung quanh nó là một vùng quê
xinh đẹp. Những cánh đồng trải dài trên những sườn đồi ngập nắng, trên đỉnh đồi
và trong những khe núi và thung lũng là những khu rừng nhỏ và bãi trồng cây;
một dòng suối với nhiều rong tảo, cói và mọi loài chim sống trên mặt nước róc rách chảy qua những tảng đá ở chân
khu vườn dốc. Nhưng cậu ghét diễn tả mà, phải không Letitia? Và ở đó, một vườn cây ăn quả mọc
đầy những cây anh đào mà vào mùa xuân trông như thể trĩu nặng những bông tuyết
trắng. Ồ, cháu gái của cậu, khi lên thiên đàng, cậu hy vọng sẽ nhìn thấy lại ngôi nhà và khu vườn đó.”
“Nhưng
nó có còn ở đó không? Letitia hỏi. “Ý cháu là, cậu biết đó, nơi nó ở trước
đây?”
“Than
ôi, không còn, cháu ạ,” cụ Bolsover đáp. “Nó đã biến mất mãi mãi. Có một người
đầu bếp xuất hiện, không phải người đầu bếp của bà Lumb. Một sáng nọ, khi bà ta
đang rán cá thờn bơn – cá thờn bơn vùng Brighton
– cho bữa điểm tâm; con mèo kêu meo meo và cọ vào chân bà ta; bà ta làm đổ cái
xoong; làm phát ra một đám cháy lớn. Bà ta chạy vào khu vườn và kêu lên thất
thanh thay vì làm điều mà lẽ ra bà ta nên làm. Và ngôi nhà bị cháy rụi hoàn
toàn. Cháy rụi. Hãy nghĩ tới cảnh tượng đó, Letitia ạ. Hãy luôn luôn chú ý tới
những con mèo và dầu mỡ. Nhưng tạ ơn Thượng đế, trước đó bà bạn già Lumb thân mến của cậu đã rời khỏi ngôi nhà và tới ở với
em trai của bà ở Ceylon.
“Vào
những ngày xa xôi đó, chim chóc là tất cả những gì mà cậu yêu thích. Thật lạ là cậu còn chưa mọc lông vũ. Cậu yêu thích chúng quá nên không thể
sử dụng ná cao su, nhưng chưa đủ để kềm chế việc đánh bẫy bắt chúng về nuôi.
Những cái bẫy bằng gạch và bẫy lưới. Nhưng liệu cháu có thích là một con chim hồng tước, chiền
chiện, chim hét hay chim sẻ ức đỏ bị nhốt trong một cái lồng tí hon với những cửa sổ
chấn song để làm thú tiêu khiển cho một thằng nhóc xấu xa như cậu hồi cậu lên chín, mười tuổi gì đó hay
không?”
“Cháu
không thích,” Letitia nói. “Nhưng cháu thà bị nhốt trong lồng của cậu còn hơn
là trong lồng của bất kỳ đứa bé trai kinh khủng nào khác.”
“Cám ơn
cháu yêu,” cụ Bolsover nói. “Tuy con chim càng hoang dã thì một cái lồng càng là điều tệ hại. Nhưng lúc đó vì chỉ là một
thằng nhóc, cậu
đã làm như những thằng nhóc khác – cầu chúc cho trái tim bé bỏng của chúng! Và cậu thường rơi nước mắt như những con
cá sấu khi những con chim sẻ ngô hay sẻ đồng mà cậu bắt được trở nên ủ rũ và chết. Sau
đám tang cho chúng, cậu cắm một nhánh cây xuống đất để đánh dấu ngôi mộ, và lại lên đường đi đặt một cái bẫy khác.
“Cậu đặt bẫy khắp nơi, đôi khi ở những
địa điểm không được phép. Nhưng trước hết cháu phải hiểu được cái mà cậu theo đuổi, thật sự theo đuổi.” Cụ
Bolsover gần như nói thì thầm. “Đó là những con chim hiếm có – chim đầu rìu,
chim vàng anh, chim ó mật – những loài chim đáng yêu và quý hiếm. Sâu thẳm
trong lòng, cậu
khao khát một con chim có tiếng hót và bộ lông thật tuyệt vời; một con chim mà
chưa có ai từng nhìn thấy; một con chim đã bay vụt ra khỏi cửa sổ tâm hồn của
một phù thủy nào đó. Tất nhiên điều này có nghĩa là cậu trở nên khá thông thạo về những loại chim. Thậm chí thỉnh thoảng cậu thường mơ thấy con chim đó – nhưng
thông thường, đó chính là bản thân cậu đang bị nhốt trong lồng!
“Vâng,
có một lùm cây đặc biệt mà cậu đã lưu tâm để tới đặt bẫy nhiều ngày trước khi mạo hiểm làm
điều đó. Đó là bìa của một cánh đồng nơi có rất nhiều loại chim các cỡ thường
lui tới, dù cậu
không bao giờ hiểu được vì sao. Cậu ngắm nhìn chúng hết lần này tới lần khác, rất nhiều đàn
chim. Đôi cánh của chúng lấp lánh trong ánh nắng. Dường như đó là một địa điểm
họp mặt bí mật đầy vui thú của chúng – bất chấp sự có mặt
của Già Joe!”
“Anh chàng Già Joe ở đằng kia phải không ạ?”
Letitia kêu lên, chỉ vào hình dáng gầy gò, lóng ngóng, câm lặng, với đôi cánh
tay áo rách tả tơi, và
cái nón cũ mòn vẹt một bên, đang đứng ngây ra nhìn họ từ dưới rặng liễu màu xanh xám trong cánh đồng
phía ngoài khu vườn. “Phải,” người cậu nói, “chính là Già Joe ở đằng kia. Cháu
biết không, Letitia, nói thật tình, chúng ta đừng nhìn anh ta một phút giây nào nếu không
chúng ta sẽ làm tổn thương anh ta, cái anh chàng Già Joe đó là một gã bù nhìn. Anh ta chẳng là gì khác
ngoài một hình nộm câm lặng, ọp ẹp và cũ kỹ. Anh ta không bao giờ thật sự là
một thứ gì khác; dù sau ngần ấy năm cậu và anh ta sống cùng nhau, và chưa bên nào thốt ra một lời
không tốt; giờ thì anh ta là một dạng anh em song sinh với cậu. Như Joseph
và Benjamin[1] cháu biết đó. Sao
chứ, nếu chúng ta đổi chỗ, cậu cho là cháu sẽ không thể phân biệt được ai là ai.”
“Sao cậu
lại dám nói một điều như thế chứ, cậu Tim?” Letitia la lên, đẩy bàn tay cô vào
dưới khuỷu tay của người cậu. “Cậu biết rất rõ rằng đó là một kiểu tự tâng bốc
mình mà, cậu thật tệ ghê.”
“Tất cả
những gì cậu
có thể nói, cô bé Sẻ ngô ạ,” người cậu đáp, “là cứ hỏi Già Joe. Tuy bây giờ chúng ta là những người bạn
cũ, nhưng hồi cậu
gặp anh ta lần đầu, anh ta đã làm cho cậu hoảng hồn. Lúc đó cậu đang men theo bờ giậu, mở to mắt cảnh giác đối với
bất kỳ ai có thể hiện ra trên cánh đồng – vì đang xâm nhập trái phép. Khi họ
không cày bừa, cuốc đất hay gieo hạt, ở đó không bao giờ có một bóng người;
ngoại trừ ngày Chủ nhật, khi ông Jones, một người đàn ông to béo có một gương
mặt đỏ hồng và một cây gậy lớn, đi vòng vòng để xem xét lúa má của ông ta.
“Đó là
một cánh đồng có hình dáng kỳ lạ, dốc, rộng khoảng bốn mươi mẫu Anh, kéo dài
xuống một góc nhọn, giống như hình bản đồ nước Anh lật ngược lại, và có một
cánh rừng thông nhỏ ở một phía. Hôm đó là một buổi sáng tháng Tư. Trời nắng
nhưng lạnh giá, và cánh đồng trống không ngoại trừ những viên đá lửa lấp lánh
dưới ánh mặt trời. Nó đã được gieo hạt, nhưng chưa có mầm xanh nào nhú lên cả.
“Vâng, cậu đang đi men theo bờ giậu, như đã nói, nhưng ở mé bên
này, bên dưới cái áo khoác là một cái bẫy chim, và gần như không thở được vì
kích thích. Cậu
biết một cách chính xác – khi nhìn qua bờ giậu tới những nụ gai vừa mới nhú lên như những hạt
ngọc lục bảo – rằng đó là địa điểm của cậu. Ở đó có một cái mương nước mé ngoài bờ ruộng, và vào lúc đó cậu chỉ có thể nhìn thấy một dải ruộng
hẹp, vì hàng rào và những bụi cây ở giữa che khuất. Nhưng đó thật sự là một thiên đường
nhỏ của các loài chim, cháu cưng ạ, nhất là vào mùa xuân.
“Cậu tiếp tục đi cho đến lúc tới một góc
gần cái cổng nhỏ lung lay, được cột lại bằng một sợi xích sắt. Với cậu và cháu, đó là một cái cổng đáng xấu
hổ. Nhưng đó không phải là việc của chúng ta. Thế rồi đột nhiên cậu trông thấy một hình dáng mà cậu cho rằng chính là ông Jones, đang
nhìn cậu chòng chọc,
cách không đầy ba mươi mét. Cậu giật nảy cả người lên khi nhìn thấy ông ta, mặt nóng bừng
lên, rồi lạnh toát đi, và cậu nhìn đáp lại, chờ đợi. Trong khoảnh khắc ấy, hầu như cậu có thể nhìn thấy màu đen của nhãn
cầu đang di động trên mặt của ông ta.
“Nhưng
khoảnh khắc này chỉ thoáng qua trong nháy mắt. Đó không phải là ông Jones, thậm
chí không phải là một người làm của ông ta! Đó chính là Già Joe, Già Joe của chúng ta! Già Joe ở đằng kia! Trở thành người sống. Và,
nói cho cùng, cuộc sống là gì, hả Letitia?”
“Điều đó
hoàn toàn đúng, cậu Tim,” Letitia thì thào, nhích lại gần ông thêm một chút.
“Anh ta có thể sống động vào chính giây phút ấy.”
“Không
chỉ có thế, cháu phải nhớ,” cụ Bolsover nói tiếp, “đây là Già Joe của thời tốt
đẹp hơn. Khi đó anh ta còn trẻ. Anh ta đã được khoác lên nhiều bộ quần áo cũ
đẹp đẽ mới hơn kể từ ngày đó, và được đội nhiều cái nón hơn là những ngón tay cậu có thể đếm. Nhưng lúc đó anh ta
đang trong độ tuổi thanh xuân, trong thời vàng son của tuổi trẻ. Và bây giờ cậu sẽ không rời bỏ anh ta dù để nhận lại một giỏ đầy
những đồng ghi-nê bằng vàng. Không, cả hai mươi giỏ cũng không! Và dù cậu rất thích những đồng ghi-nê vàng,
lý do của điều đó, trước tiên, cậu yêu mến anh ta vì chính sự cô đơn ngọt ngào của anh ta, và
kế đến là, Letitia thân mến ạ, vì người ta không thường nhìn thấy – nhìn thấy, ý ta muốn nói – những nàng tiên có thật đang sống sờ sờ trên
thế giới này.”
Lititia
cười phá lên. “Những nàng tiên có thật đang sống sờ sờ, ôi cậu Tim!” cô kêu lên, khom
người về trước trong cơn vui và kéo chiếc váy che quanh hai đầu gối. “Sao, cậu
thân mến tội nghiệp, cậu không có ý bảo rằng Già Joe là một nàng tiên đấy chứ?”
“Không,”
cụ Bolsover đáp, “cậu hoàn toàn không có ý đó. Khi đó, cũng như bây giờ, Già Joe là một trong
những bù nhìn đáng sợ nhất mà cậu từng nhìn thấy. Nhưng, như hoa anh thảo trong bài thơ, anh ta không
là gì khác hơn thế nữa. Không, không phải chính bản thân Già Joe là nàng tiên, cũng như ngôi nhà đằng sau
lưng chúng ta không phải là cậu và cháu. Già Joe chỉ đơn giản là một trong những nơi cư
ngụ như lời xưa nói.
Anh ta là nơi nàng tiên xuất hiện.
“Sáng
hôm ấy, cậu
nhớ, anh ta mặc một cái quần chùng kẻ ca-rô trắng đen và một cái áo xanh đen,
rất rộng ở vai. Ngoài cái que để làm cánh tay của anh ta, một cái que khác đã
được đặt trong ống tay áo để thay cho một cái gậy tày. Một cái que khác với một
cục rơm ở bên trên tạo thành cái đầu của anh ta và trên đó là một cái nón vuông
cứng, mòn vẹt, như những cái nón mà những người chủ trại và các ủy viên nhà thờ
thường đội vào thời ấy. Anh ta hơi cúi người về phía trước, ngó đăm đăm vào cậu khi cậu đang nép mình bên cánh cổng. Cậu kéo cái bẫy chim bên dưới chiếc áo
khoác sát vào bụng hơn, rồi nhìn đáp lại.
“Cậu không thể nói là do bầu không khí
nóng đang cuộn lên từ mặt đất đầy đá dưới ánh nắng hay vì hiệu quả đánh lừa con
mắt của ánh sáng trên cánh đồng nhiều đá phấn. Nhưng ngay cả khi cậu đứng lại nhìn anh ta, đầu của anh
ta cũng dường như đang
khẽ quay đi bên trên đôi vai, như thể anh ta đang cố gắng một cách kín đáo để
nhìn cậu rõ hơn mà
không để lộ cho cậu
thấy. Thế nhưng trong toàn bộ thời gian cậu tưởng tượng điều này, cậu biết rằng
nó không đúng.
“Tuy
nhiên, cậu thật sự kinh ngạc. Vì ngoài những con quạ và những loài chim chóc
khác tương tự, chắc chắn là anh ta đã làm cậu sợ hãi – vì vào thời đó những kẻ
xâm nhập trẻ tuổi có thể ăn một trận đòn đau nếu bị bắt được. Nhưng ngay cả khi
đã tỉnh hồn lại cậu vẫn tiếp tục quan sát anh ta, đồng thời liếc mắt từ bên này
sang bên kia theo dõi lũ chim đang cắn nhau, kiếm mồi, rỉa lông hay phơi nắng
xung quanh. Và dù lúc đó cậu biết anh ta chỉ là một thằng bù nhìn, cậu vẫn
không thấy dễ chịu chút nào.
“Vì dù
trên mặt anh ta không có một đôi mắt thật sự, cậu hoàn toàn chắc chắn rằng có
ai đó hay vật gì đó đang nhìn cậu từ bên dưới cái nón đen cũ kỹ, hay từ ống tay
áo của anh ta – từ nơi nào đó xung quanh anh ta. Những con chim đã quen với sự
có mặt của cậu, chỉ vì cậu gần như bất động. Có lẽ sau khoảng năm phút như vậy,
cậu ngồi xổm xuống bên bờ giậu và bắt đầu đặt bẫy.
“Nhưng
trong lúc cậu đang cúi xuống, khẽ đóng cái chốt gỗ bằng một viên đá lửa lớn,
cậu vẫn suy nghĩ về anh chàng bù nhìn, dù không nhìn anh ta – và biết rằng cậu
đang bị quan sát. Cậu bảo là không nhìn anh ta, nhưng bất cứ lúc nào có dịp cậu
đều kín đáo liếc nhanh về phía anh ta giữa hai chân hay qua vai hay từ bên dưới
hai cánh tay, vờ như đó chỉ là cái liếc mắt ngẫu nhiên. Và cuối cùng, khi đã
đặt xong bẫy, cậu ngồi bẹp xuống thảm cỏ bên dưới bờ giậu và lại nhìn chằm chặp
vào anh ta.
Mặt trời
dần lên cao trên bầu trời xanh thẳm, những tia nắng phản chiếu lấp lánh từ
những tảng đá nhọn và những bãi cỏ. Bầu không khí nóng rực bao trùm mọi nơi. Lũ
chim chóc tiếp tục sinh hoạt của chúng, và không có gì khác xảy ra. Cậu đã nhìn
quá chăm chú nên đôi
mắt bắt đầu ứa nước mắt, nhưng nếu có bất cứ thứ gì đang nấp ở đó, nó cũng kiên
nhẫn không kém cậu. Cuối cùng cậu quay trở về nhà.
“Ở góc
xa của cánh đồng, dưới gốc một cây táo gai già, cậu cúi xuống một lần nữa như thể đang buộc lại dây
giày, và nhìn thêm một lúc lâu. Lúc đó, cậu hoàn toàn chắc chắn rằng cậu đã
nhìn thấy một vật gì đó đang di chuyển ở đó. Trông như thể có một gương mặt
đang lén lút nhìn ra từ dưới bóng râm của cái hình nộm cũ, và khi nhìn thấy cậu
bên dưới cây táo gai, đã nhanh chóng nấp lại.
“Suốt
thời gian còn lại của ngày hôm ấy, cậu không thể nghĩ tới điều gì khác ngoài
Già Joe, tự khẳng định với mình rằng mắt cậu đã đánh lừa cậu, hay là một con
chim đậu trên vai anh ta đã vỗ cánh bay xuống; một cơn gió nhẹ từ trên cao lướt xuống đã làm lay động ống tay áo của anh
ta. Hoặc là cậu đã tưởng tượng ra tất cả những chuyện đó. Thế nhưng sâu thẳm
trong thâm tâm cậu biết rằng điều này không đúng. Đưa ra những lời giải thích
thì dễ, nhưng không có giải thích nào hợp lý.”
“Tất
nhiên, cậu Tim, cậu biết đó,” Letitia nói, “có thể đó không phải là một con
chim mà là một con thú nhỏ nào đó, phải không? Có lần cháu nhìn thấy một con
thỏ rừng đang nhảy lưng tưng giữa cánh đồng và rồi đột nhiên một con thỏ khác
xuất hiện, dù trước đó cháu không hề nhìn thấy thậm chí cả cái chót đuôi của
nó. Và rồi một con nữa, cậu có tin nổi không? Và chúng rượt đuổi nhau qua cánh
đồng cho tới khi khuất khỏi tầm mắt. Hay cậu nghĩ xem, có thể đó là một con
chim đang làm tổ trên người Già Joe? Cậu biết đó, những con chim cổ đỏ làm tổ ở mọi
nơi, thậm chí trong một chiếc ủng cũ. Cháu đã từng nhìn thấy một cái tổ chim sẻ
ngô với thật nhiều trứng trong một chiếc giày mềm. Và nhìn kia, cậu Tim, thật sự lúc này đang có
một con chim đang đậu trên vai Già Joe! Đó là chuyện đã có thể xảy ra, cháu
nghĩ, một con thú nhỏ, hay một con chim đang làm tổ.”
“Ồ, cậu đang nghe cháu,” người cậu nói. “Nhưng cậu hoàn
toàn chắc chắn rằng nếu cháu có ở đó với cậu trong buổi sáng hôm ấy, cháu sẽ
đồng ý rằng ở Già Joe có một điều gì đó khác thường. Ý cậu là khác với cái vẻ
ngoài của anh ta lúc này. Anh ta trông rất lạ lùng. Cậu không thể giải thích rõ
ràng được. Nhưng đó là sự khác nhau giữa một căn nhà trống rỗng không đồ đạc và
cũng căn nhà đó với một gia đình bên trong nó. Đó là sự khác nhau giữa câu cá
trong một cái ao có đầy cá và một cái ao không có con cá nào. Đó là sự khác
nhau giữa bản thân cháu khi cháu đã thật sự ngủ và khi cháu chỉ giả vờ ngủ. Và
ngoài ra, chắc chắn thế, cậu đã nghĩ đúng.
“Lúc bấy
giờ, khi ở nhà bà Lumb, cậu luôn ngủ đúng giờ, và trước khi ngủ luôn luôn ăn
một trái táo và uống một ly sữa. Bà bạn già của cậu không chỉ rất tin vào tác dụng của những
quả táo mà bà còn có bảy con bò sữa Jersey xinh đẹp. Những con bò này không chỉ rất có ích cho giấc ngủ
mà còn có ích cho món bánh tạc nhân quả lý gai hay nhân táo. Nhưng bà không
phải là loại người muốn mọi thứ được thực hiện một cách chính xác vào một giờ
đã định. Bà không chờ cho tới khi đồng hồ gõ tám tiếng để ghé vào xem cậu có an
toàn trên giường hay chưa.
“Sao
chứ, cậu biết rất rõ,” Letitia đáp, “ rằng tự cậu không hề làm điều đó.”
“Ừ, ừ!”
cụ Bolsover nói, “cậu tự hỏi. Những người khi ngủ chỉ nhắm có một mắt là những
người khôn ngoan như vua Solomon. Cậu bò tới bò lui, nhưng mọi cánh cửa đều có
một ổ khóa. Nhưng đừng để ý tới chuyện đó. Ngay buổi chiều hôm ấy, sau lần đầu
tiên nhìn thấy Già Joe, nếu cậu là một thằng bé trung thực, lẽ ra cậu phải ở
trên giường vào lúc đó, thế nhưng cậu lại đi ra cánh đồng một lần nữa. Men từ
bụi cây này sang bụi cây khác, từ thân cây này sang thân cây khác, cố hết sức
cảnh giác đến nỗi cậu dẫm phải đuôi của một con thỏ đang chuẩn bị thưởng thức
một túm bồ công anh ở
mé bên kia một bụi mâm xôi.
“Khi tới
cây táo gai – trông nó già cả mấy trăm tuổi – cậu cúi xuống thật thấp gần sát đất bên trên chùm rễ của nó, quyết định sẽ quan
sát cho tới khi buổi chiều trở nên quá tối không thể nhìn xuyên qua cánh đồng.
Lúc đó đã gần tới tháng Năm, bầu không khí thật ngọt ngào, yên tĩnh và trong
lành đến nỗi đôi mắt cậu gần như khép lại với niềm hạnh phúc mỗi lần cậu thở.
Và vào thời bấy giờ, Letitia ạ, chúng ta lên dây đồng hồ theo mặt trời. Chúng
ta không đánh lừa mặt trời vào ban mai rồi trả lại cho nó vào chiều tối như bây
giờ. Vì thế, trên bầu trời vẫn còn nhòa nhạt một sắc vàng và hồng, dù bản thân
mặt trời đã lặn.
“Nhưng
ngoài lũ chim và thỏ rừng, chẳng có gì xảy ra ngoại trừ sự chuyển biến tuyệt
diệu từ ngày sang đêm, cho tới khi trời bắt đầu sụp tối. Thế rồi
dường như mỗi lúc Già Joe lại chậm chạp nhích tới gần hơn từng phân một. Dường như, cháu lưu ý nhé. Và, đúng ngay khoảnh khắc cậu nhận ra vì sao đầu
tiên – mà với ánh sáng êm đềm và vị trí
của nó, hẳn nó phải là sao Hôm – cậu nhìn thấy, nào, bây giờ cháu thử đoán xem
cậu nhìn thấy cái gì?”
“Nàng tiên!” Letitia đáp, và
thở dài.
“Điểm tối đa, cháu thân mến
của ta!” Cụ Bolvover nói, xiết chặt bàn tay cô đang nằm bên dưới khuỷu tay của
ông. “Nàng tiên. Lạ một điều là cậu không thể mô tả nàng. Có lẽ một phần vì ánh
sáng không rõ lắm, một phần vì mắt cậu đã quá căng thẳng với việc quan sát.
Nhưng đa phần là vì những nguyên nhân khác. Cháu biết không, dường như cậu đang
tưởng tượng ra nàng, dù cậu biết rất rõ là nàng đang ở đó.
“Cháu phải chú ý tới lời của cậu – cậu biết nàng đang ở
đó. Nàng hơi cúi về phía trước, và đỉnh đầu của nàng, có thể nói thế, chạm vào
nơi mà chúng ta có thể gọi là cái eo của Già Joe. Tức là ở vị trí cái nút áo
thứ ba của chiếc áo đen trên người anh ta. Gương mặt nàng dường như hơi dài và
hẹp, nhưng có lẽ đó là vì mái tóc đẹp đẽ của nàng phủ xuống hai bên má, thẳng,
mượt mà như lụa, và có màu vàng pha xám – giống như màu của một con cá có vẩy lân tinh trong
bóng tối, nhưng nhiều sắc vàng hơn bạc. Bây giờ, khi nghĩ tới mái tóc đó, cậu
cho rằng hẳn là cậu đã nhìn thấy nàng một phần là vì ánh sáng của chính nàng.
Nàng đứng bất động và đáng yêu như một bông hoa. Và chỉ
đơn thuần nhìn vào nàng thôi lòng cậu đã tràn ngập một niềm hạnh phúc mà cậu
không thể quên được nhưng cũng không thể mô tả được. Như thể cậu đã vô thức đi
vào giữa một giấc mơ của một thế giới khác. Những cảm giác ớn lạnh chạy dọc
theo lưng cậu, như khi nghe một khúc nhạc mê hồn.
Không có một hơi gió nào thoảng qua cả. Mọi vật quanh cậu
dường như trở nên sắc sảo và rõ ràng hơn, mặc dù ánh sáng chỉ nhờ nhờ. Những
bông hoa trông khác lạ hẳn, những thân cây, những con chim. Dường như cậu biết
trong tận thâm tâm mình điều mà những bông hoa đang cảm thấy – cậu trở thành
một thực vật như dây thường
xuân, với những chiếc lá nhọn xanh xanh và những sợi rễ bé xíu, nhích từng phân
một từ những cọng rễ ngoằn ngoèo trong lòng đất tối tăm lên tới cành nhánh của
một thân cây; hay tưởng như lông vũ mọc khắp thân mình cậu, để cậu trôi nổi
bềnh bồng nhẹ nhàng hơn không khí, và để nhìn ra từ đôi mắt tròn sáng nhỏ xíu
vào thế giới loài chim của cậu. Cậu không thể giải thích, Letitia à, nhưng cậu
chắc chắn rằng cháu sẽ hiểu.”
Letitia nghiêm trang gật đầu hai lần. “Cháu cho là
thế, cậu Tim à – hiểu một chút. Dù cậu biết đó, cháu không bao giờ đoán rằng có
bất kỳ một cậu bé nào giống như thế.”
“Cháu thân mến, những cậu bé chủ yếu là những con thú
nhỏ,” người cậu vui vẻ đồng ý, “và cậu cũng thế lúc lên chín mười tuổi. Nhưng
cậu cho là ta nên quay lại với Già Joe.”
“Cậu tuyệt đối tin rằng nàng tiên biết cậu ở đó, nhưng
bất chấp điều đó, nàng không thể trì hoãn việc thực hiện điều mà nàng muốn lâu
hơn nữa. Vì ngay sau đó, sau một hai phút gì đó, nàng lui lại rất khẽ về phía
sau và biến mất khỏi tầm nhìn, rồi vội vã lướt trên cánh đồng hướng về phía góc
xa nhất, luôn giữ khoảng cách đó để Già Joe đứng ở giữa cậu và nàng và ngăn
không cho cậu nhìn thấy nàng một cách rõ ràng, bất kể cậu có nghiêng đầu qua
lại thế nào để nhìn rõ hơn. Lúc bấy giờ, Letitia ạ, cháu hãy hình dung rằng nàng quay lưng về
phía cậu và nhẹ nhàng lướt đi nhanh như một cái bóng – đó là một việc rất khó
làm, và cậu không hiểu vì sao nàng có thể làm điều đó được. Cậu hoàn toàn chắc rằng cậu không thể - ý cậu
là không nhìn lại một lần nào.”
“Thế trông từ phía sau, nàng ta như thế nào?” Letitia
hỏi.
Cụ Bolsover nhíu mắt và ngậm chặt môi đôi lại. “Nàng
giống như,” ông nói, “một luồng khói tỏa ra từ một chiếc pháo hoa. Nàng giống
như, nếu cháu có thể nhìn thấy nó, một luồng gió thổi qua trong làn ánh sáng
trên mặt tuyết. Nàng giống như hồn ma của một dòng thác nhỏ. Ý cậu là nàng di
chuyển như thể đang bay lơ lửng trên đường đi, nhưng nàng không hề rời khỏi mặt
đất. Nàng cất bước nhẹ nhàng hơn gấp nhiều lần so với bất kỳ con linh dương
nào. Và thật là mê ly khi nhìn nàng trong sự lặng lẽ và bóng tối của cánh đồng,
nó gần như khiến ta ngưng thở. Và cháu nên nhớ, cậu chỉ là một thằng nhóc hiếu
động lên mười.”
Cụ Bolvover rút một cái khăn tay to bằng lụa nhuộm nhiều màu
ra khỏi túi, và hỉ mũi. “Cậu cần nói thêm ngay rằng,” ông nói tiếp, nhét cái
khăn tay vào túi trở lại, chừa ra một góc có màu sáng, “đó không phải là một
câu chuyện gì cả. Không phải là một câu chuyện, Letitia ạ,”
“Nhưng cậu Tim à, cháu lại nghĩ rằng nó là một câu
chuyện,” Letitia nói. “Những câu chuyện không hề dở nếu nó có thật. Ý của cháu
là, cậu có nghĩ rằng tất cả những câu chuyện có thật dường như đều tốt hơn sự
thật hay không? Bản thân cậu có nghĩ thế không hở, cậu Tim? Hãy nghĩ tới Bảy Chú Lùn và Nàng Bạch Tuyết mà xem! Ồ, tất cả những câu chuyện đó. Ít nhất
cháu cũng nghĩ vậy. Xin chú kể tiếp đi.”
“Điều cậu muốn nói, cháu yêu à, là một câu chuyện nên
thật sự giống như một khúc nhạc. Nó nên có một đoạn khởi đầu, đoạn giữa và đoạn
kết, dù cháu khó mà nói được đoạn nào là
đoạn nào khi tất cả đã được kết hợp lại với nhau. Nó nên giống như một con cá với cái đuôi nó nằm trong miệng nó – nhưng là một con
cá sống động, tất nhiên. Câu chuyện này, cháu thấy đó, câu chuyện mà cậu đang
kể, bắt đầu – rồi chẳng đi tới đâu hết.”
“Cháu nghĩ rằng việc đó chẳng có gì là quan trọng,”
Letitia nói. “Xin cứ kể tiếp đi, cậu Tim.”
“Được, ngay khi nàng khuất khỏi tầm mắt, mong mỏi duy
nhất của cậu là lẻn vào cánh đồng và nhìn Già Joe một cái ở quãng cách thật
gần. Nhưng thật tình cậu không có đủ can đảm, Letitia à. Anh ta là nơi cư ngụ
của nàng, nơi ẩn náu của nàng, ngôi nhà của nàng: ít nhất, bất kỳ khi nào nàng
cần tới một nơi như vậy. Điều đó là chắc chắn. Lúc bấy giờ, khi nàng vắng mặt,
đã từ bỏ, đã đi khỏi, vẻ ngoài của anh ta cũng thay đổi. Anh ta trống rỗng, chỉ
đơn giản là một lớp vỏ khô. Anh ta không là gì khác ngoài một cái hình nộm –
anh chàng Già Joe đó! Dù chúng ta không nghĩ chút xíu nào tới tình cảnh tệ hại
ấy. Ôi trời, không! Khi nào cháu mơ mộng, Letitia, cậu bảo đảm với cháu rằng
gương mặt cháu sẽ trông có vẻ lặng lẽ, im lìm và hạnh phúc. Nhưng cậu e rằng
cháu hẳn phải nghĩ rằng cậu là một thằng nhóc cực kỳ ngốc nghếch. Cháu biết đó,
cậu đã là như vậy. Và cậu xin thú nhận rằng đơn giản là cậu đã không thể quyết
định bước tới gần hơn một bước.
“Lúc bấy giờ Già Joe hoàn toàn cô độc. Cậu không sợ anh
ta. Nhưng sau những gì đã thấy, cậu cảm thấy trong người có một cảm giác thật
lạ lùng. Cậu sợ vì cậu cảm thấy rằng cậu đã lén lút theo dõi, rằng mỗi một sự vật
đang sinh sống bên dưới bầu trời lặng lẽ đều biết điều này và muốn xua đuổi cậu
ra khỏi đó. Điều tệ nhất là thậm chí cậu đã không nhìn tới cái bẫy chim của
mình. Và lần sau khi cậu quay lại cánh đồng, nó đã biến mất.
“Sáng hôm sau, sau bữa điểm tâm với bà bạn già Lumb, cậu
trò chuyện dông dài cho tới lúc rốt cuộc cậu và bà nói về những nàng tiên. ‘Đôi
khi cháu tự hỏi họ có thể có thật không?’ Cậu hỏi bà với vẻ tình cờ - như thể
cậu vừa nghĩ tới nó. Ôi Trời, Letitia, chúng ta thật là những kẻ lừa dối kinh
khủng! Nhưng, vâng. Bà bạn già của cậu tin là có những nàng tiên. Cậu chưa bao
giờ cảm thấy nghi ngờ về điều đó. Nhưng bà chưa bao giờ nhìn thấy một nàng tiên
nào. Cậu hỏi bà rằng bà nghĩ một nàng tiên trông sẽ như thế nào nếu như bà từng
nhìn thấy một người. Bà ngồi trên ghế - tay cầm cốc nước – nhìn ra cửa sổ và
nhai tóp tép miếng bánh nướng.
“‘Ồ, nói thật tình, Tim thân mến,’ bà nói (nhai nhóp nhép), “Tôi chưa bao giờ lưu
tâm nhiều tới những sinh vật bé nhỏ lắm chuyện đó. Người ta cho rằng họ xem một cái
bông súng là một chỗ
ngủ tiện nghi không khác chi cháu ngủ trong một cái giường. Tôi nghĩ, đối với
tôi là vậy. Và tôi cũng không tin rằng có bất kỳ một nàng tiên nào lưu ý nhiều
tới tôi (nhai nhóp nhép).Tôi mong
rằng họ thích loài người, nếu như họ quan tâm tới loài người. Và có lẽ hiện nay
họ không còn nhiều lắm ở nước Anh. Ý tôi là các nàng tiên. Chúng ta đã quá đông
đảo rồi. Như cháu biết đấy, ông Lumb là một nhà côn trùng học. Có lẽ ông ấy có
thể nói cho cháu nghe nhiều hơn về chuyện này. Ngoài ra (nhai nhóp nhép), ông ấy đã từng gặp ma.’”
“Cậu thật sự muốn nói rằng chồng bà Lumb đã có lần trông
thấy ma, và ông ấy cũng đã chết rồi?” Letitia nói.
“Đó là điều mà bà Lumb muốn nói, cháu thân mến, và cậu có
hỏi bà con ma mà chồng bà gặp trông như thế nào. Bà nói, ‘Ờ, ông ấy bảo trông
nó giống như (nhai nhóp nhép) nhìn
một vật gì đó khi bạn nhắm mắt lại. Nó khiến cho ông ấy cảm thấy rất lạnh;
phòng ngủ tối sầm lại;
nhưng ông ấy không sợ.’”
Letitia nhích lại sát ông cậu thêm một tí. “Nói thật
tình, cậu Tim,” cô nói, “Cháu tin rằng con ma đó đã làm cháu rùng mình. Cậu có
thấy vậy không? Nhưng xin hãy quay lại câu chuyện thần tiên của cậu. Cậu có kể
cho bà Lumb nghe chuyện đó?”
“Cậu chưa bao giờ hé răng nửa lời, dù nếu cháu hỏi cậu vì
sao, cậu không thể nói được. Cậu cho là những cậu bé thường hay như thế; và cả
những bé gái cũng vậy, hả? Chúng béo tròn, thế nhưng cứ giữ trái táo lại cho
bản thân chúng.”
“Cháu nghĩ cháu chỉ kể cho cậu nghe thôi, cậu Tim à,”
Letitia nói. “Nhưng rồi chuyện gì xảy ra?”
“Hai ngày trọn trôi qua trước khi cậu mạo hiểm tới gần
cánh đồng trở lại, dù cậu cho rằng không có giờ nào cậu không nghĩ về nó. Lũ
chim trong ký ức cậu lúc bấy giờ là những sinh vật lạ lùng hơn, hoang dã hơn và
đáng yêu hơn bao giờ hết. Thậm chí cậu thả đi hai con trong những cái lồng gỗ
nhỏ - một con hồng tước và một con mai hoa – và trong một thời gian không còn
nghĩ gì đến bẫy lưới gì nữa. Cậu đi lang thang, tự hỏi có phải tất cả những gì
cậu đã nhìn thấy chỉ là tưởng tượng hay không.
“Thế rồi vào buổi chiều tối thứ ba, cậu thấy xấu hổ về
mình đến nỗi cậu quyết định đi tới bìa rừng một lần nữa để quan sát. Lần này
cậu đi tới góc trên của cánh đồng, gần cái đồn điền trồng thông, tất cả những
cây thông trong đó đều xanh tươi mơn mởn. Chính ở đó, cậu cho là cậu đã nhìn
thấy nàng tiên biến mất. Những con gà lôi đang kêu trong tổ chúng, và những con
chim cuối cùng đang cử hành buổi lễ ban chiều. Cậu bò vào giữa những bụi rậm
lớn, và sau khi thu xếp một chỗ ngồi thoải mái, cậu lấy ra một cái ống nhòm nhỏ
bằng đồng màu đỏ của cha cậu cho cậu. Cậu hy vọng có thể nhờ vào nó để nhìn
thấy rõ ràng mọi thứ xảy ra gần chỗ Già Joe. Nó sẽ đưa anh ta lại gần như thể
cậu có thể giơ tay sờ vào anh ta. Nhưng khi đưa ống nhòm lên mắt, cậu nhận ra
một trong hai ống kính đã bị vỡ.
“Lúc đó hơi muộn hơn buổi chiều cậu tới đó lần đầu chút
ít, và dù bầu trời vẫn còn sáng, mặt trời đã lặn. Nhưng đôi chân của cậu đã tê
rần và đôi mắt cậu gần như lòa đi vì cứ nhìn chăm chú mãi mà vẫn chưa có chuyện
gì khác thường xảy ra.
“Thế rồi, Letitia ạ, đột nhiên cậu biết nàng tiên không
chỉ lại có mặt ở đó mà nàng còn biết rằng mình đang bị theo dõi. Phải, và dù
cậu không nhìn thấy một chút động tịnh gì ở Già Joe, nàng đã lẻn ra khỏi nơi ẩn
nấp và đang chậm chạp và công khai nhìn chăm chú về phía cậu qua hàng mạ non
xanh rờn mới nhú. Cậu nén hơi thở lại và cố gắng một cách vô ích để giữ cho
mình không run bắn lên.
“Trong khoảng một hai giây, nàng ngần ngừ, rồi quay đi
như lần trước, rồi đi nhanh, nhưng lần này hướng về chính cây táo gai mà chú đã
nấp trong lần đầu theo dõi nàng. Cậu thất vọng một cách cay đắng, nổi giận và,
vâng, cậu cho rằng một cậu bé sẽ rất khác thường nếu như không có máu của một
tay thợ săn trong người. Rõ ràng là nàng đang đấu trí với cậu. Và cũng giống
như dù cậu yêu những loài chim hoang dã, đôi khi cậu cũng vung nắm đấm về phía
chúng và gần như hú lên vì giận dữ khi cậu nhìn một con đã lấy trộm được mồi
nhưng không sập bẫy của cậu, lúc bấy giờ cậu cảm thấy thế đó.
Nhưng lúc đó người cậu đã tê cứng và đau nhức, và đã quá
muộn để cố gắng chặn nàng lại. Cứ chờ
đấy! Cậu tự nhủ, lần sau chúng ta sẽ coi xem ai là người ranh ma nhất. Thế
là cậu xếp ống nhòm lại, phủi những lá chết khỏi quần áo, chờ cho đôi chân hết
tê rồi giận dỗi trở về nhà.
“Đêm đó im lìm và ấm áp dù tháng Tư chưa qua hết. Trong
lúc cậu cởi quần áo, vầng trăng tròn vành vạnh bắt đầu nhô lên. Bất chấp ánh
nến, cậu có thể nhìn thấy nó rọi ánh sáng qua tấm màn che phòng ngủ của cậu.
Cậu thổi tắt nến, kéo màn lên và nhìn ra cửa sổ. Thế giới trông như thể đang bị
bùa chú – như một con rắn đã lột xác. Dường như vầng trăng cũng như ánh trăng
đang lặng lẽ khóc. Và dù cậu đang ở trong ngôi nhà quen thuộc của bà bạn già
Lumb – bằng gỗ, gạch và đá – như thể không có một người nào từng nhìn qua cửa
sổ của bà như thế trước đó. Và thậm chí còn hơn thế, Letitia ạ. Cảm giác tương
tự như lần đầu tiên cậu bắt gặp Già Joe tràn ngập trong cậu. Giống như khi nàng
tiên đã nhận ra cậu đang nhìn nàng ở ngoài cánh đồng, lúc bấy giờ cậu chắc chắn
rằng nàng cũng đang nấp ở gần đâu đó và đang theo dõi cửa sổ của cậu.”
“Nghe có vẻ lạ lùng quá, cậu Tim,” Letitia nói. “Điều đó
có lạ không? Cháu biết chính xác chú định nói gì. Nó cũng giống như có những
vật gì đó trong không trung đang nói với
mọi người, có phải không ạ? Và cậu, cậu có ra ngoài không?”
“Nói thật lòng là không, Letitia. Cậu không đi ra ngoài.
Cậu không dám, dù không phải là vì cậu sợ. Không. Cậu đứng quan sát ở cửa sổ
cho tới một lúc sau đó, khi một con chim bắt đầu hót từ trong vùng bóng tối ấm
áp cách xa khỏi vầng trăng. Có lẽ đó là một con chim họa mi, vì gần ngôi nhà có
một gò đất hay bụi cây là nơi nghỉ chân của những con chim họa mi vào mùa hè.
Tuy nhiên, lúc ấy vẫn còn rất sớm. Bài ca mà cậu nghe cũng ngọt ngào và du
dương như tiếng hót của chúng, thế nhưng nó có vẻ như không phải là tiếng hót
của một con chim, thậm chí là tiếng hót của một con chim họa mi. Khi lắng nghe
nó, một niềm hạnh phúc và âu sầu lạ lùng dâng trong lòng cậu. Ngay cả khi cậu
đã quay về giường ngủ, một lúc lâu sau tiếng vọng của nó mới tắt hẳn trong ký
ức, và cậu ngủ thiếp đi.
“Cháu thử nghĩ xem có phải là nàng tiên đã cầu khẩn cậu
đừng tới chỗ trú ẩn của nàng nữa hay không? Cậu không thể nói. Nhưng trong cơn
ngu xuẩn của mình, cậu nhất định tiếp tục quấy rối nàng ta, cũng giống như cậu
kiên quyết quấy rối lũ chim. Cậu quá ngu ngốc, cháu thấy không, nên không thể
nhận ra rằng sự có mặt của cậu trong khu vực của nàng có thể làm cho nàng không
an tâm cũng hệt như đối với chúng ta nếu như chúng ta mời một vài người bạn
thân tới uống trà mà nàng cũng đến.”
“Ồ, cậu Tim, giá mà nàng đến! Khi đó chúng ta sẽ không
mời một người nào khác suốt nhiều tháng. Phải không cậu?”
“Không,” cụ Bolsover nói. “Nhưng từ khước điều này cũng
chẳng ích gì. Nàng sẽ không tới. Họ sẽ không tới. Bản thân chúng ta có thể ước
ao, thậm chí khao khát được nhìn thấy họ. Nhưng Letitia à, cậu không cho rằng
nàng muốn một thằng nhóc bẫy chim lóc chóc tới dò la khu vực của mình. Già Joe
không chỉ là mái nhà và ngôi nhà, mà cũng là một người bạn tốt, và cả sự lẻ loi của chính nàng
nữa.
“Dù sao đi nữa, cháu yêu, cậu đã gặp nàng, mặt đối mặt.
Và câu chuyện xảy ra như sau. Đó là ngày trước khi cậu quay trở về nhà mình, và
hai ba lần ghé thăm cánh đồng khác trước đó đã hoàn toàn phí công vô ích. Lúc
bấy giờ, cậu chỉ cần thoáng nhìn qua Già Joe là biết nàng có ở đó hay không.
Giống như cháu có thể nói ngay khi nhìn thoáng qua rằng cậu có ở đây hay không.
Cậu không có ý nói là chỉ đơn giản là thân thể và xương cốt của cậu – đôi mắt,
cái mũi, đôi ủng, vân vân. Nhưng phải là cậu thật sự và đích xác, vâng, chỉ là
cậu.
“Vâng,” Letitia nói.
“Ừ, nàng không bao giờ có mặt ở đó. Và vào buổi chiều hôm
đó cậu đang trong một tâm trạng u ám và giận dỗi của một cậu bé. Cậu bị đau
nhức khắp người, chắc chắn là do ngu ngốc nằm trên mặt đất dưới những bụi cây
sau lúc trời mưa. Đêm này sang đêm khác,
cậu nằm thao thức hàng giờ. Dường như nàng tiên đã lìa bỏ cánh đồng. Dường như
mọi mánh khóe, tính hiếu kỳ, niềm hy vọng và sự khao khát của cậu đã uổng công
vô ích. Cậu cau mắt nhìn Già Joe như thể anh ta là người có lỗi. Chỉ là do tính
tự cao tự đại và sự ngu ngốc của cậu.
“Ngoài ra, bà bạn già Lumb của cậu đã bằng cách nào đó
phát hiện ra rằng cậu đã lẻn vào nhà rất muộn trong lúc bà đang ăn tối. Và dù
bà không bao giờ trách mắng cậu, khi bà không hài lòng điều gì đó rất dễ biết
ngay. Bà có thể vừa mỉm cười với cháu với đôi má ửng hồng màu táo chín và đôi
mắt đen vừa buông giọng lưỡi khá là chua chát trong cùng một lúc.”
“Ở trường cháu có một bà cô,” Letitia kêu lên, “gọi là cô
Jennings cũng giống như thế; dù cô ấy không béo lắm. Ít ra là chưa béo. Và
rồi?... Cậu nhìn thấy nàng chứ, cậu Tim?”
“Phải, cậu nhìn thấy nàng, mặt đối mặt. Cậu đang đi về,
băng qua bãi trồng cây ở góc trên cánh đồng nơi hai dãy bờ giậu gặp nhau ở
cuối một hàng cây xanh. Khi cậu đang đi thơ thẩn, đột nhiên cậu thấy lạnh khắp
cả người, và cậu tin chắc rằng cái nón của cậu đã bị đẩy lên một chút trên đầu
cậu, do những sợi tóc của cậu đã dựng đứng hẳn lên.
“Thậm chí cậu không thể kể cho cháu biết nàng đang mặc
thứ gì, nhưng cậu nhớ lại nàng lúc ấy như thể được choàng lên bằng một vòng hào
quang của một vầng trăng tròn – như những bông hoa chuông trong một thung lũng
nhỏ giữa rừng. Có thể hoặc không có thể, nhưng cậu hoàn toàn nhìn rõ mặt nàng,
vì cậu đã nhìn chăm chú vào mắt nàng. Cả chúng cũng xanh thẳm màu nước biển, như
màu xanh của ngọn lửa khi gỗ cháy, nhất là khi trong đó có muối, hay thứ gỗ đó
đến từ một chiếc tàu cũ, với những mảnh đồng trong đó. Mái tóc nàng buông xõa
xuống hai phía thành những lọn dài phủ kín đôi vai hẹp. Cậu hoàn toàn quên hết
mọi thứ khác trên đời. Cậu chỉ có một mình, một con người nhỏ bé vụng về xấu
xí, đang nhìn, như thể vào một giấc mơ, vào đôi mắt lạ lùng phi thường đó.
“Cả hai không hề nhúc nhích chút nào; không có ngay cả
một cử động nhỏ nhất nào trên gương mặt nàng cho thấy rằng nàng đang biết cậu,
nhận ra cậu, tỏ vẻ trách móc cậu hay sợ cậu. Nhưng khi cậu nhìn – làm sao cậu
có thể mô tả được nó đây? – có một thay đổi mơ hồ trong đôi mắt nàng. Giống như
thể cháu nhìn ra biển khơi vào một chiều hè muộn nào đó từ một cánh cửa sổ cao
hay từ một rìa vách núi, một cánh chim hải âu xa xôi chợt xuất hiện trên nền
màu xanh thẳm rồi biến mất vào trong nó trở lại. Những người khả tử chúng ta
chỉ có thể mỉm cười bằng đôi mắt – và đó là một nụ cười đẹp hơn bằng đôi môi
rất nhiều. Nhưng không giống như thế. Cái cách mỉm cười của nàng với cậu cũng
giống như những thiên thần trên cái thang từng mỉm cười với Jacob[2]
– với mái đầu thiếp ngủ của ông ta trên tảng đá. Và cậu nghi ngờ không biết họ
có thường mỉm cười hay không. Thâm tâm bảo cho cậu biết rằng không phải là nàng
không có thiện cảm với cậu. Thế nhưng nàng đang khẩn nài cậu đừng tới và xâm
nhập vào nơi ẩn
náu của nàng nữa. Nàng đang làm gì trong cõi đời này, nàng cô đơn đến mức nào,
nàng ở đâu và ở với ai khi không ở trong những khu vực gần nhà bà Lumb, cậu
không thể biết. Tất cả những gì nàng đang nói với cậu là nàng không có ý làm
hại cậu nhưng cầu xin cậu đừng lén lút theo dõi hay dò la nàng thêm nữa. Nói
cho cùng, cậu có quyền gì để làm như thế - hoàn toàn vượt khỏi phép tắc xử sự
thông thường? Thế rồi nàng biến mất.
“Ồ, biến mất!” Letitia nói, và đột ngột cúi đầu xuống.
“Cháu biết đó, rất dễ ẩn nấp trong bóng chiều nhòa nhạt
của khu rừng, và những bờ
giậu của cánh đồng rất rậm rạp. Vâng, nàng biến mất, cháu yêu, và cậu không bao
giờ gặp lại nàng hay bất cứ thứ gì giống như nàng kể từ đó... Nhưng, như cậu đã
nói,” cụ Bolsover nói thêm, “cháu không thể gọi đó là một câu chuyện.” Ông đang
hấp háy mắt nhìn người cháu bé nhỏ của mình như một con cú bị đưa ra ánh sáng
ban ngày. Letitia giữ im lặng trong một lúc.
“Nhưng cháu gọi nó là một câu chuyện, cậu Tim ạ,” cuối
cùng cô đáp. “Và, ồ, cháu ước gì... Tuy nhiên, nói thế chẳng ích gì. Nhưng thế
còn Già Joe, Già Joe ở đằng kia thì
sao, hở cậu Tim?”
“À, Già Joe! Anh ta, cái anh bạn già ù lì đó! Sự thật là cậu
không bao giờ quên buổi chiều hôm ấy. Suốt nhiều năm sau đó – và lúc đó cậu đã
là một thanh niên, cứ cho là khoảng hai mươi tuổi – có lần cậu ghé thăm và ở lại một hai
đêm với bà bạn già Lumb. Ôi chao, bà cũng đã già hơn; và chắc chắn là người đầu
bếp của bà cũng vậy. Nhưng đó là sự khác nhau duy nhất. Cuộc tản bộ đầu tiên
của cậu là đi ra cánh đồng bên dưới khu rừng, vào khoảng thời gian mặt trời
lặn. Cháu có tin không, Già Joe vẫn ở vị trí thường ngày của anh ta, dù vụ lúa
mạch mà anh ta canh giữ vào mùa hè khi đó đã mọc cao tới đầu gối anh ta. Và vì
chính cậu cũng đã thay đổi, hay vì nàng tiên đã lìa bỏ nơi ẩn náu của mình từ
lâu, hay thật sự anh ta chỉ đơn thuần là phương tiện để nàng ra vào thế giới
của chúng ta, nào ai biết được?
“Dù sao đi nữa, nói một cách thật lòng,” cụ Bolsover hạ
thấp giọng, “Letitia ạ, Già Joe trông giống một cách thật chính xác như anh ta
lúc này đây: đầu óc trống rỗng, thân hình trống rỗng, quen ở một mình. Lúc đó,
khi đứng trong đám lúa mạch, anh ta cũng
đã có quần áo mới, với một cái nón cũ vành rộng cực kỳ, như loại nón thuở trước ông Longfellow tác giả bài trường ca Hiawatha[3] thường đội – ý
cậu là loại nón mà không ai ngoài các nhà thơ đội, trừ phi họ có một bộ râu dài
bạc trắng để ăn khớp với nó. Và cháu nghĩ cậu sẽ làm gì?
“Cậu không tới đó và đánh cắp anh ta chứ, cậu Tim?”
Letitia thì thào.
“Không, Letitia. Điều mà cậu không thể không nghĩ tới còn
tệ hơn nhiều, cậu tới và mua anh ta,” người cậu nói. “Dù ‘mua’ không phải là từ
mà cậu nên nói lớn. Cậu đi thẳng tới người chủ trại già, ông Jones – vẫn to béo
như cũ, nhưng tất cả tóc râu đều đã bạc - và hỏi ông ta sẽ bán cái hình nộm trong đồng lúa
mạch của ông ta với giá bao nhiêu, chỉ như một câu hỏi tò mò. Cậu bảo với ông
ta rằng cậu đã biết Già Joe từ khi còn là một cậu bé, và giữa hai người có một
tình bạn. Người chủ trại già ngồi đó trong cái xe lăn to lớn đặt trong nhà bếp
của ông – béo tròn như một con cá heo, với gương mặt đỏ như gấc chín và đôi mắt
như hai viên đá mã não. Ông ta ngồi nhìn cậu chăm chú một hồi, như thể nghĩ
rằng cậu là một người mất trí.
“Ồ, đó là một cái hình nộm tốt,” cuối cùng ông ta nói. Và
cháu nghĩ xem ông ta đòi giá bao nhiêu?
Letitia ngẫm nghĩ, đôi mắt cô dán lên lớp cỏ dưới bàn đôi
chân, dù chúng nhấp nháy rất nhanh nhưng cô không thể suy nghĩ một cách rõ ràng
được. “Cháu cho là,” cô nói, “năm bảng Anh là vừa, phải không, cậu Tim? Ngay cả
đối với Già Joe? Dù tất nhiên,” cô nói thêm, như thể cụ Bolsover đã đột ngột bỏ
đi, “ngay cả khi đó vẫn rẻ một cách khác
thường.”
“Không, đoán lại đi cháu yêu. Chẳng có gì giống như năm
bảng Anh cả! Thậm chí không có gì giống như hai xu. ‘Cho ta kéo một hơi ống píp cái thứ thuốc
lá của anh,” người chủ
trại già nói, “và nó sẽ là của anh mãi mãi.’
“Thế là anh ta trở thành của cậu. Và cậu mừng là không
phải chuyện tiền bạc.”
“Cháu cũng vậy,” Letitia nói. “Thuốc lá không làm tổn
thương cảm giác của cậu, cháu cho là vậy, phải không, cậu Tim? Và... và cậu
không bao giờ nhìn thấy lại nàng tiên nữa?”
“Nói theo cách nào đó,” cụ Bolsover đáp. “Cậu không bao
giờ nhìn thấy lại bất kỳ một thứ gì khác, Letitia ạ, Đó là vấn đề về ý nghĩa
chính xác khi người ta dùng chữ ‘nhìn thấy’, cậu cho là vậy. Từ ngữ chỉ là vô dụng. Chúng
không thể làm được gì, phải không?
Letitia lắc mạnh đầu, “Không, cậu Tim, chúng không thể,”
cô nói, và lại rơi vào im lặng.
Ngôi nhà thấp, cửa sổ rộng, với những bụi cây ông lão[4]
và hoa lài của nó, đã co lại trong ánh sáng và sức nóng của mặt trời, như thể
nó đã lắng nghe tất cả câu chuyện này. Những con bướm bé xíu, như những mảnh
nhỏ xanh nhợt của bầu trời, đang lượn vòng chấp chới trên những bông hoa. Tiếng
chuông phát ra từ cái tháp chuông đá của nhà thờ làng, được giảm âm đi nhờ
những cánh rừng đầy lá, vang lên ngọt ngào và nghiêm trang trong bầu không khí
mùa hè. Bầu trời im lìm như thể thế giới rộng lớn đã ngừng quay.
Và kia, khuất mất phân nửa trong bóng râm của những rặng
liễu xanh thẫm, đen đủi trong bộ quần áo cũ, cái nón dị thường che ngang mắt và
một cánh tay gầy gò, gã bù
nhìn đang đứng; không bao giờ động đậy. Anh ta cũng không có vẻ gì là mong muốn
có bạn bè. Trước kia
có thể anh ta đã từng là một nơi để ẩn nấp (cũng giống như cách đây đã lâu
một con ong từng chiếm hữu cái nón bê-rê của cụ Bolsover), nhưng vị khách nào
đó từng đến cũng đã ra đi. Cuối cùng, Letitia quay lại nhìn vào gương mặt của
cụ già.
“Cậu Tim ạ, điều mà bản thân cháu tin tưởng,” cô lại bắt
đầu nói, với một giọng khẽ đến nỗi gần như là cô đang nói chuyện với chính
mình, “điều mà bản thân cháu tin tưởng, và cháu chắc rằng cậu sẽ không phiền
khi cháu nói vậy – đó là, cháu tin rằng cậu hẳn đã yêu nàng tiên đó. Có phải
vậy không, cậu Tim, cậu có nghĩ như vậy không?”
“À!” cụ Bolsover đáp, và
ngồi đó hấp háy đôi mắt trong ánh nắng. Rồi ông lẩm bẩm như tự nói với chính mình, “Ối chà, cậu có thể
ngửi thấy mùi thịt hầm táo cho bữa ăn trưa rồi, thậm chí còn thơm hơn mùi hoa cẩm
chướng! Cậu nói với cháu điều này, Letitia ạ. Đã tới giờ chúng ta phải động đậy
những cái chân răng của mình rồi. Chúng ta sẽ đi ra và hỏi Già Joe!...”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét