Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2013

Walter de la Mare - Gã bù nhìn


Nguyễn Thành Nhân dịch
từ nguyên tác Collected Stories For Children







Ngôi nhà nơi cụ Bolsover sinh sống khoác một màu vàng hoa anh thảo đã phôi phai. Đó là một ngôi nhà dài, nhưng chỉ có hai tầng. Thế nhưng ngay cả từ những cửa sổ tầng dưới của nó cũng có thể nhìn ra những đồng cỏ trải dài xanh ngát dưới ánh nắng ban mai. Một mái hiên hẹp rũ bóng xuống các khung cửa sổ. Cái mái hơi dốc bằng đồng thau bấy giờ đã ngả sang màu xanh xám nhạt. Những cây ông lão và hoa lài leo quanh những cây cột gỗ mảnh mai của nó. Ở cả hai đầu mái hiên đều có một bệ đá thấp đã dãi dầu mưa nắng. Bên trên hai bệ đá này là hai vị thần đồng áng bằng chì, vị này luôn thì thầm những tiếng nói lặng thầm với vị kia xuyên qua những bụi hoa quế trúc và cẩm chướng. Và những bụi cẩm chướng đang nở đầy những bông hoa trắng như tuyết, tỏa khắp không gian một mùi thơm nồng nàn như xạ hương. 
Một cái đồng hồ treo tường nhỏ vừa gõ mười tiếng và cụ Bolsover, trong chiếc áo khoác trắng mát mẻ, bước ra khỏi lớp cửa kính hành lang của phòng điểm tâm cùng cô cháu nhỏ Letitia của ông. Letitia có lối đi đứng nói năng và quay đầu nhanh nhẹn của một con chim non. Còn cụ Bolsover, với đôi mắt và cái mũi của ông, cũng khá giống một con chim, nhưng thuộc về loài chim có đuôi dài, cao lớn, nghiêm trang – những con chim hồng hạc hay cò. Họ cùng dừng chân lại và nhìn ra những cánh đồng cỏ.
“Ồ, cậu Tim, thật là một buổi sáng hoàn toàn đáng yêu!” Letitia nói.
“Một buổi sáng hoàn toàn đáng yêu,” người cậu nói. “Cứ như thể nó được hoàn thành để xứng hợp với người bạn nhỏ của ta!
Letitia như một ngày đáng yêu
Cô đến; và rồi đi mất tiêu!    
“A, cậu Tim,” Letitia nói, “như thế gọi là tâng bốc đấy.”
“Chà, cháu yêu của cậu,” người cậu đáp, liếc nhìn cô bên dưới hai lớp gương của đôi kính lão, “gọi là gì cũng chẳng có chi là quan trọng!”
“Ồ, cháu biết tất cả mọi loài cây cỏ đó!” Letitia nói. “Và cứ nghĩ mà xem, chính xác đã tròn một năm từ lần trước cháu tới đây! Thế mà cậu vẫn không tin là một bông hoa cẩm chướng đơn độc thì khác hơn. Điều đó thật buồn cười, phải không cậu? Chúng ta thật buồn cười. Và, vâng, sao chứ” cô vội vàng nói tiếp, lắc lắc đầu trên chiếc cổ thanh mảnh, “cả cái anh chàng bù nhìn lạ lùng ở đằng kia, chỗ gần những cây liễu. Anh ta cũng chẳng thay đổi chút xíu nào.”
“Đúng thế, đúng thế,” cậu Tim nói, nhìn ra đồng cỏ. “Dù thật tình mà nói, cháu thân mến ạ, không đúng hoàn toàn khi nói anh ta không thay đổi chút nào. Anh ta đã đổi cái nón của mình. Năm ngoái đó là một cái nón cũ, còn bây giờ nó là một cái nón rất cũ, một cái nón khó coi. Không có gì lạ khi anh ta che đi một mắt dưới cái vành nón. Nhưng bất kể cháu nhìn anh ta bao lâu, anh ta sẽ nhìn lâu hơn cháu.”
Dù sao thì Letitia cũng tiếp tục nhìn đăm đăm vào bù nhìn, đôi mắt hơi cau lại. “Cậu biết không, anh ta khá lạ lùng, nếu cậu nhìn anh ta lâu một tí. Và cậu có thể dễ dàng vờ như cậu không hoàn toàn nhìn anh ta. Dường như cậu cũng chẳng nhớ,” cô nghiêm trang nói tiếp, “rằng chính buổi sáng cuối cùng cháu ở đây lần trước, cậu đã chân thành hứa với cháu sẽ kể cho cháu nghe về anh ta. Nhưng cậu đã không kể, vì mẹ cháu tới ngay đúng lúc cháu vừa yêu cầu cậu, và cậu đã quên khuấy mất chuyện này.” 
“Thế sao, ừ đúng vậy,” cụ Bolsover nói. “Đó là chuyện phải đến đối với một trí nhớ giống như một cái giỏ bị lủng lỗ. Đó là chuyện phải đến đối với những lời hứa mong manh như vỏ bánh– chúng cứ tan ra trong miệng người ta… Tuy nhiên, cái anh chàng Già Joe đó ổn thôi. Quá già, cháu ạ, gần như cháu sắp phải nói lời chia tay giữa chúng ta rồi!”
“Xin cậu đừng nói thế, cậu Tim ạ - không phải thế đâu. Cậu vẫn là ông cậu Tim vừa trẻ nhất vừa già nhất vừa tốt nhất như lúc nào. Thế đấy. Nhưng cậu sẽ kể cho cháu nghe gì về Già Joe? Anh ta từ đâu tới? Anh ta dùng để làm gì, ý cháu là ngoại trừ những con quạ? Có một bài hát về Già Joe phải không ạ? Có phải kia là anh ta không? Hãy k cho cháu biết ngay đi.” Letitia kêu lên. “Chúng ta hãy tới ngồi lên mấy tảng đá. Sờ xem! Chúng ấm như là bánh mì nướng do ánh nắng. Còn bây giờ thì xin cậu kể đi.”
Cụ Bolsover ngồi xuống. Letitia cũng ngồi xuống, cạnh bên nhau, như ông Punch và con chó Toby của ông ta. Và đây là câu chuyện ông cụ kể về Già Joe…
Cậu phải bắt đầu, Letitia à, ngay từ đầu,” ông nói. “Đó là chỗ tốt nhất để kể cho tới kết cục. Lúc bấy giờ, khi  cậu vào khoảng tuổi cháu bây giờ, thỉnh thoảng cậu thường tới chơi và ở lại với một người bạn già của mẹ cậu, bà ngoại của cháu. Tên của bà là Sara Lumb. Bà là một phụ nữ rất to béo, có mái tóc đen mượt, đôi má hồng hào và có lúm đồng tiền. Cậu nhớ, bà thường đội một cái nón nhung màu tím thạch anh, rũ xuống đôi tai, và một thứ đăng ten gì đó trùm lên đôi vai bà. Bây giờ cậu vẫn có thể nhìn thấy bà – gương mặt rộng tươi cười, những ngón tay mập mạp đeo nhẫn nạm ngọc lục bảo và thạch anh, thậm chí cả cái ghim hoa nạm ngọc lục bảo trên cổ bà. Bà không phải là cô của cậu, càng không phải là mẹ đỡ đầu của cậu, nhưng bà cực kỳ tốt với cậu. Gần giống như cậu tốt với cháu vậy! Bà rất thích những món ăn và thức uống ngon lành và có một người đầu bếp có thể làm mọi loại bánh cực kỳ - bảy trái nho khô và chín trái nho Hy Lạp cho mỗi hai phân vuông. Mứt, mứt cô đặc, dâu nấu sữa, bánh rán, bánh kếp, bánh qui kem tẩm rượu – chúng là những thứ bánh ngon nhất mà cậu từng nếm. Những quả trứng nhồi thịt và món chả hàu ở những buổi tiệc Giáng sinh cũng thế. Ôi chao!”
“Ổ, cậu Tim,” Letitia nói, “cậu thật háu ăn.”
“Điều tệ nhất là cậu chẳng bao giờ bỏ được thói này,” ông cụ nói. “Tự cháu sẽ thấy trong bữa cơm trưa. Và nếu cậu không nhầm, cậu đã có thể ngửi thấy mùi của món thịt hầm táo. Nhưng đừng để ý tới chuyện đó - chẳng ích gì - cho tới khi bữa ăn đã sẵn sàng. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, Letitia ạ, cậu chắc là cháu sẽ đồng ý rằng bà bạn già Lump của cậu là loại bạn già rất phù hợp đối với một cậu nhóc có một cái bao tử khá to. Tất nhiên, cậu chỉ tới ở với bà vào những dịp nghỉ lễ. Và trong những ngày đó, trong lúc có rất nhiều thứ thức ăn khó nhá ở trường, “các bài phạt”, gậy ba toong, cuống cải bắp, cá tuyết, bột nhào tráng mỡ, dầu hải ly, những thứ thường ngày và không thường ngày, không có gì kinh khủng cho bằng một nhiệm vụ trong kỳ nghỉ. Những nhiệm vụ trong kỳ nghỉ, cháu ạ, luôn nhắc cậu nhớ tới một cô bé gái muốn đi bơi:
Mẹ ơi cho phép con nha
Ra ngoài bơi lội chút cho khỏe người?
Con yêu của mẹ, được thôi!
Nhưng con nhớ xếp cho ngay áo quần
Và con nhớ chớ tới gần
Nước nôi, kẻo sẽ chết chìm nghe con!
 “Bài hát mà cháu biết là “Hãy treo quần áo của con lên một cành cây.” Letitia nói.
“Tất cả đều rất hay,” ông cụ nói, “nhưng cháu cứ hát cho cậu nghe một lần. Rồi chúng ta sẽ kết hợp cả hai lại như vầy:
Mẹ ơi cho phép con nha
Ra ngoài bơi lội chút cho khỏe người?
Con yêu của mẹ, được thôi!
Nhưng con nhớ xếp cho ngay áo quần
(Đó là lời của cậu Tim)
Hay treo chúng ở một cành cây tươi
(Letitia nói với người)
Và con chớ tới gần nơi sông hồ!
 “Cháu thân mến, ý cậu muốn nói là vào thời đó không một đứa bé ngoan nào lại ngồi nhà gạo bài trong mùa nghỉ lễ và nói một cách đơn giản là chúng ghét cay ghét đắng việc phải ngồi đọc một cuốn sách. Nhưng đó hoàn toàn là chuyện giữa chính chúng ta. Chúng ta không bao giờ nên chỉ trích những người lớn tuổi. Và dù thế nào đi nữa, ở nhà bà bạn già Lumb của cậu không cần thiết phải làm điều đó. Đó là niềm hạnh phúc.
“Trước tiên, đó là một ngôi nhà cũ rộng lạ lùng, lâu đời hơn ngôi nhà này nhiều, và ít nhất cũng lớn hơn nó gấp ba lần rưỡi. Kế đến, xung quanh nó là một vùng quê xinh đẹp. Những cánh đồng trải dài trên những sườn đồi ngập nắng, trên đỉnh đồi và trong những khe núi và thung lũng là những khu rừng nhỏ và bãi trồng cây; một dòng suối với nhiều rong tảo, cói và mọi loài chim sống trên mặt nước róc rách chảy qua những tảng đá ở chân khu vườn dốc. Nhưng cậu ghét diễn tả mà, phải không Letitia? Và ở đó, một vườn cây ăn quả mọc đầy những cây anh đào mà vào mùa xuân trông như thể trĩu nặng những bông tuyết trắng. Ồ, cháu gái của cậu, khi lên thiên đàng, cậu hy vọng sẽ nhìn thấy lại ngôi nhà và khu vườn đó.”
“Nhưng nó có còn ở đó không? Letitia hỏi. “Ý cháu là, cậu biết đó, nơi nó ở trước đây?”
“Than ôi, không còn, cháu ạ,” cụ Bolsover đáp. “Nó đã biến mất mãi mãi. Có một người đầu bếp xuất hiện, không phải người đầu bếp của bà Lumb. Một sáng nọ, khi bà ta đang rán cá thờn bơn – cá thờn bơn vùng Brighton – cho bữa điểm tâm; con mèo kêu meo meo và cọ vào chân bà ta; bà ta làm đổ cái xoong; làm phát ra một đám cháy lớn. Bà ta chạy vào khu vườn và kêu lên thất thanh thay vì làm điều mà lẽ ra bà ta nên làm. Và ngôi nhà bị cháy rụi hoàn toàn. Cháy rụi. Hãy nghĩ tới cảnh tượng đó, Letitia ạ. Hãy luôn luôn chú ý tới những con mèo và dầu mỡ. Nhưng tạ ơn Thượng đế, trước đó bà bạn già Lumb thân mến của cậu đã rời khỏi ngôi nhà và tới ở với em trai của bà ở Ceylon.
“Vào những ngày xa xôi đó, chim chóc là tất cả những gì mà cậu yêu thích. Thật lạcậu còn chưa mọc lông vũ. Cậu yêu thích chúng quá nên không thể sử dụng ná cao su, nhưng chưa đủ để kềm chế việc đánh bẫy bắt chúng về nuôi. Những cái bẫy bằng gạch và bẫy lưới. Nhưng liệu cháu có thích là một con chim hồng tước, chiền chiện, chim hét hay chim s ức đỏ bị nhốt trong một cái lồng tí hon với những cửa sổ chấn song để làm thú tiêu khiển cho một thằng nhóc xấu xa như cậu hồi cậu lên chín, mười tuổi gì đó hay không?”
“Cháu không thích,” Letitia nói. “Nhưng cháu thà bị nhốt trong lồng của cậu còn hơn là trong lồng của bất kỳ đứa bé trai kinh khủng nào khác.”
“Cám ơn cháu yêu,” cụ Bolsover nói. “Tuy con chim càng hoang dã thì một cái lồng càng là điều tệ hại. Nhưng lúc đó vì chỉ là một thằng nhóc, cậu đã làm như những thằng nhóc khác – cầu chúc cho trái tim bé bỏng của chúng! Và cậu thường rơi nước mắt như những con cá sấu khi những con chim sẻ ngô hay sẻ đồng mà cậu bắt được trở nên ủ rũ và chết. Sau đám tang cho chúng, cậu cắm một nhánh cây xuống đất để đánh dấu ngôi mộ, và lại lên đường đi đặt một cái bẫy khác.
Cậu đặt bẫy khắp nơi, đôi khi ở những địa điểm không được phép. Nhưng trước hết cháu phải hiểu được cái mà cậu theo đuổi, thật sự theo đuổi.” Cụ Bolsover gần như nói thì thầm. “Đó là những con chim hiếm có – chim đầu rìu, chim vàng anh, chim ó mật – những loài chim đáng yêu và quý hiếm. Sâu thẳm trong lòng, cậu khao khát một con chim có tiếng hót và bộ lông thật tuyệt vời; một con chim mà chưa có ai từng nhìn thấy; một con chim đã bay vụt ra khỏi cửa sổ tâm hồn của một phù thủy nào đó. Tất nhiên điều này có nghĩa là cậu trở nên khá thông thạo về những loi chim. Thậm chí thỉnh thoảng cậu thường mơ thấy con chim đó – nhưng thông thường, đó chính là bản thân cậu đang bị nhốt trong lồng!  
“Vâng, có một lùm cây đặc biệt mà cậu đã lưu tâm để tới đặt bẫy nhiều ngày trước khi mạo hiểm làm điều đó. Đó là bìa của một cánh đồng nơi có rất nhiều loại chim các cỡ thường lui tới, dù cậu không bao giờ hiểu được vì sao. Cậu ngắm nhìn chúng hết lần này tới lần khác, rất nhiều đàn chim. Đôi cánh của chúng lấp lánh trong ánh nắng. Dường như đó là một địa điểm họp mặt bí mật đầy vui thú của chúng – bất chấp sự có mặt của Già Joe!”
Anh chàng Già Joe ở đằng kia phải không ạ?” Letitia kêu lên, chỉ vào hình dáng gầy gò, lóng ngóng, câm lặng, với đôi cánh tay áo rách tả tơi, và cái nón cũ mòn vẹt một bên, đang đứng ngây ra nhìn họ từ  dưới rặng liễu màu xanh xám trong cánh đồng phía ngoài khu vườn. “Phải,” người cậu nói, “chính là Già Joe ở đằng kia. Cháu biết không, Letitia, nói thật tình, chúng ta đừng nhìn anh ta một phút giây nào nếu không chúng ta sẽ làm tổn thương anh ta, cái anh chàng Già Joe đó là một bù nhìn. Anh ta chẳng là gì khác ngoài một hình nộm câm lặng, ọp ẹp và cũ kỹ. Anh ta không bao giờ thật sự là một thứ gì khác; dù sau ngần ấy năm cậu và anh ta sống cùng nhau, và chưa bên nào thốt ra một lời không tốt; giờ thì anh ta là một dạng anh em song sinh với cậu. Như Joseph và Benjamin[1] cháu biết đó. Sao chứ, nếu chúng ta đổi chỗ, cậu cho là cháu sẽ không thể phân biệt được ai là ai.”
“Sao cậu lại dám nói một điều như thế chứ, cậu Tim?” Letitia la lên, đẩy bàn tay cô vào dưới khuỷu tay của người cậu. “Cậu biết rất rõ rằng đó là một kiểu tự tâng bốc mình mà, cậu thật tệ ghê.”
“Tất cả những gì cậu có thể nói, cô bé Sẻ ngô ạ,” người cậu đáp, “là cứ hỏi Già Joe. Tuy bây giờ chúng ta là những người bạn cũ, nhưng hồi cậu gặp anh ta lần đầu, anh ta đã làm cho cậu hoảng hồn. Lúc đó cậu đang men theo b giậu, mở to mắt cảnh giác đối với bất kỳ ai có thể hiện ra trên cánh đồng – vì đang xâm nhập trái phép. Khi họ không cày bừa, cuốc đất hay gieo hạt, ở đó không bao giờ có một bóng người; ngoại trừ ngày Chủ nhật, khi ông Jones, một người đàn ông to béo có một gương mặt đỏ hồng và một cây gậy lớn, đi vòng vòng để xem xét lúa má của ông ta.
“Đó là một cánh đồng có hình dáng kỳ lạ, dốc, rộng khoảng bốn mươi mẫu Anh, kéo dài xuống một góc nhọn, giống như hình bản đồ nước Anh lật ngược lại, và có một cánh rừng thông nhỏ ở một phía. Hôm đó là một buổi sáng tháng Tư. Trời nắng nhưng lạnh giá, và cánh đồng trống không ngoại trừ những viên đá lửa lấp lánh dưới ánh mặt trời. Nó đã được gieo hạt, nhưng chưa có mầm xanh nào nhú lên cả.
“Vâng, cậu đang đi men theo b giậu, như đã nói, nhưng ở mé bên này, bên dưới cái áo khoác là một cái bẫy chim, và gần như không thở được vì kích thích. Cậu biết một cách chính xác – khi nhìn qua b giậu tới những nụ gai vừa mới nhú lên như những hạt ngọc lục bảo – rằng đó là địa điểm của cậu. Ở đó có một cái mương nước mé ngoài b ruộng, và vào lúc đó cậu chỉ có thể nhìn thấy một dải ruộng hẹp, vì hàng rào và những bụi cây ở giữa che khuất. Nhưng đó thật sự là một thiên đường nhỏ của các loài chim, cháu cưng ạ, nhất là vào mùa xuân.
“Cậu tiếp tục đi cho đến lúc tới một góc gần cái cổng nhỏ lung lay, được cột lại bằng một sợi xích sắt. Với cậu và cháu, đó là một cái cổng đáng xấu hổ. Nhưng đó không phải là việc của chúng ta. Thế rồi đột nhiên cậu trông thấy một hình dáng mà cậu cho rằng chính là ông Jones, đang nhìn cậu chòng chọc, cách không đầy ba mươi mét. Cậu giật nảy cả người lên khi nhìn thấy ông ta, mặt nóng bừng lên, rồi lạnh toát đi, và cậu nhìn đáp lại, chờ đợi. Trong khoảnh khắc ấy, hầu như cậu có thể nhìn thấy màu đen của nhãn cầu đang di động trên mặt của ông ta.
“Nhưng khoảnh khắc này chỉ thoáng qua trong nháy mắt. Đó không phải là ông Jones, thậm chí không phải là một người làm của ông ta! Đó chính là Già Joe, Già Joe của chúng ta! Già Joe ở đằng kia! Trở thành người sống. Và, nói cho cùng, cuộc sống là gì, hả Letitia?”
“Điều đó hoàn toàn đúng, cậu Tim,” Letitia thì thào, nhích lại gần ông thêm một chút. “Anh ta có thể sống động vào chính giây phút ấy.”
“Không chỉ có thế, cháu phải nhớ,” cụ Bolsover nói tiếp, “đây là Già Joe của thời tốt đẹp hơn. Khi đó anh ta còn trẻ. Anh ta đã được khoác lên nhiều bộ quần áo cũ đẹp đẽ mới hơn kể từ ngày đó, và được đội nhiều cái nón hơn là những ngón tay cậu có thể đếm. Nhưng lúc đó anh ta đang trong độ tuổi thanh xuân, trong thời vàng son của tuổi trẻ. Và bây giờ cậu sẽ không rời bỏ anh ta dù để nhận lại một giỏ đầy những đồng ghi-nê bằng vàng. Không, cả hai mươi giỏ cũng không! Và dù cậu rất thích những đồng ghi-nê vàng, lý do của điều đó, trước tiên, cậu yêu mến anh ta vì chính sự cô đơn ngọt ngào của anh ta, và kế đến là, Letitia thân mến ạ, vì người ta không thường nhìn thấy – nhìn thấy, ý ta muốn nói – những nàng tiên có thật đang sống sờ sờ trên thế giới này.”   
Lititia cười phá lên. “Những nàng tiên có thật đang sống sờ sờ, ôi cậu Tim!” cô kêu lên, khom người về trước trong cơn vui và kéo chiếc váy che quanh hai đầu gối. “Sao, cậu thân mến tội nghiệp, cậu không có ý bảo rằng Già Joe là một nàng tiên đấy chứ?”
“Không,” cụ Bolsover đáp, “cậu hoàn toàn không có ý đó. Khi đó, cũng như bây giờ, Già Joe là một trong những bù nhìn đáng sợ nhất mà cậu từng nhìn thấy. Nhưng, như hoa anh thảo trong bài thơ, anh ta không là gì khác hơn thế nữa. Không, không phải chính bản thân Già Joe là nàng tiên, cũng như ngôi nhà đằng sau lưng chúng ta không phải là cậu và cháu. Già Joe chỉ đơn giản là một trong những nơi cư ngụ như lời xưa nói. Anh ta là nơi nàng tiên xuất hiện.
“Sáng hôm ấy, cậu nhớ, anh ta mặc một cái quần chùng kẻ ca-rô trắng đen và một cái áo xanh đen, rất rộng ở vai. Ngoài cái que để làm cánh tay của anh ta, một cái que khác đã được đặt trong ống tay áo để thay cho một cái gậy tày. Một cái que khác với một cục rơm ở bên trên tạo thành cái đầu của anh ta và trên đó là một cái nón vuông cứng, mòn vẹt, như những cái nón mà những người chủ trại và các ủy viên nhà thờ thường đội vào thời ấy. Anh ta hơi cúi người về phía trước, ngó đăm đăm vào cậu khi cậu đang nép mình bên cánh cổng. Cậu kéo cái bẫy chim bên dưới chiếc áo khoác sát vào bụng hơn, rồi nhìn đáp lại.
Cậu không thể nói là do bầu không khí nóng đang cuộn lên từ mặt đất đầy đá dưới ánh nắng hay vì hiệu quả đánh lừa con mắt của ánh sáng trên cánh đồng nhiều đá phấn. Nhưng ngay cả khi cậu đứng lại nhìn anh ta, đầu của anh ta cũng dường như đang khẽ quay đi bên trên đôi vai, như thể anh ta đang cố gắng một cách kín đáo để nhìn cậu rõ hơn mà không để lộ cho cậu thấy. Thế nhưng trong toàn bộ thời gian cậu tưởng tượng điều này, cậu biết rằng nó không đúng.
“Tuy nhiên, cậu thật sự kinh ngạc. Vì ngoài những con quạ và những loài chim chóc khác tương tự, chắc chắn là anh ta đã làm cậu sợ hãi – vì vào thời đó những kẻ xâm nhập trẻ tuổi có thể ăn một trận đòn đau nếu bị bắt được. Nhưng ngay cả khi đã tỉnh hồn lại cậu vẫn tiếp tục quan sát anh ta, đồng thời liếc mắt từ bên này sang bên kia theo dõi lũ chim đang cắn nhau, kiếm mồi, rỉa lông hay phơi nắng xung quanh. Và dù lúc đó cậu biết anh ta chỉ là một thằng bù nhìn, cậu vẫn không thấy dễ chịu chút nào.
“Vì dù trên mặt anh ta không có một đôi mắt thật sự, cậu hoàn toàn chắc chắn rằng có ai đó hay vật gì đó đang nhìn cậu từ bên dưới cái nón đen cũ kỹ, hay từ ống tay áo của anh ta – từ nơi nào đó xung quanh anh ta. Những con chim đã quen với sự có mặt của cậu, chỉ vì cậu gần như bất động. Có lẽ sau khoảng năm phút như vậy, cậu ngồi xổm xuống bên bờ giậu và bắt đầu đặt bẫy.
“Nhưng trong lúc cậu đang cúi xuống, khẽ đóng cái chốt gỗ bằng một viên đá lửa lớn, cậu vẫn suy nghĩ về anh chàng bù nhìn, dù không nhìn anh ta – và biết rằng cậu đang bị quan sát. Cậu bảo là không nhìn anh ta, nhưng bất cứ lúc nào có dịp cậu đều kín đáo liếc nhanh về phía anh ta giữa hai chân hay qua vai hay từ bên dưới hai cánh tay, vờ như đó chỉ là cái liếc mắt ngẫu nhiên. Và cuối cùng, khi đã đặt xong bẫy, cậu ngồi bẹp xuống thảm cỏ bên dưới bờ giậu và lại nhìn chằm chặp vào anh ta.
Mặt trời dần lên cao trên bầu trời xanh thẳm, những tia nắng phản chiếu lấp lánh từ những tảng đá nhọn và những bãi cỏ. Bầu không khí nóng rực bao trùm mọi nơi. Lũ chim chóc tiếp tục sinh hoạt của chúng, và không có gì khác xảy ra. Cậu đã nhìn quá chăm chú nên đôi mắt bắt đầu ứa nước mắt, nhưng nếu có bất cứ thứ gì đang nấp ở đó, nó cũng kiên nhẫn không kém cậu. Cuối cùng cậu quay trở về nhà.
“Ở góc xa của cánh đồng, dưới gốc một cây táo gai già, cậu cúi xuống một lần nữa như thể đang buộc lại dây giày, và nhìn thêm một lúc lâu. Lúc đó, cậu hoàn toàn chắc chắn rằng cậu đã nhìn thấy một vật gì đó đang di chuyển ở đó. Trông như thể có một gương mặt đang lén lút nhìn ra từ dưới bóng râm của cái hình nộm cũ, và khi nhìn thấy cậu bên dưới cây táo gai, đã nhanh chóng nấp lại.
“Suốt thời gian còn lại của ngày hôm ấy, cậu không thể nghĩ tới điều gì khác ngoài Già Joe, tự khẳng định với mình rằng mắt cậu đã đánh lừa cậu, hay là một con chim đậu trên vai anh ta đã vỗ cánh bay xuống; một cơn gió nhẹ từ trên cao lướt xuống đã làm lay động ống tay áo của anh ta. Hoặc là cậu đã tưởng tượng ra tất cả những chuyện đó. Thế nhưng sâu thẳm trong thâm tâm cậu biết rằng điều này không đúng. Đưa ra những lời giải thích thì dễ, nhưng không có giải thích nào hợp lý.”
“Tất nhiên, cậu Tim, cậu biết đó,” Letitia nói, “có thể đó không phải là một con chim mà là một con thú nhỏ nào đó, phải không? Có lần cháu nhìn thấy một con thỏ rừng đang nhảy lưng tưng giữa cánh đồng và rồi đột nhiên một con thỏ khác xuất hiện, dù trước đó cháu không hề nhìn thấy thậm chí cả cái chót đuôi của nó. Và rồi một con nữa, cậu có tin nổi không? Và chúng rượt đuổi nhau qua cánh đồng cho tới khi khuất khỏi tầm mắt. Hay cậu nghĩ xem, có thể đó là một con chim đang làm tổ trên người Già Joe? Cậu biết đó, những con chim cổ đỏ làm tổ ở mọi nơi, thậm chí trong một chiếc ủng cũ. Cháu đã từng nhìn thấy một cái tổ chim sẻ ngô với thật nhiều trứng trong một chiếc giày mềm. Và nhìn kia, cậu Tim, thật sự lúc này đang có một con chim đang đậu trên vai Già Joe! Đó là chuyện đã có thể xảy ra, cháu nghĩ, một con thú nhỏ, hay một con chim đang làm tổ.”
          “Ồ, cậu đang nghe cháu,” người cậu nói. “Nhưng cậu hoàn toàn chắc chắn rằng nếu cháu có ở đó với cậu trong buổi sáng hôm ấy, cháu sẽ đồng ý rằng ở Già Joe có một điều gì đó khác thường. Ý cậu là khác với cái vẻ ngoài của anh ta lúc này. Anh ta trông rất lạ lùng. Cậu không thể giải thích rõ ràng được. Nhưng đó là sự khác nhau giữa một căn nhà trống rỗng không đồ đạc và cũng căn nhà đó với một gia đình bên trong nó. Đó là sự khác nhau giữa câu cá trong một cái ao có đầy cá và một cái ao không có con cá nào. Đó là sự khác nhau giữa bản thân cháu khi cháu đã thật sự ngủ và khi cháu chỉ giả vờ ngủ. Và ngoài ra, chắc chắn thế, cậu đã nghĩ đúng.
“Lúc bấy giờ, khi ở nhà bà Lumb, cậu luôn ngủ đúng giờ, và trước khi ngủ luôn luôn ăn một trái táo và uống một ly sữa. Bà bạn già của cậu không chỉ rất tin vào tác dụng của những quả táo mà bà còn có bảy con bò sữa Jersey xinh đẹp. Những  con bò này không chỉ rất có ích cho giấc ngủ mà còn có ích cho món bánh tạc nhân quả lý gai hay nhân táo. Nhưng bà không phải là loại người muốn mọi thứ được thực hiện một cách chính xác vào một giờ đã định. Bà không chờ cho tới khi đồng hồ gõ tám tiếng để ghé vào xem cậu có an toàn trên giường hay chưa.
“Sao chứ, cậu biết rất rõ,” Letitia đáp, “ rằng tự cậu không hề làm điều đó.”  
“Ừ, ừ!” cụ Bolsover nói, “cậu tự hỏi. Những người khi ngủ chỉ nhắm có một mắt là những người khôn ngoan như vua Solomon. Cậu bò tới bò lui, nhưng mọi cánh cửa đều có một ổ khóa. Nhưng đừng để ý tới chuyện đó. Ngay buổi chiều hôm ấy, sau lần đầu tiên nhìn thấy Già Joe, nếu cậu là một thằng bé trung thực, lẽ ra cậu phải ở trên giường vào lúc đó, thế nhưng cậu lại đi ra cánh đồng một lần nữa. Men từ bụi cây này sang bụi cây khác, từ thân cây này sang thân cây khác, cố hết sức cảnh giác đến nỗi cậu dẫm phải đuôi của một con thỏ đang chuẩn bị thưởng thức một túm bồ công anh ở mé bên kia một bụi mâm xôi.
“Khi tới cây táo gai – trông nó g cả mấy trăm tuổi – cậu cúi xuống thật thấp gần sát đất bên trên chùm rễ của nó, quyết định sẽ quan sát cho tới khi buổi chiều trở nên quá tối không thể nhìn xuyên qua cánh đồng. Lúc đó đã gần tới tháng Năm, bầu không khí thật ngọt ngào, yên tĩnh và trong lành đến nỗi đôi mắt cậu gần như khép lại với niềm hạnh phúc mỗi lần cậu thở. Và vào thời bấy giờ, Letitia ạ, chúng ta lên dây đồng hồ theo mặt trời. Chúng ta không đánh lừa mặt trời vào ban mai rồi trả lại cho nó vào chiều tối như bây giờ. Vì thế, trên bầu trời vẫn còn nhòa nhạt một sắc vàng và hồng, dù bản thân mặt trời đã lặn.
“Nhưng ngoài lũ chim và thỏ rừng, chẳng có gì xảy ra ngoại trừ sự chuyển biến tuyệt diệu từ ngày sang đêm, cho tới khi trời bắt đầu sụp tối. Thế rồi dường như mỗi lúc Già Joe lại chậm chạp nhích tới gần hơn từng phân một. Dường như, cháu lưu ý nhé. Và,  đúng ngay khoảnh khắc cậu nhận ra vì sao đầu tiên – mà với  ánh sáng êm đềm và vị trí của nó, hẳn nó phải là sao Hôm – cậu nhìn thấy, nào, bây giờ cháu thử đoán xem cậu nhìn thấy cái gì?”
          “Nàng tiên!” Letitia đáp, và thở dài.
          “Điểm tối đa, cháu thân mến của ta!” Cụ Bolvover nói, xiết chặt bàn tay cô đang nằm bên dưới khuỷu tay của ông. “Nàng tiên. Lạ một điều là cậu không thể mô tả nàng. Có lẽ một phần vì ánh sáng không rõ lắm, một phần vì mắt cậu đã quá căng thẳng với việc quan sát. Nhưng đa phần là vì những nguyên nhân khác. Cháu biết không, dường như cậu đang tưởng tượng ra nàng, dù cậu biết rất rõ là nàng đang ở đó.
“Cháu phải chú ý tới lời của cậu – cậu biết nàng đang ở đó. Nàng hơi cúi về phía trước, và đỉnh đầu của nàng, có thể nói thế, chạm vào nơi mà chúng ta có thể gọi là cái eo của Già Joe. Tức là ở vị trí cái nút áo thứ ba của chiếc áo đen trên người anh ta. Gương mặt nàng dường như hơi dài và hẹp, nhưng có lẽ đó là vì mái tóc đẹp đẽ của nàng phủ xuống hai bên má, thẳng, mượt mà như lụa, và có màu vàng pha xám – giống như màu của một con cá có vy lân tinh trong bóng tối, nhưng nhiều sắc vàng hơn bạc. Bây giờ, khi nghĩ tới mái tóc đó, cậu cho rằng hẳn là cậu đã nhìn thấy nàng một phần là vì ánh sáng của chính nàng.
Nàng đứng bất động và đáng yêu như một bông hoa. Và chỉ đơn thuần nhìn vào nàng thôi lòng cậu đã tràn ngập một niềm hạnh phúc mà cậu không thể quên được nhưng cũng không thể mô tả được. Như thể cậu đã vô thức đi vào giữa một giấc mơ của một thế giới khác. Những cảm giác ớn lạnh chạy dọc theo lưng cậu, như khi nghe một khúc nhạc mê hồn.
Không có một hơi gió nào thoảng qua cả. Mọi vật quanh cậu dường như trở nên sắc sảo và rõ ràng hơn, mặc dù ánh sáng chỉ nhờ nhờ. Những bông hoa trông khác lạ hẳn, những thân cây, những con chim. Dường như cậu biết trong tận thâm tâm mình điều mà những bông hoa đang cảm thấy – cậu trở thành một thực vật như dây thường xuân, với những chiếc lá nhọn xanh xanh và những sợi rễ bé xíu, nhích từng phân một từ những cọng rễ ngoằn ngoèo trong lòng đất tối tăm lên tới cành nhánh của một thân cây; hay tưởng như lông vũ mọc khắp thân mình cậu, để cậu trôi nổi bềnh bồng nhẹ nhàng hơn không khí, và để nhìn ra từ đôi mắt tròn sáng nhỏ xíu vào thế giới loài chim của cậu. Cậu không thể giải thích, Letitia à, nhưng cậu chắc chắn rằng cháu sẽ hiểu.”
Letitia nghiêm trang gật đầu hai lần. Cháu cho là thế, cậu Tim à – hiểu một chút. Dù cậu biết đó, cháu không bao giờ đoán rằng có bất kỳ một cậu bé nào giống như thế.”
“Cháu thân mến, những cậu bé chủ yếu là những con thú nhỏ,” người cậu vui vẻ đồng ý, “và cậu cũng thế lúc lên chín mười tuổi. Nhưng cậu cho là ta nên quay lại với Già Joe.”
“Cậu tuyệt đối tin rằng nàng tiên biết cậu ở đó, nhưng bất chấp điều đó, nàng không thể trì hoãn việc thực hiện điều mà nàng muốn lâu hơn nữa. Vì ngay sau đó, sau một hai phút gì đó, nàng lui lại rất khẽ về phía sau và biến mất khỏi tầm nhìn, rồi vội vã lướt trên cánh đồng hướng về phía góc xa nhất, luôn giữ khoảng cách đó để Già Joe đứng ở giữa cậu và nàng và ngăn không cho cậu nhìn thấy nàng một cách rõ ràng, bất kể cậu có nghiêng đầu qua lại thế nào để nhìn rõ hơn. Lúc bấy giờ, Letitia  ạ, cháu hãy hình dung rằng nàng quay lưng về phía cậu và nhẹ nhàng lướt đi nhanh như một cái bóng – đó là một việc rất khó làm, và cậu không hiểu vì sao nàng có thể làm điều đó được.  Cậu hoàn toàn chắc rằng cậu không thể - ý cậu là không nhìn lại một lần nào.”
“Thế trông từ phía sau, nàng ta như thế nào?” Letitia hỏi.
Cụ Bolsover nhíu mắt và ngậm chặt môi đôi lại. “Nàng giống như,” ông nói, “một luồng khói tỏa ra từ một chiếc pháo hoa. Nàng giống như, nếu cháu có thể nhìn thấy nó, một luồng gió thổi qua trong làn ánh sáng trên mặt tuyết. Nàng giống như hồn ma của một dòng thác nhỏ. Ý cậu là nàng di chuyển như thể đang bay lơ lửng trên đường đi, nhưng nàng không hề rời khỏi mặt đất. Nàng cất bước nhẹ nhàng hơn gấp nhiều lần so với bất kỳ con linh dương nào. Và thật là mê ly khi nhìn nàng trong sự lặng lẽ và bóng tối của cánh đồng, nó gần như khiến ta ngưng thở. Và cháu nên nhớ, cậu chỉ là một thằng nhóc hiếu động lên mười.”
Cụ Bolvover rút một cái khăn tay to bằng lụa nhuộm nhiều màu ra khỏi túi, và hỉ mũi. “Cậu cần nói thêm ngay rằng,” ông nói tiếp, nhét cái khăn tay vào túi trở lại, chừa ra một góc có màu sáng, “đó không phải là một câu chuyện gì cả. Không phải là một câu chuyện, Letitia ạ,”  
“Nhưng cậu Tim à, cháu lại nghĩ rằng nó là một câu chuyện,” Letitia nói. “Những câu chuyện không hề dở nếu nó có thật. Ý của cháu là, cậu có nghĩ rằng tất cả những câu chuyện có thật dường như đều tốt hơn sự thật hay không? Bản thân cậu có nghĩ thế không hở, cậu Tim? Hãy nghĩ tới Bảy Chú Lùn Nàng Bạch Tuyết mà xem! Ồ, tất cả những câu chuyện đó. Ít nhất cháu cũng nghĩ vậy. Xin chú kể tiếp đi.”
“Điều cậu muốn nói, cháu yêu à, là một câu chuyện nên thật sự giống như một khúc nhạc. Nó nên có một đoạn khởi đầu, đoạn giữa và đoạn kết, dù cháu khó mà nói được  đoạn nào là đoạn nào khi tất cả đã được kết hợp lại với nhau. Nó nên giống như một con cá với cái đuôi nó nằm trong miệng nó – nhưng là một con cá sống động, tất nhiên. Câu chuyện này, cháu thấy đó, câu chuyện mà cậu đang kể, bắt đầu – rồi chẳng đi tới đâu hết.”
“Cháu nghĩ rằng việc đó chẳng có gì là quan trọng,” Letitia nói. “Xin cứ kể tiếp đi, cậu Tim.”
“Được, ngay khi nàng khuất khỏi tầm mắt, mong mỏi duy nhất của cậu là lẻn vào cánh đồng và nhìn Già Joe một cái ở quãng cách thật gần. Nhưng thật tình cậu không có đủ can đảm, Letitia à. Anh ta là nơi cư ngụ của nàng, nơi ẩn náu của nàng, ngôi nhà của nàng: ít nhất, bất kỳ khi nào nàng cần tới một nơi như vậy. Điều đó là chắc chắn. Lúc bấy giờ, khi nàng vắng mặt, đã từ bỏ, đã đi khỏi, vẻ ngoài của anh ta cũng thay đổi. Anh ta trống rỗng, chỉ đơn giản là một lớp vỏ khô. Anh ta không là gì khác ngoài một cái hình nộm – anh chàng Già Joe đó! Dù chúng ta không nghĩ chút xíu nào tới tình cảnh tệ hại ấy. Ôi trời, không! Khi nào cháu mơ mộng, Letitia, cậu bảo đảm với cháu rằng gương mặt cháu sẽ trông có vẻ lặng lẽ, im lìm và hạnh phúc. Nhưng cậu e rằng cháu hẳn phải nghĩ rằng cậu là một thằng nhóc cực kỳ ngốc nghếch. Cháu biết đó, cậu đã là như vậy. Và cậu xin thú nhận rằng đơn giản là cậu đã không thể quyết định bước tới gần hơn một bước. 
“Lúc bấy giờ Già Joe hoàn toàn cô độc. Cậu không sợ anh ta. Nhưng sau những gì đã thấy, cậu cảm thấy trong người có một cảm giác thật lạ lùng. Cậu sợ vì cậu cảm thấy rằng cậu đã lén lút theo dõi, rằng mỗi một sự vật đang sinh sống bên dưới bầu trời lặng lẽ đều biết điều này và muốn xua đuổi cậu ra khỏi đó. Điều tệ nhất là thậm chí cậu đã không nhìn tới cái bẫy chim của mình. Và lần sau khi cậu quay lại cánh đồng, nó đã biến mất.  
“Sáng hôm sau, sau bữa điểm tâm với bà bạn già Lumb, cậu trò chuyện dông dài cho tới lúc rốt cuộc cậu và bà nói về những nàng tiên. ‘Đôi khi cháu tự hỏi họ có thể có thật không?’ Cậu hỏi bà với vẻ tình cờ - như thể cậu vừa nghĩ tới nó. Ôi Trời, Letitia, chúng ta thật là những kẻ lừa dối kinh khủng! Nhưng, vâng. Bà bạn già của cậu tin là có những nàng tiên. Cậu chưa bao giờ cảm thấy nghi ngờ về điều đó. Nhưng bà chưa bao giờ nhìn thấy một nàng tiên nào. Cậu hỏi bà rằng bà nghĩ một nàng tiên trông sẽ như thế nào nếu như bà từng nhìn thấy một người. Bà ngồi trên ghế - tay cầm cốc nước – nhìn ra cửa sổ và nhai tóp tép miếng bánh nướng.
“‘Ồ, nói thật tình, Tim thân mến,’ bà nói (nhai nhóp nhép), “Tôi chưa bao giờ lưu tâm nhiều tới những sinh vật bé nhỏ lắm chuyện đó. Người ta cho rằng họ xem một cái bông súng là một chỗ ngủ tiện nghi không khác chi cháu ngủ trong một cái giường. Tôi nghĩ, đối với tôi là vậy. Và tôi cũng không tin rằng có bất kỳ một nàng tiên nào lưu ý nhiều tới tôi (nhai nhóp nhép).Tôi mong rằng họ thích loài người, nếu như họ quan tâm tới loài người. Và có lẽ hiện nay họ không còn nhiều lắm ở nước Anh. Ý tôi là các nàng tiên. Chúng ta đã quá đông đảo rồi. Như cháu biết đấy, ông Lumb là một nhà côn trùng học. Có lẽ ông ấy có thể nói cho cháu nghe nhiều hơn về chuyện này. Ngoài ra (nhai nhóp nhép), ông ấy đã từng gặp ma.’”
“Cậu thật sự muốn nói rằng chồng bà Lumb đã có lần trông thấy ma, và ông ấy cũng đã chết rồi?” Letitia nói.
“Đó là điều mà bà Lumb muốn nói, cháu thân mến, và cậu có hỏi bà con ma mà chồng bà gặp trông như thế nào. Bà nói, ‘Ờ, ông ấy bảo trông nó giống như (nhai nhóp nhép) nhìn một vật gì đó khi bạn nhắm mắt lại. Nó khiến cho ông ấy cảm thấy rất lạnh; phòng ngủ tối sầm lại; nhưng ông ấy không sợ.’”
Letitia nhích lại sát ông cậu thêm một tí. “Nói thật tình, cậu Tim,” cô nói, “Cháu tin rằng con ma đó đã làm cháu rùng mình. Cậu có thấy vậy không? Nhưng xin hãy quay lại câu chuyện thần tiên của cậu. Cậu có kể cho bà Lumb nghe chuyện đó?”
“Cậu chưa bao giờ hé răng nửa lời, dù nếu cháu hỏi cậu vì sao, cậu không thể nói được. Cậu cho là những cậu bé thường hay như thế; và cả những bé gái cũng vậy, hả? Chúng béo tròn, thế nhưng cứ giữ trái táo lại cho bản thân chúng.”
“Cháu nghĩ cháu chỉ kể cho cậu nghe thôi, cậu Tim à,” Letitia nói. “Nhưng rồi chuyện gì xảy ra?”
“Hai ngày trọn trôi qua trước khi cậu mạo hiểm tới gần cánh đồng trở lại, dù cậu cho rằng không có giờ nào cậu không nghĩ về nó. Lũ chim trong ký ức cậu lúc bấy giờ là những sinh vật lạ lùng hơn, hoang dã hơn và đáng yêu hơn bao giờ hết. Thậm chí cậu thả đi hai con trong những cái lồng gỗ nhỏ - một con hồng tước và một con mai hoa – và trong một thời gian không còn nghĩ gì đến bẫy lưới gì nữa. Cậu đi lang thang, tự hỏi có phải tất cả những gì cậu đã nhìn thấy chỉ là tưởng tượng hay không.
“Thế rồi vào buổi chiều tối thứ ba, cậu thấy xấu hổ về mình đến nỗi cậu quyết định đi tới bìa rừng một lần nữa để quan sát. Lần này cậu đi tới góc trên của cánh đồng, gần cái đồn điền trồng thông, tất cả những cây thông trong đó đều xanh tươi mơn mởn. Chính ở đó, cậu cho là cậu đã nhìn thấy nàng tiên biến mất. Những con gà lôi đang kêu trong tổ chúng, và những con chim cuối cùng đang cử hành buổi lễ ban chiều. Cậu bò vào giữa những bụi rậm lớn, và sau khi thu xếp một chỗ ngồi thoải mái, cậu lấy ra một cái ống nhòm nhỏ bằng đồng màu đỏ của cha cậu cho cậu. Cậu hy vọng có thể nhờ vào nó để nhìn thấy rõ ràng mọi thứ xảy ra gần chỗ Già Joe. Nó sẽ đưa anh ta lại gần như thể cậu có thể giơ tay sờ vào anh ta. Nhưng khi đưa ống nhòm lên mắt, cậu nhận ra một trong hai ống kính đã bị vỡ.
“Lúc đó hơi muộn hơn buổi chiều cậu tới đó lần đầu chút ít, và dù bầu trời vẫn còn sáng, mặt trời đã lặn. Nhưng đôi chân của cậu đã tê rần và đôi mắt cậu gần như lòa đi vì cứ nhìn chăm chú mãi mà vẫn chưa có chuyện gì khác thường xảy ra.
“Thế rồi, Letitia ạ, đột nhiên cậu biết nàng tiên không chỉ lại có mặt ở đó mà nàng còn biết rằng mình đang bị theo dõi. Phải, và dù cậu không nhìn thấy một chút động tịnh gì ở Già Joe, nàng đã lẻn ra khỏi nơi ẩn nấp và đang chậm chạp và công khai nhìn chăm chú về phía cậu qua hàng mạ non xanh rờn mới nhú. Cậu nén hơi thở lại và cố gắng một cách vô ích để giữ cho mình không run bắn lên.
“Trong khoảng một hai giây, nàng ngần ngừ, rồi quay đi như lần trước, rồi đi nhanh, nhưng lần này hướng về chính cây táo gai mà chú đã nấp trong lần đầu theo dõi nàng. Cậu thất vọng một cách cay đắng, nổi giận và, vâng, cậu cho rằng một cậu bé sẽ rất khác thường nếu như không có máu của một tay thợ săn trong người. Rõ ràng là nàng đang đấu trí với cậu. Và cũng giống như dù cậu yêu những loài chim hoang dã, đôi khi cậu cũng vung nắm đấm về phía chúng và gần như hú lên vì giận dữ khi cậu nhìn một con đã lấy trộm được mồi nhưng không sập bẫy của cậu, lúc bấy giờ cậu cảm thấy thế đó.
Nhưng lúc đó người cậu đã tê cứng và đau nhức, và đã quá muộn để cố gắng chặn nàng lại. Cứ chờ đấy! Cậu tự nhủ, lần sau chúng ta sẽ coi xem ai là người ranh ma nhất. Thế là cậu xếp ống nhòm lại, phủi những lá chết khỏi quần áo, chờ cho đôi chân hết tê rồi giận dỗi trở về nhà.
“Đêm đó im lìm và ấm áp dù tháng Tư chưa qua hết. Trong lúc cậu cởi quần áo, vầng trăng tròn vành vạnh bắt đầu nhô lên. Bất chấp ánh nến, cậu có thể nhìn thấy nó rọi ánh sáng qua tấm màn che phòng ngủ của cậu. Cậu thổi tắt nến, kéo màn lên và nhìn ra cửa sổ. Thế giới trông như thể đang bị bùa chú – như một con rắn đã lột xác. Dường như vầng trăng cũng như ánh trăng đang lặng lẽ khóc. Và dù cậu đang ở trong ngôi nhà quen thuộc của bà bạn già Lumb – bằng gỗ, gạch và đá – như thể không có một người nào từng nhìn qua cửa sổ của bà như thế trước đó. Và thậm chí còn hơn thế, Letitia ạ. Cảm giác tương tự như lần đầu tiên cậu bắt gặp Già Joe tràn ngập trong cậu. Giống như khi nàng tiên đã nhận ra cậu đang nhìn nàng ở ngoài cánh đồng, lúc bấy giờ cậu chắc chắn rằng nàng cũng đang nấp ở gần đâu đó và đang theo dõi cửa sổ của cậu.”
“Nghe có vẻ lạ lùng quá, cậu Tim,” Letitia nói. “Điều đó có lạ không? Cháu biết chính xác chú định nói gì. Nó cũng giống như có những vật gì đó trong không trung đang nói với  mọi người, có phải không ạ? Và cậu, cậu có ra ngoài không?”
“Nói thật lòng là không, Letitia. Cậu không đi ra ngoài. Cậu không dám, dù không phải là vì cậu sợ. Không. Cậu đứng quan sát ở cửa sổ cho tới một lúc sau đó, khi một con chim bắt đầu hót từ trong vùng bóng tối ấm áp cách xa khỏi vầng trăng. Có lẽ đó là một con chim họa mi, vì gần ngôi nhà có một gò đất hay bụi cây là nơi nghỉ chân của những con chim họa mi vào mùa hè. Tuy nhiên, lúc ấy vẫn còn rất sớm. Bài ca mà cậu nghe cũng ngọt ngào và du dương như tiếng hót của chúng, thế nhưng nó có vẻ như không phải là tiếng hót của một con chim, thậm chí là tiếng hót của một con chim họa mi. Khi lắng nghe nó, một niềm hạnh phúc và âu sầu lạ lùng dâng trong lòng cậu. Ngay cả khi cậu đã quay về giường ngủ, một lúc lâu sau tiếng vọng của nó mới tắt hẳn trong ký ức, và cậu ngủ thiếp đi.
“Cháu thử nghĩ xem có phải là nàng tiên đã cầu khẩn cậu đừng tới chỗ trú ẩn của nàng nữa hay không? Cậu không thể nói. Nhưng trong cơn ngu xuẩn của mình, cậu nhất định tiếp tục quấy rối nàng ta, cũng giống như cậu kiên quyết quấy rối lũ chim. Cậu quá ngu ngốc, cháu thấy không, nên không thể nhận ra rằng sự có mặt của cậu trong khu vực của nàng có thể làm cho nàng không an tâm cũng hệt như đối với chúng ta nếu như chúng ta mời một vài người bạn thân tới uống trà mà nàng cũng đến.”
“Ồ, cậu Tim, giá mà nàng đến! Khi đó chúng ta sẽ không mời một người nào khác suốt nhiều tháng. Phải không cậu?”
“Không,” cụ Bolsover nói. “Nhưng từ khước điều này cũng chẳng ích gì. Nàng sẽ không tới. Họ sẽ không tới. Bản thân chúng ta có thể ước ao, thậm chí khao khát được nhìn thấy họ. Nhưng Letitia à, cậu không cho rằng nàng muốn một thằng nhóc bẫy chim lóc chóc tới dò la khu vực của mình. Già Joe không chỉ là mái nhà và ngôi nhà, mà cũng là một người bạn tốt, và cả sự lẻ loi của chính nàng nữa.
“Dù sao đi nữa, cháu yêu, cậu đã gặp nàng, mặt đối mặt. Và câu chuyện xảy ra như sau. Đó là ngày trước khi cậu quay trở về nhà mình, và hai ba lần ghé thăm cánh đồng khác trước đó đã hoàn toàn phí công vô ích. Lúc bấy giờ, cậu chỉ cần thoáng nhìn qua Già Joe là biết nàng có ở đó hay không. Giống như cháu có thể nói ngay khi nhìn thoáng qua rằng cậu có ở đây hay không. Cậu không có ý nói là chỉ đơn giản là thân thể và xương cốt của cậu – đôi mắt, cái mũi, đôi ủng, vân vân. Nhưng phải là cậu thật sự và đích xác, vâng, chỉ là cậu.
“Vâng,” Letitia nói.
“Ừ, nàng không bao giờ có mặt ở đó. Và vào buổi chiều hôm đó cậu đang trong một tâm trạng u ám và giận dỗi của một cậu bé. Cậu bị đau nhức khắp người, chắc chắn là do ngu ngốc nằm trên mặt đất dưới những bụi cây sau lúc  trời mưa. Đêm này sang đêm khác, cậu nằm thao thức hàng giờ. Dường như nàng tiên đã lìa bỏ cánh đồng. Dường như mọi mánh khóe, tính hiếu kỳ, niềm hy vọng và sự khao khát của cậu đã uổng công vô ích. Cậu cau mắt nhìn Già Joe như thể anh ta là người có lỗi. Chỉ là do tính tự cao tự đại và sự ngu ngốc của cậu.
“Ngoài ra, bà bạn già Lumb của cậu đã bằng cách nào đó phát hiện ra rằng cậu đã lẻn vào nhà rất muộn trong lúc bà đang ăn tối. Và dù bà không bao giờ trách mắng cậu, khi bà không hài lòng điều gì đó rất dễ biết ngay. Bà có thể vừa mỉm cười với cháu với đôi má ửng hồng màu táo chín và đôi mắt đen vừa buông giọng lưỡi khá là chua chát trong cùng một lúc.”
“Ở trường cháu có một bà cô,” Letitia kêu lên, “gọi là cô Jennings cũng giống như thế; dù cô ấy không béo lắm. Ít ra là chưa béo. Và rồi?... Cậu nhìn thấy nàng chứ, cậu Tim?”
“Phải, cậu nhìn thấy nàng, mặt đối mặt. Cậu đang đi về, băng qua bãi trồng cây ở góc trên cánh đồng nơi hai dãy bờ giậu gặp nhau ở cuối một hàng cây xanh. Khi cậu đang đi thơ thẩn, đột nhiên cậu thấy lạnh khắp cả người, và cậu tin chắc rằng cái nón của cậu đã bị đẩy lên một chút trên đầu cậu, do những sợi tóc của cậu đã dựng đứng hẳn lên.
“Thậm chí cậu không thể kể cho cháu biết nàng đang mặc thứ gì, nhưng cậu nhớ lại nàng lúc ấy như thể được choàng lên bằng một vòng hào quang của một vầng trăng tròn – như những bông hoa chuông trong một thung lũng nhỏ giữa rừng. Có thể hoặc không có thể, nhưng cậu hoàn toàn nhìn rõ mặt nàng, vì cậu đã nhìn chăm chú vào mắt nàng. Cả chúng cũng xanh thẳm màu nước biển, như màu xanh của ngọn lửa khi gỗ cháy, nhất là khi trong đó có muối, hay thứ gỗ đó đến từ một chiếc tàu cũ, với những mảnh đồng trong đó. Mái tóc nàng buông xõa xuống hai phía thành những lọn dài phủ kín đôi vai hẹp. Cậu hoàn toàn quên hết mọi thứ khác trên đời. Cậu chỉ có một mình, một con người nhỏ bé vụng về xấu xí, đang nhìn, như thể vào một giấc mơ, vào đôi mắt lạ lùng phi thường đó.
“Cả hai không hề nhúc nhích chút nào; không có ngay cả một cử động nhỏ nhất nào trên gương mặt nàng cho thấy rằng nàng đang biết cậu, nhận ra cậu, tỏ vẻ trách móc cậu hay sợ cậu. Nhưng khi cậu nhìn – làm sao cậu có thể mô tả được nó đây? – có một thay đổi mơ hồ trong đôi mắt nàng. Giống như thể cháu nhìn ra biển khơi vào một chiều hè muộn nào đó từ một cánh cửa sổ cao hay từ một rìa vách núi, một cánh chim hải âu xa xôi chợt xuất hiện trên nền màu xanh thẳm rồi biến mất vào trong nó trở lại. Những người khả tử chúng ta chỉ có thể mỉm cười bằng đôi mắt – và đó là một nụ cười đẹp hơn bằng đôi môi rất nhiều. Nhưng không giống như thế. Cái cách mỉm cười của nàng với cậu cũng giống như những thiên thần trên cái thang từng mỉm cười với Jacob[2] – với mái đầu thiếp ngủ của ông ta trên tảng đá. Và cậu nghi ngờ không biết họ có thường mỉm cười hay không. Thâm tâm bảo cho cậu biết rằng không phải là nàng không có thiện cảm với cậu. Thế nhưng nàng đang khẩn nài cậu đừng tới và xâm nhập vào nơi ẩn náu của nàng nữa. Nàng đang làm gì trong cõi đời này, nàng cô đơn đến mức nào, nàng ở đâu và ở với ai khi không ở trong những khu vực gần nhà bà Lumb, cậu không thể biết. Tất cả những gì nàng đang nói với cậu là nàng không có ý làm hại cậu nhưng cầu xin cậu đừng lén lút theo dõi hay dò la nàng thêm nữa. Nói cho cùng, cậu có quyền gì để làm như thế - hoàn toàn vượt khỏi phép tắc xử sự thông thường? Thế rồi nàng biến mất.
“Ồ, biến mất!” Letitia nói, và đột ngột cúi đầu xuống.
“Cháu biết đó, rất dễ ẩn nấp trong bóng chiều nhòa nhạt của khu rừng, và những bờ giậu của cánh đồng rất rậm rạp. Vâng, nàng biến mất, cháu yêu, và cậu không bao giờ gặp lại nàng hay bất cứ thứ gì giống như nàng kể từ đó... Nhưng, như cậu đã nói,” cụ Bolsover nói thêm, “cháu không thể gọi đó là một câu chuyện.” Ông đang hấp háy mắt nhìn người cháu bé nhỏ của mình như một con cú bị đưa ra ánh sáng ban ngày. Letitia giữ im lặng trong một lúc.
“Nhưng cháu gọi nó là một câu chuyện, cậu Tim ạ,” cuối cùng cô đáp. “Và, ồ, cháu ước gì... Tuy nhiên, nói thế chẳng ích gì. Nhưng thế còn Già Joe, Già Joe ở đằng kia thì sao, hở cậu Tim?”
“À, Già Joe! Anh ta, cái anh bạn già ù lì đó! Sự thật là cậu không bao giờ quên buổi chiều hôm ấy. Suốt nhiều năm sau đó – và lúc đó cậu đã là một thanh niên, cứ cho là khoảng hai mươi tuổi – có lần cậu ghé thăm và ở lại một hai đêm với bà bạn già Lumb. Ôi chao, bà cũng đã già hơn; và chắc chắn là người đầu bếp của bà cũng vậy. Nhưng đó là sự khác nhau duy nhất. Cuộc tản bộ đầu tiên của cậu là đi ra cánh đồng bên dưới khu rừng, vào khoảng thời gian mặt trời lặn. Cháu có tin không, Già Joe vẫn ở vị trí thường ngày của anh ta, dù vụ lúa mạch mà anh ta canh giữ vào mùa hè khi đó đã mọc cao tới đầu gối anh ta. Và vì chính cậu cũng đã thay đổi, hay vì nàng tiên đã lìa bỏ nơi ẩn náu của mình từ lâu, hay thật sự anh ta chỉ đơn thuần là phương tiện để nàng ra vào thế giới của chúng ta, nào ai biết được?
“Dù sao đi nữa, nói một cách thật lòng,” cụ Bolsover hạ thấp giọng, “Letitia ạ, Già Joe trông giống một cách thật chính xác như anh ta lúc này đây: đầu óc trống rỗng, thân hình trống rỗng, quen ở một mình. Lúc đó, khi đứng trong đám lúa mạch,  anh ta cũng đã có quần áo mới, với một cái nón cũ vành rộng cực kỳ, như loại nón thuở trước ông Longfellow tác giả bài trường ca Hiawatha[3] thường đội – ý cậu là loại nón mà không ai ngoài các nhà thơ đội, trừ phi họ có một bộ râu dài bạc trắng để ăn khớp với nó. Và cháu nghĩ cậu sẽ làm gì?
“Cậu không tới đó và đánh cắp anh ta chứ, cậu Tim?” Letitia thì thào.
“Không, Letitia. Điều mà cậu không thể không nghĩ tới còn tệ hơn nhiều, cậu tới và mua anh ta,” người cậu nói. “Dù ‘mua’ không phải là từ mà cậu nên nói lớn. Cậu đi thẳng tới người chủ trại già, ông Jones – vẫn to béo như cũ, nhưng tất cả tóc râu đều đã bạc - và hỏi ông ta sẽ bán cái hình nộm trong đồng lúa mạch của ông ta với giá bao nhiêu, chỉ như một câu hỏi tò mò. Cậu bảo với ông ta rằng cậu đã biết Già Joe từ khi còn là một cậu bé, và giữa hai người có một tình bạn. Người chủ trại già ngồi đó trong cái xe lăn to lớn đặt trong nhà bếp của ông – béo tròn như một con cá heo, với gương mặt đỏ như gấc chín và đôi mắt như hai viên đá mã não. Ông ta ngồi nhìn cậu chăm chú một hồi, như thể nghĩ rằng cậu là một người mất trí.
“Ồ, đó là một cái hình nộm tốt,” cuối cùng ông ta nói. Và cháu nghĩ xem ông ta đòi giá bao nhiêu?
Letitia ngẫm nghĩ, đôi mắt cô dán lên lớp cỏ dưới bàn đôi chân, dù chúng nhấp nháy rất nhanh nhưng cô không thể suy nghĩ một cách rõ ràng được. “Cháu cho là,” cô nói, “năm bảng Anh là vừa, phải không, cậu Tim? Ngay cả đối với Già Joe? Dù tất nhiên,” cô nói thêm, như thể cụ Bolsover đã đột ngột bỏ đi, “ngay cả khi đó vẫn  rẻ một cách khác thường.”
“Không, đoán lại đi cháu yêu. Chẳng có gì giống như năm bảng Anh cả! Thậm chí không có gì giống như hai xu. ‘Cho ta kéo một hơi ống píp cái thứ thuốc lá của anh,” ngưi chủ trại già nói, “và nó sẽ là của anh mãi mãi.’
“Thế là anh ta trở thành của cậu. Và cậu mừng là không phải chuyện tiền bạc.”
“Cháu cũng vậy,” Letitia nói. “Thuốc lá không làm tổn thương cảm giác của cậu, cháu cho là vậy, phải không, cậu Tim? Và... và cậu không bao giờ nhìn thấy lại nàng tiên nữa?”
“Nói theo cách nào đó,” cụ Bolsover đáp. “Cậu không bao giờ nhìn thấy lại bất kỳ một thứ gì khác, Letitia ạ, Đó là vấn đề về ý nghĩa chính xác khi người ta dùng chữ ‘nhìn thấy, cậu cho là vậy. Từ ngữ chỉ là vô dụng. Chúng không thể làm được gì, phải không?
Letitia lắc mạnh đầu, “Không, cậu Tim, chúng không thể,” cô nói, và lại rơi vào im lặng.
Ngôi nhà thấp, cửa sổ rộng, với những bụi cây ông lão[4] và hoa lài của nó, đã co lại trong ánh sáng và sức nóng của mặt trời, như thể nó đã lắng nghe tất cả câu chuyện này. Những con bướm bé xíu, như những mảnh nhỏ xanh nhợt của bầu trời, đang lượn vòng chấp chới trên những bông hoa. Tiếng chuông phát ra từ cái tháp chuông đá của nhà thờ làng, được giảm âm đi nhờ những cánh rừng đầy lá, vang lên ngọt ngào và nghiêm trang trong bầu không khí mùa hè. Bầu trời im lìm như thể thế giới rộng lớn đã ngừng quay.
Và kia, khuất mất phân nửa trong bóng râm của những rặng liễu xanh thẫm, đen đủi trong bộ quần áo cũ, cái nón dị thường che ngang mắt và một cánh tay gầy, gã bù nhìn đang đứng; không bao giờ động đậy. Anh ta cũng không có vẻ gì là mong muốn có bạn bè. Trước kia có thể anh ta đã từng là một nơi để ẩn nấp (cũng giống như cách đây đã lâu một con ong từng chiếm hữu cái nón bê-rê của cụ Bolsover), nhưng vị khách nào đó từng đến cũng đã ra đi. Cuối cùng, Letitia quay lại nhìn vào gương mặt của cụ già.
“Cậu Tim ạ, điều mà bản thân cháu tin tưởng,” cô lại bắt đầu nói, với một giọng khẽ đến nỗi gần như là cô đang nói chuyện với chính mình, “điều mà bản thân cháu tin tưởng, và cháu chắc rằng cậu sẽ không phiền khi cháu nói vậy – đó là, cháu tin rằng cậu hẳn đã yêu nàng tiên đó. Có phải vậy không, cậu Tim, cậu có nghĩ như vậy không? 
          “À!” cụ Bolsover đáp, và ngồi đó hấp háy đôi mắt trong ánh nắng. Ri ông lẩm bẩm như tự nói với chính mình, “Ối chà, cậu có thể ngửi thấy mùi thịt hầm táo cho bữa ăn trưa rồi, thậm chí còn thơm hơn mùi hoa cẩm chướng! Cậu nói với cháu điều này, Letitia ạ. Đã tới giờ chúng ta phải động đậy những cái chân răng của mình rồi. Chúng ta sẽ đi ra và hỏi Già Joe!...” 




[1] Tên hai nhân vật trong Thánh kinh.
[2] Một nhân vật trong Thánh kinh.
[3] The Song of Hiawatha: Bài ca vể Hiawatha, một trường ca xuất bản năm 1855 của nhà thơ Mỹ Henry Wadsworth Longfellow (1807-1882).

[4] clematis

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét