TÊN TRỘM XÁC NGƯỜI
James Bradley
Nguyễn Thành nhân dịch
(Từ bản tiếng Anh The
Resurrectionist)
“Nhiều tháng sau khi bạn đã khép lại trang sách cuối, những câu chữ của
James Bradley vẫn còn đọng trong tâm trí bạn – đẹp, hấp dẫn và không thể nào quên.”
Markus Zukas, tác giả
quyển The Book Thief
“Một thiên tiểu thuyết lãng mạn
kinh dị đầy chất cổ điển.”
Daily Telegraph
“Một quyển truyện
kinh dị trần trụi, khơi gợi suy tư… Khi bạo liệt, khi đầy triết lý, quyển
truyện này đầy ắp không khí.” Big Issue
VÀI DÒNG GIỚI THIỆU
Tên trộm xác người là tác phẩm thứ ba
của nhà văn người Úc James Bradley, sinh năm 1967. Ông được nhật báo Sydney Morning Herald hai lần phong tặng
danh hiệu là một trong “Những tiểu thuyết gia trẻ người Úc tài ba nhất”. Hiện ông
sinh sống ở Sydney.
Câu chuyện kể
về Gabriel Swift, một sinh viên y khoa ngành phẫu thuật. Anh tới London vào năm 1826 để
theo học với Edwin Poll, một bác sĩ phẫu thuật lớn. Từ những giao dịch mua bán
tử thi, Swift dần lún sâu vào con đường tội lỗi do sự dụ dỗ của Lucan, kẻ nhiều
quyền lực nhất trong số những tên đào trộm xác chết của thành phố và cũng là
tên trùm cai quản hoạt động này.
Bị bác sĩ Poll
đuổi học, Gabriel bị cuốn vào thế giới ngầm tàn ác và bí ẩn của thủ đô London thời kỳ Georgian,
trở thành một tội phạm. Dù sao, sự cứu rỗi đã đến với Swift ở phần cuối sách.
Quyển tiểu
thuyết dựa một phần vào sự kiện có thật về hai tên giết người hàng loạt Burke
và Hare hồi đầu thế kỷ 19 ở Anh và các hoạt động mua bán xác người của các bệnh
viện hay trung tâm phẫu thuật lúc bấy giờ. Truyện không phân theo chương nên
khó theo dõi nếu bạn đọc không đọc liền một mạch.
Vì bản quyền
khai thác bản dịch tại Việt Nam đã hết và bản dịch không được xuất bản theo hợp
đồng dịch sách, tôi đưa lên blog này để bạn đọc quan tâm có thể tham khảo. Rất
mong các bạn ghé vào đọc truyện đừng sao chép sang các blog, website khác. Rất
cám ơn sự ủng hộ của các bạn.
Sài Gòn, tháng 4/2015
Người dịch
***
“Chúng ta chào đời cùng người chết
Thấy chăng, họ quay về, và mang chúng ta theo.”
T.S. Eliot, Four Quartets
MỘT THỨ NHẸ HƠN KHÔNG KHÍ
London, 1826-1827
Họ nằm trong những cái bao tời như nằm trong tử cung của mẹ; gối chạm cằm, đầu ép xuống, như thể chết chỉ đơn giản là quay về với nhục thể mà từ đó chúng ta sinh ra, và đây là sự thụ thai lần thứ hai. Một sợi thừng sau gối giữ họ trong tư thế đó, một sợi khác cột đôi tay họ, rồi miệng bao khép lại bên trên họ và được cột ràng lần nữa, toàn thể trông như một gói đồ nén chặt, đã được ngụy trang một cách dễ dàng, vì nếu bị người bên ngoài nhìn thấy, một thứ hàng hóa như thế sẽ thu hút cả một đám đông.
Thế rồi một con dao cắt
phăng sợi thừng cột bao, và người này nhấc lên, người nọ kéo, chúng tôi lôi
những thứ bên trong bao ra, đặt họ duỗi dài lên mặt bàn, trần truồng và giá lạnh,
như một con bê hoặc một em bé chuồi ra khỏi lòng của mẹ, sợi dây và cái bao
được giữ lại, vì một lát sau chúng tôi sẽ dùng lại chúng, để thu dọn những mảnh
xác bị cắt rời.
Chúng tôi cùng giữ chặt
họ, kéo thẳng thi thể họ ra lần nữa. Dù tứ chi của họ không mềm quặt mà cũng
không cứng lại, bất chấp sự giá lạnh vẫn còn nấn ná bên trong, tình trạng cứng
đờ của họ đã bị phá vỡ bên cạnh nấm mồ khi họ bị bẻ gập lại và cột ràng để nhét
vào bao. Lúc này, họ duỗi ra dưới bàn tay nắm giữ của chúng tôi, di chuyển với
sự dễ uốn nắn lạ lùng của một thân hình nằm giữa cái chết và tình trạng thối
rữa. Đấy là một công việc ghê tởm, thế nhưng sự ghê tởm không nằm ở việc đứng
gần người chết mà ở sự thân mật nó đòi hỏi từ chúng tôi, sự cận kề với xác thịt
và vật chất của thi thể họ.
Khi họ đã được uốn nắn
xong, nằm tái nhợt và trần truồng trên bàn, chúng tôi bắt tay vào việc. Trước
hết chúng tôi lật úp họ xuống, để lộ phần lưng và mông lốm đốm tím và xanh giống
như những vết bầm do máu đã tụ lại suốt nhiều giờ sau khi chết. Nếu lớp thịt
bắt đầu thối rữa, sẽ có những chỗ phồng dộp, mềm, nhũn nước và tái nhợt, có thể
vỡ toang nếu bị chạm vào, nhưng khi đó, lớp da cũng ẩm ướt do thứ chất lỏng giống
như mồ hôi rỉ ra từ chúng. Đôi khi, những người liệm xác sẽ nút kín những lỗ
hậu môn, và nếu thế, những vật đó phải được lấy ra khỏi xác. Sau đó, với giẻ
lau, nước và dấm, chúng tôi bắt đầu rửa ráy cho họ, đôi tay cẩn thận di chuyển
qua lớp da của họ, mùi dấm lẫn vào những thứ mùi u ám hơn bám vào họ, chúng tôi
tiết chế những cử động nhưng không phải không lau chùi một cách nhẹ nhàng.
Khi đã làm xong phần lưng
và hai cẳng chân, chúng tôi lật họ trở lại, lau từ bàn chân lên háng, từ háng
lên ngực, hai cánh tay và hai bàn tay, cuối cùng tới bộ mặt. Ở đây chúng tôi
làm việc cẩn trọng nhất, lau quanh những đầu xương và chỗ nhô lên với những tấm
giẻ gấp gọn, quanh đôi gò má, quanh phần trũng quanh mắt. Đôi khi hai mí mắt vẫn
còn hé mở, cứng đờ, đôi mắt bên dưới mờ đục và không màu sắc như mắt của những
người rất già.
Khi lau rửa xong xuôi,
chúng tôi xuống sân lấy nước, xà bông và dao cạo. Nước lạnh, dùng cho thi thể
lạnh. Thế rồi, kéo thẳng lớp da chùng, chúng tôi bắt đầu cạo; trước tiên là
phần da đầu và mặt, tóc ướt được tách thành từng lọn để lộ ra phần u lên của
cái sọ; sau đó là lồng ngực và hai nách; rồi cuối cùng là bộ phận sinh dục,
lưỡi dao cạo soàn soạt lướt trên lớp da. Đôi khi chúng tôi cắt phạm vào họ, nhưng
chẳng có chút máu nào chảy ra, vết đứt tái nhợt và trống rỗng.
Tôi không thể nói do đâu
chúng tôi biết rằng đây là công việc cần phải được tiến hành trong im lặng. Chỉ
biết cách thức là thế, phải luôn là thế. Vào những lúc khác chúng tôi di chuyển
quanh họ như thể họ không nằm đó, nói cười với nhau trong lúc lôi kéo, cắt và
dọn dẹp những mảnh thịt, gạt chúng sang bên một cách ngẫu nhiên giống như gạt
sang bên một cuốn sách hay cái áo khoác đang nằm ở nơi ta định ngồi xuống.
Nhưng lúc này chúng tôi lặng lẽ làm việc, không nói nhiều hơn mức cần thiết.
Như thể việc rửa ráy người chết này chính là một nghi lễ: giống như người ta rửa
sạch những thứ nhớt nhau từ lòng mẹ trên thân hình một em bé, chúng tôi chùi
sạch mùi âm ty địa ngục khỏi những xác chết bị đánh cắp đó, đưa chúng mới tinh
khôi vào thế giới.
Khi công việc đã hoàn
tất, mấy cái bao đã được gấp lại gọn gàng, mấy cái xô đã trút sạch nước, những
tấm giẻ đã được vắt và phơi, bắt đầu tới việc tính tiền. Thầy chúng tôi kỹ
lưỡng nhất trong việc lưu giữ sổ sách tiền nong, và số tiền trả cho Caley và
Walker phải được ghi lại: tám đồng tiền vàng cho một xác đàn ông hay phụ nữ đã
trưởng thành, hay thứ chúng tôi gọi là một cái
lớn; bốn đồng tiền vàng cho một đứa
trẻ con, hay một cái nhỏ; một siling mỗi phân Anh cho thứ mà
chúng tôi gọi là một bào thai, hay
một em bé dài chưa tới một bộ Anh. Và cứ vậy, trong lúc tôi lau sàn, Robert
lặng lẽ tính toán trên cuốn sổ cái, ghi lại những khoản thanh toán, kiểm lại số
tiền còn tồn trong hộp đựng tiền, gương mặt giấu sau một tấm mặt nạ lặng buồn
mà anh luôn khoác lên khi nghĩ rằng mình không bị ai quan sát.
Tối nay có ba cái xác,
hai lớn và một nhỏ, và khi chúng tôi đã hoàn tất công việc, bước xuống thang
gác ra sân để rửa sạch mấy cái xô và mấy đầu ngón tay, bầu trời bắt đầu hửng sáng
trên những mái nhà cao xung quanh. Từ xa, vọng lại tiếng bước chân lộc cộc của
một con ngựa trên lớp đá lát đường, nhưng ngoài ra mọi thứ đều im ắng. Bầu
không khí lành lạnh, nước từ ống nước trở nên lạnh hơn khi chúng tôi chà xát
hai cánh tay, hết lần này sang lần khác.
***
Thầy Poll luồn hai ngón
tay vào mồm xác chết, kéo bộ hàm mở ra một lần nữa. Ông liếc mắt quan sát những
học viên đang theo dõi.
- Cái chết là một tấm
gương – Ông nói – trong đó cuộc sống được phản chiếu lại để khai sáng cho chúng
ta.
Bên dưới hai ngón tay
của ông, có thể trông thấy cái lưỡi của xác chết, tím bầm như lưỡi của một con
bò đặt trên thớt thịt, khối u sẫm màu hơn phồng lên bên dưới. Ông đè lên đó,
nghiêng đầu nhìn vào như thể đã nhìn thấy điều gì đó khiến ông chú ý. Sau đó,
dường như đã thỏa trí tò mò, ông rút hai ngón tay ra và kéo đôi môi nhếch lên,
để lộ ra hai hàm răng, vàng và nâu, chĩa tứ tung trong lớp thịt đã loét của
nướu răng.
Nếu cái chết là một tấm
gương, tôi nhận ra mình đang tự hỏi, thì cái gì nằm phía sau nó?
Khi đã xong xuôi với cái
mồm, ông quay sang Robert.
- Chúng ta sẽ bắt đầu
với lồng ngực. Phải xác định được tình trạng của các cơ quan chủ yếu.
Một cơn chấn động chạy
dọc suốt cái xác khi con dao mổ chọc vào lớp da. Gần như là một tiếng thở dài,
khí tích tụ đầy trong khoang được giải phóng, thoát ra trong một hơi thở nhẹ.
Mùi của nó không hôi lắm, đúng hơn, đó là thứ mùi dai dẳng của sân nhà người
bán thịt, thứ mùi sền sệt lạ lùng của thịt cắt ra hòa lẫn với sự ngọt ngào ban
đầu của tình trạng thối rữa. Tôi không còn bị nghẹt thở vì thứ mùi này nữa, thật
sự thứ mùi mà một thi thể có thể tạo ra hiếm khi khiến cho tôi cồn cào gan ruột,
nhưng dù không bịt miệng lại, tôi vẫn ý thức được nó, thậm chí sau bấy nhiêu
tháng trời.
Lớp da tách ra theo lưỡi
dao mổ của thầy Poll khi ông rạch một đường êm ái từ cổ xuống tới háng. Ông cẩn
thận cắt rộng thêm ở đầu và cuối vết rạch, rồi, với một cử động đã thực hành
nhiều lần, ông luồn mấy ngón tay vào vết rạch và lột lớp da ra, để lộ lớp thịt
đỏ bên dưới, những chiếc xương sườn trắng và lớp mỡ vàng vàng.
Đặt hai mảnh da lên cánh
tay, ông cầm lấy cái cưa mà Robert đã cầm sẵn. Lấy thế với một bàn tay đè lên
vai xác chết, ông áp lưỡi cưa lên những chiếc xương sườn và bắt đầu cưa. Những
răng cưa nghiến vào xương với một tiếng kêu ẩm ướt, rin rít, những vụn thịt và
xương nhỏ xíu văng vương vãi ra phía trước lưỡi cưa, bắn tung vào tấm tạp dề trên
người mỗi chúng tôi. Khi làm xong, ông nhấc xương ức và mấy cái xương sườn ra,
để lộ những cơ quan nội tạng nằm bên trong cái khung xương đã bị phá toang:
xám, xanh, đen. Ông xòe bàn tay ra sờ vào quả tim, những ngón tay thanh mảnh
của ông dừng lại giây lát bên trên lớp cơ xanh xanh.
- Nó không đập – Ông
nói. Câu phát biểu có vẻ như hiển nhiên. Nhưng giây lát sau thầy Poll ngẩng lên,
đôi mắt xanh long lanh của ông dán vào tôi với một ánh nhìn lạnh lẽo – Tại sao
không?
Tôi không đáp.
- Cậu nghĩ đó là một câu
hỏi ngốc nghếch có phải không, Swift?
Tôi lắc đầu.
- Không, thưa thầy.
- Vậy có lẽ cậu nghĩ
người đặt ra câu hỏi là một tên ngốc?
- Không – Tôi đáp.
- Vậy thì tại sao nó không
đập? – Ông lặp lại câu hỏi, và như thường lệ, tôi cảm thấy ông đang mong đợi ở
tôi một điều gì đó giản đơn, một điều gì đó vượt quá sự hiểu biết của tôi. Ở mé
bên kia bàn, tôi thấy Robert đang quan sát, đôi mắt dán vào tôi.
- Bởi vì anh ta chết rồi
– Tôi đột ngột nói, biết rằng câu này nghe có vẻ ngu xuẩn. Thầy Poll nhìn tôi
với vẻ thất vọng, rồi hướng sự chú ý của mình vào cái xác trở lại.
- Và em cho rằng một khi
nó đập, nó đập là vì anh ta còn sống.
***
Khi công việc với mấy
cái xác hoàn tất, chúng tôi nhét những phần còn lại của chúng vào bao, chất
chúng trong tầng hầm cho tới khi chúng tôi có thể tống khứ chúng đi. Ngay cả
bây giờ, tháng mười một, chúng đang thối rữa trong lúc chờ đợi, các tứ chi và
thân mình sưng phù lên và bốc mùi, dù Robert bảo tôi rằng thế này là tốt nhất
rồi; vào mùa hè, những cái bao tải có thể nằm đó cho tới khi chúng gần như tan
thành nước. Và thế là mỗi thứ năm, trước lúc bình minh, chúng tôi thức dậy và
chất những cái bao lên xe ngựa trong ánh sáng nhờ nhờ. Những ngôi nhà đối diện
vẫn còn thiếp ngủ, đứng lặng yên trong lúc chúng tôi làm việc, vì dù những
người láng giềng biết công việc của chúng tôi, khôn ngoan nhất vẫn là không
nhắc cho họ nhớ tới nó nhiều hơn mức cần thiết.
Người đánh xe, một cựu
quân nhân, tên là Miller. Ông ta không nói lời nào trong lúc chúng tôi chất mấy
cái bao lên xe, chỉ lầm bầm khi công việc đã xong xuôi và chìa tay ra để lấy
tiền công. Robert kể với tôi rằng có lần, hai năm trước, thầy Poll muốn anh
cùng đi với Miller để xem những thứ còn lại có được thủ tiêu một cách kín đáo
và trọn vẹn hay chăng. Họ chọn một ngày cuối xuân, trời đẹp như trong mùa hạ. Robert
ngồi trên xe cạnh Miller. Người bạn đồng hành của anh hiếm khi mở miệng, vì thế
họ đi trong im lặng, trên cỗ xe dằn xóc. Họ đi dọc theo bờ sông về hướng đông từ
sáng sớm đến tận xế trưa cho tới khi đến một cánh đồng thấp, một phía là những
hàng cây và phía còn lại là vùng đất phẳng ven sông. Nơi đó rất im lặng, không
một tiếng chim, ngoại trừ một bầy ngỗng xám đi thành hàng một, cất tiếng kêu
kiu kíu ầm ĩ khi cỗ xe tới gần. Lớp cỏ giữa cánh đồng cháy rụi, mặt đất cằn khô
cháy xém và bẩn thỉu. Robert giúp Miller dỡ khỏi xe số củi mà ông ta đã chất
bên trên mấy cái bao để ngụy trang khi đi qua các đường phố, và họ cùng dựng
một giàn hỏa thiêu. Sau đó, họ lần lượt trút những thứ trong mấy cái bao ra,
trải chúng thành một lớp mỏng trên đống củi. Cuối cùng Miller châm lửa, thêm
củi và trông chừng đống lửa. Ngọn lửa reo lên và nổ lách tách khi chạm tới lớp
mỡ, những mảnh thịt sủi bong bóng và đen xạm lại. Robert bảo có lẽ địa ngục
cũng giống vậy, đầy những cẳng chân, cánh tay và những cái đầu nằm lẫn vào
nhau, vỡ toang và bốc cháy. Làn khói bốc lên từ giàn hỏa đen bóng như dầu và
thật tởm lợm. Robert bảo nó bám vào áo anh cả một lớp dày.
Trời sụp tối trước lúc
đống lửa tàn, những hòn than sáng rực trong ánh chiều nhòa nhạt. Và trong bóng
tối đang gom tụ, Miller lấy từ cỗ xe một cái đầm rồi bước qua những thứ còn sót
lại của giàn hỏa thiêu, đầm những gì còn lại xuống đất, những tia lửa vọt lên
thành cụm quanh ông ta như những bầy đom đóm hoặc những vì sao băng trên không
gian đêm bát ngát.
XEM TIẾP
XEM TIẾP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét