Thứ Hai, 9 tháng 7, 2018

NHẢM ĐÔI ĐIỀU VỀ CHUYỆN DỊCH THƠ

Khoảng một tháng trước, tôi ngồi ở quán Đất phương nam, với anh Trần Hữu Dũng, Bùi Quang Lâm, Nguyễn Minh Chí, Bình Địa Mộc. và một anh, cũng nhà thơ lớn tuổi mà giờ tôi không nhớ tên. Lúc sau có anh Nguyễn Tiến Văn cầm chai rượu  táo mèo tới. Anh Mộc có nói với tôi anh cũng thích dịch thơ lắm. Hình như lúc đó anh Văn chưa tới. Tôi chỉ nói ngắn gọn thế này: bản thân tôi có đọc thơ, biết làm thơ, nhưng dịch thơ là một việc hầu như bất khả. Muốn dịch thơ viết bằng Anh ngữ, bạn phải đọc cỡ một ngàn bài, từ cổ chí kim, để biết họ viết thế nào, style của những nhà thơ Anh Mỹ cũng đã khác xưa. Nhưng chưa thẩm thấu được tư tưởng của họ, đừng bàn tới chuyện dịch thơ của họ. Hôm đó tôi cũng có nhắc tới anh Khaly Chàm. Thơ anh bay bổng. Nhưng nhà thơ nhiều khi chạy theo viễn tượng mà không nghĩ nó được độc giả đón nhận thế nào. Khaly Chàm nằm trong trường hợp đó. Thơ anh, đọc, và cảm, tùy cá nhân, tùy tâm trạng, và cả thời điểm nữa. Nhưng tôi khẳng quyết, thơ anh không thể dịch được. Vì, bản thân tác giả còn mơ màng tung tăng uốn lượn với ngôn từ và viễn tượng, không quan tâm ý nghĩa của bài thơ. Thì làm sao dịch nổi. Tôi có làm liều, dịch một hai bài thơ của tôi sang tiếng Anh, lại liều hơn, dịch một hai bài thơ tiếng Anh ra tiếng Việt. Dịch là phản, nhưng cũng là phản ảnh một tài hoa, một ý tưởng mà bản thân người dịch tự cho là mình cảm và hiểu được. Dịch thơ khó khăn là thế đó.

Tôi muốn minh họa bằng một chương của Tới ngọn hải đăng của Virginia Woolf. Bạn nào nếu quan tâm cứ tự tìm nguyên bản, có rất nhiều trên mạng. Thú thật, dịch chỉ vài câu thơ mà Woolf ngẫu hứng đua vào tác phẩm, tôi phải toát mồ hôi hột. Ý nghĩa câu thơ đã hiểu, nhưng dịch sao cho ra chất thơ, đó là vấn đề vô cùng nan giải.

Mời bạn đọc lại một chương trong Tới ngọn hải đăng, để biết những lao tâm khổ từ của một người làm nghề dịch.


17
Nhưng mình đã làm gì với cuộc đời mình? Bà Ramsay nghĩ, ngồi vào chỗ của mình ở đầu bàn, và nhìn lướt qua tất cả những chiếc đĩa tạo thành những vòng tròn màu trắng trên bàn. “William, ngồi cạnh tôi,” bà nói. “Lily, bà mệt nhọc nói, “ở đàng kia.” Họ có thứ đó – Paul Rayley và Minta – còn bà, chỉ có thứ này – một cái bàn dài vô tận và những đĩa, những dao ăn. Ở đầu kia bàn là chồng bà, đang ngồi xuống, thừ người ra, trán cau lại. Vì cái gì? Bà không biết. Bà không quan tâm. Bà không thể hiểu làm thế nào bà lại từng cảm thấy một tình cảm hay sự yêu mến nào đối với ông. Bà có một cảm giác về việc lướt qua mọi thứ, đi xuyên qua mọi thứ, vượt ra khỏi mọi thứ, khi bà giúp phục vụ món xúp, như thể có một xoáy nước – ở đó – và người ta có thể ở bên trong nó, hoặc có thể ở phía ngoài nó, và bà đang ở bên ngoài nó. Tất cả đang đi tới một kết thúc, bà nghĩ, trong khi họ nối nhau bước vào, Charles Tansley – “xin mời ngồi ở kia,” bà nói – Augustus Carmichael – và ngồi xuống. Và trong lúc đó bà chờ đợi, một cách thụ động, sẽ có một ai đó trả lời bà, sẽ có một điều gì đó sắp xảy ra. Nhưng việc múc xúp ra dĩa không phải là thứ chuyện mà người ta nói, bà nghĩ.
Nhướng mày nhìn vào sự khác biệt – đó là điều mà bà đang suy nghĩ; múc xúp ra dĩa – đây là điều mà bà đang thực hiện; bà cảm thấy, ngày càng mạnh mẽ hơn, mình ở phía ngoài cái xoáy nước đó; hoặc như thể một bóng tối đã buông xuống, và màu sắc đã bị tước mất, bà nhìn mọi sự vật với ánh mắt xác thực. Căn phòng (bà nhìn quanh) rất tồi tàn. Chẳng có vẻ đẹp ở bất kỳ chỗ nào. Bà nhìn Tansley. Dường như chẳng có gì là hòa hợp. Tất cả bọn họ ngồi cách biệt nhau. Và toàn bộ nỗ lực để hợp nhất, lưu thông và sáng tạo đều đặt lên bà. Một lần nữa bà cảm thấy, như là một thực tế chứ không có chút thù địch nào, sự cằn cỗi vô dụng của những người đàn ông, vì nếu bà không làm điều đó thì chẳng có ai làm cả, và thế là, bà tự lắc khẽ chính mình như một người lắc khẽ một chiếc đồng hồ đã dừng chạy, cái nhịp cũ kỹ quen thuộc bắt đầu đập, như chiếc đồng hồ bắt đầu kêu tích tắc – một, hai, ba, một, hai, ba. Và cứ thế, và cứ thế, bà lặp lại, lắng nghe nó, che chở và nuôi dưỡng cái nhịp đập mong manh lặng lẽ đó như người ta che chở một ngọn lửa yếu ớt bằng một tờ nhật báo. Và thế đấy, bà kết luận, tỏ ra chú tâm bằng cách lặng lẽ nghiêng người về phía William Bankes – con người tội nghiệp! kẻ không vợ không con và ăn tối một mình trong những căn nhà trọ ngoại trừ tối hôm nay; và trong niềm thương xót dành cho ông ta, bản chất cuộc sống giờ đây đủ mạnh mẽ để gánh vác bà lần nữa, bà khởi đầu tất cả mọi việc này, như một thủy thủ, không phải là không mệt mỏi, nhìn cơn gió căng lộng cánh buồm của anh ta, nhưng hầu như vẫn mong muốn được ra khơi lần nữa và nghĩ tới việc nếu con tàu bị đắm, anh ta sẽ bị cuốn tròn, cuốn tròn mãi và được tìm thấy nằm nghỉ ngơi trên đáy biển như thế nào.
“Ông có tìm thấy mấy lá thư của mình không? Tôi đã bảo lũ trẻ đặt chúng trong sảnh cho ông,” bà nói với William Bankes.
Lily Briscoe quan sát bà trôi giạt vào vùng đất lạ không người nơi mà việc dõi theo mọi người là bất khả thế nhưng họ tiếp tục trút một gáo nước lạnh vào những người đang quan sát họ rằng ít nhất họ luôn cố gắng dõi mắt theo những người đó như thể một người dõi theo một con tàu đang nhòa dần cho tới khi những cánh buồm đã chìm xuống dưới chân trời.
Trông bà già nua làm sao, trông bà tiều tụy làm sao, và xa vắng làm sao, Lily nghĩ. Rồi khi bà quay sang William Bankes, mỉm cười, trông như thể con tàu đã quay trở lại và vầng dương lại tỏa sáng những cánh buồm của nó, và Lily nghĩ bụng với một niềm thích thú vì bà đã bớt căng thẳng, Vì sao bà lại thương hại ông ta? Vì đó chính là ấn tượng mà bà tạo nên, khi bà nói với ông ta rằng những lá thư của ông ta đã được mang vào sảnh. William Bankes khốn khổ, như thể bà đang nói, như thể sự mệt nhọc của chính bà phần nào đó là do sự thương hại mọi người, và sự sống trong bà, sự quyết tâm sống trở lại của bà, đã bị khuấy động lên bởi lòng thương hại. Và điều này không đúng, Lily nghĩ; đó là một trong những phán đoán sai lầm của bà, nó dường như mang tính bản năng và phát sinh từ một nhu cầu nào đó của chính bà hơn là của những người khác. Ông ta chẳng đáng thương chút nào hết. Ông ta có công việc của mình, Lily tự nhủ. Đột nhiên cô nhớ ra, như thể vừa tìm ra một kho báu, rằng cô cũng có công việc của mình. Trong một khoảnh khắc nhanh như chớp cô nhìn thấy bức tranh của mình, và nghĩ bụng, Phải, mình sẽ đặt cái cây ra xa hơn về phía chính giữa; khi đó mình sẽ tránh được khoảng trống vụng về đó. Đó chính là điều mình sẽ làm. Đó chính là cái đã khiến cho mình lúng túng. Cô nhấc lọ muối lên rồi đặt nó xuống lại trên một hình mẫu bông hoa trên tấm khăn trải bàn, như để tự nhắc nhở mình về việc dời chỗ cái cây.
“Thật kỳ lạ khi người ta hiếm khi nhận được thứ gì đáng giá từ bưu điện, thế nhưng người ta luôn mong muốn nhận được những lá thư,” ông Bankes nói.
Họ nói toàn chuyện vớ vẩn, Charles Tansley nghĩ, đặt cái muỗng vào ngay giữa đĩa đã hết sạch thức ăn của mình, như thể, Lily nghĩ (anh ta ngồi đối diện với cô và quay lưng về phía cửa sổ, đúng ngay chính giữa tầm nhìn), anh ta muốn chắc chắn về bữa ăn của mình. Mọi thứ quanh anh ta đều có cái vẻ ổn định đạm bạc đó, cái vẻ vô duyên trần trụi đó. Nhưng dù sao đi nữa, thực tế này vẫn tồn tại, rằng người ta không thể ghét bỏ bất kỳ một người nào nếu nhìn họ. Cô thích đôi mắt của anh ta; chúng có màu xanh biển, sâu thẳm, đáng sợ.
“Anh viết nhiều thư không, anh Tansley?” bà Ramsay hỏi, tỏ vẻ thương hại cả anh ta nữa, Lily cho là vậy; vì với bà Ramsay thì đúng là như thế – bà luôn thương hại lũ đàn ông như thể họ thiếu một thứ gì đó – còn đối với bọn đàn bà thì không bao giờ, như thể họ có một thứ gì đó. Anh đã viết cho mẹ anh; ngoài ra anh không nghĩ rằng anh sẽ viết mỗi tháng một lá thư, Tansley nói ngắn gọn.
Vì anh sẽ không nói thứ chuyện vớ vẩn mang tính chiếu cố của những người đàn bà ngốc nghếch này. Anh vừa đọc sách trong phòng mình, và giờ đây anh đi xuống và dường như đối với anh tất cả những chuyện này đều ngốc nghếch, giả tạo, nông cạn. Vì sao họ phải mặc lễ phục? Anh chỉ xuống đây trong bộ quần áo bình thường của mình. Anh chẳng có một bộ đồ vía nào cả. “Người ta không bao giờ nhận được thứ gì đáng giá từ bưu điện” – đó là thứ chuyện mà họ luôn nói tới. Họ khiến cho những người đàn ông phải nói thứ chuyện đó. Phải, đúng là như thế, anh nghĩ. Họ không bao giờ nhận được thứ gì đáng giá từ năm này sang năm khác. Họ chẳng làm gì ngoài việc nói, nói, nói, ăn, ăn, ăn. Đó là điểm khiếm khuyết của những người đàn bà. Những người đàn bà làm cho nền văn minh trở nên bất khả thi với tất cả những vẻ “yêu kiều” của họ, tất cả những điều ngốc nghếch của họ.     
“Ngày mai sẽ không đi ra ngọn hải đăng được đâu, bà Ramsay,” anh nói, tự khẳng định bản thân. Anh thích bà; anh ngưỡng mộ bà; anh vẫn hay nghĩ tới người đàn ông đứng trong rãnh nước đã ngẩng lên nhìn bà; nhưng anh cảm thấy cần phải khẳng định bản thân.
Anh ta nói thật, Lily Briscoe nghĩ, bất kể đôi mắt của anh ta, nhưng rồi khi nhìn vào mũi của anh ta, đôi bàn tay của anh ta, cô thấy đây là con người ít quyến rũ nhất mà cô từng gặp. Vậy thì vì sao cô phải quan tâm tới những gì anh ta nói? Đàn bà không thể viết, đàn bà không thể vẽ – những gì xuất phát từ anh ta có gì là quan trọng, vì rõ ràng điều đó là không đúng đối với anh ta nhưng vì một nguyên nhân nào đó lại có lợi cho anh ta, và đó chính là lý do vì sao anh ta nói thế? Vì sao toàn bộ con người cô đã ngã rạp xuống, như một ngọn bắp dưới một cơn gió, và chỉ có thể vươn thẳng trở lại từ nỗi ô nhục này với một nỗ lực lớn lao và khá là đau đớn? Cô phải thực hiện nó thêm một lần nữa. Có cái chồi cây trên tấm khăn trải bàn; Có bức tranh của mình; Mình phải dời cái cây vào giữa; đó là điều quan trọng – không điều gì khác nữa. Cô có thể không thực hiện ngay điều đó mà không nôn nóng và không gây gỗ hay không, cô tự hỏi; và cô có muốn trả thù bằng cách chế nhạo anh ta hay không?
“Ồ, anh Tansley,” cô nói, “hãy đưa tôi ra ngọn hải đăng với anh nhé. Tôi thích như thế.”
Anh có thể thấy cô ta đang nói dối. Cô ta đang nói một điều không nằm trong ý định của mình để chọc tức anh, vì một lý do nào đó. Cô ta đang chế nhạo anh. Anh mặc cái quần vải flannel cũ của mình. Anh chẳng có cái nào khác. Anh cảm thấy mình rất thô lỗ, đơn độc, lẻ loi. Anh biết rằng cô ta đang chế nhạo anh vì một lý do nào đó; cô ta không hề muốn đi ra ngọn hải đăng với anh; cô ta coi thường anh; Prue Ramsay cũng vậy; tất cả bọn họ cũng vậy. Nhưng anh sẽ không bị biến thành một gã ngốc bởi những mụ đàn bà, vì thế anh cố tình xoay cái ghế, nhìn ra phía cửa sổ và nói, rất giật cục, thô lỗ, rằng ngày mai sẽ rất gian nan cho cô. Cô sẽ bị ốm.
Điều khiến anh bực tức là cô ta đã buộc anh phải nói như thế, với sự lắng nghe của bà Ramsay. Giá mà anh có thể yên thân một mình làm việc trong căn phòng của mình, giữa những cuốn sách, anh nghĩ thầm. Đó là nơi mà anh thấy thoải mái nhất. Và anh chưa bao giờ vay nợ một xu nào; anh chưa hề làm cho cha anh phải tốn xu nào từ năm mười lăm tuổi; anh đã trợ giúp những người nhà từ tiền dành dụm của mình; anh đã dạy em gái anh học. Tuy nhiên, anh ước giá mà mình biết cách trả lời Lily một cách đúng mực; anh ước giá mà mình không thốt ra câu đó một cách giật cục như thế. “Cô sẽ bị ốm.” Anh ước gì mình có thể nghĩ ra một điều gì đó để nói với bà Ramsay, một điều gì đó có thể chỉ ra cho bà thấy rằng anh không chỉ là một nhánh cây khô. Đó là điều mà tất cả bọn họ nghĩ về anh. Anh quay về phía bà. Nhưng bà Ramsay đang nói chuyện với William Bankes về những người mà anh chưa bao giờ nghe nói tới.
“Vâng, hãy dẹp thứ này đi,” bà nói vắn tắt, cắt ngang  điều mà bà đang nói với William Bankes để nói với người hầu gái. “Lần cuối tôi gặp bà ấy hẳn phái cách nay đến mười lăm, hai mươi năm,” bà nói, quay trở lại phía ông như thể bà không thể đánh mất một giây phút nào trong cuộc chuyện trò giữa họ, vì bà đang đắm chìm vào những điều họ đang nói. Thế là đêm nay ông ấy đã thật sự nghe thấy từ bà! Và Carrie có còn sống ở Marlow không, mọi thứ có còn như cũ hay không? Ôi, bà có thể nhớ mọi chuyện như thể nó vừa xảy ra hôm qua – đi trên bờ sông, cảm thấy rất lạnh. Nhưng nếu gia đình Mannings đã lên một kế hoạch thì họ sẽ thực hiện tới cùng. Bà không bao giờ quên việc Herbert giết một con tò vò bằng một cái muỗng cà phê trên bờ sông! Và nó vẫn tiếp diễn, bà Ramsay trầm tư, lướt qua như một bóng ma giữa những bàn ghế của căn phòng khách trên bờ sông Thames đó, nơi cách đây hai mươi năm bà đã cảm thấy rất lạnh; nhưng giờ thì bà đi giữa chúng như một bóng ma; và nó mê hoặc bà, như thể, trong khi bà đã thay đổi, cái ngày cụ thể ấy, giờ đây trở nên rất tĩnh lặng và xinh đẹp, vẫn còn ở đó, trong suốt bao nhiêu năm qua. Carrie có viết thư cho ông không? bà hỏi.
“Có. Bà ấy bảo họ đang xây một phòng chơi bi-a mới,” ông nói. Không! Không! Điều đó nằm ngoài vấn đề! Xây một phòng bi-a mới! Với bà, dường như chuyện đó không thể xảy ra.
Ông Bankes không thể hiểu có gì khác thường về điều đó. Giờ đây họ đã ở rất xa. Ông có nên trao tình yêu của bà ấy cho Carrie không?
“Ồ,” bà Ramsay nói với một cái giật mình khe khẽ, “Không,” bà nói thêm, ngẫm lại rằng bà đâu có biết bà Carrie, người đã xây một phòng bi-a mới. Nhưng lạ lùng biết bao, bà lặp lại, với sự thích thú của ông Bankes, nếu như họ vẫn tiếp tục ở đó một cách lặng lẽ. Vì thật là khác thường nếu nghĩ rằng họ có thể tiếp tục sống suốt bao nhiêu năm qua khi bà không hề nghĩ tới họ hơn một lần suốt quãng thời gian đó. Cuộc đời của chính bà đã có biết bao sự kiện trong cùng những năm tháng đó. Thế nhưng có lẽ Carrie Wanning cũng không nghĩ tới bà. Ý nghĩ này thật lạ lùng và khó chịu.
“Chẳng bao lâu mọi người đều tứ tán mỗi kẻ một phương,” ông Bankes nói, tuy nhiên ông lại cảm thấy hài lòng khi nghĩ rằng nói cho cùng ông biết cả gia đình Mannings lẫn gia đình Ramsay. Ông không hề trôi giạt, ông nghĩ, đặt cái muỗng xuống và chùi đôi môi đã cạo sạch râu một cách kỹ lưỡng. Nhưng có lẽ ông khá khác thường về điều này, ông nghĩ; ông chưa bao giờ cho phép bản thân rơi vào một nếp sống mòn. Ông có bạn bè trong mọi giới… tới đây bà Ramsay phá vỡ suy nghĩ của ông khi nói với người hầu gái một đôi câu về việc giữ nóng thức ăn. Đó là lý do vì sao ông thích ăn tối một mình hơn. Tất cả những vụ cắt ngang này làm ông thấy bực mình. Thôi được, William Bankes nghĩ, vẫn duy trì thái độ cực kỳ lịch sự và chỉ duỗi những ngón tay trái của mình ra trên tấm khăn trải bàn như một người thợ máy kiểm tra một món dụng cụ đã được lau chùi bóng loáng và sẵn sàng cho việc sử dụng trong lúc rảnh rỗi, những thái độ như thế là những sự hy sinh mà bạn hữu của một người đòi hỏi ở anh ta. Nếu ông khước từ không tới, ông sẽ làm tổn thương bà ấy. Nhưng việc này không đáng để ông phải bỏ công. Vừa nhìn bàn tay mình, ông vừa nghĩ rằng giá như ông ăn tối một mình, lúc này mọi chuyện đã xong xuôi; ông sẽ được tự do để làm việc. Phải, ông nghĩ, đây đúng là một sự lãng phí thời gian khủng khiếp. Lũ trẻ đang lặng thinh. “Mẹ ước gì một đứa trong số các con sẽ chạy lên phòng của Roger,” bà Ramsay đang nói. Tất cả những chuyện này thật là vặt vãnh, tất cả những chuyện này thật đáng chán, ông nghĩ, so sánh với một thứ khác – công việc. Ông phải ngồi ở đây gõ những ngón tay lên tấm khăn trải bàn khi lẽ ra ông đã có thể – ông điểm lại công việc của mình với cái nhìn trong chớp mắt của một con chim. Chắc chắn là tất cả những thứ này thật lãng phí thời gian! Phải, ông nghĩ, bà ấy là một trong những người bạn lâu năm nhất của mình. Mình đang dành thời gian cho bà ấy. Thế nhưng giờ đây, vào khoảnh khắc này, sự hiện diện của bà ấy đối với ông tuyệt đối không là gì cả: vẻ đẹp của bà ấy chẳng có ý nghĩa gì đối với ông; việc bà ngồi với đứa con trai bé bỏng ở chỗ cửa sổ – chẳng có ý nghĩa gì, chẳng có ý nghĩa gì. Ông chỉ ao ước được ở một mình và cầm cuốn sách đó lên. Ông cảm thấy khó chịu; ông cảm thấy mình phụ bạc khi ngồi bên cạnh bà ấy mà chẳng có cảm giác gì đối với bà ấy. Sự thật là ông không thích cuộc sống gia đình. Chính trong trạng thái này mà người ta phải tự hỏi mình, Người ta sống là vì cái gì? Vì sao, người ta tự hỏi mình, người ta lại phải gánh chịu mọi đau thương này để dòng giống loài người tiếp diễn? Điều đó có rất đáng ao ước hay không? Chúng ta có hấp dẫn không với tư cách là một loài? Không hấp dẫn cho lắm, ông nghĩ, nhìn vào những đứa con trai khá lôi thôi. Cam, con bé ông ưa thích nhất đã đi ngủ, ông cho là thế. Những câu hỏi ngốc nghếch, những câu hỏi rỗng tuếch, những câu hỏi mà người ta không bao giờ đưa ra nếu người ta đang bận tâm suy nghĩ. Đây có phải là cuộc sống của con người? Kia có phải là cuộc sống của con người? Người ta chẳng bao giờ có thời gian để suy nghĩ về nó. Nhưng ông đang ngồi đây tự hỏi mình cái loại câu hỏi đó, vì bà Ramsay đang đưa ra những chỉ thị cho những người giúp việc, và cũng vì ông thấy bị sốc khi nghĩ rằng bà Ramsay đã ngạc nhiên đến mức nào về việc Carrie Manning vẫn còn tồn tại, rằng những tình bằng hữu, ngay cả những tình bạn chí thân nhất, cũng chỉ là những điều mong manh tạm bợ. Người ta trôi giạt cách xa. Ông lại tự khiển trách mình. Ông đang ngồi cạnh bà Ramsay và ông chẳng có thứ quái gì trên đời để nói với bà ấy.
“Cho tôi xin lỗi,” bà Ramsay nói, cuối cùng cũng quay lại với ông. Ông cảm thấy mình cứng ngắc và khô khan, như một đôi ủng đã bị nhúng nước và đem phơi khô đến mức bạn gần như không thể đút chân vào được. Thế nhưng ông buộc phải ấn bằng được đôi bàn chân của mình vào chúng. Ông phải tự ép buộc bản thân trò chuyện. Trừ phi ông rất cẩn trọng, bà ấy sẽ phát hiện ra sự phụ bạc này của ông; rằng ông chẳng mảy may quan tâm gì tới bà ấy, và điều đó chẳng thú vị chút nào, ông nghĩ. Thế là ông nhã nhặn nghiêng đầu về phía bà.
“Hẳn ông phải ghét việc ăn tối trong cái vườn nhỏ này biết bao,” bà nói, sử dụng cung cách xã giao của mình, như bà vẫn hay làm những khi bị rối trí. Cũng giống như khi có một cuộc cãi cọ trong một buổi họp nào đó, để duy trì tình đoàn kết, vị chủ tọa sẽ đề nghị rằng mọi người nên phát biểu bằng tiếng Pháp. Có lẽ đây là thứ tiếng Pháp tồi; thứ tiếng Pháp không bao gồm những từ ngữ diễn tả được tư tưởng của người phát biểu; dù sao thì việc nói tiếng Pháp cũng bao hàm một thứ mệnh lệnh, một tính chất đồng nhất nào đó. Đáp lại bà với cùng một ngôn ngữ, ông Bankes nói, “Không, không hề có việc đó,” và Tansley, kẻ không có kiến thức nào về thứ ngôn ngữ này, ngay cả khi nói bằng những từ đơn âm, ngay lập tức nghi ngờ về sự chân thành của nó. Họ chuyên nói những điều phi lý, cái gia đình Ramsay này, anh nghĩ; và anh chộp ngay lấy cơ hội tươi rói này với sự hân hoan, ghi nó lại để một hôm nào đó trong những ngày này anh sẽ đọc toáng lên với một hai người bạn. Ở đó, trong một xã hội nơi người ta có thể nói ra thứ mà người ta thích, anh ta sẽ diễn tả một cách mỉa mai việc “sống với gia đình Ramsay và những điều phi lý họ đã nói”. Cũng đáng để thực hiện điều đó một lần, có thể nói thế; nhưng không lặp lại thêm lần nữa. Những người đàn bà làm người ta chán chết, anh sẽ nói thế. Dĩ nhiên ông Ramsay là kẻ “mèo mù vớ cá rán” khi cưới được một bà vợ xinh đẹp và có tám đứa con. Nó sẽ tự định hình nó theo cách nào đó, nhưng bây giờ, ngay lúc này, ngồi dính chặt ở đó với một ghế trống cạnh mình, chẳng có gì tự định hình nó cả. Tất cả chỉ là những mảnh, những phần rời rạc. Anh cảm thấy cực kỳ khó chịu, ngay cả về mặt thể chất. Anh muốn ai đó cho anh một cơ hội để tự khẳng định bản thân. Anh muốn điều đó một cách khẩn thiết đến nỗi anh ngồi bồn chồn không yên trong chiếc ghế, nhìn người này, ngó người kia, cố xen vào câu chuyện của họ, há mồm ra rồi lại ngậm mồm vào. Họ đang nói về nghề đánh cá. Vì sap không có ai hỏi ý kiến của anh? Họ thì biết gì về nghề đánh cá?
Lily Biricoe biết tất cả những điều đó. Ngồi đối diện với anh ta, làm sao cô có thể không nhìn thấy, như trong một tấm ảnh X quang, những xương sườn và xương ống chân của niềm khao khát gây ấn tượng của một thanh niên đang nằm khuất giữa lớp thịt của anh ta – cái màn sương mỏng mà truyền thống đã trải lên trên niềm khát khao cháy bỏng được xen vào cuộc trò chuyện của anh ta? Nhưng, cô nghĩ, đảo tròn đôi mắt Trung Hoa của mình, và nhớ lại anh ta đã nhạo báng những người phụ nữ ra sao, “không thể vẽ, không thể viết,” tại sao mình lại phải giúp anh ta giảm đi căng thẳng chứ?
Cô biết có một quy tắc đạo lý, mà điều thứ bảy trong số đó (có lẽ thế) nói rằng trong những trường hợp như thế này người phụ nữ, bất kể nghề nghiệp của cô ta là gì, có trách nhiệm đi tới và giúp đỡ cho chàng thanh niên đó, để anh ta có thể phơi bày và giải thoát cho những chiếc xương của lòng tự cao tự đại của anh ta, của niềm khát khao khẩn thiết được khẳng định bản thân của anh ta; vì thật sự việc giúp đỡ chúng ta mới chính là bổn phận của họ, nếu giả sử như chiếc tàu điện ngầm bị bốc cháy, cô ngẫm nghĩ, với sự công bằng của một phụ nữ luống tuổi còn trong trắng. Rồi cô lại nghĩ, hẳn nhiên mình chỉ nên mong rằng Tansley sẽ tống cổ mình đi. Nhưng sẽ ra sao, cô nghĩ, nếu không ai trong chúng tôi chịu làm những việc này? Thế là cô ngồi đó, mỉm cười.       
“Cô không định đi ra ngọn hải đăng đấy chứ, Lily?” bà Ramsay nói. “Tôi nhớ anh Langley tội nghiệp; anh ta đã đi vòng quanh thế giới hàng chục lần, nhưng anh ta bảo tôi anh ta chưa bao giờ đau khổ như khi chồng tôi đưa anh ta ra đó. Anh có phải là một thủy thủ giỏi không hở, anh Tansley?” bà hỏi.
Tansley giơ một cái búa lên: vung nó trong không khí; nhưng nhận ra, khi nó đã hạ xuống, rằng anh không thể đập con bướm đó với một dụng cụ như thế này, chỉ nói rằng anh ta chưa bao giờ ốm đau gì cả trong đời. Nhưng chỉ trong một câu nói đó đã cô nén hàm ý, như thuốc súng, rằng ông của anh là một ngư dân, cha của anh là một người bán dược phẩm; rằng anh hoàn toàn tự mình lập thân; rằng anh tự hào về điều đó; nhưng một ngày nào đó gần đây mọi người sẽ biết về nó. Anh quắc mắt nhìn ra phía trước. Gần như anh có thể thương hại cho những kẻ có học thức mỏng manh này, những kẻ sẽ bị thổi tung lên bầu trời cao, như những kiện len và những thùng táo bởi thứ thuốc súng nằm trong người anh, một ngày nào đó gần đây.
“Anh sẽ đưa tôi đi chứ, anh Tansley?” Lily nói, nhanh, chân thành, bởi lẽ, dĩ nhiên, nếu bà Ramsay nói với cô, như thực ra bà đã làm, “Bạn thân mến, tôi đang chìm vào những biển lửa. Trừ phi cô dùng thứ dầu xoa nào đó cho nỗi thống khổ trong giờ khắc này và nói một câu gì đó tốt đẹp với người thanh niên đó, cuộc đời sẽ trở nên vô vàn khó khăn – thật sự tôi đang nghe thấy tiếng thét gào ngay ở phút này. Những dây thần kinh của tôi đang căng lên như những sợi dây đàn. Chỉ một cái chạm nữa thôi nó sẽ đứt tung” – khi bà Ramsay nói tất cả những điều này, như nhãn quan của bà đã nói lên, dĩ nhiên Lily sẵn sàng từ bỏ dù cả trăm vạn lần cuộc thử nghiệm này – điều gì sẽ xảy ra nếu người ta không tốt với gã thanh niên ngồi đó – và tỏ ra tốt bụng.  
Đánh giá một cách đúng đắn sự xoay chuyển trong tâm trạng của cô – rằng giờ đây cô tỏ ra thân thiện với anh – anh vượt thoát khỏi sự ích kỷ của mình và bảo với cô hồi còn bé anh đã từng bị văng ra khỏi một chiếc thuyền như thế nào; cha anh đã kéo anh lên với một cái sào như thế nào; đó là cách mà anh đã học bơi. Một trong những ông chú của anh gác hải đăng trên một hòn đá ngoài khơi biển Tô Cách Lan, anh nói. Anh đã từng ở đó với ông ta trong một cơn bão. Anh nói to điều này trong một khoảnh khắc mọi người tạm dừng. Họ phải lắng nghe anh khi anh nói rằng anh đã ở đó, trong một ngọn hải đăng, trong một cơn bão. A, Lily Briscoe nghĩ, khi cuộc đàm luận đã chuyển sang chiều hướng tốt đẹp, và cô cảm nhận được lòng biết ơn của bà Ramsay (vì lúc này bà Ramsay được tự do trò chuyện một lúc cho chính mình), a, cô nghĩ, nhưng tôi đã không trả cái gì khi làm điều đó cho bà? Cô đã không thành thật.
Cô đã thực hiện trò lừa thường lệ – tỏ ra tốt bụng. Cô sẽ chẳng bao giờ biết được anh ta. Anh ta sẽ không bao giờ biết được cô. Tất cả những mối quan hệ người và người đều như thế cả, cô nghĩ, và mối quan hệ tệ hại nhất (nếu không phải đối với ông Bankes) là giữa đàn ông và đàn bà. Những mối quan hệ này không thể tránh  khỏi cực kỳ giả dối, cô nghĩ. Rồi ánh mắt cô bắt gặp cái lọ muối mà cô đã đặt ở đó để nhắc nhở cô, và cô nhớ rằng sáng mai cô sẽ dời cái cây ra xa hơn vào chính giữa, và tinh thần cô phấn chấn với ý nghĩ về việc vẽ tranh vào ngày mai đến mức cô cười phá lên với điều Tansley đang nói. Cứ để cho anh ta nói suốt đêm tùy thích.
“Nhưng người ta phái người tới canh một ngọn hải đăng trong bao lâu?” cô hỏi. Anh ta bảo cho cô biết. Anh ta hiểu biết nhiều một cách đáng ngạc nhiên. Và vì anh ta thấy biết ơn, vì anh ta thích cô, và vì anh ta bắt đầu thấy thú vị, bà Ramsay nghĩ bụng, giờ đây bà có thể quay trở lại với cõi mơ đó, nơi chốn không có thật nhưng rất thú vị đó, căn phòng khách của gia đình Manning hai mươi năm trước; nơi người ta đi lại với nhau mà không ghét bỏ hay bồn chồn lo lắng, vì không có tương lai nào để lo âu cả. Bà biết điều gì đã xảy ra với họ, điều gì đã xảy ra với bà. Nó cũng giống như việc đọc lại một quyển sách hay, vì bà đã biết kết cục của câu chuyện đó, vì nó đã xảy ra cách nay hai mươi năm, và cuộc sống lạc lõng rơi ngay từ chiếc bàn ăn giữa những bức màn này, đến nơi mà chỉ có trời biết, đã bị niêm phong ở đó, và nằm yên, như một cái hồ ở giữa những bờ của nó. Ông ta bảo họ đã xây một phòng bi-a – có thể nào như vậy hay không? Willliam có nói tiếp về vợ chồng nhà Manning hay không? Bà muốn ông ta nói tiếp. Nhưng, không – vì lý do nào đó ông ta không còn trong tâm trạng lúc nãy. Bà cố gắng. Ông ta không đáp lại. Bà không thể ép buộc ông ta. Bà thất vọng. 
“Lũ trẻ thật vô ơn,” bà nói, thở dài. Ông ta nói đôi điều về tính đúng giờ rằng đó là một trong những đức tính chủ yếu mà chúng ta không thể thủ đắc cho tới khi đã muộn màng trong đời.
“Nếu có,” bà Ramsay vui vẻ khỏa lấp chỗ trống, nghĩ rằng William đang trở thành một cô gái già mất rồi. Ý thức được sự phụ bạc của mình, ý thức được mong muốn trò chuyện về một thứ gì đó thân mật hơn của bà, thế nhưng lúc này đã ra khỏi tâm trạng đó, ông cảm thấy trong lòng tràn dâng một niềm bất mãn về cuộc sống, ngồi đó, chờ đợi. Có lẽ những người khác đang nói về điều gì đó thú vị chăng? Họ đang nói gì?
Rằng mùa đánh cá quá tệ; rằng những người đàn ông đang chuyển sang bãi khác. Họ đang nói về những khoản tiền lương và sự thất nghiệp. Gã thanh niên đang chửi bới chính quyền. Trong lúc đang nghĩ rằng giá như ông theo kịp một câu chuyện nào đó thuộc loại này thì thật là nhẹ nhõm khi cuộc sống riêng quá khó chịu, William Bankes nghe thấy anh ta nói điều gì đó về “một trong những hành vi tai tiếng nhất của chính phủ đương quyền.” Lily đang lắng nghe; bà Ramsay đang lắng nghe; tất cả bọn họ đang lắng nghe. Nhưng vốn đã chán ngán sẵn, Lily cảm thấy thiêu thiếu một điều gì đó. Kéo tấm khăn choàng quấn quanh người, bà Ramsay cảm thấy thiêu thiếu một điều gì đó. Tất cả những người đang cúi đầu lắng đều nghĩ bụng, “Cầu Trời cho những gì nằm trong đầu óc con không bị phơi bày,” vì mỗi người nghĩ, “Những người khác đang cảm thấy điều này. Họ nổi giận và căm phẫn chính quyền về việc những ngư dân. Trong khi đó tôi chẳng cảm thấy gì hết.” Nhưng có lẽ, ông Bankes vừa nghĩ vừa nhìn Tansley, đây là một trang nam tử hán. Người ta luôn mong đợi một trang nam tử hán. Luôn luôn có một cơ hội. Nhà lãnh tụ có thể nảy sinh vào bất cứ lúc nào; một con người có thiên tài, trong chính trị cũng như trong bất cứ lĩnh vực nào khác. Có lẽ anh ta sẽ cực kỳ bất mãn những kẻ hủ lậu chúng ta, ông Bankes nghĩ, những người đang cố hết sức mình để chiếu cố, vì anh ta biết nhờ vào một cảm giác vật chất lạ lùng nào đó, như của những dây thần kinh chạy trong xương sống anh ta, rằng anh ta ghen tị, một phần về chính bản thân, phần khác, có lẽ nhiều hơn, về công việc của anh ta, về quan điểm của anh ta, về khoa học của anh ta; và do đó anh ta không hoàn toàn cởi mở hay hoàn toàn công bằng, vì dường như anh ta đang nói, Các vị đã lãng phí cuộc đời mình. Các vị hoàn toàn sai lầm. Những kẻ cổ hủ khốn khổ, các vị đang vô vọng phía sau những thời gian. Có vẻ như anh ta khá kiêu ngạo, cái anh chàng trẻ tuổi này; và thái độ xử sự của anh ta rất kém. Nhưng ông Bankes buộc phải nhận xét, anh ta quả cảm; anh ta có năng lực; anh ta cực kỳ giỏi về những sự kiện. Có lẽ, ông Bankes nghĩ, khi Tansley chửi bới chính quyền, có rất nhiều điều trong những gì anh ta nói.
“Giờ xin nói cho tôi biết…” anh ta nói. Vậy là họ đang tranh luận về chính trị, và Lily nhìn chiếc lá trên tấm khăn trải bàn; và bà Ramsay, hoàn toàn giao phó cuộc tranh luận lại cho hai người đàn ông, tự hỏi vì sao bà quá chán ngán với cuộc chuyện trò này, và ao ước, khi nhìn chồng mình ở đầu kia bàn, rằng ông ấy sẽ nói một điều gì đó. Một lời thôi, bà tự nhủ. Vì nếu ông ấy nói một điều gì đó, nó sẽ làm mọi sự khác hẳn đi. Ông  ấy đi thẳng vào trung tâm sự vật. Ông ấy quan tâm tới những người ngư dân và thu nhập của họ. Ông ấy không ngủ được vì suy nghĩ về họ. Thật hoàn toàn khác hẳn khi ông ấy lên tiếng; khi đó người ta không cảm thấy, lạy Trời ông không nhìn thấy tôi ít quan tâm như thế nào, vì người ta quan tâm. Thế rồi, nhận ra đó là vì bà quá ngưỡng mộ ông đến nỗi mong đợi ông ấy lên tiếng, bà cảm thấy như thể ai đó đang ca tụng chồng bà và cuộc hôn nhân của họ với bà, và bà đỏ ửng cả mặt mày mà không nhận ra rằng chính bà là người đã ca tụng ông. Bà nhìn ông ấy đang trầm tư để tìm điều này trên nét mặt của ông; hẳn trông ông có vẻ cao quý… Nhưng không hề như thế! Ông đang nhăn nhó, ông đang quắc mắt cau mày, và đỏ mặt vì giận dữ. Vì cái quái gì chứ? bà tự hỏi. Vấn đề là gì vậy? Chỉ vì ông Augustus tội nghiệp đó đã yêu cầu thêm một đĩa xúp – chỉ thế thôi. Việc Augustus sẽ bắt đầu món xúp của ông ta lần nữa thật không thể tưởng tượng nổi, thật đáng ghét (ông Ramsay ra hiệu cho bà qua cái bàn). Ông ghét những người đang ăn khi ông đã ăn xong. Bà thấy cơn giận của ông bay như một đàn chó săn vào mắt ông, lông mày ông, và bà biết rằng chỉ trong giây lát một cái gì đó mang tính bạo lực sẽ bùng nổ, và rồi – tạ ơn Chúa! Bà thấy ông tự kềm chế và hãm phanh lại, và toàn bộ thân người ông dường như tóe ra những tia lửa chứ không phải những ngôn từ. Ông ngồi đó quắc mắt. Ông chẳng nói lời nào, ông đang ở dưới sự quan sát của bà. Cứ để bà cho ông nợ điều đó! Nhưng nói cho cùng vì sao Augustus khốn khổ không được yêu cầu một đĩa xúp khác? Ông ta chỉ đơn giản chạm vào cánh tay của Ellen và bảo:
“Ellen, xin vui lòng cho một dĩa xúp nữa,” và thế là ông Ramsay quắc mắt lên như vậy.
Và tại sao không? bà Ramsay hỏi gặng. Chắc chắn họ có thể mang thêm cho Augustus một dĩa xúp nếu ông ta muốn. Ông ghét những người phàm ăn tục uống, ông Ramsay cau mặt nhìn bà. Ông ghét bất cứ thứ gì kéo lê hàng nhiều giờ như thế này. Nhưng ông đã tự kềm chế, ông đang ở dưới sự quan sát của bà, dù cảnh tượng có vẻ đáng ghét. Nhưng tạo sao lại biểu lộ nó một cách rõ rệt như thế, bà Ramsay gặng hỏi (họ nhìn nhau qua cái bàn dài, gửi cho nhau những câu hỏi và câu đáp, mỗi người biết chính xác điều mà người kia cảm thấy). Mọi người có thể nhìn thấy, bà Ramsay nghĩ. Rose đang nhìn cha nó đăm đăm; Roger đang nhìn cha nó đăm đăm; trong giây lát nữa cả hai đứa sẽ ùa chạy khỏi phòng với những tràng cười rộ, bà biết, và vì thế bà nói ngay (thật sự đây là vấn đề thời gian):
“Hãy thắp mấy cây nến lên,” và chúng nó nhảy lên ngay lập tức, đi tới và mò mẫm tìm kiếm ở chiếc tủ búp-phê.
Vì sao ông ấy không bao giờ có thể che giấu những cảm xúc của mình? Bà Ramsay tự hỏi, và cũng tự hỏi không biết Augustus Carmichael có đế ý thấy hay không. Có lẽ ông ta đã nhận ra; cũng có lẽ ông ta không. Bà không thể không kính trọng sự điềm tĩnh của ông ta khi ông ta ngồi đó húp món xúp của mình. Nếu ông ta muốn xúp, ông ta yêu cầu xúp. Dù mọi người có cười chê hay nổi giận thì ông ta cũng vẫn là con người như thế. Ông ta không thích bà, bà biết điều đó; nhưng một phần chính vì lẽ đó mà bà kính trọng ông ta; bà nhìn ông ta húp xúp, rất to lớn và bình thản trong ánh sáng nhờ nhờ, có vẻ kỳ vĩ, và trầm mặc, bà tự hỏi ông đã cảm thấy thế nào lúc đó, và vì sao ông luôn luôn hài lòng và có phẩm cách cao quý; và bà nghĩ ông ta đã tận tâm thế nào với Andrew, thường gọi nó vào phòng của ông ta, còn Andrew bảo, “để cho ông ấy xem mấy thứ.” Và ông ta thường nằm đó suốt ngày trên bãi cỏ, có lẽ để nghiền ngẫm những bài thơ của mình, cho tới khi ông nhắc người ta nhớ tới một con mèo đang rình bắt chim, và rồi ông ta thu những cái vuốt của mình lại khi đã tìm thấy từ đó, và chồng bà bảo, “Già Augustus khốn khổ – ông ấy là thi nhân đích thực,” đó là một sự ca tụng hết lời từ chồng bà.
Bây giờ tám ngọn nến đã được cắm trên bàn, và sau cái rạp mình đầu tiên, những ngọn lửa dựng thẳng lên, kéo theo cùng với chúng toàn cảnh cái bàn dài, chính giữa là một đĩa trái cây vàng uôm và tím đỏ. Bà đã làm gì với nó nhỉ, bà Ramsay tự hỏi, vì việc Rose sắp xếp những quả nho và lê, những vỏ sò có sọc hồng giống như sừng, những quả chuối, khiến cho bà nghĩ tới một chiến lợi phẩm lấy lên từ đáy biển, tới những  bữa tiệc của Hải Vương thần, tới  nhánh nho rũ lá trên bờ vai của tửu thần Bacchus (trong một bức tranh nào đó), giữa những tấm da báo và những ngọn đuốc lấp loáng ánh vàng ánh đỏ… Dường như khi được đưa vào ánh sáng một cách đột ngột như thế nó có một kích thước và chiều sâu tuyệt diệu, giống như một thế giới mà trong đó người ta có thể cầm lấy cây quyền trượng của mình và trèo lên những ngọn đồi, bà nghĩ, rồi đi xuống những thung lũng, và với niềm vui sướng, bà thấy rằng cả Augustus cũng đang say sưa ngắm cái đĩa trái cây đó, phóng mắt vào đó, ve vuốt một nụ hoa nơi này, một dải tua nơi khác, rồi sau khi thưởng thức bữa tiệc ngon lại quay về cái tổ ong của ông ta. Đó là cách nhìn của ông ta, khác với cách của bà. Nhưng việc ngắm nhìn hợp nhất họ với nhau. 
Những ngọn nến giờ đã được thắp lên, và những gương mặt ở cả hai phía bàn được đưa lại gần hơn nhờ ánh nến, và tạo nên, không như trong ánh chiều chạng vạng, một bữa tiệc quanh một cái bàn, vì bóng đêm giờ đã bị khép lại bên ngoài bởi những tấm kính, mà, thay vì mang tới bất kỳ một quang cảnh xác thực nào của thế giới bên ngoài lại làm nó gợn lên lăn tăn một cách lạ lùng đến nỗi ở đây, bên trong căn phòng, dường như trở thành một vùng đất khô khan và trật tự; còn ở đó, phía bên ngoài, là một phản ảnh mà trong đó mọi thứ lăn tăn gợn sóng và tan biến mất, như nước.
Ngay lập tức một sự thay đổi nào đó lướt xuyên qua tất cả mọi người, như thể điều này đã thật sự xảy ra, và tất cả đều có ý thức về việc đang cùng nhau dự một bữa tiệc trong một thung lũng, một hòn đảo; có chính nghĩa chung để chống lại trạng thái thể lỏng ngoài kia. Bà Ramsay, người lúc nãy vẫn băn khoăn lo lắng khi chờ Paul và Minta vào và không thể ổn định mọi thứ, Lily Briscoe cảm nhận, giờ đây đã thấy sự lo lắng của bà biến thành sự chờ mong. Vì bây giờ họ phải bước vào, và cô cố phân tích nguyên nhân của niềm vui đột ngột đó, so sánh nó với thời điểm ở trên sân quần vợt, khi trạng thái vững chắc đột nhiên biến mất, và có những khoảng trống mênh mông nằm giữa họ; bây giờ ấn tượng đó lại xuất hiện bởi nhiều ngọn nến trong căn phòng không có nhiều đồ đạc, với những ô cửa sổ không màn che và cái vẻ sáng rực trông như đeo mặt nạ của những gương mặt được nhìn thấy bởi ánh nến. Một gánh nặng nào đó đã được trút khỏi họ; bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra, cô nghĩ.
Chúng phải đến bây giờ, bà Ramsay nghĩ, nhìn ra cửa, và ngay lúc đó Minta Doyle, Paul Rayley, và một người hầu bê một cái nồi lớn trên tay cùng bước vào. Họ đã muộn quá xá, họ đã muộn kinh khủng, Minta nói, khi đang tìm lối để tới hai đầu khác nhau của cái bàn.
“Tôi đánh mất cái trâm cài đầu – cái trâm của bà tôi,” Minta nói với giọng than van và đôi mắt to màu nâu của cô như long lanh ngấn nước, nhìn xuống, rồi lại ngẩng lên, khi cô ngồi xuống cạnh ông Ramsay, điều này khiến ông nổi máu hào hiệp, vì thế ông trêu cô.
Sao cô lại có thể khờ đến thế, ông hỏi, bò lê quanh những tảng đá mà lại còn đeo nữ trang?
Cô từng rất sợ ông – ông thông minh một cách đáng sợ, và đêm đầu tiên khi cô ngồi cạnh ông, ông nói về George Eliot[6], cô đã thật sự sợ hãi vì cô đã bỏ quên tập ba bộ truyện MIDDLEMARCH trong tàu hỏa và cô chưa bao giờ biết kết cục chuyện gì đã xảy ra; nhưng sau đó cô đã hòa nhập một cách hoàn hảo, và thậm chí còn tỏ vẻ dốt nát hơn thực tế, vì ông thích bảo cô rằng cô là một con bé ngốc. Và vì thế đêm nay, dù ông trực tiếp chế nhạo cô, cô không sợ hãi. Ngoài ra, cô biết, ngay khi cô bước vào phòng, rằng phép mầu đã xảy ra; cô đã khoác lên người màn sương mù óng vàng của mình. Đôi khi cô có nó; đôi khi không. Cô không bao giờ biết vì sao nó đến hay vì sao nó đi, hay cô có nó cho tới khi bước vào phòng hay không và rồi cô biết ngay lập tức bởi cái cách một người đàn ông nào đó nhìn cô. Vâng, đêm nay cô có nó, thật tuyệt vời; cô biết điều đó bởi cái cách ông Ramsay bảo cô không phải là một cô ngốc. Cô ngồi phía sau ông, mỉm cười.
Vậy hẳn là nó đã xảy ra, bà Ramsay nghĩ; chúng đã đính hôn. Và trong khoảnh khắc bà cảm thấy điều mà bà không bao giờ muốn cảm nhận lại thêm lần nữa – sự ghen tị. Vì ông ấy, chồng bà, cũng cảm nhận được nó – sự rạng rỡ của Minta; ông thích các cô gái này, những cô gái tóc đỏ hung óng ánh này, với một thứ gì đó bay bổng, một thứ gì đó hơi hoang dã và khinh suất ở họ, những kẻ không “tự cạo trọc đầu của họ”, không “èo uột”, như ông đã nói về Lily Briscoe tội nghiệp. Có một phẩm chất nào đó mà bà không có, một nét huy hoàng nào đó, một sự phong nhiêu nào đó, đã hấp dẫn ông, làm ông thích thú, khiến cho ông xem những cô gái như Minta là những cô gái đáng yêu nhất. Họ có thể cắt tóc cho ông, thắt bím cho ông, hay cắt ngang công việc của ông, réo gọi ông (bà đã nghe thấy), “Tới đây nào, ông Ramsay, bây giờ đã tới lượt chúng ta đập lại họ,” và ông đi ra để chơi quần vợt.
Nhưng thật ra bà không ghen, chỉ là, thỉnh thoảng, khi bà tự ép mình nhìn vào gương, một chút xíu bực bội rằng bà đã già đi, có lẽ, do lỗi của chính bà. (Tờ hóa đơn cho ngôi nhà kính và tất cả những thứ còn lại của nó.) Bà biết ơn họ vì đã chế giễu ông. (“Hôm nay ông đã hút mấy tẩu thuốc rồi, ông Ramsay?” vân vân), cho tới khi dường như ông trở thành một chàng trai trẻ; một người đàn ông rất hấp dẫn phụ nữ, không gánh nặng, không oằn vai xuống bởi sự vĩ đại của những công việc và những nỗi u sầu nhân thế, của danh vọng hay thất bại của ông, lại trở thành như lần đầu bà biết ông, gầy gò nhưng hào hoa phong nhã; giúp bà bước ra khỏi con thuyền, bà nhớ; với những cung cách vui tươi, như thế đó (bà nhìn ông, còn ông, trẻ trung một cách đáng kinh ngạc, đang trêu cợt Minta). Về phần bản thân bà – “Đặt nó xuống đó,” bà nói, giúp cô gái Thụy Sĩ nhẹ nhàng đặt cái nồi to màu nâu mà trong đó là món BOEUF EN DAUBE xuống trước mặt bà – về phần của chính bà, bà thích những con người vụng về khờ khạo của bà. Paul phải ngồi bên cạnh bà. Bà đã dành chỗ cho anh ta. Thật sự, đôi khi bà nghĩ bà thích nhất là những kẻ vụng về khờ khạo. Họ không quấy rầy người ta với những bài luận thuyết của mình. Họ đã nhớ biết bao, nói cho cùng, những người đàn ông rất thông minh này! Họ đã trở thành khô cứng, chắc chắn thế. Ở Paul, bà nghĩ khi anh ta ngồi xuống, có một cái gì đó rất đáng yêu. Cung cách xử sự của anh ta khiến cho bà vui dạ, và cái sống mũi gãy cùng đôi mắt sáng màu xanh lơ của anh ta nữa. Anh ta rất chu đáo. Anh ta có kể cho bà nghe – giờ đây khi tất cả lại đang trò chuyện – chuyện gì đã xảy ra hay không?
“Chúng tôi quay trở lại để tìm cái trâm của Minta,” anh ta nói, ngồi xuống cạnh bà. “Chúng tôi – thế là đủ. Bà biết từ sự nỗ lực, từ giọng nói cất cao của anh ta để vượt qua một từ ngữ khó khăn mà lần đầu tiên anh ta thốt ra, “Chúng tôi.” “Chúng tôi đã làm điều này, chúng tôi đã làm điều nọ.” Họ sẽ nói từ đó suốt cả đời mình, bà nghĩ, và một mùi thơm tinh tế của quả ô-liu, dầu và nước ép tỏa lên từ cái nồi lớn màu nâu khi Marthe, với một cái vung tay khẽ, nhấc cái nắp ra. Người đầu bếp đã mất tới ba ngày cho món ăn đó. Và bà phải thật cẩn thận, bà Ramsay vừa nghĩ vừa thọc sâu muỗng vào cái khối mềm mềm đó để chọn một cục thịt đặc biệt mềm cho William Bankes. Bà nhìn vào nồi, với cái thành nồi bóng loáng và cái khối hỗn hợp những cục thịt ngon lành màu vàng ruộm, nâu nâu, những chiếc lá nguyệt quế và rượu vang, và suy nghĩ. Món ăn này sẽ đón mừng cho sự kiện đó – một cảm giác lạ lùng dâng lên trong bà, vừa kỳ lạ vừa dịu êm, về việc đón mừng một lễ hội, như thể có hai cảm xúc đang trỗi dậy trong bà, một cảm giác sâu thăm thẳm – vì có gì  nghiêm túc hơn là tình yêu của một người đàn ông đối với một người phụ nữ, có gì trang trọng hơn, ấn tượng hơn, chứa đựng ở đáy sâu của nó những hạt mầm của cái chết; đồng thời, những kẻ tình nhân này, những người đang bước vào mắt lấp lánh đầy ảo tưởng này, phải được nhảy múa nô đùa với sự chế giễu, phải được trang trí bằng những vòng hoa.
“Đây là một thắng lợi,” ông Bankes nói, đặt con dao ăn xuống một lúc. Ông đã ăn một cách chăm chú, Nó thật nhiều mùi vị; nó thật mềm mại. Nó đã được nấu nướng một cách hoàn hảo. Làm thế nào bà có thể xoay xở được những thứ này trong những vùng quê hẻo lánh? ông hỏi bà. Bà là một phụ nữ tuyệt vời. Tất cả tình yêu của ông, tất cả lòng tôn kính của ông đã quay trở lại, và bà biết điều đó.
“Đây là một công thức nấu món ăn Pháp của bà tôi,” bà Ramsay đáp, với một tiếng chuông reo vui lớn lao trong giọng nói của bà. Tất nhiên nó là món ăn Pháp. Cái được truyền lại cho nghệ thuật nấu ăn ở nước Anh là một sự kinh tởm (họ đồng ý). Đó là bỏ bắp cải vào nước. Đó là nướng thịt cho tới khi nó giống như một miếng da. Đó là cắt bỏ những lớp vỏ ngon lành của các thứ rau củ. “Mà trong đó, “ông Bankes nói, “chất chứa tất cả những phẩm chất của rau củ.
Và sự lãng phí, bà Ramsay nói. Cả một gia đình Pháp có thể sống nhờ vào những gì một người đầu bếp Anh vứt bỏ. Được khích lệ bởi nhận thức rằng sự yêu mến của William đã quay về lại với bà, rằng mọi chuyện lại ổn thỏa, rằng trạng thái hồi hộp của bà đã qua đi, rằng giờ đây bà được tự do để vui mừng thắng lợi và để chế giễu, bà cười rộ, bà vung vẩy đôi tay, cho tới khi Lily nghĩ, Bà thật trẻ con, thật buồn cười biết bao, khi ngồi đó với tất cả vẻ đẹp đã khai hoa nở nhụy lại trong bà, nói về những lớp vỏ của các loại rau củ. Ở bà có một cái gì đó đáng sợ. Bà hấp dẫn không thể cưỡng lại. Cuối cùng bà luôn luôn thủ đắc được cung cách của riêng mình, Lily nghĩ. Bây giờ bà đã làm được chuyện này – Paul và Minta, người ta có thể giả định, đã đính hôn với nhau. Ông Bankes đang ăn tối ở đây. Bà gieo một thứ bùa mê lên tất cả bọn họ, bằng cách ước muốn, rất đơn giản, rất trực tiếp, và Lily đối chiếu sự phong phú này với sự nghèo nàn tinh thần của chính mình, cho rằng phần nào đó chính niềm tin (vì cả gương mặt bà sáng rỡ lên – dù trông không còn trẻ trung, trông bà vẫn rực rỡ) vào điều kỳ lạ này, điều kinh khủng này, đã khiến cho Paul Rapley, đang ngồi bên cạnh bà, chấn động cả toàn thân, thế nhưng lại  lơ đãng, mải mê, im lặng. Khi nói về những lớp vỏ của các loại rau củ, Lily cảm thấy, bà Ramsay đã tán dương điều đó, tôn sùng điều đó; bà giơ hai bàn tay của mình để sưởi ấm lòng họ, để bảo vệ nó, thế những sau khi đã gây ra mọi thứ này, vì lý do nào đó lại phá lên cười, đưa các nạn nhân của bà, Lily cảm thấy, đến bệ thờ. Bây giờ nó bao trùm lên cả cô – cái cảm xúc đó, sự rung động đó, của tình yêu. Cô cảm thấy một cách kín đáo mình đứng về phía Paul! Anh ta, tỏa sáng, bốc cháy; cô, cách biệt, nhạo báng; anh ta, gắn bó với sự phiêu lưu; cô, gắn bó với bờ biển; anh ta, dấn thân, khinh suất; cô  lẻ loi, bị bỏ rơi – và, sẵn sàng để khẩn nài một sự sẻ chia với tai họa của anh ta, nếu như nó là một tai họa, cô nói một cách e thẹn:
“Minta bị mất cây trâm cài khi nào?”
Anh ta mỉm một nụ cười tinh tế, được che đậy bởi ký ức, được nhuộm màu bởi những giấc mơ. Anh ta lắc đầu. “Trên bãi biển,” anh ta nói.
“Tôi sẽ đi tìm nó,” anh ta nói, “tôi sẽ thức dậy sớm.” Điều này được giữ kín đối với Minta, anh ta hạ thấp giọng, và hướng ánh mắt về phía cô gái ngồi, bên cạnh ông Ramsay, đang cười khúc khích.
Lily muốn khẳng nhận một cách mạnh bạo và mãnh liệt niềm khao khát được giúp đỡ anh ta của mình, nhìn thấy trước trong ánh bình minh trên bãi biển cô sẽ là người chộp lấy cái trâm nằm lấp ló cạnh một tảng đá ra sao, và do vậy tự bao gồm mình vào trong số những người thủy thủ và những kẻ phiêu lưu. Nhưng anh ta đáp lại đề xuất của cô như thế nào? Cô thật sự thốt lên với một cảm xúc mà cô ít khi để lộ ra, “Hãy cho tôi đi cùng với anh,” và anh ta phá lên cười. Anh ta muốn nói vâng hay là không? – có lẽ là cả hai. Nhưng đó không phải là ý của anh ta – nó chỉ là tiếng cười lạ lùng mà anh ta phát ra, như thể anh ta đã nói, Cứ tự quăng mình lên vách núi nếu cô thích, tôi không quan tâm. Anh ta chuyển sang gò má cô sức nóng của tình yêu, sự kinh khủng của nó, sự tàn ác của nó, sự khinh suất của nó. Nó làm cô đau điếng, và Lily, nhìn sang Minta, đang mê hoặc ông Ramsay ở đầu kia bàn, thấy nao núng với việc tự phơi mình ra trước những chiếc nanh này, và thấy biết ơn. Vì với bất kỳ giá nào, cô tự nhủ, ánh mắt bắt gặp cái lọ muối trên mẫu hoa, cô không cần phải kết hôn, tạ ơn trời đất: cô không cần phải thực hiện sự hạ thấp phẩm giá đó. Cô đã an toàn thoát khỏi trạng thái mất tự chủ đó. Cô sẽ dời cái cây ra xa hơn vào chính giữa.  
Đó là sự phức tạp của những sự vật. Vì điều đã xảy ra với cô, đặc biệt khi sống với gia đình Ramsay, là bị buộc phải cảm nhận một cách thô bạo hai điều trái ngược nhau trong cùng một lúc: đó là cái mà bạn cảm thấy, là một; đó là cái mà tôi cảm thấy, là điều còn lại, và rồi chúng đánh nhau trong tâm trí của cô, như bây giờ. Mối tình này đẹp đẽ và kích động đến nỗi tôi run lên khi tiếp cận nó, và đề xuất, hoàn toàn trái với thói quen của chính tôi, để đi tìm một cái trâm cài đầu trên một bãi biển; nó cũng là sự đam mê ngu xuẩn nhất, man rợ nhất trong những nỗi đam mê của con người, và biến một chàng trẻ tuổi đẹp trai với nét nhìn nghiêng như nét nhìn nghiêng của một viên ngọc quý (nét nhìn nghiêng của Paul rất thanh tú) thành một tên bắt nạt với một cái xà beng (anh ta vênh váo, anh ta xấc xược) trên đường phố Mile End. Phải, cô tự nhủ, từ thuở khai thiên lập địa những bài tụng ca tình yêu đã được hát lên; những vòng hoa chất thành đống và những đóa hoa hồng; và nếu bạn hỏi chín người trong số mười người họ sẽ bảo rằng họ không muốn gì hơn ngoài thứ này – tình yêu; trong khi những người phụ nữ, xét theo kinh nghiệm của chính cô, sẽ cảm thấy trong mọi lúc, Đây không phải là thứ mà tôi muốn; không có gì nhạt nhẽo, tầm thường và vô nhân đạo hơn điều này; thế nhưng nó cũng đẹp đẽ và cần thiết. Chà vậy thì, chà vậy thì? cô hỏi, vì lý do nào đó mong những người khác cùng tham gia vào cuộc tranh luận, như thể trong một cuộc tranh luận như thế này người ta tung ra tia chớp nhỏ rõ ràng chỉ kéo dài rất ngắn của riêng mình và để cho những người khác thực hiện nó tiếp. Vì thế cô quay lại lắng nghe những gì họ đang nói để xem họ có tung ra bất kỳ ánh sáng nào lên vấn đề tình yêu hay không.
“Vậy,” ông Ramsay nói, “có cái thứ chất lỏng đó mà người Anh gọi là cà phê.”
“Ồ, cà phê!” bà Ramsay nói. Nhưng đúng hơn nhiều đó là một vấn đề (bà đã hoàn toàn bị đánh thức, Lily có thể thấy, và nói rất dứt khoát) về bơ thật và sữa sạch. Với giọng nói trầm ấm và hùng hồn, bà miêu tả sự trái đạo lý của hệ thống chế biến bơ sữa Anh, và việc sữa được giao tại cửa trong tình trạng như thế nào, và sắp chứng minh những lời buộc tội của mình, vì bà đã đi vào vấn đề, thì tất cả mọi người quanh bàn phá lên cười, bắt đầu với Andrew ở giữa, như một ngọn lửa nhảy từ bụi kim tước này sang bụi khác; các con của bà cười; chồng bà cười; bà bị chế nhạo, lửa vây quanh, và buộc phải che chiếc mũ sắt của bà lại, tháo dỡ những khẩu pháo của bà xuống, và chỉ trả đũa bằng cách chỉ cho ông Ramsay thấy sự chế giễu và bông đùa của cả bàn như một ví dụ về những gì mà người ta sẽ gánh chịu nếu người ta tấn công vào những định kiến của công chúng Anh.
Tuy nhiên, bà nói một cách chủ tâm, vì bà đã nhận thấy rằng Lily, người đã giúp bà về vụ Tansley, đang nằm ngoài mọi việc, cô ta đã tự miễn trừ mình khỏi những người còn lại, “Dù sao thì Lily cũng đồng ý với tôi,” và do vậy đã lôi cô vào cuộc, hơi bối rối chút đỉnh, hơi giật mình chút đỉnh. (Vì cô đang suy ngẫm về tình yêu.) Cả hai người bọn họ đều nằm ngoài mọi việc, bà Ramsay đã nghĩ thế, cả Lily lẫn Charles Tansley. Cả hai đều khổ sở bởi sự sáng chói của hai người khác. Anh ta, rõ ràng là vậy, tự cảm thấy lạnh lẽo; không người phụ nữ nào nhìn vào anh ta khi Paul Rayley hiện diện trong phòng. Anh chàng tội nghiệp! Tuy nhiên, anh ta có bản luận án của mình, về tác động của ai đó lên một điều gì đó: anh ta có thể tự lo lấy bản thân. Với Lily thì khác hẳn. Cô nhòa đi dưới sự sáng chói của Minta; trở nên kín đáo hơn bao giờ hết, trong bộ váy xám nhỏ bé, với gương mặt nhăn nheo nhỏ bé và đôi mắt Trung Hoa nhỏ bé của mình. Mọi thứ ở cô đều rất nhỏ bé. Thế nhưng, bà Ramsay nghĩ, so sánh cô với Minta, khi bà kêu gọi sự trợ giúp của cô (vì Lily sẽ xác nhận cho bà rằng bà không nói về những chuyện bơ sữa nhiều bằng chồng bà nói về đôi ủng của ông – ông thường nói hàng giờ về đôi ủng của mình) trong số hai cô gái đó, Lily ở lứa tuổi ba mươi[7] sẽ là người trợ giúp tốt hơn. Trong con người Lily có một dòng tư tưởng nào đó; một ngọn lửa nào đó, một cái gì đó của riêng cô mà bà Ramsay thật sự rất thích, nhưng sẽ không gã đàn ông nào thích, bà e là vậy. Hiển nhiên là không, trừ phi đó là một người đàn ông lớn tuổi hơn nhiều, như William Bankes. Nhưng ông ấy quan tâm, vâng, đôi khi bà Ramsay nghĩ rằng ông ấy quan tâm, có lẽ là tới bà, từ khi vợ ông ấy qua đời. Dĩ nhiên là ông ấy không “yêu”; đó là một trong nhiều thứ tình cảm không thể phân loại được. Ồ, nhưng vô lý quá, bà nghĩ; William phải cưới Lily. Họ có quá nhiều điểm chung. Lily rất yêu thích các loài hoa. Cả hai người bọn họ đều lãnh đạm, xa cách và khá độc lập. Bà phải thu xếp cho họ cùng bước bên nhau trên một quãng đường dài.
Ngốc thật, bà đã bố trí họ ngồi đối diện nhau. Ngày mai điều đó sẽ được khắc phục. Nếu trời đẹp, họ sẽ đi picnic. Mọi thứ dường như đều khả dĩ. Mọi thứ dường như đều đúng. Ngay lúc này (nhưng điều này không thể kéo dài, bà nghĩ, tự tách ra khỏi khoảnh khắc trong lúc tất cả bọn họ đang trò chuyện về những chiếc ủng), ngay lúc này bà đã đạt tới sự an toàn; bà lơ lửng như một con chim ưng ngưng vỗ cánh; như một lá cờ bay phấp phới trong một nỗi hân hoan đang phủ ngập mọi sợi thần kinh của bà, tràn đầy và dịu ngọt, không chút ồn ào, khá trang nghiêm, vì nó trào dâng, bà nghĩ, nhìn tất cả đang ăn ở đó, từ người chồng và lũ con và các bằng hữu; tất cả những thứ đó đang trào dâng trong sự tĩnh lặng thẳm sâu này (bà đang giúp William Bankes múc thêm một mẩu thịt rất nhỏ, và nhìn vào chiều sâu của chiếc nồi đất) và giờ đây dường như không vì một lý do đặc biệt nào cả đang trụ lại đó như một làn khói, như một làn hơi cuộn thẳng lên phía trên, giữ cho họ an toàn cùng nhau. Không cần nói gì hết; không thể nói gì hết. Nó ở đó, quanh họ. Nó dự phần vào sự bất diệt, bà cảm thấy, cẩn thận giúp ông Bankes vớt một mẩu thịt đặc biệt mềm; vì trước đó trong buổi chiều bà đã từng cảm nhận về một điều khác hẳn; có một sự cố kết trong các sự vật, một sự vững bền, một cái gì đó, theo ý bà, vượt lên khỏi sự đổi thay, và tỏa sáng (bà liếc nhìn khung cửa sổ với những ánh phản chiếu gợn sóng lăn tăn) với bộ mặt lóng lánh, phù du, ma quái, như một viên hồng ngọc của nó, khiến đêm nay bà một lần nữa có lại cái cảm giác đã có trong ngày, về sự bình an, ngơi nghỉ. Trong những khoảnh khắc như thế này, bà nghĩ, điều đã được tạo ra sẽ tồn tại lâu dài.
“Vâng,” bà đảm bảo với William Bankes, “có nhiều cho tất cả mọi người.” (Món BOEUF EN DAUBE là một thắng lợi hoàn hảo.) Đây là nơi, bà cảm thấy, đặt chiếc muỗng xuống, mà người ta có thể di động tới lui hay ngơi nghỉ; có thể chờ đợi lắng nghe ngay lúc này; rồi có thể, như một con chim ưng đột ngột sà xuống từ cái tổ cao của nó, phô phang và chìm vào tràng cười rộ một cách dễ dàng, đặt toàn bộ sức nặng của bà vào điều mà ở đầu kia bàn chồng bà đang nói, về căn bậc hai của một ngàn hai trăm năm mươi ba. Dường như đó là con số trên chiếc đồng hồ đeo tay của ông.
Tất cả những thứ này có ý nghĩa gì? Cho tới ngày hôm nay bà chưa hề có một nhận thức nào. Một căn bậc hai? Đó là gì? Mấy đứa con trai của bà biết. Bà dựa vào chúng; về những lũy thừa ba và căn bậc hai; rằng đó là điều mà bây giờ họ đang nói; về Voltaire[8] và bà de Stael[9]; về tính cách của Napoleon, về hệ thống chiếm hữu đất đai của Pháp; về ngài Rosebery[10]; về quyển hồi ký của Creevey[11]: bà để cho nó nâng đỡ bà, duy trì bà, cái cơ cấu đáng ngưỡng mộ này của tri thức nam giới, nó chạy lên chạy xuống, băng ngang theo đường này lối khác, như những cái rầm sắt nối kết cái kết cấu đu đưa ấy và nâng đỡ toàn thế giới, khiến bà có thể tuyệt đối tin tưởng vào nó, thậm chí có thể ngắm nghiền mắt lại, như một đứa bé đang hé nhìn từ chiếc gối của nó vào vô số lớp lá của một cái cây. Rồi bà thức giấc. Nó vẫn đang được kiến tạo. William Bankes đang ca ngợi những cuốn tiểu thuyết Waverly[12].
Cứ mỗi sáu tháng ông lại đọc một cuốn trong số chúng, ông bảo. Và tại sao điều đó lại khiến cho Tansley nổi giận? Anh ta nhảy vào cuộc (tất cả, bà Ramsay nghĩ, là vì Prue không cư xử tốt với anh ta) và phản bác những cuốn tiểu thuyết Waverly khi anh ta chẳng biết gì về nó, không biết nó là cái thứ quái gì, bà Ramsay nghĩ, quan sát anh ta hơn là lắng nghe những gì anh ta nói, và tính cách này sẽ đi với anh ta cho tới khi anh ta nhận được chức giáo sư, hay lấy vợ, và vì vậy không cần phải luôn nói, “Tôi – tôi – tôi.” Vì đó là những gì mà anh ta chỉ trích ngài Walter tội nghiệp, hay có lẽ đó là Janes Austen[13], cũng chỉ thế thôi . “Tôi – tôi – tôi.” Anh ta đang nghĩ về chính mình và ấn tượng mà anh ta đang tạo ra, bà có thể nói thế bởi âm thanh trong giọng nói và những chỗ nhấn mạnh và sự khó chịu của anh ta. Thành công sẽ tốt cho anh ta. Dù sao, một lần nữa họ lại im lặng. Bây giờ bà không cần phải lắng nghe. Nó sẽ không kéo dài, bà biết, nhưng ở thời khắc này mắt bà tinh tường đến nỗi mỗi một trong số những người bọn họ dường như đi quanh chiếc bàn, hé lộ những suy nghĩ và cảm giác của họ, không cần chút nỗ lực nào, như một tia sáng luồn xuống mặt nước để cho những gợn sóng, những đám sậy trong lòng nước và những con cá tuế tự cân bằng lấy chúng, và con cá hồi im lặng đột nhiên sáng rực toàn thân, treo mình, run rẩy. Bà nhìn thấy họ như thế; bà nghe thấy họ; nhưng bất cứ những gì họ nói cũng đều có phẩm chất này, như thể những gì họ nói giống như cái khoảnh khắc của con cá hồi, khi, cùng lúc đó, người ta có thể nhìn thấy những gợn sóng và sỏi cuội, một thứ gì đó ở bên trái, một thứ gì đó ở bên phải; và toàn thể được gom lại với nhau; vì ngược lại trong đời sống thực tế bà sẽ chăng lưới và tách rời một điều khỏi những điều khác; bà sẽ nói bà thích những cuốn tiểu thuyết Waverly hoặc chưa từng đọc chúng; bà sẽ thôi thúc bản thân tiến tới; bây giờ bà không nói gì cả. Vào cái thời khắc này, bà ngưng nghỉ.
“Chà, nhưng bạn nghĩ nó sẽ tồn tại bao lâu?” ai đó nói. Như thể có những sợi râu của loài nhuyễn thể run run thò ra từ thân người bà, chặn lại một số câu nhất định, đưa chúng vào sự chú ý của bà. Đây là một trong số chúng. Bà đánh hơi được mối nguy hiểm đối với chồng mình. Một câu hỏi như thế, hầu như chắc chắn, sẽ dẫn tới việc một điều gì đó được thốt lên và nhắc cho chồng bà nhớ tới thất bại của chính mình. Ông sẽ còn được đọc bao lâu nữa – ông sẽ nghĩ tới điều đó ngay lập tức. William Bankes (người hoàn toàn thoát khỏi tất cả những thứ rỗng tuếch như thế) phá lên cười và nói rằng ông ta chẳng gán một ý nghĩa quan trọng nào cho các thay đổi về thời trang. Ai có thể nói được cái gì sẽ tồn tại – trong văn chương  hay thật ra trong bất cứ thứ gì khác?
“Chúng ta hãy cứ tận hưởng những thứ chúng ta đang thưởng thức. Dường như sự vẹn toàn của ông là hoàn toàn đáng ngưỡng mộ đối với bà Ramsay. Dường như ông ta không hề suy tư một phút giây nào, rằng, Nhưng điều này có ảnh hưởng thế nào tới tôi? Nhưng nếu bạn có một tính khí khác, phải được ca ngợi, phải được khuyến khích, tự nhiên bạn bắt đầu cảm thấy khó chịu (và bà biết ông Ramsay đang bắt đầu cảm thấy khó chịu); và muốn ai đó thốt lên, Ồ, nhưng tác phẩm của ông sẽ tồn tại, ông Ramsay ạ, hoặc một câu đại loại thế. Lúc này, ông bộc lộ sự khó chịu một cách rất rõ ràng khi nói, với đôi chút bực tức, rằng, dù sao đi nữa, Scott (hay là Shakespeare?) sẽ tồn tại trong suốt đời mình. Ông nói điều đó với vẻ bực dọc. Mọi người, bà nghĩ, đều cảm thấy hơi không thoải mái mà không biết vì sao. Thế rồi Minta Doyle, người có bản năng tốt đẹp, nói một cách tháu cáy, vô lý, rằng cô ta không tin rằng có bất cứ một ai thật sự thích đọc Shakespeare. Ông Ramsay dứt khoát bảo (nhưng tâm trí ông đã lại bỏ đi xa) rằng có rất ít người thích nó nhiều như họ nói. Nhưng, ông nói thêm, dù sao đi nữa cũng có một số vở kịch có phẩm chất đáng kể, và bà Ramsay thấy rằng dù sao thì mọi chuyện sẽ ổn ở thời điểm này; ông ấy sẽ cười chế giễu Minta, và cô ta, bà Ramsay thấy, nhận ra sự nôn nao cực độ của ông ấy về bản thân mình, và sẽ, theo cách riêng của cô, khi thấy rằng ông ấy được quan tâm tới, ca ngợi ông ấy, bằng cách này hay cách khác. Nhưng bà ước rằng điều đó sẽ là không cần thiết: có lẽ chính do lỗi của bà mà điều đó trở nên cần thiết. Dù sao thì lúc này bà được tự do để lắng nghe những gì Paul Rayley đang cố nói, về những cuốn sách mà người ta đã đọc khi còn bé. Chúng tồn tại, anh ta nói. Anh ta đã đọc một số tác phẩm của Tolstoi[14] ở trường. Có một cuốn anh ta luôn nhớ, nhưng anh ta đã quên mất cái tựa. Những cái tên Nga thật không thể nhớ nổi, bà Ramsay bảo. “Vronsky,” Paul nói. Anh ta nhớ nó vì anh ta luôn nghĩ rằng nó là một cái tên đẹp đối với một gã bất lương. “Vronsky,” bà Ramsay nói; “Ồ, ANNA KARENINA,” nhưng điều đó không đưa họ đi xa cho lắm; những cuốn sách không phải là sở trường của họ, nhưng tất cả đã rối tung lên, Tôi nói có đúng không nhỉ? Tôi có tạo được ấn tượng tốt không nhỉ? nói cho cùng, người ta biết nhiều về chính mình hơn là về Tolstoi, trong khi, điều Paul đã nói là về một sự kiện, đơn giản là vậy, không phải về bản thân anh ta, không gì khác. Như tất cả những người ngốc nghếch, anh ta có một chút khiêm tốn, một sự quan tâm tới điều mà bạn đang cảm nhận, ít ra đó là một trong những nét mà bà thấy hấp dẫn. Bây giờ anh ta đang suy nghĩ, không về bản thân anh ta hay về Tolstoi, mà là, bà có thấy lạnh hay không, bà có cảm thấy một cơn gió lùa, bà có muốn một quả lê không.
Không, bà nói, bà không muốn một quả lê. Thật sự bà đã theo dõi dĩa trái cây (mà không nhận ra điều đó) một cách ghen tị, hy vọng rằng sẽ không có ai sờ tới nó. Ánh mắt bà đã lướt qua lại giữa những đường cong và bóng đổ của mấy thứ trái cây, giữa màu tím phong phú của những quả nho phía dưới, rồi lại lướt lên cái chóp giống như sừng của cái vỏ sò, tạo thành một màu vàng ruộm nổi lên trên màu tím mọng, một nét cong nổi lên trên đường tròn, không hề biết vì sao bà lại nhìn như thế, hoặc vì sao mỗi lần bà làm như thế, bà cảm thấy càng lúc càng thanh thản; cho tới khi, ồ, thật đáng tiếc nếu họ làm điều đó – một bàn tay đưa ra, cầm lấy một quả lê, và phá hỏng toàn bộ mọi thứ. Bà nhìn Rose với niềm thông cảm. Bà nhìn Rose đang ngồi giữa Jasper và Prue. Thật lạ lùng khi một đứa trẻ lại làm được điều đó! 
Thật lạ lùng khi nhìn chúng ngồi đó, xếp thành hàng, lũ trẻ của bà, Jasper, Rose, Prue, Andrew, hầu như im lặng, nhưng có một câu chuyện đùa nào đó của riêng chúng đang tiếp diễn, bà đoán, từ đôi môi mấp máy của chúng. Đây là một cái gì đó hoàn toàn cách biệt với mọi thứ khác, một cái gì đó mà chúng tích trữ để cười to với nhau trong phòng chúng. Đó không phải là về cha của chúng, bà hy vọng. Không, bà nghĩ là không. Là điều gì vậy, bà tự hỏi, hơi buồn phiền, vì với bà dường như chúng sẽ cười rộ lên khi bà không có mặt ở đó. Có tất cả những thứ đang tích tụ phía sau những gương mặt khép kín, lặng lẽ như mặt nạ đó, vì chúng không hòa nhập một cách dễ dàng; chúng như những người quan sát, những giám định viên, hơi cao hơn hoặc tách biệt khỏi những người lớn. Nhưng khi nhìn Prue tối nay, bà thấy bây giờ điều này không hoàn toàn đúng về nó. Nó chỉ mới bắt đầu, mới chuyển động, mới đi xuống. Ánh nến nhạt nhòa rọi lên gương mặt nó, như thể tương phản lại sự rực rỡ của Minta, một sự kích động nào đó, một trạng thái dự phòng về hạnh phúc đã phản chiếu lại trong nó, như thể vầng thái dương ái tình của những người đàn ông và những người phụ nữ đang ló dạng từ mép tấm khăn trải bàn, và không hề biết đó là gì, Prue cúi người về phía nó và chào nó. Prue vẫn tiếp tục nhìn Minta, một cách e thẹn, nhưng tò mò, khiến bà Ramsay nhìn từ người này sang người kia và nói, thầm nhủ với Prue trong đầu, Một ngày nào đó con sẽ hạnh phúc như cô ấy. Con sẽ hạnh phúc hơn, bà nói thêm, vì con là con gái của mẹ, ý bà là thế; con gái của bà phải hạnh phúc hơn con gái của những người khác. Nhưng bữa tối đã qua. Đã tới lúc phải đi. Chúng chỉ chơi đùa với những thứ trong dĩa của chúng. Bà sẽ đợi cho tới khi chúng đã cười to với câu chuyện nào đó mà chồng bà đang kể. Ông ấy đang nói đùa với Minta về một con thú cưng. Rồi bà sẽ đứng lên.
Bà thích Charles Tansley, bà nghĩ, một cách đột ngột; bà thích kiểu cười to của anh ta. Bà thích anh ta vì đã nổi giận như thế với Paul và Minta. Bà thích sự ngượng nghịu lúng túng của anh ta. Nói rốt lại, ở chàng trai trẻ này có nhiều thứ. Còn Lily, bà nghĩ, đặt chiếc khăn ăn bên cạnh dĩa của mình, cô ta luôn có một câu chuyện vui nào đó của riêng mình. Người ta không bao giờ phải bận tâm về Lily. Bà chờ đợi. Bà nhét cái khăn ăn xuống dưới mép dĩa. Chà, giờ thì họ đã xong chưa nhỉ?  Không. Câu chuyện đó đã dẫn tới một câu chuyện khác. Đêm nay chồng bà đang trong tâm trạng hưng phấn, và mong muốn, bà đoán, làm hòa với ông già Carmichael sau vụ dĩa xúp, đã kéo ông ta lại gần, họ đang kể chuyện về một người nào đó mà cả hai đều biết ở trường đại học. Bà nhìn khung cửa sổ, nơi lúc này những ánh nến đã cháy sáng hơn khiến cho những tấm kính trở thành đen sẫm, và khi nhìn về phía bên ngoài đó, những giọng nói lọt đến tai bà một cách thật lạ lùng, như thể chúng là những giọng nói trong một buổi lễ ở nhà thờ, vì bà không nghe được những từ. Một tràng cười rộ lên và rồi một giọng nói (của Minta) trỗi lên đơn độc, nhắc cho bà nhớ tới những người đàn ông và những cậu bé đang hét to những từ Latin trong một buổi lễ ở một nhà thờ Chính thống giáo La Mã nào đó. Bà chờ đợi. Chồng bà lên tiếng. Ông ấy đang lặp lại một điều gì đó, và bà biết đó là thơ, nhờ vào nhịp điệu và sự rung động của những vui buồn trong giọng của ông:
Ra đây, trèo dốc khu vườn[15],
Hoa hồng thắm nở chập chờn bướm ong,
Ra nào, Luriana Lurilee.
Những từ đó (bà đang nhìn ra cửa sổ) nghe như thể chúng đang trôi nổi bập bềnh giống như những bông hoa trên mặt nước ngoài kia, cắt lìa khỏi tất cả bọn họ, như thể không có ai đọc chúng lên, mà là tự thân chúng đã bước vào cuộc hiện tồn.
Mọi cuộc đời [chúng ta] đã sống qua
Mọi cuộc đời sẽ la cà mai sau
Ngập tràn những bóng cây cao
Ngập tràn những lá thay màu thời gian.
Bà không biết chúng có nghĩa là gì, nhưng, giống như âm nhạc, những từ ngữ đó dường như được nói lên bằng chính giọng nói của bà, nằm bên ngoài bản thể của bà, đang thốt ra một cách rất dễ dàng và tự nhiên những gì đã diễn ra trong tâm trí bà suốt cả buổi chiều tối hôm nay trong lúc bà đã nói những điều khác hẳn. Bà biết, không cần phải nhìn quanh, rằng mọi người ngồi quanh bàn đang lắng nghe giọng nói ấy lên tiếng:
Ta tự hỏi, hỏi tự ta
Dường như em với hay là với em,
Lurinana, Lurilee
với cùng niềm an ủi và sự hân hoan mà bà đã có, như thể, cuối cùng đây là một điều để nói ra một cách tự nhiên, đây là giọng nói của chính họ đang thốt nên lời.
Nhưng giọng nói đã dừng. Bà nhìn quanh. Bà tự buộc mình đứng lên. Augustus Carmichael đã đứng lên và, vừa giữ chiếc khăn ăn của ông ta khiến nó trông giống như một cái váy trắng dài, ông vừa ngâm nga:
Các vì vương đế rảo qua,
Vó câu lướt thảm cỏ và đồng xanh,
Tuyết tùng, lá cọ xênh xang.
Lurianna, Lurilee
và khi bà đi ngang qua ông ta, ông ta khẽ xoay về phía bà lặp lại  những từ cuối:
Lurianna, Lurilee,
và cúi đầu chào bà như thể để tỏ lòng kính trọng. Không hề biết vì sao, bà cảm thấy rằng ông ta thích bà hơn bao giờ trước đó; và với một cảm giác khuây khỏa và biết ơn, bà đáp lại cái chào của ông và bước qua cánh cửa mà ông đang mở ra cho bà.
Bây giờ nhất thiết phải mang mọi thứ tiến xa thêm một bước nữa. Với đôi chân đặt trên thềm nhà, bà chờ đợi một lúc lâu hơn trong cái cảnh tượng đang biến mất dần ngay cả khi bà đang nhìn, và rồi, khi bà di chuyển, nắm lấy cánh tay của Minta và rời khỏi căn phòng, nó đã thay đổi; nó tự tạo cho nó một dáng hình khác hẳn; nó đã, bà biết, ngoái nhìn lại nó lần cuối, trở thành quá vãng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét