Virginia Woolf
Nguyễn Thành Nhân dịch
“Họ
đang nhìn gì thế?” Clarissa Dalloway hỏi người hầu vừa mở cửa.
Đại sảnh của ngôi nhà mát rượi như
một mái vòm. Bà Dalloway đưa tay lên che mắt, trong lúc cô hầu gái đóng cửa
lại, và bà nghe thấy chiếc váy của Lucy kêu sột soạt, bà cảm thấy giống như một
nữ tu đã lìa bỏ thế giới và cảm thấy bao phủ quanh bà là những lớp vải voan
quen thuộc và lời phụ xướng cho những câu kinh cầu nguyện cũ. Người đầu bếp
đang huýt sáo trong bếp. Bà nghe tiếng lách cách của cái máy đánh chữ. Đó là
cuộc sống của bà, và, nghiêng đầu xuống cái bàn trong sảnh, bà cúi chào bên
dưới sự tác động, cảm thấy hạnh phúc và thanh khiết, tự nhủ với mình, trong lúc
cầm lấy tập giấy ghi chú với thông điệp điện thoại bên trên, những khoảnh khắc
như vầy thật giống biết bao những chồi non trên cây sự sống, giống biết bao
những bông hoa của bóng tối, bà nghĩ (như thể một đóa hồng xinh tươi nào đó đã
nở chỉ riêng cho đôi mắt của bà); không một khoảnh khắc nào bà tin vào Thượng
đế; nhưng càng có nhiều lý do hơn, bà nghĩ, cầm tập giấy lên, để người ta phải
đền đáp trong cuộc sống thường nhật cho những người giúp việc, cho những con
chó và những con chim yến, trên hết là cho Richard chồng bà, người là nền tảng của
nó – của những âm thanh vui vẻ, của những ánh sáng xanh, thậm chí tiếng huýt
sáo của bà đầu bếp, vì bà Walker là người Ái Nhĩ Lan và cứ huýt sáo suốt ngày –
người ta phải đền đáp lại lớp trầm tích bí ẩn này của những khoảnh khắc tinh
tế, bà nghĩ, giơ tập giấy lên, trong lúc Lucy đứng cạnh bà, cố giải thích lý
do.
“Ông Dalloway, thưa bà.”
Clarissa đọc tập giấy ghi chú điện
thoại: “Phu nhân Bruton muốn biết hôm nay ông Dalloway có thể tới dự bữa ăn
trưa với bà ấy không.”
“Thưa bà, ông Dalloway bảo tôi nói
với bà rằng ông ấy sẽ ăn trưa ở ngoài.”
“Ôi Trời!” Clarissa nói, và Lucy
chia sẻ vì cô ta hiểu sự thất vọng của bà (nhưng không chia sẻ nỗi đau); cảm
thấy sự tương hợp giữa họ; nắm bắt được hàm ý; suy nghĩ về cách thức yêu của
tầng lớp xã hội cao; tô điểm tương lai của chính mình với sự bình thản; và, cầm
lấy cái ô của bà Dalloway, xem nó như một thứ vũ khí thiêng liêng mà một nữ
thần buông xuống sau khi làm xong bổn phận một cách vinh quang trên bãi chiến
trường, và đặt nó vào cái giá ô.
“Đừng sợ nữa.” Clarissa nói. Đừng sợ
nữa sức nóng của vầng thái dương; vì cú sốc của việc phu nhân Bruton mời Richard
dùng cơm trưa mà không có bà khiến cho khoảnh khắc bà đứng rung chuyển, như một
nhánh rêu dưới đáy sông cảm thấy sự chuyển động của một mái chèo lướt qua và
run rẩy; bà cũng chấn động như thế, bà cũng run rẩy như thế.
Millicent Bruton, người mà những bữa
tiệc trưa của bà ta được cho là cực kỳ vui thú, đã không mời bà. Không lòng
ghen tuông thô tục nào có thể tách rời bà khỏi Richard. Nhưng bà sợ bản thân
thời gian, và đọc thấy trên gương mặt của phu nhân Bruton, như thể nó là một
cái đồng hồ mặt trời khắc trên tảng đá dửng dưng, sự hao mòn của cuộc sống;
phần chia của bà đã bị cắt mỏng ra sao từ năm này sang năm khác; số dư còn lại
ít oi biết bao để có thể kéo dài thêm, để thẩm thấu, như trong những năm trẻ
trung, những sắc màu, những điều ý nhị, những cung bậc của sự tồn tại, để bà
phủ đầy căn phòng bà bước vào, và thường xuyên cảm thấy, khi bà đứng đó trong
giây lát trên bậc cửa phòng khách, một trang thái hồi hộp tinh tế, giống như
cảm giác hồi hộp níu giữ một người thợ lặn trước khi lao mình xuống trong lúc
biển cả hết tối sầm lại sáng rực bên dưới anh ta, và những lượn sóng đe dọa vỡ
tung, nhưng chỉ nhẹ nhàng tách bề mặt của chúng ra, cuộn lên và che giấu và kết
tụ lại trong lúc chúng lật ngửa những nhánh rong biển với những con trai.
Bà đặt tập giấy ghi chú lên cái bàn
trong sảnh. Bà bắt đầu chậm rãi đi lên gác, với bàn tay đặt trên thành cầu
thang, như thể bà vừa rời khỏi một bữa tiệc, nơi khi thì người bạn này, khi thì
người bạn khác đã quay phắt khỏi gương mặt của bà, giọng nói của bà; đã đóng
cửa lại, đi ra và đứng một mình, một hình dáng đơn côi nổi lên trên màn đêm
đáng sợ, hay nói chính xác hơn, nổi lên trên ánh nhìn đăm đăm của buổi sáng
tháng Sáu thật sự này; mềm mại với sắc đỏ của những cánh hoa hồng, bà biết, và
cảm thấy nó, khi bà dừng lại cạnh cửa sổ cầu thang mở rộng để cho tiếng phần
phật của những tấm màn, tiếng chó sủa ùa vào, bà nghĩ, cảm thấy bản thân đột
nhiên run rẩy, già nua, không còn hơi thở, để cho tiếng ken két, tiếng gió
thổi, tiếng hoa nở của ngày thoát ra khỏi những cánh cửa ra vào, cửa sổ, thoát
ra từ thân thể và bộ óc của bà mà lúc này trở nên bất lực, vì phu nhân Bruton,
người mà những bữa ăn trưa của bà ta được cho là cực kỳ thú vị, đã không mời
bà.
Giống như một nữ tu đang rút lui,
hoặc một đứa trẻ đang thám hiểm một tòa tháp, bà đi lên gác, dừng lại ở cửa sổ,
đi tới phòng tắm. Có một tấm vải lót sàn màu xanh và một cái vòi rỉ nước. Có
một sự trống vắng quanh trung tâm cuộc sống; một căn phòng áp mái. Những người
phụ nữ phải tháo bộ trang sức giàu có của họ ra. Vào giữa trưa họ phải cởi áo
dài ra. Bà chọc tay vào cái gối cắm kim và đặt cái mũ vàng gắn lông chim lên
giường. Những tấm vải giường còn sạch, căng trải thành một mảng rộng trắng toát
từ mé này sang mé kia. Cái giường của bà như ngày càng hẹp lại. Cây nến đã cháy
hết phân nửa và bà đã đọc say sưa cuốn Hồi ký của Nam tước Marbot. Đêm qua bà đã đọc
tới khuya về cuộc rút lui khỏi Moscow.
Bởi Hạ viện đã họp lâu đến nỗi Richard cứ khăng khăng, sau cơn bệnh của bà,
rằng bà phải ngủ cho yên giấc. Và thật sự bà thích đọc về cuộc rút lui khỏi Moscow. Ông ấy biết điều
đó. Thế nên căn phòng nằm ở tầng áp mái; cái giường hẹp; và khi nằm đó đọc, vì
bà khó ngủ, bà không thể xua đuổi một trạng thái trinh bạch đã bảo lưu suốt kỳ
sinh sản cứ bám sát vào bà như một tấm chăn. Một khoảnh khắc của thời con gái
đáng yêu đột nhiên xuất hiện – chẳng hạn trên con sông bên dưới cánh rừng ở Clieveden
– khi mà, qua một cơn co thắt của nào đó của linh hồn lạnh lẽo này, bà đã lơ là
với ông. Và rồi ở Constantinople, và cứ lặp đi
lặp lại. Bà có thể nhìn thấy cái bà thiếu hụt. Nó không phải là vẻ đẹp; nó
không phải là trí tuệ. Nó là một thứ gì đó tỏa lan ra từ giữa; một thứ gì đó ấm
áp, phá vỡ những bề mặt và làm gợn sóng những cuộc tiếp xúc lạnh nhạt giữa đàn
ông và đàn bà, hay giữa những phụ nữ với nhau. Bà có thể lờ mờ nhận thức được
điều đó. Bà bực tức với sự thận trọng mà chỉ có trời mới biết đã mọc ra từ đâu,
hoặc, như bà cảm thấy, đã được Tự nhiên gửi tới (kẻ luôn luôn khôn ngoan); thế
nhưng đôi khi bà không thể cưỡng lại việc đầu hàng trước sự quyến rũ của một
người đàn bà, không phải một cô gái, một người đàn bà đang tự thú một sự dại
dột, một ý nghĩ điên rồ nào đó, vì họ thường làm điều đó với bà. Và dù đó là
lòng thương hại hay là do vẻ đẹp của họ, hay vì bà lớn tuổi hơn, hay một sự
ngẫu nhiên nào đó – như một mùi hương mơ hồ, hay một tiếng đàn vĩ cầm ở nhà bên
(sức mạnh của những âm thanh thật lạ lùng trong những khoảnh khắc nhất định), khi
đó, không ngờ gì nữa, bà cảm thấy điều mà những người đàn ông cảm thấy. Chỉ
trong một khoảnh khắc; nhưng thế cũng đủ rồi. Đó là một phát hiện bất ngờ, một
nét thoảng qua giống như một thoáng đỏ bừng trên mặt mà người ta cố kềm lại, và
rồi, khi nó lan ra, người ta đầu hàng sự mở rộng của nó, và vội vã chạy tới một
chỗ xa nhất, và ở đó run rẩy, cảm thấy thế giới đang tiến tới gần hơn, phình
lên với một ý nghĩa lạ lùng nào đó, một sức ép nào đó của trạng thái mê ly,
đang tách lớp vỏ mỏng của nó ra, phun trào và tuôn trút với một sự nhẹ nhõm lạ
thường bên trên những vết nứt và những nỗi đau! Thế rồi, trong khoảnh khắc đó,
bà nhìn thấy một làn ánh sáng; một que diêm bùng cháy trong màu vàng nghệ; một
ý nghĩa nội tại hầu như hiển lộ ra. Nhưng sự tới gần lùi lại, trạng thái căng
cứng mềm đi. Nó đã trôi qua – cái khoảnh khắc ấy. Tương phản với những khoảnh
khắc như thế (cả với những người đàn bà) là cái giường (khi bà nằm xuống) và Nam tước
Marbot, và cây nến đã cháy nửa phần. Nằm tỉnh thức, sàn nhà kêu cót két; ngôi
nhà sáng đèn đột nhiên tối lại, và nếu ngóc đầu lên bà có thể nghe thấy tiếng
lách cách của quả đấm cửa được thả ra hết sức khẽ khàng bởi Richard, kẻ đang
rón rén đi lên gác trong đôi tất ngắn và rồi, thường thường, đánh rơi chai nước
nóng của ông và cất tiếng chửi thề. Bà cười mới thỏa thích làm sao!
Nhưng câu hỏi này về tình yêu (bà nghĩ, cởi chiếc áo khoác
ra), việc phải lòng những người đàn bà này. Cứ xét tới Sally Seton; mối quan hệ
của bà với Sally Seton thuở xa xưa đó. Nói cho cùng, đó có phải là tình yêu
không?
Cô ta ngồi trên sàn nhà – đó là ấn tượng đầu tiên của bà về
Sally – cô ta ngồi trên sàn nhà, tay vòng quanh gối, đang hút một điếu thuốc.
Nó có thể ở đâu nhỉ? Nhà của Mannings? Nhà của Kinloch-Jones? Trong một bữa
tiệc nào đó (bà không thể chắc chắn ở đâu), vì bà có một ký ức rõ ràng về việc
đã nói với người đàn ông đi cùng bà, “Đó là ai vậy?” Và ông ta đã nói cho bà
biết, và bảo rằng cha mẹ của Sally không hòa thuận (việc đó đã khiến bà bị sốc
quá chừng – rằng cha mẹ của một người cãi cọ nhau!) Nhưng suốt buổi tối hôm đó
bà không thể rời mắt khỏi Sally. Đó là loại sắc đẹp lạ thường mà bà ngưỡng mộ
nhất, mắt to, thẫm màu, với cái phẩm chất mà, vì bản thân bà không có, bà luôn
ganh tị – một dạng buông thả tự do, như thể cô ta có thể nói bất cứ, làm bất cứ
thứ gì; một phẩm chất phổ biến ở những người ngoại quốc hơn ở những phụ nữ Anh.
Sally luôn bảo rằng cô ta có dòng máu Pháp trong huyết quản, một vị tổ tiên đã
từng ở với Marie Antoinette[1],
đã bị chặt đầu, để lại một chiếc nhẫn hồng nhọc. Có lẽ mùa hè đó cô ta đã tới
sống ở Bourton, bước vào hoàn toàn đột ngột, không một xu dính túi, một đêm sau
giờ ăn tối, và khiến bà cô Helena khốn khổ bực mình đến nỗi bà không bao giờ
tha thứ cho cô ta. Đã có một cuộc tranh cãi ở nhà. Đúng là đêm đó khi tới chỗ
họ cô ta không có xu nào. Đã đem cầm một cái trâm cài để tới đó. Cô ta đã bỏ đi
trong một cơn tức giận. Họ ngồi trò chuyện suốt những giờ của đêm đó. Chính
Sally là người đã khiến cho bà cảm thấy, lần đầu tiên, cuộc sống ở Bourton đã
được che chở ra sao. Bà không biết chút gì về tình dục – không biết chút gì về
những vấn đề xã hội. Có lần bà trông thấy một ông già bị chết bất đắc kỳ tử
trong một cánh đồng – bà đã nhìn thấy những con bò cái ngay sau khi lũ bê con
chào đời. Nhưng cô Helena
không hề thích thảo luận về bất cứ thứ gì (khi Sally đưa cho bà cuốn sách của
William Morris[2],
nó được bao bằng giấy nâu). Họ ngồi đó, giờ này sang giờ khác, nói chuyện trên
giường của bà ở tầng trên cùng của ngôi nhà, nói về cuộc sống, về cách họ cải
tạo thế giới. Họ có ý định thành lập một tổ chức để thủ tiêu sở hữu tư nhân, và
thật sự đã viết một lá thư, dù chưa gửi đi. Những ý tưởng đó là của Sally, tất
nhiên, nhưng bà sớm trở nên kích động không kém – đọc Plato[3]
trên giường trước giờ ăn sáng; đọc Morris; đọc Shelley[4]
vào giờ đó.
Năng lực của Sally, thiên tài của
cô, tính cách của cô thật tuyệt vời. Chẳng hạn cái cách của cô với những bông
hoa. Ở Burton
họ luôn luôn đặt những lọ hoa cứng nho nhỏ suốt con đường tới bàn. Sally ra
ngoài, hái những nhánh hoa thục quỳ, thược dược – tất cả những loài hoa mà
người ta chưa từng nhìn thấy mọc chung với nhau – cắt hoa khỏi nhánh, và cho
chúng nổi lềnh bềnh trên mặt nước trong những cái bát. Tác động thật đặc biệt –
khi vào ăn tối lúc hoàng hôn. (Dĩ nhiên cô Helena đã nghĩ rằng thật ác độc khi đối xử
với những bông hoa như thế.) Rồi cô ta quên lấy miếng bọt biển, và chạy trần
truồng khắp hành lang. Người hầu gái già dữ dằn, Ellen Atkins, đi tới đi lui,
càu nhàu: “Giả sử có quý ông nào trông thấy thì sao đây? Thật sự cô ta đã khiến
cho họ bị sốc. Cô ta không ngăn nắp, Papa nói.
Điều lạ lùng là, khi nhìn lại, sự
thanh khiết, sự chính trực trong cảm giác của bà đối với Sally. Nó không giống
như cảm giác của một phụ nữ đối với một người đàn ông. Nó hoàn toàn bất vụ lợi,
và ngoài ra, nó có một phẩm chất chỉ có thể tồn tại giữa những người phụ nữ,
giữa những người phụ nữ vừa trưởng thành. Nó mang tính bảo bọc, về phía bà; nảy
sinh từ một ý thức cùng hội cùng thuyền với nhau, một linh cảm về điều gì đó
khiến họ buộc phải bị tách ra khỏi nhau (họ luôn nói về hôn nhân như là một
thảm họa), thứ đã dẫn tới tinh thần mã thượng này, cảm giác bảo bọc thuộc về
phía bà nhiều hơn là về phía Sally này. Bởi trong những ngày đó bà hoàn toàn
liều lĩnh; làm những việc ngốc nghếch nhất để làm ra vẻ bạo gan; đạp xe quanh
bức tường chắn trên sân; hút thuốc. Ngốc nghếch – bà rất ngốc nghếch. Nhưng sự
quyến rũ đang chế ngự, ít ra là đối với bà, khiến bà có thể nhớ đã đứng trong
phòng ngủ của mình trên tầng cao nhất của ngôi nhà và nói to: “Cô ta đang ở
dưới mái nhà này… Cô ta đang ở dưới mái nhà này!”
Không, những lời đó giờ đây hoàn
toàn không có ý nghĩa gì đối với bà. Thậm chí bà không thể tìm được một tiếng
vang của cảm xúc cũ của mình. Nhưng bà có thể nhớ đã lạnh người đi vì phấn
khích, và chải tóc trong một trạng thái mê ly (lúc này cảm giác cũ bắt đầu quay
lại với bà, khi bà gỡ mấy cái kẹp tóc ra, đặt chúng lên bàn trang điểm, bắt đầu
chải tóc), với những con quạ bay chấp chới lên xuống trong ánh chiều hồng, rồi
thay quần áo và xuống thang, có cảm giác khi băng qua đại sảnh rằng “giá như
lúc này mà chết thì đây là lúc hạnh phúc nhất.” Đó là cảm giác của bà, cảm giác
của Othello[5],
và bà cảm thấy nó, bà tin chắc, mạnh mẽ không kém Shakespeare muốn Othello cảm
thấy nó, tất cả là vì bà đi xuống ăn tối trong một chiếc váy dài trắng tinh để
gặp Sally Seton!
Bà đang mặc chiếc váy bằng sa màu
hồng – có thể không nhỉ? Dù sao đi nữa, dường như toàn thân bà tỏa ánh sáng,
bừng lên rực rỡ, như một con chim hoặc một quả bóng bay nào đó vừa được thổi
lên, tự gắn bản thân nó trong khoảnh khắc vào một bụi mâm xôi. Nhưng khi người
ta đang yêu (và đây là gì ngoại trừ trạng thái đang yêu?) không có gì lạ lùng
cho bằng sự dửng dưng hoàn toàn của những người khác. Cô Helena vừa ra ngoài đi
dạo sau bữa tối; Papa đọc báo. Peter Walsh có thể có mặt ở đó, và cô Cummings
lớn tuổi; Joseph Breitkopf chắc chắn có mặt, vì hè nào ông cũng tới, suốt tuần
này sang tuần khác, ông cụ tội nghiệp, và vờ như cùng đọc tiếng Đức với bà,
nhưng thật ra là chơi dương cầm và hát nhạc Brahms mà không có chút hơi nào.
Tất cả những điều này chỉ là một
cảnh nền đối với Sally. Cô ta đứng cạnh lò sưởi nói chuyện, với giọng nói đáng
yêu khiến mọi điều cô ta nói nghe như một sự mơn trớn, đối với Papa, người đã
bắt đầu bị cuốn hút ngược với ý muốn của mình (ông không bao giờ quên được việc
đã cho cô ta mượn một trong số sách của ông và tìm thấy nó bị ướt sũng trên sân
hiên), khi cô ta đột ngột nói, “Thật là đáng tiếc nếu ngồi trong nhà!” và cả
bọn ra ngoài hiên, đi tới đi lui. Peter Walsh và Joseph Breitkopf tiếp tục bàn
về Wagner. Bà và Sally đi theo sau một quãng ngắn. Thế rồi khoảnh khắc tinh tế
nhất trong toàn bộ đời bà đã tới khi đi ngang qua một cái chậu đá trong có
trồng hoa. Sally dừng lại, hái một bông hoa, hôn lên môi bà. Hẳn là toàn cõi
thế đã bị lộn ngược! Những người khác biến mất; chỉ có mình bà ở đó với Sally.
Và bà cảm thấy bà đã được tặng một món quà, gói kín, và được bảo hãy gìn giữ
nó, đừng nhìn vào nó – một viên kim cương, một thứ gì đó vô cùng quý báu, được
gói kín, mà, trong lúc họ bước đi (tới và lui, lui và tới), bà đã mở ra, hoặc
ánh sáng chói lọi đã xuyên qua, sự mặc khải, cảm giác tín ngưỡng đó! – khi già
Joseph và Peter chạm mặt họ:
“Đang ngắm sao hả?” Peter hỏi.
Nó giống như một người va mặt của mình
vào một bức tường đá hoa cương trong bóng tối! Nó gây sốc; nó kinh khủng!
Không phải đối với bản thân bà. Bà
chỉ cảm thấy Sally đã bị đối xử thô bạo, bị ngược đãi; bà cảm thấy sự thù địch
của anh ta; sự ghen tị của anh ta; quyết tâm của anh ta nhằm phá vỡ tình bạn
hữu của họ. Bà nhìn thấy tất cả những điều này như người ta nhìn thấy một phong
cảnh trong một tia chớp – và Sally (bà chưa bao giờ ngưỡng mộ cô nhiều đến
thế!) tiếp tục cái cung cách bất khả chiến bại của mình một cách dũng cảm. Cô
cười khanh khách. Cô yêu cầu ông già Joseph nói cho cô biết tên của những vì
sao, việc mà ông thích làm một cách rất nghiêm túc. Cô đứng đó: cô lắng nghe.
Bà nghe thấy tên của những vì sao.
“Ôi chao, sự khủng khiếp này!” Bà tự
nhủ; như thể bà đã biết ngay từ đầu rằng có cái gì đó sẽ gián đoạn, sẽ khiến
cho khoảnh khắc hạnh phúc của bà trở nên cay đắng.
Thế nhưng, nói cho cùng, sau đó bà
đã nợ ông ấy nhiều biết bao. Luôn luôn, khi nghĩ tới ông ấy, bà nghĩ tới những
cuộc cãi cọ của họ vì một lý do nào đó – có lẽ vì bà rất muốn có ý kiến tốt đẹp
của ông ấy. Bà nợ của ông ấy những từ: ủy mị, lịch sự; họ đã nêu ra mỗi ngày
trong cuộc đời của bà như thể ông ấy muốn cảnh giác bà. Một cuốn sách ủy mị;
một thái độ ủy mị đối với cuộc sống. “Ủy mị,” có lẽ bà sẽ suy nghĩ về quá khứ.
Ông ấy sẽ nghĩ gì, bà tự hỏi, khi ông ấy quay lại?
Rằng bà đã già đi? Ông ấy sẽ nói
thế, hoặc bà sẽ nhìn thấy ông ấy suy nghĩ khi ông ấy trở lại, rằng bà đã già
đi? Điều đó đúng. Từ sau trận ốm, tóc bà hầu như bạc trắng.
Khi đặt cây trâm cài tóc lên bàn, bà
cảm thấy một cơn đau thắt đột ngột, như thể, trong lúc bà im lặng, những móng
vuốt lạnh như băng đã có cơ hội cắm vào bà. Bà chưa gì. Bà vừa mới bước sang
tuổi năm mươi hai. Nhiều tháng của cái tuổi đó vẫn còn chưa bị chạm tới. Tháng
Sáu, tháng Bảy, tháng Tám! Mỗi tháng vẫn còn đó hầu như nguyên vẹn, như thể để
tóm lấy một giọt nước đang rơi, Clarissa (đang đi tới bàn trang điểm) đã lao
vào chính trung tâm của khoảnh khắc đó, chọc thủng nó, ở đó – cái khoảnh khắc
của buổi sáng tháng Sáu này mà trên đó là áp lực của toàn bộ những buổi sáng
khác, nhìn thấy tấm gương, cái bàn trang điểm, và tất cả những chai lọ một lần
nữa, tập hợp toàn bộ con người bà vào một điểm (khi bà nhìn vào tấm gương),
nhìn thấy gương mặt hồng hào thanh tú của người phụ nữ mà ngay đêm đó sẽ tổ
chức một bữa tiệc; của Clarissa Dalloway; của bản thân bà.
Bà đã nhìn thấy gương mặt của mình biết
bao nhiêu triệu lần, và luôn luôn với cùng sự co thắt không thể cảm thấy đó! Bà
mím môi khi nhìn vào tấm gương. Việc đó mang tới ý nghĩa thiết yếu cho gương
mặt của bà. Đó là bản lai diện mục của bà; giống như chuyển động của một chiếc
lao; xác định. Đó là bản ngã của bà khi một nỗ lực, một tiếng gọi nào đó bảo bà
trở thành chính bản thân bà, kéo những bộ phận lại gần nhau, chỉ một mình bà
biết là khác biệt thế nào, không tương hợp và bao hàm thế nào chỉ để cho thế
giới thu vào trong một trung tâm, một viên kim cương, một người phụ nữ đang
ngồi trong phòng khách của mình và tạo nên một điểm gặp gỡ, một ánh sáng huy
hoàng mà không ngờ gì nữa có trong một số cuộc đời buồn tẻ, một nơi trú ẩn cho
kẻ cô đơn tìm đến, có lẽ; bà đã giúp những người trẻ tuổi, những kẻ biết ơn bà;
đã cố luôn là một người, không bao giờ biểu lộ một dấu hiệu nào về tất cả những
khía cạnh khác của bà – những khiếm khuyết, lòng ghen tị, những thứ hão huyền,
những mối hoài nghi, như việc phu nhân Bruton không mời bà ăn trưa này; điều
mà, bà nghĩ (cuối cùng đang chải tóc), là cực kỳ hèn hạ! Bây giờ, cái váy của
bà đâu nhỉ?
Bộ váy áo buổi tối của bà treo trong
tủ quần áo. Clarissa thọc tay vào lớp vải mềm mại, nhẹ nhàng gỡ chiếc váy màu
xanh lá ra và mang nó tới chỗ cửa sổ. Bà đã làm rách nó. Một người nào đó đã
dẫm lên cái váy. Bà đã cảm thấy nó bị rách ở đầu những nếp gấp trong bữa tiệc ở
Đại sứ quán. Dưới ánh sáng nhân tạo màu xanh lá tỏa sáng, nhưng lúc này đánh
mất màu sắc của nó dưới ánh mặt trời. Bà sẽ vá lại nó. Những người hầu của bà
có quá nhiều việc phải làm. Đêm nay bà sẽ mặc nó. Bà sẽ mang mấy mảnh lụa và
cây kéo – và gì nữa nhỉ? – cái đê của bà, dĩ nhiên, xuống phòng khách, vì bà
còn phải viết, và coi xem nói chung mọi sự đã ít nhiều nằm trong vòng trật tự
hay chưa.
Lạ thật, bà nghĩ, dừng lại ở đầu cầu
thang, và tập hợp lại hình dáng viên kim cương đó, con người đơn lẻ đó, thật lạ
lùng biết bao khi một bà chủ nhà biết chính cái khoảnh khắc này, chính cái
trạng thái này của nhà bà! Những âm thanh yếu ớt cất lên qua những đường xoắn
ốc của cầu thang; tiếng sột soạt của một tấm giẻ lau sàn; tiếng vỗ, tiếng gõ;
một tiếng động lớn khi cánh cửa chính mở ra; một giọng nói lặp lại một thông
điệp ở tầng hầm; tiếng loảng xoảng của dao nĩa trên một cái khay; những dao nĩa
sạch dành cho bữa tiệc. Tất cả đều dành cho bữa tiệc.
(Lucy bưng cái khay vào phòng khách,
đặt những cái giá nến to tướng lên bệ lò sưởi, cái tráp bạc ở giữa, quay con cá
heo thủy tinh hướng về phía cái đồng hồ treo tường. Họ sẽ tới; họ sẽ đứng; họ
sẽ trò chuyện với những giọng điệu uốn éo mà bà có thể nhại theo, các quý bà và
các quý ông. Trong tất cả, bà chủ nhà đáng yêu nhất – bà chủ của những dao nĩa,
của vải lanh, của đồ sứ, bởi mặt trời, các thứ dao nĩa, những cánh cửa tháo
khỏi bản lề, những người thợ của Rumpelmayer, đã cho bà một cảm giác, khi bà
con dao rọc giấy lên cái bàn khảm xà cừ, về một điều gì đó đạt được. Chú ý! Chú
ý! Bà nói, với những người bạn cũ của mình trong tiệm bánh, nơi lần đầu tiên bà
nhìn thấy sự phục vụ ở Caterham, khi tò mò nhìn vào lớp kính. Bà ta là phu nhân
Angela, đang hầu hạ Công chúa Mary, khi bà Dalloway bước vào.)
“Này Lucy,” bà nói, “dao nĩa trông
thật đẹp!”
“Và đêm qua cô đã thưởng thức vở
kịch như thế nào?” Bà hỏi, xoay con cá heo thủy tinh đứng thẳng lên. “Ồ, họ
phải đi trước khi kết thúc!” Bà nói. “Họ phải quay về lúc mười giờ!” Bà nói.
“Vì thế họ không biết chuyện gì xảy ra.” Bà nói. “Điều đó thật rủi ro.” Bà nói
(vì những người giúp việc của bà ở lại sau, nếu họ hỏi xin bà).
“Điều đó thật đáng tiếc.” Bà nói,
cầm lấy tấm đệm cũ sờn ở giữa cái trường kỷ và đặt nó vào tay Lucy, đẩy nhẹ cô
ta và kêu lên:
“Mang nó đi đi! Mang nó cho bà
Walker với lời hỏi thăm của tôi! Mang nó đi đi!”
Và Lucy dừng lại ở cửa phòng khách,
ôm tấm đệm, và nói, rất bẽn lẽn, mặt hơi ửng hồng lên, Cô ta không thể giúp vá
lại cái váy đó sao?
Nhưng, bà Dalloway nói, bà đã có đủ
đồ trong tay, hoàn toàn đủ để làm mà không cần giúp.
“Nhưng cám ơn cô, Lucy, ồ, cám ơn.” Bà
Dalloway nói, và cám ơn, cám ơn, bà tiếp tục nói (trong lúc ngồi xuống cái
trường kỷ với cái váy trên đầu gối, cây kéo và mảnh lụa), cám ơn, cám ơn, bà
tiếp tục nói với lòng biết ơn những người giúp việc của mình nói chung về việc
giúp cho bà như thế này, trở thành người bà mong muốn, dịu dàng, phóng khoáng.
Những người giúp việc của bà thích bà. Và sau đó là cái váy này của bà – chỗ
rách ở đâu? và lúc này bà luồn chỉ vào cây kim. Đây là một cái váy được ưa
thích, một trong những cái váy của tiệm Sally Parker, gần như là chiếc váy cuối
cùng bà ta may, ôi trời, vì hiện giờ Sally đã nghỉ may, sống ở Ealing, và nếu
có khi nào mình rảnh rỗi (nhưng bà sẽ không bao giờ có một phút rảnh rỗi), mình
sẽ tới Ealing thăm bà ấy. Vì bà ấy là một nhân vật, Clarissa nghĩ, một nghệ sĩ
thật sự. Bà ấy nghĩ về những chuyện vặt vãnh không đâu vào đâu; thế nhưng những
chiếc váy của bà ấy không bao giờ kỳ quặc. Bạn có thể mặc chúng ở Hatfield; ở
điện Buckingham. Bà đã mặc nó ở Hatfield; ở điện Bucking ham.
Sự im lặng đáp lên bà, bình thản, hài lòng, trong lúc cây
kim của bà êm ái luồn qua mảnh lụa, tập hợp những nếp gấp xanh lại và đính
chúng, rất nhẹ nhàng, vào thắt lưng. Những làn sóng của một ngày hè cũng tập
hợp lại giống như thế, vượt quá trạng thái cân bằng, và rơi xuống; tập hợp và
lại rơi xuống; và toàn cõi thế dường như đang nói: “đó là tất cả,” ngày càng
trầm trọng hơn, cho tới khi ngay cả quả tim trong cơ thể đang nằm trên bãi biển
dưới ánh nắng cũng nói: Đó là tất cả. Đừng sợ nữa, quả tim nói. Đừng sợ nữa,
quả tim nói, chuyển gánh nặng của nó cho một biển cả nào đó đang thở dài chung
cho những nỗi u sầu, và làm mới lại, bắt đầu, tập hợp, rơi xuống. Và chỉ có
thân thể đó lắng nghe những con ong bay ngang qua; làn sóng vỡ tung; con chó
sủa; cứ sủa mãi ở ngoài xa.
“Ôi Trời, chuông cửa trước!”
Clarissa kêu lên, dừng mũi kim lại. Bà sực tỉnh, lắng nghe.
“Bà Dalloway sẽ gặp tôi.” Người đàn
ông cao tuổi trong sảnh nói. “Ồ, phải, bà ấy sẽ gặp tôi.” Ông ta lặp lại, khẽ
khàng đẩy Lucy sang một bên và chạy lên cầu thang thật nhanh. “Phải, phải,
phải.” Ông ta lẩm bẩm trong lúc chạy lên cầu thang. “Bà ấy sẽ gặp tôi. Sau năm
năm ở Ấn Độ, Clarissa sẽ gặp tôi.”
“Ai có thể – cái gì có thể?” Bà
Daloloway hỏi (suy nghĩ rằng thật kỳ quặc khi bị phá ngang vào lúc mười một giờ
sáng của cái ngày bà sẽ tổ chức một bữa tiệc), nghe thấy tiếng chân trên cầu
thang. Bà nghe thấy một bàn tay đặt lên cửa. Bà tìm chỗ giấu cái váy, như một
trinh nữ bảo vệ sự trong trắng; tôn trọng sự riêng tư. Lúc này, cái quả đấm
bằng đồng xoay đi. Lúc này cánh cửa mở ra, và ông ấy bước vào – trong một giây
độc nhất bà không thể nhớ phải gọi ông ấy là gì! Bà rất ngạc nhiên khi nhìn
thấy ông ấy, rất vui mừng, rất e thẹn, rất kinh ngạc, khi Peter Walsh bất ngờ
đến thăm bà vào buổi sáng! (Bà chưa đọc thư của ông ấy.)
“Bà khỏe không?” Peter Walsh nói, rõ
là đang run rẩy; cầm lấy cả hai bàn tay của bà; hôn cả hai bàn tay. Bà ấy đã
già đi, ông nghĩ, ngồi xuống. Mình sẽ không nói với bà ấy bất cứ điều gì về
chuyện đó, ông nghĩ, vì bà ấy đã già đi. Bà ấy đang nhìn mình, ông nghĩ, một sự
lúng túng bất ngờ ập tới với ông, dù ông đã hôn đôi bàn tay của bà ấy. Đưa tay
vào túi, ông lôi ra một con dao nhíp to và mở con dao ra phân nửa.
Vẫn hệt như trước, Clarissa nghĩ;
vẫn cái vẻ kỳ quặc ấy; vẫn bộ đồ com-lê kẻ ô vuông; gương mặt hơi phị ra chút xíu,
gầy hơn chút xíu, lãnh đạm hơn, có lẽ, nhưng trông ông ta vô cùng khỏe mạnh, và
vẫn hệt như trước.
“Thật
tuyệt khi gặp lại ông!” Bà cảm thán. Ông móc con dao của mình ra. Điều đó thật
giống với tính cách ông, bà nghĩ.
Ông ta chỉ mới tới thị trấn đêm qua, ông ta nói; phải đi
xuống vùng nông thôn ngay; và mọi thứ ra sao, mọi người ra sao – Richard?
Elizabeth?
“Và tất cả những thứ này là gì?” Ông
hỏi, nghiêng con dao nhíp về phía chiếc váy xanh của bà.
Ông ta ăn mặc rất lịch sự, Clarissa
nghĩ; thế nhưng ông ta luôn luôn chỉ trích mình.
Bà ấy đang ở đây vá lại cái váy; vá
lại váy của bà ấy như thường lệ, ông nghĩ; bà ấy ngồi ở đây trong suốt thời
gian mình ở Ấn Độ; vá lại váy của bà ấy; đi chơi quanh quẩn; dự những bữa tiệc;
chạy tới Hạ viện rồi quay về và tất cả những thứ đó, ông nghĩ, càng lúc càng
bực mình, càng lúc càng khích động, vì không có gì trên đời này tệ hại đối với
một số phụ nữ cho bằng hôn nhân, ông nghĩ; và chính trị; và có một ông chồng
bảo thủ, như tay Richard đáng ngưỡng mộ. Là thế đó, là thế đó, ông nghĩ, khép
con dao lại đánh tách một cái.
“Richard rất khỏe. Richard đang họp
ở một ủy ban.” Clarissa nói.
Bà mở cây kéo ra, và nói, ông có
phiền không nếu bà hoàn tất công việc đang làm cho cái váy, vì tối hôm đó bà tổ
chức một bữa tiệc?
“Mà tôi sẽ không mời ông.” Bà nói. “Peter
thân mến của tôi!”
Nhưng thật tuyệt khi nghe bà nói câu
đó – Peter thân mến của tôi! Thật sự, tất cả những điều này thật tuyệt vời –
những bộ dao nĩa, những cái ghế; tất cả đều rất tuyệt vời!
Vì sao bà không mời ông dự tiệc? Ông
hỏi.
Lúc này, dĩ nhiên, Clarissa nghĩ,
ông ta đang bỏ bùa mê! Bỏ bùa mê một cách hoàn hảo! Giờ mình nhớ ra việc quyết
định không lấy ông ta vào cái mùa hè dễ sợ đó luôn là bất khả ra sao rồi – và
vì sao mình lại quyết định? Bà tự hỏi.
“Nhưng việc ông tới sáng nay thật là
bất thường!” Bà kêu lên, đặt hai bàn tay, tay nọ úp lên tay kia, xuống chiếc
váy.
“Ông có nhớ những tấm màn cửa đã vỗ phần phật thế nào ở
Bourton không?” Bà hỏi.
“Chúng đã vỗ.” Ông nói; và ông nhớ đã ăn điểm tâm một mình, rất lúng
túng, với cha của bà; người đã chết; và ông đã không viết thư cho Clarissa.
Nhưng ông chưa bao giờ hòa hợp với ông cụ Parry, cái ông cụ cáu kỉnh, đầu gối
yếu ớt đó, cha của Clarissa, Justin Parry.
“Tôi thường ước gì tôi hòa hợp với
cha của bà.” Ông nói.
“Nhưng ông cụ chưa bao giờ ưa bất kỳ
người nào là bạn của chúng tôi.” Clarissa nói; và suýt cắn phải lưỡi của mình
vì đã nhắc cho Peter nhớ rằng ông ta đã muốn cưới bà.
Tất nhiên mình đã muốn, Peter nghĩ;
việc đó hầu như đã khiến cho tim mình tan nát, ông nghĩ; và vượt qua nỗi đau
riêng của mình, mọc lên như một vầng trăng nhìn thấy từ một khoảnh sân hiên,
đẹp kinh khủng trong ánh ngày tàn. Mình đã bất hạnh hơn bao giờ hết kể từ đó,
ông nghĩ. Và như thể ông đang thật sự ngồi đó trên sân, ông hơi nghiêng người
về phía Clarissa; chìa tay ra; giơ nó lên; buông rơi nó. Bên trên họ, vầng
trăng treo lơ lửng. Cả bà ấy nữa, dường như đang ngồi với ông trong sân, dưới
ánh trăng.
“Hiện giờ Herbert là chủ ở đó.” Bà
nói. “Giờ tôi không bao giờ đi tới đó.”
Thế rồi, như xảy ra trong một sân
hiên dưới ánh trăng, khi một người bắt đầu cảm thấy xấu hổ vì anh ta đã phát
chán, thế nhưng trong lúc người kia ngồi im lặng, rất lặng lẽ, buồn bã nhìn
vầng trăng, không muốn nói năng gì, cựa quậy đôi bàn chân, hắng giọng, chú ý
tới một hình trang trí bằng sắt nào đó trên một cái chân bàn, lay một chiếc lá,
nhưng không nói năng gì – lúc này Peter Walsh cũng hành động như thế. Vì sao cứ
quay về quá khứ như thế này? Ông nghĩ. Vì sao tự làm cho mình nghĩ tới nó lần
nữa? Vì sao tự làm cho mình đau khổ, khi bà ấy đã hành hạ mình ghê gớm đến thế?
Vì sao?
“Ông có nhớ cái hồ nước không?” Bà
hỏi, với một giọng vội vã, dưới sức ép của một cảm xúc đã choán lấy tim bà,
khiến những cơ trong cổ họng bà cứng lại, và khiến đôi môi của bà thu nhỏ lại
trong một cơn co thắt trong lúc bà nói “cái hồ.” Bởi bà là một đứa trẻ con,
đang ném vụn bánh mì cho lũ vịt, giữa cha mẹ bà, và đồng thời là một phụ nữ
trưởng thành đang đi tới chỗ cha mẹ mình đứng cạnh hồ nước, ôm trong hai cánh
tay bà cuộc đời của chính bà; khi bà tới gần họ, nó ngày càng to hơn trên hai
cánh tay bà, cho tới khi nó trở thành toàn thể một cuộc đời, trọn vẹn một cuộc
đời mà bà đặt xuống cạnh họ và nói, “Đây là cái mà con đã tạo nên từ nó! Cuộc
đời này!” Và bà đã tạo nên cái gì từ nó? Thật sự là cái gì? Khi đang ngồi đó
may vá trong buổi sáng này với Peter.
Bà nhìn Peter Walsh; cái nhìn của
bà, đi ngang qua tất cả thời gian đó và cảm xúc đó, không ngờ gì nữa, đã chạm
tới ông; khiến ông buồn phát khóc; và cất mình lên, vỗ cánh bay đi, như một con
chim chạm phải một cành cây, cất mình lên và vỗ cánh bay đi. Bà chậm mắt, hoàn
toàn đơn giản.
“Có.” Peter nói. “Có, có, có.” Ông
nói, như thể bà đã lôi lên bề mặt thứ gì đó đã khiến ông cực kỳ tổn thương khi
nó ló lên. Thôi đi! Thôi đi! Ông muốn kêu lên. Bởi ông chưa già; cuộc đời của
ông chưa kết thúc; chưa ở bất cứ ý nghĩa nào. Ông chỉ mới quá năm mươi. Mình sẽ
nói với bà ấy, ông nghĩ, hay không nói? Ông muốn thú nhận hết tất cả những
chuyện đó. Nhưng bà ấy quá lạnh lùng, ông nghĩ; đang may, với cây kéo của bà
ấy; Daisy sẽ trông có vẻ bình thường bên cạnh Clarissa. Và bà ấy sẽ nghĩ mình
là một kẻ thất bại, mà trong nhận thức của họ mình là thế, ông nghĩ; trong nhận
thức của Dalloway. Ồ, phải, ông không còn ngờ gì về điều đó; ông là một kẻ thất
bại, so với tất cả những thứ này – cái bàn khảm, con dao rọc giấy có giá đựng,
con cá heo và những cái giá nến, những tấm vải bọc ghế và những bản in tiếng
Anh cổ có màu giá trị – ông là một kẻ thất bại! Mình ghét cay ghét đắng sự tự
mãn của toàn thể vụ này, ông nghĩ; việc làm của Richard, chứ không phải của
Clarissa; trừ một điều là bà ấy đã cưới ông ta. (Tới đây Lucy bước vào phòng,
mang theo dao nĩa, thêm nhiều dao nĩa, nhưng trông cô ta xinh xắn, mảnh mai,
đáng yêu, ông nghĩ, khi cô ta khom người để đặt chúng xuống.) Và việc này đã
tiếp diễn trong suốt thời gian đó! ông nghĩ; hết tuần này sang tuần khác; cuộc
đời của Clarissa; trong lúc mình – ông nghĩ; và ngay tức khắc mọi thứ dường như
tỏa sáng từ ông; những chuyến đi, những cuộc cưỡi ngựa; những vụ cãi cọ; những
chuyến phiêu lưu; những ván bài; những chuyện yêu đương; công việc; công việc;
công việc! Và ông mở toang con dao nhíp – con dao cũ có cán bằng sừng mà
Clarissa có thể thề rằng ông ta đã giữ suốt ba mươi năm qua – và úp nắm tay của
ông ta lên trên nó.
Đó đúng là một thói quen kỳ lạ,
Clarissa nghĩ; luôn nghịch chơi với một con dao. Cũng luôn khiến cho người ta
cảm thấy phù phiếm; lơ đãng; chỉ là một kẻ ba hoa ngốc nghếch, như ông ta từng
là. Nhưng cả mình cũng vậy, Clarissa nghĩ, và cầm cây kim lên, bà triệu tập,
như một nữ hoàng mà những người lính cận vệ của bà ta đã ngủ say và bỏ mặc bà
ta không ai bảo vệ (bà hoàn toàn kinh ngạc vì cuộc viếng thăm này – nó đã làm
cho bà khó chịu) khiến bất kỳ ai cũng có thể bước vào và đưa mắt nhìn chỗ bà
nằm với những bụi mâm xôi rũ xuống từ bên trên, triệu tập để hỗ trợ cho những
điều bà đã làm; những điều bà thích; chồng bà; Elizabeth; nói tóm lại, là bản
thân bà, mà giờ đây Peter hầu như không biết, triệu tập tất cả tới quanh bà và
đánh đuổi kẻ thù đi.
“À, chuyện gì đã xảy ra với ông vậy?”
Bà hỏi. Vì trước khi một trận chiến bắt đầu, lũ ngựa gõ móng xuống đất, ngẩng
đầu lên; ánh sáng bừng lên trên sườn chúng; cổ chúng cong lại. Peter Walsh và Clarissa
cũng thế, đang ngồi bên cạnh nhau trên cái trường kỷ màu xanh dương, thách thức
nhau. Những sức mạnh của ông cồn cào và quăng quật trong lòng ông. Ông tập hợp
từ những khu vực khác nhau mọi thứ; lời tán tụng; sự nghiệp của ông ở Oxford;
cuộc hôn nhân của ông, mà bà không biết bất cứ điều gì về nó; ông đã yêu như
thế nào; và nói chung đã hoàn thành công việc của mình như thế nào.
“Hàng triệu thứ!” Ông cảm thán, và,
bị thôi thúc bởi sự tập hợp của những sức mạnh hiện đang tích nạp theo cách này
cách khác và lập tức mang tới cho ông cảm giác sợ hãi và cực kỳ vui sướng về
việc lao qua không trung trên đôi vai của những người mà ông không thể nhìn
thấy nữa, ông đưa hai tay lên trán.
Clarissa ngồi rất thẳng; hít sâu một
hơi.
“Tôi đang yêu.” Ông nói, tuy nhiên không phải với bà ấy, mà
với một người nào đó đang vươn lên trong bóng tối khiến bạn không thể chạm vào
bà ấy mà phải đặt vòng hoa của bạn xuống mặt cỏ trong bóng tối.
“Đang yêu.” Ông lặp lại với Clarissa, lần này khá khô khan.
“Yêu một cô gái ở Ấn Độ.” Ông đã đặt vòng hoa của mình xuống. Clariss có thể làm
bất kỳ điều gì bà ấy muốn với nó.
“Đang yêu!” Bà nói. Ông ấy, ở lứa
tuổi này, lại có thể bị hút vào dưới cái nơ con bướm nhỏ xíu của ông ấy bởi con
quái vật đó! Và trên cổ ông ấy không còn chút bắp thịt nào; đôi bàn tay ông ấy
đỏ ửng; và ông ấy lớn hơn mình sáu tháng! Mắt bà phản ánh lại với bà; nhưng
trong tim bà cảm thấy, dù sao đi nữa, ông ấy đang yêu. Ông ấy có điều đó, bà
cảm thấy; ông ấy đang yêu.
Nhưng tính tự cao tự đại bất khả
khuất phục vẫn luôn xoa dịu những bà chủ nhà phản đối lại nó, cái dòng sông bảo
tiếp, tiếp, tiếp; mặc dù, nó thừa nhận, không có bất kỳ mục tiêu nào cho chúng
ta hết, vẫn tiếp tục, tiếp tục; cái tính tự cao tự đại bất khả khuất phục này
khiến cho đôi má của bà ửng đỏ; khiến cho bà trông rất trẻ trung; rất hồng hào;
đôi mắt rất ngời sáng, khi bà ngồi với cái váy đặt trên đầu gối, và cây kim cắm
vào đầu mảnh lụa xanh, hơi run rẩy. Ông ấy đang yêu! Không phải bà. Mà là một
cô gái trẻ nào đó, dĩ nhiên.
“Cô ta là ai?” Bà hỏi.
Lúc này pho tượng đó phải được đưa
khỏi cái bệ cao của nó và đặt xuống giữa họ.
“Thật không may, đó là một phụ nữ đã
kết hôn.” Ông nói; “Vợ của một thiếu tá trong quân đội Ấn.”
Và với một sự ngọt ngào đầy mai mỉa,
ông mỉm cười khi đặt cô ta trước mặt Clarissa theo cái cách lố bịch này .
(Dù sao đi nữa, ông ấy đang yêu,
Clarissa nghĩ.)
“Cô ta có hai đứa con nhỏ,” ông nói
tiếp, “một trai và một gái; và tôi đã tới gặp các luật sư của tôi về việc ly
dị.”
Họ đấy! Ông nghĩ. Hãy làm những gì
bà muốn với họ, Clarissa! Họ đấy! Và từng giây một, với ông, dường như bà vợ
của viên thiếu tá trong quân đội Ấn Độ (Daisy của ông) và hai đứa bé ngày càng
trở nên đáng yêu khi Clarissa nhìn chúng; như thể ông đã rọi ánh sáng lên một
hòn cuội xám trong một cái đĩa và một thân cây đáng yêu đã mọc lên trong bầu
không khí trong lành mặn mùi biển cả của tình thân của họ (vì theo cách nào đó
không ai hiểu ông, cảm nhận với ông như Clarissa hồi đó) – tình thân đầy tinh
tế của họ.
Cô ta đã tâng bốc ông ấy; cô ta đã
lừa phỉnh ông ấy, Clarissa nghĩ; định hình người phụ nữ đó, vợ của viên thiếu
tá trong quân đội Ấn Độ, với ba nhát chém của một con dao. Thật lãng phí làm
sao! Thật dại dột làm sao! Suốt cuộc đời dài của ông ấy, Peter vẫn cứ ngốc
nghếch như thế; đầu tiên là bị thuyên chuyển khỏi Oxford; tiếp theo là cưới một
cô gái trên một con tàu sang Ấn Độ; và bây giờ là vợ của một viên thiếu tá
trong quân đội Ấn – tạ ơn Trời bà đã từ chối lấy ông! Tuy nhiên, ông ấy đang
yêu; người bạn cũ của bà, Peter thân mến của bà, ông ấy đang yêu.
“Nhưng ông sẽ làm gì?” Bà hỏi. Ồ,
những luật sư và cố vấn pháp lý, các ông Hooper và Grateley của hãng luật
Lincoln, họ sẽ thực hiện việc đó, ông nói. Và ông thật sự xén những cái móng
tay của mình với con dao.
Ôi trời, hãy để yên con dao của ông
đi! Bà thầm kêu lên với sự bực tức không thể kềm nén; chính cái tính khác thường
ngốc nghếch của ông ấy, khuyết điểm của ông ấy; sự thiếu vắng một ý thức nhỏ
nhất về cảm giác của bất kỳ người nào khác của ông ấy khiến cho bà bực mình,
luôn làm bà bực mình; và giờ này, ở lứa tuổi của ông ấy, thật ngốc nghếch biết
bao!
Mình biết tất cả những điều đó,
Peter nghĩ; mình biết mình đang chống lại thứ gì, ông nghĩ, đưa ngón tay lướt
qua lưỡi dao, Clarissa và Dalloway và tất cả số còn lại; nhưng mình sẽ chỉ cho
Clarissa thấy – thế rồi với sự ngạc nhiên cực độ của ông, đột ngột bị ném qua
bầu không khí bởi những sức mạnh không thể kiểm soát đó, ông rơi nước mắt;
khóc; khóc không chút xấu hổ, khi đang ngồi trên cái trường kỷ, những giọt nước
mắt lăn xuống má ông.
Và Clarissa đã nghiêng người về phía
trước, cầm lấy tay ông, kéo ông lại gần bà, hôn ông – thật sự cảm thấy mặt của
ông trên mặt của bà trước khi bà có thể hạ tia chớp lóe màu bạc đó xuống –
những chiếc lông chim giống như cỏ bông bạc trong một cơn bão nhiệt đới trong
lồng ngực bà, mà khi đáp xuống, để lại bà trong tình trạng đang cầm lấy tay
ông, vỗ nhẹ lên đầu gối của ông, và cảm thấy, khi bà ngồi ngay lại, đặc biệt
thoải mái và dễ chịu với ông ấy, tất cả xâm chiếm lấy bà trong một tiếng nổ
vang, Giá như mình lấy ông ấy, hẳn niềm vui này sẽ là của mình suốt cả ngày!
Tất cả những điều đó đã kết thúc đối
với bà. Tấm vải giường đã được trải ra và cái giường thì hẹp. Bà đã đi lên tòa
tháp một mình và mặc cho họ hái quả mâm xôi trong ánh nắng. Cánh cửa đã đóng
lại và ở đó, trong đám bụi vữa tường rơi xuống và rơm rác trong những tổ chim,
cảnh vật trông mới xa xôi làm sao, và những âm thanh vọng tới mong manh và lạnh
lẽo (một lần ở trên đồi Leith, bà nhớ), và Richard, Richard! bà kêu lên, như
một người đang ngủ trong bóng tối bị giật mình và đưa tay ra tìm sự giúp đỡ.
Đang ăn trưa với phu nhân Bruton, chuyện đó quay lại với bà. Ông ấy đã bỏ mặc
mình; mình mãi mãi cô đơn, bà nghĩ, úp hai bàn tay lên đầu gối.
Peter Walsh đã đứng lên và bước tới
chỗ cửa sổ, đứng quay lưng về phía bà, vụt một cái khăn tay lớn in hoa từ phía
này sang phía khác. Trông ông ấy có vẻ xuất chúng, khô khan và lẻ loi, bờ vai
gầy của ông ấy nhẹ nâng chiếc áo khoác; đang sịt mạnh mũi. Hãy mang tôi theo
ông, Clarissa nghĩ một cách bốc đồng, như thể ông ta đang trực chỉ tiến tới
trong một chuyến du hành lớn nào đó; và rồi, khoảnh khắc tiếp theo, như thể một
vở kịch năm hồi rất thú vị và xúc động giờ đã kết thúc, và bà đã sống cả một
đời người trong đó và đã bỏ trốn, đã sống với Peter, và giờ đây nó đã kết thúc.
Giờ đã tới lúc di chuyển, và như một
người phụ nữ đang thu gom các thứ của mình, chiếc áo choàng, đôi găng tay, cặp
kính xem kịch opera, và đứng lên để bước ra khỏi rạp hát xuống đường, bà đứng
lên khỏi chiếc trường kỷ, bước tới cạnh Peter.
Và thật lạ lùng, ông nghĩ, làm thế
nào bà ấy vẫn có khả năng, khi bà đi tới với tiếng lanh canh, sột soạt, vẫn có
khả năng, khi bà ấy băng qua căn phòng, khiến cho vầng trăng mà ông ghét cay
ghét đắng mọc lên trên sân hiên ở Bourton giữa bầu trời mùa hạ.
“Hãy nói cho tôi biết,” ông nói nắm
lấy hai vai bà. “Bà có hạnh phúc không, Clarissa? Richard có…”
Cánh cửa mở ra.
“Đây là Elizabeth của tôi.” Clarissa
nói, một cách xúc động, có vẻ như đóng kịch, có lẽ.
“Chào ông.” Elizabeth nói, bước tới.
Tiếng chuông Big Ben điểm nửa giờ
vang lên giữa họ với một sức mạnh khác thường, như thể một thanh niên, khỏe
mạnh, dửng dưng, khinh suất, đang đu đưa những cái chuông về phía này phía
khác.
“Chào Elizabeth.” Peter kêu lên,
nhét cái khăn tay vào túi, vừa đi nhanh tới gần cô vừa nói, Tạm biệt, Clarissa,
mà không nhìn bà, vội vàng rời phòng và bước nhanh xuống thang, mở cánh cửa đại
sảnh ra.
‘Peter! Peter!” Clarissa kêu to, đi
theo ông ta ra đầu cầu thang. “Bữa tiệc tối nay của tôi! hãy nhớ bữa tiệc tối
nay của tôi!” Bà kêu lên, cất cao giọng trên tiếng ồn của bầu không khí bên
ngoài, và bị áp đảo bởi tiếng xe cộ qua lại và âm thanh của mọi cái đồng hồ
đang điểm giờ, giọng kêu của bà “Hãy nhớ bữa tiệc tối nay của tôi” nghe có vẻ
mong manh, mơ hồ và rất xa xôi khi Peter khép cánh cửa lại.
[1] Marie Antoinette (1755 – 1793), công chúa nước Áo, trở
thành Hoàng hậu Pháp khi vua Louis XVI của Pháp lên ngôi. Bà bị xử tử bằng máy chém năm 1793.
[2] William Morris (1834 – 1896): nhà
thiết kế hình họa trên các chất liệu vải, nghệ nhân, nhà văn người Anh.
[3] Plato (424/423 Tr.CN – 348/347 Tr.CN)
triết gia, nhà toán học Hy Lạp cổ đại, đệ tử của triết gia Socrates.
[4] Percy Bysshe Shelley (1792 – 1822) một trong những nhà
thơ lãng mạn trụ cột của Anh.
[5] Othello
- Người Ma-rốc ở thành Venice,
một vở bi kịch của thi hào, kịch tác gia Anh Shakespeare (1564-1616).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét