Virginia Woolf
Nguyễn Thành Nhân dịch
Bà Dalloway bảo bà sẽ tự đi mua hoa.
Vì Lucy có công việc phù hợp với cô ta. Mấy cánh cửa sẽ
được tháo khỏi bản lề, những người thợ của Rumpelmayer sẽ tới. Và sau đó,
Clarissa Dalloway nghĩ, thật là một buổi sáng tuyệt vời – tươi tắn như thể được
ban phát cho lũ trẻ con trên bờ biển.
Thật hân hoan! Thật chìm đắm! Vì dường như đối với bà, khi
những cái bản lề kêu rít lên, như lúc này bà có thể nghe, bà phải mở tung những
khung cửa sổ kiểu Pháp và lao người vào bầu không khí thoáng đãng của Bourton. Trong
lành biết bao, êm ả biết bao, dĩ nhiên là yên tĩnh hơn lúc này, bầu không khí
sớm mai hồi ấy giống như tiếng vỗ của một làn sóng; nụ hôn của một làn sóng;
lạnh và gắt, thế nhưng nghiêm trang (với một cô gái mười tám tuổi như bà thuở
ấy), khi bà cảm thấy như đã từng cảm
thấy lúc đứng đó ở khung cửa sổ mở, rằng một điều gì đó kinh khủng sắp xảy ra;
khi nhìn những bụi hoa, những cây cối với làn khói ngoằn ngoèo lan tỏa và những
con quạ đang vọt lên, sà xuống; đứng và nhìn cho tới khi Peter Walsh bảo: “Đang
suy tư giữa đám rau củ hả? – Phải thế không? – “Tôi thích những người đàn ông
hơn là những cây cải bắp” – Phải thế không? Hẳn ông ấy đã nói thế vào bữa điểm
tâm của một sớm mai nào đó khi bà đã bước ra trước sân hiên – Peter Walsh. Một
hôm nào đó, trong tháng Sáu hoặc tháng Bảy này, bà quên mất là tháng nào, ông
ấy sẽ trở về từ Ấn Độ, vì những lá thư của ông ấy cực kỳ buồn nản; những câu
nói của ông ấy chính là thứ làm cho người ta nhớ; đôi mắt, con dao nhíp, nụ
cười, tính tình gắt gỏng của ông ấy, và khi hàng triệu thứ đã hoàn toàn biến
mất, một vài câu nói như câu này về những cây cải bắp thật kỳ lạ biết bao! Bà
hơi cứng người lại chút đỉnh trên vệ đuờng, chờ chiếc xe tải của Durtnall chạy
qua. Một người phụ nữ quyến rũ, Scrope Purvis nghĩ về bà (ông ta biết bà như
người ta biết về những người sống bên cạnh nhà mình ở Westminster); ở bà có cái
dáng vẻ của một con chim, một nàng chim giẻ cùi, xanh lam, nhẹ nhàng, sôi nổi,
dù bà đã quá năm mươi, và đã bạc trắng mái đầu từ khi ngã bệnh. Bà đứng đó,
không hề nhìn thấy ông, chờ để băng qua đường, người thật thẳng.
Vì khi đã sống ở Westminster
– bao nhiêu năm nhỉ? – hơn hai mươi rồi – người ta cảm thấy thậm chí giữa những
xe cộ giao thông qua lại, hay khi tản bộ trong đêm, Clarissa luôn tỏ ra quả
quyết, một sự im lặng, hay vẻ nghiêm trang riêng biệt; một sự ngập ngừng vô tả,
một trạng thái hồi hộp (nhưng người ta bảo có thể đó là do tim bà đã chịu ảnh
hưởng của bệnh cúm) trước khi tháp Big Ben đổ chuông. Kia rồi! Nó đã trầm trầm
vang dội. Đầu tiên là một âm thanh cảnh báo, như âm nhạc, rồi tới thời khắc, bất
khả vãn hồi. Những đường tròn xám xịt nặng trĩu tan biến khỏi bầu không khí.
Chúng ta thật là những kẻ ngu xuẩn xiết bao, bà nghĩ khi băng qua phố Victoria. Vì chỉ có Trời
mới biết vì sao người ta yêu nó như thế, cách người ta nhìn nó như thế, tạo nên
nó, dựng nó lên xung quanh người ta, xô đổ nó, rồi mỗi khoảnh khắc lại làm mới
nó; nhưng những người đàn bà lôi thôi lếch thếch nhất, buồn nản hay bất hạnh
nhất, đang ngồi trên những bậc thềm (uống sự suy sụp của họ), làm một việc như
nhau, không thể bị xử lý bởi những đạo luật của Quốc hội; bà cảm thấy lạc quan,
chính vì nguyên nhân đó: họ yêu cuộc sống. Trong đôi mắt của mọi người, trong
từng nhịp điệu, bước đi nặng nề hay khó nhọc; trong âm thanh ồn ào nhiệt náo;
những cỗ xe ngựa, xe hơi, xe buýt, xe tải, những người bán sandwich ngược xuôi
như những con thoi; những ban nhạc kèn đồng; những cái đàn thùng; trong tiếng gầm
vang đắc thắng, lanh lảnh và cao vút lạ lùng của những chiếc phi cơ bên trên
đầu là điều mà bà yêu mến; cuộc sống; London; khoảnh khắc này của tháng Sáu.
Bởi giờ đang giữa tháng Sáu. Cuộc chiến tranh đã kết thúc,
ngoại trừ một ai đó như bà Foxcrott ở Đại sứ quán đêm qua đã đau xé cõi lòng vì
cậu thanh niên khôi ngô đó đã bị giết và giờ đây ngôi trang viên cũ phải chuyển
sang cho một người em họ; hoặc phu nhân Bexborough, người đã mở một cửa hàng
phúc thiện, người ta bảo, với bức điện tín trong tay bà ta, rằng John, đứa con
bà yêu mến nhất, đã bị giết chết; nhưng nó đã kết thúc; tạ ơn Trời – kết thúc.
Giờ là tháng Sáu. Đức Vua và Hoàng hậu đang ở trong Hoàng cung. Và khắp mọi
nơi, dù trời vẫn còn sớm lắm, có tiếng gõ móng ầm ầm của những con ngựa pony
đang phi nhanh, tiếng đập của những cây vợt crickê; sân Lords, Ascot và
Ravelagh và tất cả các sân chơi còn lại được bao bọc trong một bầu không khí mềm
mại, xanh xám, mà, khi ánh ngày lên, sẽ bung ra, và đáp xuống những thảm cỏ,
những mảnh sân nơi những con ngựa pony nhảy chồm lên, hai chân trước gõ mạnh
lên mặt đất, rồi phóng lên, những chàng thanh niên xoay tròn, những cô gái cười
khanh khách trong những chiếc váy muslin trong suốt, những kẻ mà ngay cả lúc
này, sau khi khiêu vũ suốt đêm, đang dắt những con chó lông xồm buồn cười đi
dạo; và ngay cả lúc này, vào giờ này, những quý bà thừa kế tước hiệu kín đáo
đang phóng ra phố trong những chiếc xe hơi để làm những việc nho nhỏ bí ẩn; và
những người chủ tiệm đang lu bu trong bên trong tiệm với những viên đá quý và
kim cương, những bộ trâm cài tóc cũ kỹ đáng yêu xanh màu biển hồi thế kỷ mười
tám để dụ dỗ những người Mỹ (nhưng người ta phải tiết kiệm, không vội vàng mua
này mua nọ cho Elizabeth), cả bà nữa, cũng yêu thích nó như trước kia với một
niềm đam mê phi lý và chân thật, là một phần của nó, vì ông cha của bà từng là
triều thần dưới thời các vua Georges; cả bà, ngay đêm đó cũng sẽ thắp sáng đèn
đuốc để tổ chức bữa tiệc của mình. Nhưng lạ lùng biết bao, khi bước vào công
viên, sự thinh lặng; màn sương mù; tiếng lao xao; những con vịt hạnh phúc đang
bơi chậm rãi; những con chim bồ nông đang bước lạch bạch; và kẻ đang đi tới,
lưng quay về phía tòa nhà Chính phủ một cách thích đáng nhất, mang theo một cái
tráp có đóng dấu Quân đội Hoàng gia có thể là ai nhỉ, còn ai khác ngoài Hugh
Whitbread; ông bạn cũ Hugh của bà – Hugh đáng ngưỡng mộ!
“Chúc buổi sáng tốt
lành, Clarissa!” Hugh lên tiếng, hơi cường điệu, vì họ đã quen biết nhau từ hồi
còn bé. “Bà đi đâu vậy?”
“Tôi thích đi bộ trong thành London.” Bà Dalloway đáp. “Thật sự, nó tốt
hơn đi bộ ở miền quê.”
Không may là họ chỉ tới đây để khám bệnh. Những người khác tới đây để
ngắm những bức tranh; xem kịch opera; đưa con gái của họ đi dạo mát; còn gia
đình Whitbread thì đến “để khám bệnh.” Đã vô số lần Clarissa phải viếng thăm
Evelyn Whitbread trong căn phòng của bệnh xá. Phải chăng Evelyn lại ngã bệnh?
Evelyn thấy rất khó chịu trong người, Hugh nói, thể hiện qua cách bĩu môi hay
bộ quần áo bảnh bao, vẻ khôi ngô cực kỳ nam tính, và thân hình được che phủ một
cách hoàn hảo của ông (hầu như ông luôn ăn mặc rất trang nhã, nhưng người ta
cho là ông phải như vậy, với một công việc nho nhỏ trong Hoàng cung) rằng vợ của
ông bị yếu trong người, không có gì nghiêm trọng, với tư cách một người bạn cũ,
Clarissa Dalloway sẽ hoàn toàn thấu hiểu, không cần ông phải nói cụ thể. Ồ,
vâng, tất nhiên bà hiểu; thật phiền; và đồng thời cảm thấy một ý thức rất thân
thương, rất kỳ lạ, về cái mũ của mình. Không phải loại mũ dành cho buổi sáng
sớm, có phải không? Bởi Hugh luôn khiến cho bà cảm thấy, khi ông vội vã đi
tiếp, giơ cao mũ với vẻ khá ngông cuồng và bảo đảm với bà rằng bà có thể là một
cô gái mười tám tuổi, và dĩ nhiên ông sẽ tới dự buổi tiệc tối nay, Evelyn đã
hoàn toàn dứt khoát, chỉ có thể hơi muộn chút xíu, sau bữa tiệc ở Hoàng cung mà
ông phải đưa một trong mấy cậu con trai của Jim tới – bà luôn cảm thấy hơi thất
thế bên cạnh Hugh; giống như một nữ sinh; nhưng gắn bó với ông, phần vì luôn
hiểu biết ông, nhưng bà nghĩ ông là một gã tốt bụng theo cách của ông, dù suýt
nữa ông đã khiến cho Richard nổi điên lên, còn về phần Peter Walsh, mãi tới hôm
nay ông ấy vẫn chưa bao giờ tha thứ cho bà về việc ưa thích Hugh.
Bà có thể nhớ hết cảnh tượng này sang cảnh tượng khác ở
Bourton – Peter nổi giận; Hugh thì không, dĩ nhiên, cỡ nào ông cũng hòa đồng
được, nhưng vẫn không phải là một vẻ khờ khạo tích cực như kiểu của Peter;
không đơn giản là một cái hình nộm để gắn tóc giả của một anh thợ hớt tóc. Khi
bà mẹ già của ông muốn ông thôi chụp ảnh hay đưa bà ấy tới Bath, ông thực hiện
nó, không nói lời nào; ông thật sự vị tha, còn về nhận định, như Peter từng
bảo, rằng ông không có quả tim, không có đầu óc, không có thứ gì ngoài những
cung cách hành xử và nền giáo dục của một quý ông người Anh, thì đó là điều tệ
hại nhất ở Peter thân yêu của bà; và Hugh đáng được khoan dung; có thể khó mà
chịu nổi ông, nhưng ông lại rất đáng yêu khi cùng tản bộ với nhau trong một
buổi sáng như hôm nay.
(Tháng Sáu đã ló dạng trên từng chiếc lá của những hàng
cây. Những bà mẹ ở khu Pimlico đang cho con bú. Các thông điệp đang được chuyển
từ Hạm đội tới Bộ Hải quân. Có vẻ như phố Arlington và Piccadilly đã phá vỡ bầu
không khí trong công viên và nâng cao, một cách sôi nổi nhiệt tình, những chiếc
lá của nó, trên những đợt sóng của sức sống thiêng liêng mà Clarissa yêu mến.
Để nhảy múa, để lướt trôi, bà yêu thích tất cả những điều đó.)
Vì có vẻ như họ đã xa cách nhau suốt mấy trăm năm, bà và
Peter; bà chưa bao giờ viết lá thư nào, còn những lá thư của ông ấy thì khô
khốc; nhưng đột nhiên bà chợt nảy ra ý nghĩ, Nếu bây giờ ông ấy ở đây với mình,
ông ấy sẽ nói gì? – một số ngày, một số cảnh tượng đã mang ông ấy trở về với bà
một cách bình thản, không còn nỗi cay đắng cũ; có lẽ đây là sự tưởng thưởng cho
việc quan tâm tới mọi người; họ đã quay lại giữa công viên St. James vào một
sáng đẹp trời, thật vậy. Nhưng Peter – bất chấp ngày hôm đó có thể đẹp cỡ nào,
những cây cối và hoa cỏ, và cô gái nhỏ mặc áo hồng – Peter không bao giờ trông
thấy thứ nào trong tất cả những điều đó. Ông ấy sẽ đeo kính vào, nếu bà bảo ông
ấy; ông ấy sẽ nhìn. Điều mà ông quan tâm là tình trạng của thế giới; vĩnh viễn
vẫn là thơ của Wagner[1],
Pope[2],
tính cách của mọi người, và những nhược điểm của linh hồn bà. Ông ấy đã trách
móc bà thậm tệ biết bao! Họ đã tranh cãi nhiều biết bao! Bà sẽ lấy một ông thủ
tướng và đứng ở đầu cầu thang; ông ấy đã gọi bà là nữ chủ nhân hoàn hảo (bà đã
khóc vì câu nói đó trong phòng ngủ), bà có những phẩm chất của nữ chủ nhân hoàn
hảo, ông ấy bảo.
Thế nên bà vẫn sẽ nhận ra mình đang
tranh luận ở công viên St. James, vẫn chứng tỏ
rằng bà đúng – và bà cũng đã không kết hôn với ông ấy. Vì trong hôn
nhân, cần phải có một tờ chứng nhận nho nhỏ, một sự độc lập nho nhỏ giữa những
người sống chung hết ngày này sang ngày khác trong cùng một ngôi nhà; thứ mà
Richard đã cho bà, và bà đã cho ông ấy. (Chẳng hạn, sáng nay ông ấy đi đâu? Một
ủy ban nào đó, bà chưa bao giờ hỏi đó là ủy ban gì?) Nhưng với Peter, mọi thứ
phải được chia sẻ; mọi thứ phải được thảo luận. Và điều đó thật quá sức chịu
đựng, và khi cái cảnh tượng đó diễn ra trong khu vườn nhỏ, cạnh đài phun nước,
bà phải chia tay với ông, không thì họ sẽ bị hủy diệt, cả hai người đều bị hủy
hoại, bà tin chắc vậy; dù bà đã mang theo suốt nhiều năm, như một mũi tên ghăm
chặt vào tim, nỗi u sầu, thống khổ; thế rồi sự kinh khủng của khoảnh khắc khi
ai đó nói với bà trong một buổi hòa nhạc rằng ông ấy đã cưới một người phụ nữ
gặp gỡ trên một con tàu sang Ấn Độ! Bà không bao giờ quên được tất cả những
chuyện ấy! Ông ấy gọi bà là một kẻ lạnh lùng, tàn nhẫn, đoan trang vờ vịch. Bà
không bao giờ hiểu ông ấy thích thế nào. Nhưng có lẽ những người đàn bà Ấn Độ
đó làm được – những cô nàng khờ dại, xinh xắn, mong manh, ngốc nghếch. Và bà đã
phí hoài lòng thương hại của mình. Vì ông ấy hoàn toàn hạnh phúc, ông ấy quả
quyết với bà – hoàn toàn hạnh phúc, dù ông ấy chưa hề làm một điều nào mà họ
từng nói tới; trọn cuộc đời ông ấy là một sự thất bại. Điều này vẫn còn khiến
cho bà nổi giận.
Bà đã tới cổng công viên. Bà đứng một
hồi, nhìn những chiếc xe buýt hai tầng trên phố Piccadilly.
Giờ bà sẽ không nói với bất kỳ một ai
trên đời rằng họ như thế này hoặc như thế nọ. Bà cảm thấy rất trẻ trung; đồng
thời lại già nua vô tả. Bà xắn như một lưỡi dao qua mọi thứ; đồng thời lại ở
ngoài lề, dõi nhìn theo. Bà có một cảm giác thường xuyên, trong lúc quan sát
những chiếc taxi, về tình trạng ở xa, thật xa, ngoài biển khơi và cô độc; bà
luôn có cảm giác rằng sống dù chỉ một ngày là rất, rất nguy hiểm. Bà không nghĩ
rằng mình thông minh hay quá khác biệt. Bà không thể nghĩ ra làm thế nào bà có
thể đi qua cuộc đời dựa vào vài nhánh kiến thức mà cô Daniels đã trao cho họ.
Bà chẳng biết gì hết; ngôn ngữ không, lịch sử không; hiện giờ bà ít khi đọc một
cuốn sách, ngoại trừ những cuốn hồi ký khi lên giường; thế nhưng đối với bà nó
cực kỳ hấp dẫn, tất cả những thứ này; những chiếc xe taxi chạy ngang qua; và bà
sẽ không nói về Peter. Bà sẽ không nói về mình, Tôi thế này, Tôi thế nọ.
Tài năng thiên phú duy nhất của bà là
hiểu biết mọi người hầu như bằng bản năng, bà nghĩ, tiếp tục bước đi. Nếu bạn
bỏ bà vào một căn phòng với ai đó, lưng bà sẽ cong lên như lưng một con mèo;
hoặc bà sẽ kêu rừ rừ như mèo. Tòa nhà Devonshire, tòa nhà Bath, ngôi nhà có con
vẹt mào Trung Quốc, có lần bà đã nhìn thấy chúng sáng rực ánh đèn; và nhớ tới
Sylvia, Fred, Sally Seton – những vị chủ nhà hiếu khách; và cuộc khiêu vũ suốt
đêm; những cỗ xe ngựa ra chợ nặng nề lướt qua; và trở về nhà qua công viên. Bà
nhớ có lần đã ném một đồng siling xuống hồ Serpertine. Nhưng người ta nhớ mọi
thứ; cái bà thích là điều này, tại đây, ngay lúc này, trước mặt bà; vị phu nhân
mập mạp trong cỗ xe. Vậy có quan trọng gì không, bà tự hỏi, việc đi về phía phố
Bond, có gì quan trọng không khi bà phải từ bỏ hoàn toàn, không tài nào tránh
khỏi; tất cả những thứ này phải tiếp diễn mà không có bà; bà có ghét bỏ nó
không? hay niềm tin rằng cái chết là sự kết thúc hoàn toàn không mang lại chút
an ủi nào? nhưng theo cách nào đó, trên những đường phố London, trên sự thăng
trầm của vạn vật, ở đây, ở đó, bà đã sống sót, Peter đã sống sót, sống trong
nhau, bà là một phần, bà chắc chắn, của những cây cối ở nhà, của ngôi nhà ở đó,
xấu xí, tất cả tan rã thành từng mảnh như đã diễn ra; là một phần của những
người bà chưa bao giờ gặp; đang trải ra như một làn sương mù giữa những người
bà biết rõ nhất, những người nâng bà lên nhánh cây của họ như bà đã nhìn thấy
những cây cối nâng một làn sương, nhưng nó lan trải ra xa mãi, cuộc đời bà, bản
thân bà. Nhưng bà đã mơ gì khi nhìn vào cửa sổ tiệm của Hatchard? Bà đang cố
khôi phục lại điều gì? Hình ảnh bình minh trắng nào ở miền quê, như bà đã đọc
trong cuốn sách bày bán công khai:
Đừng e sợ nữa sức nóng của vầng thái
dương,
Hay những cơn
thịnh nộ của mùa đông giận dữ[3]
Cái lứa tuổi muộn màng này của kinh
nghiệm trần thế đã nuốt chững tất cả bọn họ, đàn ông và phụ nữ, một cái giếng
đầy nước mắt. Những giọt lệ và những nỗi u sầu của lòng can đảm và sự chịu
đựng; một thái độ thẳng thắn và khắc kỷ tới độ hoàn hảo. Cứ nghĩ, chẳng hạn, về
người phụ nữ mà bà ngưỡng mộ nhất, Phu nhân Bexborough, đang mở cửa hàng phúc
thiện.
Có cuốn “Những chuyến dạo chơi và những cuộc hội hè của Jorrocks”[4];
có cuốn “Xát xà bông”[5],
“Những hồi ức của bà Asquith”[6]
và “Săn thú lớn ở Nigeria”[7],
tất cả đều bày bán công khai. Luôn có rất nhiều cuốn sách; nhưng dường như
không có cuốn nào hoàn toàn thích hợp để mang tới dưỡng đường cho Evelyn
Whitbread.
Khi Clarissa bước vào phòng, không
thứ gì có thể giúp cho bà ấy vui lên và làm cho vẻ ngoài của người phụ nữ nhỏ
bé đã khô héo không tài nào tả xiết đó trở nên thân mật, dù chỉ trong khoảnh
khắc; trước khi họ lấy lại sự điềm tĩnh cho cuộc chuyện trò tràng giang đại hải
thông thường về những chứng bệnh của phụ nữ. Bà mong muốn điều đó biết bao –
rằng trông mọi người sẽ hài lòng khi bà bước vào, Clarissa thầm nghĩ và quay
lưng bước trở lại phía phố Bond, bực dọc, vì việc phải có những lý do khác để
làm các thứ là điều xuẩn ngốc. Có lẽ tốt hơn bà nên nằm trong số những người
giống như Richard, những kẻ làm các thứ là vì chính bản thân chúng, bà nghĩ,
chờ để băng qua đường, nửa phần thời gian bà đã làm những thứ không đơn giản,
không vì chính bản thân chúng; mà là để mọi người suy nghĩ thế này thế khác; bà
biết vậy là hoàn toàn ngu ngốc (và lúc này viên cảnh sát giơ bàn tay lên) vì chưa
hề có ai bị lừa dù chỉ trong một giây. Hoặc giá mà bà có thể sống lại một lần
nữa đời mình! bà nghĩ, bước lên vệ đường, thậm chí có thể nhìn theo một cách
khác hẳn!
Trước hết, bà sẽ ngăm ngăm như Phu
nhân Bexborough, với một làn da giống như da thuộc và đôi mắt xinh đẹp. Bà sẽ,
giống như Phu nhân Bexborough, chậm rãi và trang nghiêm; khá to con; quan tâm
tới chính trị như một gã đàn ông; với một ngôi nhà nông thôn; rất có phẩm cách,
rất chân thành. Thay vì thế, bà có một thân hình nhỏ nhắn mảnh khảnh; một gương
mặt nhỏ bé buồn cười, nhọn như mỏ của một con chim. Đúng là bà duy trì tốt vóc
dáng của mình; có đôi bàn tay và bàn chân đẹp, và ăn mặc coi được, nếu xét tới
việc bà tiêu tiền ít. Nhưng thường thường hiện giờ, cái thân thể bà mang (bà
dừng lại để nhìn một bức tranh Hà Lan), cái thân thể này, với mọi khả năng của
nó, dường như không có gì – không có gì cả. Bà có một ý nghĩ kỳ quặc nhất về
việc mình trở nên vô hình; không ai nhìn thấy; không ai biết tới; lúc này không
còn hôn nhân, không còn con cái, mà chỉ còn quá trình lạ lùng và khá nghiêm
trang với số còn lại bọn họ, ngược lên phố Bond, bà Dalloway đang hiện hữu này;
thậm chí không còn Clarissa; chỉ bà Richard Dalloway đang hiện hữu này.
Phố Bond mê hoặc bà; phố Bond vào
buổi sớm mai của mùa này; những lá cờ đang tung bay; những cửa hiệu; không nước
văng tung tóe; không ánh sáng lấp lánh; một cuộn vải tuýt trong cửa tiệm nơi
cha bà đã mua những bộ comlê trong suốt năm mươi năm; vài hạt ngọc trai; cá hồi
trên một tảng nước đá.
“Đó là tất cả,” bà nói, nhìn tiệm của
người bán cá. “Đó là tất cả,” bà lặp lại, dừng lại giây lát ở cửa sổ của một
tiệm bán găng tay, nơi mà, trước chiến tranh, bạn có thể mua những đôi găng tay
gần như tuyệt hảo. Và ông chú già William của bà thường bảo một quý cô được biết
tới nhờ giày và găng tay của cô ta. Một sáng nọ giữa cuộc chiến ông đã trở
người trên cái giường. Ông đã nói, “Chú đã có đủ rồi.” Những đôi găng tay và
giày; bà có một đam mê đối với những đôi găng tay; nhưng con gái của bà, Elizabeth của bà, không
hề quan tâm tới thứ nào trong số đó.
Không một mảy may, bà nghĩ, đi tiếp
dọc phố Bond tới một cửa hiệu nơi họ để dành hoa cho bà khi bà tổ chức một bữa
tiệc. Elizabeth
thật sự quan tâm tới con chó của nó hơn tất cả mọi thứ. Cả ngôi nhà sáng nay
đầy mùi hắc ín. Tuy nhiên con chó Grizzle tội nghiệp vẫn tốt hơn là cô Kilman;
chứng sốt ho của chó và hắc ín và tất cả những thứ còn lại vẫn tốt hơn là việc
ngồi ê a trong một căn phòng ngủ ngột ngạt với một cuốn kinh cầu nguyện! Tốt
hơn bất cứ thứ gì, bà có ý muốn nói thế. Nhưng có thể nó chỉ là một cụm từ, như
Richard nói, giống cụm từ cửa miệng của tất cả mọi cô gái. Có thể đó là trạng
thái của tình yêu. Nhưng sao lại với cô Kilman? Người dĩ nhiên đã bị đối xử một
cách tệ hại; người ta phải khoan dung cho điều đó, và Richard bảo cô ta có khả
năng, thật sự có đầu óc về mặt lịch sử. Dù sao, không thể tách rời họ được, và
Elizabeth, con gái của bà, đã tới dự cuộc họp nhóm đạo; nó đã ăn mặc đẹp biết
bao, nó đã đối xử tốt biết bao với những người tới ăn trưa mà nó không hề quan
tâm chút xíu nào, theo kinh nghiệm của bà, trạng thái mê ly trong tôn giáo
khiến mọi người trở nên tàn nhẫn (những chính nghĩa cũng vậy); làm u mê những
cảm giác của họ, vì cô Kilman sẽ làm bất cứ điều gì cho những người Nga, chịu
đói gần chết vì những người Úc, nhưng lại kín đáo gây đau khổ cho người khác;
cô ta rất vô cảm, mặc một cái áo khoác vải cao su màu lục. Cô ta mặc cái áo đó
hết năm này sang năm khác; cô ta toát mồ hôi; cô ta không bao giờ ở trong phòng
năm phút mà không khiến cho bạn cảm thấy sự ưu việt của cô ta, sự thấp kém của
bạn; cô ta nghèo khổ ra sao; bạn giàu có ra sao; cô ta sống ra sao trong một
khu ổ chuột, không một tấm màn, một cái giường, một tấm thảm hay bất cứ thứ gì
có thể có, toàn bộ linh hồn của cô ta trở nên han rỉ với nỗi thống khổ gắn chặt
vào nó; cô ta bị sa thải khỏi trường trung học hồi chiến tranh – một con người
tội nghiệp rất đỗi không may! Vì không phải người ta ghét cô ta mà ghét cái ý
tưởng về cô ta, mà không ngờ gì nữa, đã tự nó tập hợp trong chính nó nhiều thứ
không phải là cô Kilman; đã trở thành một trong những bóng ma mà người ta chiến
đấu với chúng trong đêm; một trong những bóng ma đứng dạng chân bên trên chúng
ta và hút lấy nửa phần máu huyết của chúng ta, những kẻ thống trị và những tên
bạo chúa; vì không ngờ gì nữa, với một cú gieo súc sắc khác, hẳn bà sẽ yêu mến
cô Kilman nếu như người da đen có địa vị cao hơn người da trắng! Nhưng không
phải trong cõi đời này. Không.
Tuy nhiên, việc con quái vật hung bạo
này khuấy động trong lòng khiến bà thấy khó chịu! Việc nghe thấy tiếng những
nhánh cây gãy răng rắc và cảm thấy những cái móng guốc nện xuống những chiều
sâu của khu rừng ngập lá đó, linh hồn; không bao giờ cảm thấy hoàn toàn hài
lòng, hay hoàn toàn có an ninh, vì con quái vật đó sẽ khuấy động vào bất cứ lúc
nào, niềm căm ghét đó, nhất là từ khi bà bị bệnh, có khả năng khiến cho bà cảm
thấy bị cào cấu, bị gây thương tổn bên trong xương sống; mang tới cho bà nỗi
đau thể chất, và khiến cho mọi lạc thú trong vẻ đẹp, trong tình bạn, trong cuộc
sống an lành, trong việc được yêu thương và mang lại niềm vui cho ngôi nhà của
bà bị chấn động, run rẩy và cong oằn như thể thật sự có một con quái vật đang
đào xới trên mái nhà, như thể toàn bộ chiếc áo giáp của sự hài lòng không là gì
khác ngoài tình yêu chính bản thân mình! Niềm căm ghét này!
Vớ vẩn, vớ vẩn! Bà kêu lên với chính
mình, đi ào qua những cánh cửa xoay của những tiệm bán hoa trên phố Mulberry.
Bà tiến tới, nhẹ nhàng, cao, người
rất thẳng, được chào hỏi ngay lập tức bởi cô Pym có gương mặt tròn xoe và đôi
bàn tay luôn đỏ ửng, như thể chúng đã bị nhúng trong nước lạnh cùng với những
nhánh hoa.
Một trang bản thảo viết tay tác phẩm Mrs Dalloway của Woolf
Có nhiều loại hoa: phi yến, đậu hoa, những chùm tử đinh hương; và hoa cẩm chướng, hàng đống hoa cẩm chướng. Có hoa hồng; có hoa diên vĩ. Ồ, phải – bà hít vào mùi thơm ngọt ngào của khu vườn địa đàng trong lúc đứng trò chuyện với cô Pym, người chịu sự giúp đỡ của bà, và nghĩ rằng bà tử tế, vì bà đã tử tế từ nhiều năm trước; rất tử tế, nhưng năm nay trông bà già hơn, đang xoay đầu từ phía này sang phía khác giữa những đóa hoa diên vĩ và hoa hồng, và gật đầu chào những chùm tử đinh hương với đôi mắt khép hờ, hít vào mùi thơm ngào ngạt, sự dịu mát tuyệt trần, sau cảnh náo nhiệt trên phố xá. Và sau đó, khi mở mắt ra, những bông hồng nằm trong những cái khay đan bằng nhánh liễu gai trông tươi tắn như tấm vải lanh xếp nếp vừa mới giặt sạch từ một tiệm giặt ủi; và những bông cẩm chướng đỏ thẫm, nghiêm trang, đang ngẩng cao đầu; và tất cả những bông đậu hoa trải ra trong những cái bát, tím man mác, trắng tuyết, xanh nhạt – như thể đang là chiều tối và những nàng thiếu nữ mặc váy dài vừa bước ra để hái những bông đậu hoa và bông hồng sau khi một ngày hè huy hoàng, với bầu trời gần như xanh thẫm, với những đóa hoa phi yến, hoa cẩm chướng và huệ trắng, đã trôi qua; và đây là khoảnh khắc giữa sáu và bảy giờ khi mọi loài hoa – hoa hồng, phi yến, diên vĩ, tử đinh hương – tỏa sáng; trắng, tím, đỏ, cam đậm; mỗi bông hoa dường như tự bốc cháy một cách mềm mại, thuần khiết trong những luống đất mờ sương; và bà yêu biết bao những con bướm đêm trắng xám đang bay vòng vòng, trên cái bánh nướng màu đỏ anh đào, trên những đóa hoa anh thảo ban chiều!
Và trong lúc bà bắt đầu đi cùng cô
Pym từ chậu hoa này sang chậu hoa khác, chọn lựa, bà tự nhủ, vớ vẩn, vớ vẩn,
ngày càng dịu dàng hơn, như thể vẻ đẹp này, mùi thơm này, màu sắc này, và việc
cô Pym yêu quý bà, tin cậy bà, là một làn sóng mà bà để cho lướt trôi qua người
mình và trùm lên niềm căm ghét đó, con quái vật đó, bao trùm lên tất cả; và nó
nâng bà lên cao, lên cao mãi khi – Ồ! Có một tiếng pít-tông nổ trên đường phố
bên ngoài!
“Trời, mấy chiếc xe hơi đó!” cô Pym
nói, bước tới cửa sổ để nhìn, quay trở lại, với những bông đậu hoa đầy ắp trên
đôi cánh tay, và mỉm cười với vẻ hối lỗi như thể những chiếc xe hơi đó, những
cái lốp xe hơi đó, tất cả đều là lỗi của cô ta.
Cú nổ thô bạo khiến cho bà Dalloway
nhảy nhổm lên và cô Pym đi tới cửa sổ và xin lỗi xuất phát từ một một chiếc xe
hơi đã được lôi sang một phía vệ đường ngay đúng chỗ đối diện với cửa sổ của
tiệm Mulberry. Những khách qua đường dừng lại và dòm ngó, dĩ nhiên, đã có đủ
thời gian để nhìn thấy một gương mặt rất quan trọng nổi lên trên tấm màn dày
màu xám bồ câu, trước khi một bàn tay đàn ông kéo bức màn xuống và người ta
không còn thấy gì nữa trừ một ô vuông màu xám bồ câu.
Thế nhưng lời đồn thổi ngay lập tức
lan truyền từ giữa phố Bond tới phố Oxford ở đầu này, tới tiệm nước hoa của
Atkinson ở đầu kia, lan đi một cách vô hình, vô thanh, như một đám mây mỏng như
voan trôi nhanh trên những ngọn đồi, thật sự buông rơi trên những gương mặt mà
chỉ một giây trước đó cực kỳ rối loạn sự điềm tĩnh và lặng lẽ bất ngờ của một
đám mây. Nhưng giờ đây sự bí ẩn đã quét đôi cánh của mình qua họ; họ đã nghe
một giọng nói đầy quyền lực; linh hồn của tôn giáo đang ra ngoài dạo chơi với
đôi mắt che kín và đôi môi mở rộng. Nhưng không ai biết người ta đã nhìn thấy
gương mặt của ai. Có phải đó là mặt của Hoàng tử xứ Wales, của Hoàng hậu, của
Thủ tướng? Đó là gương mặt của ai? Không ai biết.
Edgar J. Watkiss, với cuộn ống chì quấn
quanh cánh tay, nói lớn tiếng, với một vẻ hài hước, tất nhiên: “Xơ của Thủ
táng.[8]”
Septimus Warren Smith, kẻ nhận ra mình không thể đi qua, đã nghe
thấy lời của anh ta.
Septimus Warren Smith, độ ba mươi
tuổi, mặt mày nhợt nhạt, mũi khoằm, mang một đôi giày nâu và mặc một chiếc áo khoác
tồi tàn, với đôi mắt màu nâu lục nhạt chứa đựng một nỗi e sợ khiến cho những
người hoàn toàn xa lạ cũng trở nên e sợ. Thế giới đã vung ngọn roi của nó lên;
nó sẽ hạ xuống chỗ nào?
Mọi thứ trở nên bất động. Tiếng xình
xịch của những động cơ xe hơi nghe như thể một mạch máu đang đập dồn dập một
cách bất thường qua toàn bộ một cơ thể. Mặt trời trở nên nóng lạ lùng vì chiếc
xe hơi đã dừng ở bên ngoài cửa sổ tiệm Mulberry; những quý bà lớn tuổi trên
tầng hai của những chiếc xe buýt hai tầng bung mấy cái ô đen của họ ra; chỗ này
một cái ô xanh lục, chỗ nọ một cái ô đỏ mở ra với một tiếng bụp nho nhỏ. Bà
Dalloway bước tới cửa sổ nhìn ra với đôi tay ôm đầy những nhánh đậu hoa, gương
mặt nhỏ nhắn hồng hào cau lại với vẻ dò hỏi. Mọi người đều nhìn vào chiếc xe hơi.
Septimus nhìn. Những cậu bé cưỡi xe đạp nhảy xuống xe. Giao thông ùn tắt. Và
chiếc xe hơi nằm chình ình ở đó, với những tấm màn buông kín, và bên trên chúng
là một hình vẽ lạ lùng giống như một cái cây, Septimus nghĩ, và cái cây này dần
dà thu hút mọi thứ tới một điểm trung tâm trước mắt anh, như thể một điều kinh
khủng nào đó đã gần như lên tới bề mặt và sắp sửa bùng lên thành những ngọn
lửa, khiến anh hoảng hốt. Thế giới chao động, run rẩy và đe dọa bùng lên thành
những ngọn lửa. Mình chính là người chắn đường, anh nghĩ. Không phải mọi người
đang nhìn ngó và chỉ vào anh; không phải anh đứng thừ ra đó, chôn chân trên vỉa
hè, là vì một mục đích hay sao? Nhưng vì mục đích gì?
“Chúng ta đi tiếp đi, Septimus.” Vợ
anh nói. Một phụ nữ nhỏ nhắn, với đôi mắt to trên một gương mặt nhọn vàng bủng;
một cô gái Ý.
Nhưng bản thân Lucrezia không thể
không nhìn vào chiếc xe và hình vẽ cái cây trên những tấm màn. Có phải Hoàng
hậu ở trong đó không – có phải bà đang đi mua sắm?
Tay tài xế, lúc nãy đã mở thứ gì đó,
xoay thứ gì đó, đóng thứ gì đó lại, trèo lại vào xe.
“Đi thôi.” Lucrezia nói.
Nhưng chồng cô, vì họ đã lấy nhau
được bốn năm năm, nhảy chồm lên, nhìn chòng chọc, và bảo: “Được rồi!” một cách
giận dữ, như thể cô đã cắt ngang ý nghĩ của anh.
Hẳn mọi người đã chú ý; hẳn mọi người đã thấy. Mọi người,
cô nghĩ, nhìn đám đông đang chong mắt ngó vào chiếc xe hơi; người Anh, với con
cái, lũ ngựa và quần áo của họ, mà cô ngưỡng mộ theo cách nào đó; nhưng giờ họ
là “mọi người,” vì Septimus đã nói: “Tôi sẽ tự sát”; nói ra một điều kinh khủng
như thế. Giả sử họ đã nghe thấy anh ta? Cô nhìn đám đông. Giúp với, giúp với!
Cô muốn kêu lên với những cậu bé và những người phụ nữ giúp việc cho những ông
chủ hàng thịt. Giúp với! Mới mùa thu trước cô và Septimus đã đứng ở bến tàu, quấn
chung một tấm áo choàng, và Septimus đang đọc một tờ báo thay vì nói chuyện, cô
đã giật phắt nó khỏi tay anh và cười chế giễu ông già đang nhìn họ! Nhưng người
ta che đậy sự thất bại. Cô phải đưa anh ta vào một công viên nào đó.
“Giờ chúng sẽ băng qua đường.” Cô
nói.
Cô ta có một quyền hạn đối với cánh
tay của anh, dù anh không hề có chút cảm giác nào. Anh sẽ trao tay cho cô ta,
kẻ rất đơn giản, rất bốc đồng, chỉ mới hai mươi bốn tuổi, không có người bạn
nào ở Anh, đã rời nước Ý vì anh, một mẩu xương.
Chiếc xe hơi với những tấm màn buông
phủ và một vẻ bí hiểm tiếp tục tiến tới phố Piccadilly, vẫn bị dòm ngó săm soi,
vẫn làm cho những gương mặt ở cả hai bên đường gợn lên cùng một hơi thở sùng
kính ảm đạm mà không ai biết là dành cho Hoàng hậu, Hoàng tử hay Thủ tướng. Bản
thân gương mặt đó chỉ bị ba người nhìn thấy một lần duy nhất trong vài giây.
Ngay cả giới tính lúc này cũng đang trong vòng tranh cãi. Nhưng chắc chắn là có
nhân vật lớn đang ngồi trong đó; nhân vật lớn đã đi ngang, ẩn nấp, xuôi xuống
phố Bond, chỉ di chuyển cách những thường dân chiều rộng của một bàn tay. Có
thể đây là lần đầu tiên và lần cuối cùng họ ở trong phạm vi nói chuyện với
hoàng tộc nước Anh, với cái biểu tượng lâu dài của quốc gia sẽ được những nhà
khảo cổ hiếu kỳ biết tới, khi chọn lọc những tàn tích của thời gian, khi London
là một con đường mòn um tùm cỏ và tất cả những kẻ hối hả dọc vỉa hè đó trong
buổi sáng Thứ tư này chỉ còn là những khúc xương với vài chiếc nhẫn cưới trộn
lẫn trong tro tàn của họ và những lớp vàng trám răng của vô số cái răng sâu.
Khi đó gương mặt trong chiếc xe hơi sẽ được biết tới.
Có lẽ đó là Hoàng hậu, bà Dalloway
nghĩ, bước ra khỏi tiệm Mulberry với những bó hoa; Hoàng hậu. Và trong giây
lát, bà khoác lên một vẻ ngoài cực kỳ phẩm giá khi đứng cạnh tiệm bán hoa dưới
ánh mặt trời trong lúc chiếc xe chạy ngang qua với vận tốc đi bộ, những tấm màn
buông kín. Hoàng hậu sẽ tới một bệnh viện nào đó; Hoàng hậu đang mở một cửa
hàng phúc thiện nào đó, Clarissa nghĩ.
Sự chen lấn xô đẩy thật là kinh khủng
đối với giờ này trong ngày. Lords, Ascot, Hurlingham, sân nào nhỉ? Bà tự hỏi,
vì con đường đã bị nghẽn. Những tầng lớp trung lưu nước Anh đang ngồi nghiêng
người ở tầng trên những chiếc xe buýt hai tầng với những cái gói và những chiếc
ô, vâng, thậm chí cả áo lông, trong một ngày như thế này, thật lố bịch, thật
khác với bất cứ điều gì người ta có thể hình dung; và bản thân Hoàng hậu đã bị
trì hoãn; bản thân Hoàng hậu không thể đi qua. Clarissa bị kẹt lại ở một phía
của phố Brook; ngài John Buckhurst, vị thẩm phán già ở phía bên kia, với chiếc
xe ở giữa họ (ngài John đã nghỉ hưu nhiều năm nay và ưa thích một phụ nữ ăn mặc
đẹp) khi tay tài xế, hơi nghiêng người, nói hay chỉ gì đó cho viên cảnh sát,
tay này cúi đầu chào, giơ cánh tay lên và hất đầu, dời chiếc xe buýt hai tầng
sang một bên và chiếc xe hơi chạy qua. Chậm rãi và rất yên lặng, nó tiến theo
con đường của nó.
Clarissa đã đoán ra; Clarissa đã biết, tất nhiên; bà đã
nhìn thấy một cái gì đó màu trắng, kỳ diệu, hình tròn, trong bàn tay của tay
người hầu, một cái đĩa khắc một cái tên – của Hoàng hậu, của Hoàng tử xứ Wales,
hay của Thủ tướng? – mà, với sức mạnh tự thân của vẻ huy hoàng, đã lóe lên
(Clarissa nhìn thấy chiếc xe xa dần, biến mất) để bừng sáng giữa những giá đèn
chùm, những vì sao lấp lánh, những bộ ngực căng cứng với những chiếc lá sồi,
Hugh Whitbread và tất cả những đồng nghiệp của ông ta, những quý ông của nước
Anh, trong đêm đó ở điện Buckingham. Và cả Clarissa cũng tổ chức một bữa tiệc.
Bà hơi cứng người một chút; vì thế bà sẽ đứng ở đầu cầu thang.
Chiếc xe hơi đi khỏi, nhưng nó đã để lại một gợn sóng lăn
tăn tràn qua những cửa tiệm bán găng tay, tiệm bán mũ và tiệm may ở cả hai bên
đường của phố Bond. Trong ba mươi giây, tất cả những cái đầu đều nghiêng về một
hướng – tới cái cửa sổ. Chọn một cặp găng tay – chúng nên dài tới bên dưới hay
bên trên cùi chỏ, màu vàng chanh hay màu xám nhạt? – các quý bà dừng lại; khi
câu nói kết thúc đã có điều gì đó xảy
ra. Một điều gì đó rất tầm thường trong những trường hợp đơn lẻ mà không thiết
bị toán học nào, dù có khả năng truyền được những chấn động của Trung Quốc, có
thể ghi lại sự rung động; thế nhưng trạng thái viên mãn của nó khá dữ dội và sự
tầm thường của nó đòi hỏi cảm xúc; vì trong tất cả những tiệm mũ và tiệm may
những người xa lạ nhìn nhau và nghĩ tới những người chết; tới lá quốc kỳ; tới
Đế chế. Trong một tiệm rượu ở một phố hậu, một gã thuộc dân đã thóa mạ Hoàng
gia Anh dẫn tới lời qua tiếng lại, những ly bia bị vỡ, và một cuộc cãi lộn om
xòm, vang dội đến lạ lùng suốt quãng đường trong tai của những thiếu nữ đang
mua áo lót trắng đính ruy băng trắng cho đám cưới của họ. Bởi sự bối rối bề mặt
của chiếc xe đang chạy ngang qua khi chìm xuống đã lướt qua một điều gì đó rất
sâu xa.
Lướt ngang qua phố Piccadilly, chiếc xe hơi quẹo xuống phố St.
James. Những người đàn ông cao lớn, những người đàn ông lực lưỡng, những người
đàn ông ăn mặc lịch sự với những chiếc áo đuôi tôm, áo sơ-mi trắng và tóc chải
vuốt ra sau gáy, những người, vì những lý do khó phân biệt, đang đứng trong cửa
sổ hình vòm của câu lạc bộ Brooks’s[9],
với đôi bàn tay đặt sau đuôi áo khoác, đang nhìn ra, ý thức một cách bản năng
rằng nhân vật lớn vừa mới đi ngang, và ánh sáng nhợt nhạt của sự hiện diện bất
tử trùm lên họ như đã trùm lên Clarissa Dalloway. Ngay lập tức, họ đứng thậm
chí thẳng hơn, bỏ tay xuống, và dường như sẵn sàng theo chân Quốc chủ của họ,
nếu cần, tới họng khẩu đại bác, như những tiền nhân của họ đã làm trước đó.
Những bức tượng bán thân trắng toát và những cái bàn nhỏ ở phía sau, bị che lấp
bởi những cuốn tạp chí Tatler và những chai xô-đa, dường như cũng tán thành;
dường như biểu thị cho cánh đồng lúa xào xạc và những thái ấp của nước Anh, và
đáp lại tiếng bánh xe lăn lao xao như những bức tường của một hành lang thì
thầm mở rộng và tạo âm vang cho một giọng nói đơn lẻ bởi sức mạnh của toàn thể
một giáo đường. Shawled Moll với những bó hoa của mình trên vệ đường đã chúc
cậu bé thân yêu an lành (tất nhiên đó là Hoàng tử xứ Wales) và hẳn sẽ tung số
tiền bằng giá của một ca bia – một bó hoa hồng – vào phố St. James vì sự bốc
đồng và lòng khinh miệt sự nghèo túng nếu như bà không nhìn thấy ánh mắt của
viên cảnh sát đang dán vào mình, làm thui chột lòng trung thành của một bà già
Ái Nhĩ Lan. Những tay lính gác ở phố St. James cúi chào; viên cảnh vệ của Hoàng
hậu Alexandra tiếp nhận.
Trong lúc đó một đám đông nhỏ đã tập trung ở những cánh
cổng của Điện Buckingham. Cả bọn đều là những người nghèo, bơ phờ nhưng tự tin,
họ chờ đợi; nhìn vào bản thân cung điện với lá cờ đang tung bay; nhìn vào tượng
Nữ hoàng Victoria sừng sững trên cái bục, ngưỡng mộ những thềm nước chảy của
bà, những bụi phong lữ của bà; chọn từ những chiếc xe hơi trên đường The Mall,
trước tiên chiếc này, rồi tới chiếc kia, tỏ bày cảm xúc một cách vô ích với
những thường dân lái xe ra phố; khôi phục lại lòng tôn kính của họ, gìn giữ
không để cho nó lụi tàn trong lúc hết chiếc xe hơi này tới chiếc khác chạy qua;
và suốt thời gian đó vẫn để cho lời đồn tích tụ lại trong huyết mạch của họ và
rung động những dây thần kinh trong đùi họ với ý nghĩ về việc Hoàng gia đang nhìn
họ; Hoàng hậu đang chào; Hoàng tử đang chào; với ý nghĩ về cuộc sống thiên
đường mà những vị vua đã được ban tặng một cách tuyệt vời; về những viên quan
hầu cận và những cái nhún gối sâu; về căn nhà búp bê của Hoàng hậu; về việc
Công chúa Mary đã lấy một người Anh, và Hoàng tử – Chà! Hoàng tử! người giống
Đức vua già Edward một cách kỳ diệu, họ bảo, nhưng mảnh mai hơn nhiều. Hoàng tử
sống ở phố St. James; nhưng chàng có thể tới thăm mẹ chàng vào buổi sáng.
Sarah Bletchley nói thế với đứa bé
trên tay chị, nhón lên nhón xuống như thể chị đang đứng cạnh tấm chắn lò sưởi
của mình ở Pimlico, nhưng vẫn dõi mắt vào con đường, trong lúc Emily Coates
nhìn khắp các những cửa sổ cung điện và nghĩ tới những nàng hầu, vô số nàng
hầu, những căn phòng ngủ, vô số căn phòng ngủ. Đám đông tăng lên khi có sự tham
gia của một quý ông cao tuổi cùng một con chó săn Aberdien và những người đàn
ông thất nghiệp. Anh chàng bé nhỏ Bowley, người có những căn phòng ở khu phố
Albany và bị niêm phong bằng sáp những nguồn sống sâu xa hơn nhưng có thể gỡ bỏ
niêm phong một cách bất ngờ, không thích đáng, đầy cảm xúc bởi chính sự kiện
này – những phụ nữ nghèo đang chờ để trông thấy Hoàng hậu đi qua – những phụ nữ
nghèo, những đứa con côi, những người góa phụ, cuộc chiến tranh – chậc chậc –
thật sự có những giọt lệ trong mắt anh. Một làn gió nhẹ thật ấm áp lướt dọc con
đường The Mall, qua những hàng cây gầy guộc, qua những vị anh hùng bằng đồng,
cuốn lên một lá cờ đang phất phới tung bay trong lồng ngực người Anh của Bowley
và anh nhấc mũ khi chiếc xe hơi quẹo vào đường The Mall, giơ cao nó khi chiếc
xe tới gần; mặc cho những bà mẹ nghèo ở khu Pimlico áp sát vào mình, và đứng
thật thẳng. Chiếc xe hơi chạy tới.
Đột nhiên chị Coates ngẩng lên nhìn bầu trời. Âm thanh
của một chiếc phi cơ xoáy vào tai của đám đông như một điềm gỡ. Nó đang bay tới
trên những hàng cây, phụt khói trắng ra sau, làn khói cuộn tròn và xoắn lại,
thật sự đang viết ra một điều gì đó! Đang tạo nên những mẫu tự giữa bầu trời!
Mọi người ngẩng lên nhìn.
Chiếc phi cơ bổ nhào thẳng xuống,
gầm lên, lượn một vòng, chìm xuống, ngóc lên, và bất kể nó làm gì, bất kể nó
bay tới đâu, dập dờn phía sau nó một luồng khói trắng dày đặc uốn cong và kết
lại thành những mẫu tự giữa bầu trời. Nhưng chữ gì? Phải là A C không? Một chữ
E, rồi một chữ L? Chúng chỉ nằm yên chốc lát, rồi di chuyển và tan ra và bị xóa
đi khỏi bầu trời, và chiếc máy bay vọt ra xa rồi quay lại, trong một không gian
bầu trời mới, bắt đầu viết một chữ K, một chữ A, và có lẽ một chữ Y?
“Glaxo,” chị Coates nói với một giọng
căng thẳng, sợ sệt, ngẩng lên nhìn, và em bé con chị, nằm cứng đơ và trắng bóc
trên tay chị, cũng ngẩng lên nhìn.
“Kreemo,” chị Bletchley thì thào,
như một kẻ mộng du. Với cái mũ giơ ra, bất động một cách hoàn hảo trong bàn
tay, anh Bowley nhìn thẳng lên. Dọc suốt con đường The Mall mọi người đang đứng
và nhìn lên bầu trời. Trong lúc họ nhìn, toàn thế giới bắt đầu im lặng một cách
hoàn hảo, và một đàn hải âu băng ngang qua bầu trời, đầu tiên là một con dẫn
đường, rồi tới con khác, và trong sự im lặng và thanh bình khác thường này,
trong vẻ xanh xao này, trong sự thuần khiết này, những cái chuông ngân lên mười
một tiếng, âm thanh bốc cao tan loãng giữa đàn chim hải âu.
Chiếc phi cơ quay lại, lao nhanh và
sà xuống đúng nơi nó muốn, một cách nhanh nhẹn, tự do, một người trượt băng…
“Đó là một chữ E,” chị Bletchley,
hay một vũ công, nói.
“Đó là chữ toffee,” anh Bowley lẩm
bẩm – (chiếc xe hơi tiến vào cổng, và không ai nhìn nó), và luồng khói bị cô
lập, ngày càng cuốn ra xa, tan dần và hòa vào những dải mây trắng thênh thang.
Nó đã biến mất; nó đã nằm phía sau
những đám mây. Không còn âm thanh. Những đám mây mà các mẫu tự E, G hay L đã
gắn vào di chuyển một cách tự do, như thể đã dự định băng từ Tây sang Đông
trong một sứ mệnh tối quan trọng không bao giờ tiết lộ ra, thế nhưng chắc chắn
đúng là thế – một sứ mệnh tối quan trọng. Thế rồi đột nhiên, như một con tàu
lao ra khỏi một đường hầm, chiếc phi cơ lại vọt ra khỏi những đám mây, âm thanh
xoáy vào tai của tất cả mọi người trên đường The Mall, trong công viên Green,
trong phố Piccadilly, phố Regent’s, công viên Regent’s, một cột khói cuộn lên
phía sau nó và nó sà xuống, rồi bay vút lên, viết hết mẫu tự này sang mẫu tự
khác – nhưng nó đang viết chữ gì?
Lucrezia Warren Smith, đang ngồi
cạnh chồng mình trên một cái ghế trên đường Broad Walk trong công viên
Regent’s, nhìn lên.
“Nhìn kìa, nhìn kìa, anh Septimus!”
Cô kêu lên. Vì bác sĩ Holmes đã bảo cô phải làm cho chồng cô (kẻ không bị bất
kỳ bệnh gì nghiêm trọng mà chỉ hơi khó ở) chú ý tới mọi sự vật bên ngoài.
Vậy là, Septimus nghĩ, nhìn lên,
chúng đang ra hiệu cho mình. Thật ra không phải là những từ thật sự; nghĩa là,
anh chưa thể đọc được thứ ngôn ngữ này; nhưng nó khá đơn giản, cái vẻ đẹp này,
cái vẻ đẹp tinh tế này, và mắt anh rưng lệ khi anh nhìn những từ làm bằng khói
đang tan chảy dần giữa bầu trời và ban tặng cho anh với lòng từ thiện vô cùng
tận và tinh chất của tiếng cười hết hình dáng này tới hình dáng khác của vẻ đẹp
phi thường và đang ra hiệu về dự định của chúng nhằm cung cấp cho anh vẻ đẹp, thêm
nhiều vẻ đẹp, mà không đòi hỏi gì đáp lại, mãi mãi, đơn thuần chỉ để nhìn!
Những giọt lệ lăn xuống đôi gò má của anh.
Nó là toffee [kẹo bơ cứng]; họ đang
quảng cáo kẹo bơ cứng, một người vú em nói với Rezia. Họ bắt đầu cùng nhau đánh
vần t… o… f…
“K…. R….” người bảo mẫu nói, và
Septimus nghe chị ta nói “Kay, Arrr” sát bên tai anh, sâu thẳm, dịu dàng, như
một tiếng đàn organ êm dịu, nhưng với một chút thô kệch trong giọng của chị ta
như tiếng kêu của một con châu chấu, nó nạo vào xương sống của anh một cách
tuyệt vời và chuyển lên bộ não của anh những làn sóng âm thanh chấn động, vỡ
tung. Thật là một phát hiện diệu kỳ – rằng giọng của con người trong những điều
kiện khí quyển nhất định (vì người ta phải có đầu óc khoa học, trên hết tất cả
là đầu óc khoa học) có thể làm cho cây cối mọc nhanh hơn! Rezia hạnh phúc đặt
bàn tay cô với một sức nặng to lớn lên đầu gối của anh để anh trở nên nặng nề,
chết sững, không thì sự phấn khích của những cây du đang dâng lên và hạ xuống –
dâng lên hạ xuống với toàn bộ những chiếc lá cháy bùng lên và màu sắc mỏng đi,
dày lên từ màu xanh dương sang màu xanh lục của một lượn sóng trũng sâu, giống
như những chiếc lông chim gắn trên đầu lũ ngựa, những chiếc lông vũ trên đầu
của các quý bà, chúng dâng lên hạ xuống một cách rất đỗi kiêu hãnh, rất đỗi mỹ
lệ – sẽ khiến anh nổi điên lên. Nhưng anh sẽ không nổi điên. Anh sẽ nhắm mắt
lại; anh sẽ không nhìn thấy gì nữa.
Nhưng chúng đã ra hiệu; những chiếc
lá sống động; những cây du sống động, và những chiếc lá được nối với cơ thể của
anh, trên cái ghế ở đó, bởi hàng triệu thớ sợi, thổi nó bay lên hạ xuống; khi
những nhánh cây vươn ra, cả anh cũng tạo nên ấn tượng đó. Những con chim sẻ vỗ
cánh, cất mình lên và rơi vào những vòi phun nước lởm chởm là một phần của mô
hình; trắng và xanh, bị chặn lại với những nhánh cây đen. Những âm thanh hòa
điệu với hành động có chủ tâm; những khoảng không gian giữa chúng cũng quan
trọng như những âm thanh. Một đứa bé khóc. Từ xa vọng lại một tiếng còi. Kết
hợp lại tất cả có nghĩa là sự chào đời của một tôn giáo mới…
“Septimus!” Rezia nói. Anh giật nảy
cả người lên. Hẳn là mọi người phải nhìn thấy.
“Em sẽ đi tới chỗ đài phun nước và
quay lại,” cô nói.
Vì cô không chịu đựng được nữa. Bác
sĩ Holmes có thể nói không có chuyện gì quan trọng. Cô muốn thà là anh chết cho
rồi! Cô không thể ngồi cạnh anh khi anh nhìn chòng chọc như thế mà không thấy
cô và khiến cho mọi thứ trở nên kinh khủng; bầu trời và cây cối, trẻ em đang nô
đùa, những cỗ xe ngựa đang chậm chạp lăn bánh, những cái còi đang thổi, đang
rơi xuống; tất cả đều kinh khủng. Và anh sẽ không tự sát; và cô không thể nói
với một ai. “Septimus đã làm việc quá vất vả” – đó là tất cả những gì cô có thể
nói với mẹ cô. Tình yêu khiến cho người ta cô độc, cô nghĩ. Hiện giờ cô không
thể nói với một ai, ngay cả với Septimus, và quay nhìn lại, cô thấy anh đang
ngồi một mình trong chiếc áo khoác tồi tàn, trên cái ghế, lưng khòm xuống, nhìn
chòng chọc. Và một người đàn ông thật hèn hạ khi nói anh ta sẽ tự sát, nhưng
Septimus đã chiến đấu, anh dũng cảm; anh không phải là Septimus hiện giờ. Cô
thắt dây cổ áo lại. Cô đội cái mũ mới lên và anh không bao giờ chú ý tới; và
anh hạnh phúc mà không cần tới cô. Không gì có thể làm cho cô hạnh phúc nếu
không có anh! Không gì cả! Anh ích kỷ. Những người đàn ông đều như vậy. Vì anh
không bị ốm. Bác sĩ Holmes đã bảo anh chẳng có vấn đề gì cả. Cô duỗi bàn tay ra
trước mặt. Coi kìa! Chiếc nhẫn cưới của cô bị tuột – cô đã trở nên gầy quá.
Chính cô là người gánh chịu khổ đau – nhưng cô không có ai để nói.
Xa rồi nước Ý và những con ngựa
trắng và căn phòng nơi các chị em cô ngồi làm những cái mũ, và những đường phố
đông nghẹt mỗi chiều tối, với mọi người đi lại, cười lớn tiếng, không sống kiểu
nửa vời như những người ở đây, co người lại trong những cái xe lăn, nhìn vài
bông hoa xấu xí nhú lên từ một cái chậu!
“Vì anh nên nhìn thấy những khu vườn
ở Milan.” Cô nói to. Nhưng với ai?
Không ai cả. Những từ của cô tan
biến mất. Một quả tên lửa cũng tan đi như thế. Những tia lửa, sau khi bắn xẹt
vào bóng đêm, đầu hàng nó, bóng tối buông xuống, tuôn trút lên những đường viền
của những ngôi nhà và tháp; những sườn đồi trống trải mềm đi và chìm xuống.
Nhưng dù chúng đã biến mất, đêm chứa đầy chúng; màu sắc bị tước đoạt, khoảng
trống của những ô cửa sổ, chúng tồn tại một cách trầm trọng hơn, phát ra thứ mà
ánh ngày minh bạch không truyền dẫn được – sự bất an và hồi hộp của vạn vật kết
lại thành khối ở đó, trong bóng tối; co cụm lại trong bóng tối; tước đi sự khác
biệt về độ cao thấp mà ánh bình mang tới khi, quét lên những bức tường màu
trắng và xám, làm ố đi từng tấm kính cửa sổ, nâng làn sương khỏi những cánh
đồng, phô bày ra những con bò nâu đỏ đang bình an gặm cỏ, tất cả một lần nữa
được trang hoàng trước mắt; một lần nữa tồn tại. Tôi cô đơn; tôi cô đơn! Cô kêu
lên, bên cạnh đài phun nước trong công viên Regent’s (nhìn đăm đăm vào người Ấn
Độ và cây thập giá của ông ta), như có lẽ vào lúc nửa đêm, khi mọi biên giới
mất đi, đất nước có lại hình dáng cổ xưa của nó, như người La Mã đã nhìn thấy
nó, đang nằm buồn bã, khi họ đặt chân lên đất liền, những ngọn đồi không tên và
những dòng sông mà họ không biết chảy quanh co về đâu – đó là bóng tối của cô;
khi đột nhiên, như thể một viên đạn pháo được bắn đi và cô đứng bên trên nó, cô
nói cô là vợ của anh thế nào, đã cưới nhau ở Milan nhiều năm trước, vợ của anh,
và sẽ không bao giờ, không bao giờ nói rằng anh điên! Quay đi, viên đạn pháo
rơi; cô rơi, rơi xuống. Vì anh đã ra đi, cô nghĩ – đã ra đi, như anh đe dọa, để
tự giết mình – để tự quăng mình vào dưới một cỗ xe! Nhưng không, anh ở đó, vẫn
ngồi một mình trên ghế, trong chiếc áo khoác tồi tàn, đôi chân gập lại, ánh mắt
đăm đăm, đang nói to tiếng.
Những người đàn ông không được đốn
hạ cây cối. Có một Thượng đế. (Anh đã ghi những phát hiện như thế vào mặt sau
của những phong bì). Thay đổi thế giới. Không ai giết chóc do lòng căm ghét.
Phải làm cho mọi người biết điều này (anh đã viết nó ra). Anh chờ. Anh lắng
nghe. Một con chim sẻ đậu trên một cái rào đối diện chiêm chiếp kêu lên,
Septimus, Septimus, bốn hoặc năm lần, và tiếp tục kéo dài những nốt nhạc của nó,
hót lanh lảnh một điệu mới những từ Hy Lạp về việc không có tội ác, và với sự
tham gia của một con sẻ khác, chúng hót bằng những giọng kéo dài và chói tai
những từ Hy Lạp, từ những hàng cây trong cánh đồng của sự sống ở mé ngoài một
dòng sông nơi những người chết bước đi, về việc không có cái chết.
Đó là bàn tay của anh; đó là những
người chết. Những vật trắng toát tụ hợp lại sau cái hàng rào đối diện. Nhưng
anh không dám nhìn. Evans đang ở sau cái hàng rào!
“Anh đang nói gì vậy?” Đột nhiên
Rezia hỏi, ngồi xuống cạnh anh.
Lại phá ngang! Cô luôn luôn phá
ngang.
Cách xa khỏi mọi người – họ phải
cách xa khỏi mọi người, anh nói (nhảy nhổm lên), đi ngay tới đằng kia, nơi có
những cái ghế bên dưới một cái cây và con dốc dài của công viên trũng xuống như
một khúc vải xanh lục với một tấm vải trần bằng khói màu xanh trời và hồng trên
cao, và có một cái lũy gồm những ngôi nhà xa gần lố nhố mờ mờ trong làn khói,
xe cộ lao xao trong một vòng tròn, và bên mé tay phải, những con vật màu nâu
xám vươn những cái cổ dài bên trên hàng rào Vườn thú, đang rống, đang tru lên.
Ở đó, họ ngồi xuống bên dưới một tàng cây.
“Nhìn kìa.” Cô nài nỉ anh, chỉ vào
một đám con trai đang xách những cái cột gôn crickê, một đứa kéo lê bước chân,
xoay tròn quanh gót chân rồi lại lê bước, như thể nó đang diễn vai một anh hề
trong nhà hát.
“Nhìn kìa.” Cô nài nỉ anh, vì bác sĩ Holmes đã bảo cô phải
làm cho anh chú ý tới những sự vật có thật, đi tới một nhà hát ca múa nhạc,
chơi crickê – đó là một môn chơi rất tuyệt, bác sĩ Holmes nói, một trò chơi
ngoài trời thú vị, đúng thứ trò chơi dành cho chồng cô.
“Nhìn kìa.” Cô lặp lại.
Nhìn kẻ vô hình đang ra lệnh cho
anh, lúc này giọng nói đó trao đổi với
anh, Septimus, kẻ vĩ đại nhất trong nhân loại, mới bị đưa từ sự sống sang cái
chết, Vị Chúa tể, kẻ đã tới để làm mới lại xã hội, kẻ nằm như một tấm khăn trải
giường, một tấm chăn bằng tuyết chỉ bị tác động bởi mặt trời, mãi mãi không
hoang phí, mãi mãi khổ đau, kẻ giơ đầu chịu báng, kẻ gánh chịu khổ đau vĩnh
viễn, nhưng anh không muốn nó, anh rên lên, gạt nó ra khỏi anh với một cái vẫy
tay, sự gánh chịu khổ đau vĩnh viễn đó, sự cô độc vĩnh viễn đó.
“Nhìn kìa.” Cô lặp lại, vì anh không
nên nói lớn tiếng với chính mình ở bên ngoài.
“Ồ, nhìn đi.” Cô nài nỉ anh. Nhưng
có gì ở đó để nhìn? Vài con cừu. Tất cả chỉ có thế.
Đường tới trạm xe điện ngầm của công
viên Regent’s – họ có thể nói cho cô biết đường tới trạm xe điện ngầm của công
viên Regent’s không – Maisie Johnson muốn biết. Cô chỉ mới lên đây từ Edinburgh
hai ngày trước.
“Không phải đường này – ở đằng kia!”
Rezia kêu lên, xua tay gạt cô ta sang một bên, để cô ta không nhìn thấy
Septimus.
Dường như cả hai đều kỳ quặc, Maisie
Johnson nghĩ. Dường như mọi thứ đều rất kỳ quặc. Tới London lần đầu tiên để
nhận một chức vụ ở công ty của bác cô trên đường Leadenhall, và hiện đang đi bộ
qua công viên Regent’s vào buổi sáng, cặp vợ chồng ngồi trên ghế này khiến cô
hoàn toàn bị sốc; người thiếu phụ hình như là người nước ngoài, người đàn ông
trông thật kỳ lạ, đến nỗi nếu cô có rất già cô vẫn nhớ lại và để cho nó reo lên
ầm ĩ trong những hồi ức của mình về việc cô đã đi bộ qua công viên Regent’s vào
một sáng đẹp trời mùa hạ hồi năm mươi năm trước. Bởi lẽ cô chỉ mới mười chín và
cuối cùng đã tìm ra con đường tiến thân của mình, tới London. Và thật kỳ quặc làm
sao, đôi vợ chồng mà cô đã hỏi đường này, người phụ nữ giật mình và khua tay,
còn người đàn ông dường như khác thường một cách đáng sợ; đang cãi nhau, có lẽ;
chia tay mãi mãi, có lẽ; một điều gì đó sắp xảy ra, cô biết; và hiện giờ tất cả
những người này (vì cô đã quay trở lại đường Broad Walk), những cái chậu đá,
những bụi hoa nghiêm nghị, những ông già bà già, hầu hết đều là những người
bệnh tật ngồi trên những chiếc xe lăn – sau Edinburgh, tất cả dường như đều kỳ
quặc. Và Maisie Johnson, khi tham gia vào nhóm bạn đồng hành đang khẽ khàng di
chuyển, nhìn ngó mông lung, hôn gió nhau đó – lũ sóc đang đứng làm dáng, lũ
chim sẻ bay quanh đài phun nước tìm vụn bánh, lũ chó bận rộn với những cái hàng
rào, bận rộn với nhau, trong lúc làn không khí mềm mại ấm áp bao trùm lên chúng
và thêm vào cái nhìn chằm chặp không chút ngạc nhiên mà với nó chúng đón nhận
từ cuộc sống một thứ gì đó bất thường và có tính xoa dịu – cảm thấy một cách
chắc chắn cô phải kêu lên Ồ! (vì người đàn ông trẻ trên cái ghế đã khiến cô hoàn
toàn chuyển sang một chiều hướng khác. Có gì đó sắp xảy ra, cô biết.)
Khủng khiếp! Khủng khiếp! Cô muốn
kêu lên. (Cô đã rời khỏi nhóm bạn đồng hành của mình; họ đã cảnh báo cho cô
biết chuyện gì sẽ xảy ra.)
Vì sao cô không ở nhà cho rồi, cô
kêu lên, vặn cái nắm đấm của hàng rào chấn song sắt.
Cô gái đó, bà Dempster nghĩ (người đã để dành vỏ bánh mì
cho lũ sóc và thường ăn trưa trong công viên Regent’s) chưa biết một điều nào
hết; và có vẻ như tốt hơn cô ta nên tỏ ra cứng rắn một chút, chậm chạp một
chút, khiêm tốn một chút trong những kỳ vọng của người ta. Percy đã say. Chà,
tốt hơn nên có một đứa con trai, bà Demspster nghĩ. Bà đã trải qua một thời
điểm khổ sở về chuyện đó, và không thể kềm được một nụ cười trước một thiếu nữ
như thế. Cô ta sẽ lấy chồng, vì cô ta khá xinh xắn, bà Dempster nghĩ. Lấy
chồng, bà nghĩ, và rồi cô ta sẽ biết. Ồ, nấu nướng các thứ, vân vân. Mỗi người
đàn ông đều có cách thức của mình. Nhưng mình có chọn lựa hoàn toàn giống như
thế không nếu mình có thể biết trước, bà Dempster nghĩ, và không thể kềm một
lời chúc thì thầm cho Maisie Johnson; để cảm thấy trên cái mọng mắt nhăn nheo
của gương mặt già nua héo hắt của mình nụ hôn của lòng thương hại. Vì đó là một
cuộc sống khó khăn, bà Dempster nghĩ. Bà đã cho nó được gì? Những đóa hoa hồng;
thân hình; đôi bàn chân của bà nữa. (Bà kéo những cục u bên dưới lớp váy.)
Những bông hồng, bà nghĩ một cách mỉa mai. Toàn thứ rác
rưởi, bạn thân mến của tôi. Vì thật sự, việc ăn, uống, hẹn hò, những ngày tốt
đẹp và tệ hại, cuộc đời, không hề dính dáng chút gì tới những bông hồng, và hơn
thế nữa, để tôi nói cho bạn biết, Carrie Dempster không muốn đổi số phận của
mình với bất kỳ người phụ nữ nào ở thị trấn Kentish! Nhưng bà cầu khẩn lòng
thương hại. Lòng thương hại cho sự mất mát của những bông hồng. Lòng thương hại
bà yêu cầu ở Maisie Johnson, đang đứng cạnh những luống dạ lan hương.
Chà, nhưng chiếc phi cơ đó! Không phải bà Dempster luôn ao
ước được nhìn thấy những vùng ở nước ngoài sao? Bà có một đứa cháu trai, một
người truyền giáo. Nó bay vút lên và lao đi.[10]
Bà luôn tới vùng biển Margate, không xa khỏi tầm nhìn từ đất liền, nhưng bà
không có đủ kiên nhẫn với những người phụ nữ sợ nước. Nó lướt tới và hạ
xuống. Bụng dạ bà trào lên miệng. Lại bay vút lên. Có một anh chàng
trẻ tuổi đẹp trai ở trên đó, bà Dempster dám đánh cược, và nó cứ bay ngày
càng xa; nhanh và nhòa dần, chiếc phi cơ lao đi; bay vút lên bên trên
Greenwich và tất cả những cột ăng-ten; bên trên hòn đảo nhỏ của những ngôi nhà
thờ xám, St. Paul’s và những nhà thờ còn lại, cho tới khi, ở mé bên kia London,
những cánh đồng trải ra và những khu rừng nâu sẫm, nơi những con chim hét thích
mạo hiểm nhảy loi choi, đưa mắt liếc nhanh, tóm lấy con ốc sên và moi nó ra
khỏi vỏ trên một tảng đá, một lần, hai lần, ba lần.
Chiếc phi cơ phóng vụt đi, cho tới khi nó chỉ còn là một
tia sáng rực rỡ; một khát vọng; một sự tập trung; một biểu tượng của linh hồn
một gã đàn ông (với Bentley, dường như nó là thế, anh đang hăng hái cắt cỏ trên
bãi cỏ của mình ở Greenwich); của quyết tâm thoát ra khỏi cơ thể của anh, ra
khỏi ngôi nhà, Bentley nghĩ, đi vòng quanh cây tuyết tùng, bằng phương tiện của
tư duy, Einstein, óc phán đoán, toán học, học thuyết Mendel. Chiếc phi cơ phóng
vụt đi.
Thế rồi, trong lúc một người đàn ông trông có vẻ tiều tụy
khó tả xách một cái túi da đứng trên bậc thềm của giáo đường St. Paul, và do
dự, vì trong đó là niềm an ủi nào, ông nghĩ, sự chào đón tuyệt vời ra sao, có
bao nhiêu ngôi mộ với những ngọn cờ vung vẫy bên trên, những vật kỷ niệm chiến
thắng không phải đối với quân thù, mà đối với, ông nghĩ, cái tinh thần tìm kiếm
sự thật ghê gớm đó, lúc này đang rời khỏi mình không nguyên cớ, và hơn thế nữa,
thánh đường cung cấp bằng hữu, ông nghĩ, mời ông trở thành hội viên của một
đoàn thể; những người đàn ông vĩ đại tham gia nó; những kẻ tử vì đạo đã chết vì
nó; vì sao không bước vào, ông nghĩ, đặt cái túi da chứa đầy những cuốn sách
mỏng này trước một bàn thờ, một thánh giá, biểu tượng của một thứ gì đó đã bay
vút ra khỏi sự tìm kiếm, truy lùng và tấn công vào những ngôn từ và tất cả đã
trở thành tinh thần, lìa khỏi xác, phất phưởng như một hồn ma – vì sao không
bước vào? Ông nghĩ, và trong lúc ông do dự, chiếc phi cơ bay vọt qua bên trên
ngã tư Ludgate Circus.
Thật lạ lùng; thật tĩnh lặng. Người ta không nghe thấy một
âm thanh nào bên trên tiếng xe cộ giao thông. Dường như nó không có người dẫn
dắt; bay nhanh theo ý chí tự do của chính nó. Và lúc này, lượn vòng lên mãi,
hướng thẳng lên, như một thứ gì đó bốc lên cao trong trạng thái mê ly, trong
niềm vui thuần khiết, làn khói trắng vọt ra từ phía sau kết thành hình thòng
lọng, đang viết một chữ T, một chữ O và một chữ F.
[1] Wilhelm Richard Wagner (1813 – 1883) nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, triết gia, thi sĩ
nổi tiếng người Đức.
[2] Alexander Pope (1688 – 1744) nhà thơ Anh, nổi tiếng về
thể thơ trào phúng và bản dịch Homer sang tiếng Anh; là tác giả được trích dẫn
thường xuyên thứ ba trong Tự điển Danh ngôn Oxford, sau Shakespeare và
Tennyson.
[3] Trích từ
vở kịch Cymbeline của Shakespeare.
[4] Jorrocks’s Jaunts and Jollities của nhà văn Anh chuyên viết về thể thao Robert Smith Surtees (1805 – 1864).
[5] Soapy
Sponge: chỉ một cuốn
sách khác của Robert Smith Surtees, Mr. Sponge’s Sporting Tour.
[6] Mrs. Asquith’s Memoirs:
Có lẽ ám
chỉ cuốn hồi ký của Emma Alice Margaret “Margot” Asquith, Nữ bá
tước vùng Oxford
và Asquith (1864 – 1945), xuất bản năm 1920.
[7] Tựa sách
này không tồn tại trong thực tế, nhưng có lẽ có một cuốn cùng đề tài.
[8] Tức là: “Xe của Thủ tướng.” Nhân vật Edgar J. Watkiss nói ngọng và ở đây tác giả chơi chữ.
Nguyên văn toàn câu: “Edgar J. Watkiss, with his roll of lead piping round his arm, said audibly,
humorously of course: “The Proime Minister’s kyar.”
(Một sự trùng hợp: kyar có nghĩa là xơ dừa hay dây thừng bện bằng xơ dừa.)
[9] Brooks's là một trong các câu lạc bộ
mang tính chọn lọc nhất của các quý ông ở London, thành lập năm 1764 bởi 27
người, trong đó có bốn công tước.
[10] Những
chữ in nghiêng diễn tả những ý nghĩ của bà Dempster về các chuyển động của
chiếc phi cơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét