CHƯƠNG XIV
Mùa đông năm 1892 trở nên u ám bởi một
đám mây trên bầu trời thơ ấu tươi sáng của tôi. Niềm vui rời bỏ tim tôi, và
suốt một gian dài, rất dài, tôi sống trong nỗi hoài nghi, lo lắng và sợ hãi.
Những quyển sách mất đi sức quyến rũ đối với tôi, và thậm chí giờ đây ý nghĩ về
những ngày đáng sợ đó khiến tim tôi giá lạnh. Một câu chuyện nhỏ gọi là “Vua
Sương giá” mà tôi viết và gửi cho ông Anagnos ở Học viện Perkins dành cho người
mù là nguồn gốc của vấn đề. Để làm sáng tỏ vụ này, tôi phải đưa ra những sự
kiện kết nối với đoạn này, mà sự công bằng đối với cô giáo của tôi và bản thân
tôi buộc tôi phải thuật lại.[1]
Tôi đã viết câu chuyện này khi đang ở
nhà vào mùa thu sau khi tôi học nói. Chúng tôi đã ở lại Khu mỏ Dương xỉ muộn
hơn thường lệ. Trong lúc chúng tôi ở đó, cô Sullivan mô tả với tôi những vẻ đẹp
của những tán lá muộn, và dường như những mô tả của cô đã làm sống lại trong ký
ức một câu chuyện đã được đọc cho tôi nghe và hẳn là tôi đã lưu giữ lại một
cách vô thức. Khi đó tôi nghĩ tôi “đang bịa ra một câu chuyện” như lũ trẻ con
hay nói, và tôi nôn nóng ngồi xuống để viết nó trước khi những ý tưởng có thể
trượt khỏi đầu tôi. Dòng ý tưởng của tôi trôi chảy khá dễ dàng; tôi cảm thấy
hân hoan với tác phẩm này. Những ngôn từ và hình ảnh thoăn thoắt tuôn ra từ đầu
những ngón tay của tôi, và trong lúc tôi nghĩ ra hết câu này sang câu khác, tôi
viết chúng trên tấm bảng chữ braille. Lúc bấy giờ, nếu những ngôn từ và hình
ảnh đến với tôi không cần chút cố gắng nào, có một dấu hiệu chắc chắn rằng
chúng không phải là con đẻ của tâm trí của chính tôi, mà là những thứ trôi giạt
khiến tôi phải loại bỏ một cách đáng tiếc. Vào thời điểm đó tôi nôn nao hấp thu
mọi thứ tôi đọc mà không có một ý tưởng nào về quyền tác giả, và thậm chỉ tới
giờ tôi vẫn không thể hoàn toàn chắc chắn về đường ranh giới giữa những ý tưởng
của tôi và những ý tưởng mà tôi tìm thấy trong những quyển sách. Tôi cho rằng
đó là vì rất nhiều ấn tượng đến với tôi thông qua sự trung gian của mắt và tai
của những người khác.
Khi câu chuyện đã hoàn thành, tôi đọc
nó cho cô giáo nghe, và giờ đây tôi nhớ lại một cách rõ ràng nỗi hân hoan mà
tôi cảm thấy trong những đoạn văn đẹp đẽ, và sự bực mình của tôi khi phải cắt
ngang để chỉnh lại cho đúng cách phát âm của một từ. Vào bữa ăn tối, câu chuyện
được đọc cho cả gia đình đang tụ họp, và mọi người rất ngạc nhiên khi thấy tôi
có thể viết rất tốt. Có ai đó đã hỏi tôi có phải tôi đã đọc nó trong một cuốn
sách hay không.
Câu hỏi này khiến tôi rất ngạc nhiên;
vì tôi không có một hồi ức mơ hồ nhất nào về việc đã nghe đọc nó. Tôi bật thốt
lên: ‘Ồ, không, nó là câu chuyện của con, và con đã viết nó để tặng ông Anagnos.”
Sau đó tôi chép lại câu chuyện và gửi
cho ông ấy để làm quà sinh nhật. Có đề nghị rằng tôi nên đổi tựa đề từ “Những
chiếc lá thu” thành “Vua Sương giá”, và tôi đã làm như vậy. Tôi tự mang câu
chuyện tới bưu cục, cảm thấy như thể tôi đang bước trên mây. Tôi không tưởng
tượng nổi rằng tôi sẽ phải trả giá cho món quà sinh nhật đó một cách tàn ác thế
nào.
Ông Anagnos rất vui với câu chuyện và
xuất bản nó trong một trong những báo cáo của Học viện Perkins. Điều này là
đỉnh điểm hạnh phúc của tôi, và sau đó ít lâu tôi đã bị quăng từ đó xuống mặt
đất. Tôi có mặt ở Boston một thời gian ngắn thì người ta phát hiện ra rằng có
một câu chuyện tương tự với “Vua Sương giá” tên là “Những nàng tiên sương giá”
của cô Margaret T. Canby, đã xuất hiện trước khi tôi chào đời trong một cuốn
sách tên là “Birdie và những người bạn”. Hai câu chuyện giống nhau về ý tưởng
và ngôn từ đến nỗi rõ ràng là câu chuyện của cô Canby đã được đọc cho tôi nghe
và câu chuyện của tôi là một tác phẩm đạo văn. Rất khó làm cho tôi hiểu được
điều này, nhưng khi hiểu ra tôi rất kinh ngạc và đau khổ. Không có đứa trẻ nào
uống sâu cái chén đắng hơn tôi. Tôi đã tự sỉ nhục bản thân; tôi đã mang tới sự
ngờ vực cho những người mà tôi yêu quý nhất. Nhưng làm sao điều đó lại có thể xảy
ra? Tôi tra vấn bộ não của mình cho tới khi mệt nhoài để nhớ lại bất kỳ điều gì
về câu chuyện mà tôi đã đọc trước khi tôi viết nó ra nhưng tôi không thể nhớ
được điều gì, ngoại trừ một nhắc nhớ tới Jack Frost và một bài thơ cho trẻ con,
“Những điều kỳ lạ của Sương giá” và tôi biết tôi đã không sử dụng trong tác
phẩm của mình.
Lúc đầu ông Anagnos, dù rất khó chịu,
có vẻ như vẫn tin tôi. Ông vẫn dịu dàng và tốt đối với tôi một cách bất thường,
và cái bóng đen để lộ ra một khoảng trống nhỏ nhoi. Để làm vừa lòng ông tôi cố
không tỏ ra khốn khổ, và sửa soạn để trở nên xinh xắn hết mức cho lễ mừng sinh
nhật của Washington,
sẽ diễn ra không lâu sau khi tôi nhận được cái tin buồn ấy.
Tôi sẽ thủ vai Ceres trong một vở ca
vũ kịch của những đứa trẻ mù. Tôi nhớ rất rõ những nếp vải duyên dáng bao bọc
thân tôi, những chiếc lá thu kết quanh đầu tôi, và những thứ quả cây và ngũ cốc
dưới chân tôi và trên tay tôi, và ở dưới đáy mọi niềm vui của vở ca vũ kịch là
cảm giác ngột ngạt khiến tim tôi nặng trĩu.
Đêm hôm trước ngày lễ, một trong những
giáo viên của học viện đã hỏi tôi một câu có liên quan tới “Vua Sương giá” và
tôi nói với cô ấy rằng cô Sullivan đã kể cho tôi nghe về Jack Frost và những
tác phẩm tuyệt diệu của ông. Một điều gì đó tôi đã nói ra khiến cô ấy nghĩ rằng
cô ấy đã phát hiện trong những lời của tôi một thú nhận rằng tôi đã nhớ câu
chuyện ‘Những nàng tiên sương giá” của cô Canby và cô ấy đưa ra kết luận đó với
ông Anagnos, dù tôi đã nói với cô ấy với sự nhấn mạnh hết mức rằng cô ấy đã
nhầm lẫn.
Ông Anagnos, người rất mến yêu tôi, nghĩ rằng ông đã bị lừa
dối, đã quay lưng với những lời khẩn nài của tình yêu và sự vô tội. Ông tin
rằng, hay ít nhất cũng nghi ngờ rằng cô Sullivan và tôi đã cố tình đánh cắp
những ý tưởng tươi sáng của câu chuyện kia và gửi cho ông để chiếm lấy sự
ngưỡng mộ của ông. Tôi bị đưa ra trước một tòa án điều tra bao gồm các giáo
viên và quan chức của học viện, và cô Sullivan bị yêu cầu phải để tôi lại một
mình. Sau đó tôi bị hỏi và thẩm vấn với thứ mà dường như đối với tôi là một
quyết tâm về phần của những vị phán quan nhằm buộc tôi thừa nhận rằng tôi có
nhớ câu chuyện “Những nàng tiên sương giá” đã được đọc cho tôi nghe. Tôi cảm
nhận được trong từng câu hỏi sự ngờ vực và hoài nghi trong tâm trí họ, và tôi
cũng cảm thấy một người bạn thân yêu đang nhìn tôi oán trách, dù tôi không thể
xếp đặt tất cả những điều này thành ngôn từ. Máu đè nặng xuống quả tim đập dồn
dập của tôi, và tôi hầu như không thể nói được, ngoại trừ những nguyên âm đơn.
Thậm chí cái ý thức rằng đây chỉ là một nhầm lẫn đáng sợ cũng không thể giảm đi
sự đau đớn của tôi, và cuối cùng khi được phép rời khỏi căn phòng, tôi mụ người
đi và không chú ý tới sự quan tâm của cô giáo của tôi hay những lời nói dịu
dàng của những bạn bè tôi, những người nói rằng tôi là bé gái quả cảm và họ tự
hào về tôi.
Đêm đó, khi nằm trên giường, tôi khóc trong lúc hy vọng sẽ
rất ít trẻ con phải khóc. Tôi cảm thấy rất lạnh, tôi tưởng tượng tôi sẽ chết
trước khi trời sáng, và ý nghĩ đó an ủi tôi. Tôi nghĩ giá như nỗi buồn này đến
với tôi khi tôi lớn tuổi hơn, hẳn nó sẽ phá nát linh hồn tôi đến không còn
phương cứu vãn. Nhưng vị thiên thần của sự lãng quên đã thu gom và mang đi phần
lớn nỗi khốn khổ và tất cả nỗi đắng cay của những ngày đau buồn đó.
Cô Sullivan chưa từng nghe nói về “Những nàng tiên sương
giá” hay cuốn sách mà trong đó có câu chuyện này. Với sự hỗ trợ của Tiến sĩ Alexander Graham Bell, cô cẩn thận điều tra
vấn đề, và cuối cùng phát hiện ra rằng bà Sophia C. Hopkins có một bản in của
quyển “Birdie và những người bạn” xuất bản năm 1888, cái năm mà chúng tôi trải
qua mùa hè với bà ở Brewster. Bà Hopkins không thể tìm lại cuốn sách của mình;
nhưng vào thời điểm ấy bà đã kể cho tôi nghe trong lúc cô Sullivan đang đi nghỉ
hè; bà cố làm vui tôi bằng cách đọc cho tôi nghe nhiều cuốn sách, và dù bà
không nhớ có đọc cuốn “Những nàng tiên sương giá” hơn tôi chút nào chăng, nhưng
bà cảm thấy chắc chắn rằng cuốn “Birdie và những người bạn” là một trong số
chúng. Bà giải thích sự biến mất của cuốn sách với thực tế rằng bà có một thời
gian ngắn trước khi bán ngôi nhà và đã vất bỏ nhiều cuốn sách thiếu nhi như các
cuốn sách giáo khoa và những cuốn truyện cổ tích, và chắc chắn cuốn “Birdie và
những người bạn” nằm trong số chúng.
Khi đó những câu chuyện có rất ý nghĩa đối với tôi; nhưng
chỉ việc viết lại những từ lạ đã đủ để làm vui một đứa bé hầu như không thể làm
gì để tự tiêu khiển; và dù tôi không nhớ một tình huống nào liên quan tới việc
đọc những câu chuyện đó, nhưng tôi không thể không nghĩ rằng tôi đã cố hết sức
ghi nhớ những từ, với dự định sẽ nhờ cô giáo giải thích chúng khi cô quay lại.
Có một điều chắc chắn là ngôn ngữ đó đã in dấu vào não bộ tôi sâu tới mức không
thể xóa, dù suốt một thời gian dài không ai biết tới nó, ít nhất là tôi.
Khi cô Sullivan quay lại tôi không nói với cô về “Những nàng
tiên sương giá”, có lẽ là vì cô ngay lập tức đọc cho tôi nghe chuyện “Lãnh chúa
tí hon Fauntleroy”, và câu chuyện này đã phủ đầy tâm trí tôi, loại trừ mọi thứ
khác. Nhưng thực tế còn lại là câu chuyện của cô Canby đã được đọc cho tôi nghe
một lần, và rất lâu sau khi tôi đã quên đi nó, nó quay trở lại với tôi một cách
tự nhiên đến mức tôi không bao giờ ngờ rằng nó là con đẻ của một đầu óc khác.
Trong cơn bất hạnh của mình, tôi đã nhận được nhiều thông
điệp của tình yêu và sự đồng cảm. Tất cả bạn hữu tôi yêu mến nhất, trừ một
người, vẫn còn là bạn của tôi cho tới nay. Bản thân cô Canby đã viết cho tôi
rất nhân hậu, “Một ngày nào đó em sẽ viết một câu chuyện tuyệt vời từ chính đầu
óc của em, đó sẽ là một niềm an ủi và giúp cho nhiều người.” Nhưng dạng tiên tri
này chưa bao giờ được hoàn thành. Tôi không bao giờ chơi đùa với ngôn từ chỉ vì
niềm vui đơn thuần của trò chơi nữa. Thật ra, kể từ đó tôi bị hành hạ bởi nỗi
sợ rằng những gì tôi viết không phải của chính tôi. Suốt một thời gian dài, khi
tôi viết một lá thư, thậm chí cho mẹ tôi, tôi bị câm chiếm bởi một cảm giác
kinh hoàng đột ngột, và tôi viết đi viết lại nhiều lần những câu để chắc chắn
rằng tôi đã không đọc chúng trong một cuốn sách. Giá như không có sự kiên trì
động viên của cô Sullivan, tôi nghĩ hẳn tôi sẽ từ bỏ hoàn toàn việc viết lách.
Từ đó, tôi đã đọc cuốn “Những nàng tiên sương giá” và cả
những lá thư tôi viết mà trong đó tôi sử dụng những ý tưởng của cô Canby. Tôi
tìm ra một trong số chúng, một lá thư gửi ông Anagnos, ngày 29/12/2891, những
từ và cảm xúc y hệt như trong cuốn sách. Vào thời điểm tôi viết “Vua Sương giá”
và lá thư này, giống như nhiều lá thư khác, chứa những cụm từ cho thấy tâm trí
tôi thấm đẫm câu chuyện đó. Tôi mô tả cô giáo nói với tôi về những chiếc lá mùa
thu vàng óng: “Vâng, chúng đẹp đủ để an ủi chúng ta trong mùa hè” – một ý tưởng
lấy từ câu chuyện của cô Canby.
Thói quen đồng hóa những gì tôi hài
lòng này và viết lại nó như những ý tưởng của chính tôi xuất hiện trong nhiều
thư từ thời kỳ đầu và những nỗ lực viết đầu tiên của tôi. Trong một tác phẩm
tôi viết về những thành phố cổ của Hy lạp và Ý, tôi đã vay mượn những mô tả
sinh động với nhiều biến đổi từ những nguồn mà tôi đã quên. Tôi biết tình yêu
lớn của ông Anagnos đối với những thứ cổ xưa và khả năng thưởng thức nồng nhiệt
của ông đối với mọi tình cảm đẹp đẽ về Hy Lạp và Ý. Do đó tôi đã thu thập từ
mọi cuốn sách tôi đã đọc những đoạn thơ hay lịch sử mà tôi nghĩ sẽ khiến ông
vui lòng. Khi nói về lá thư của tôi viết về những thành phố đó, ông Anagnos đã
nói: “Những ý tưởng này rất thơ mộng trong bản chất.” Nhưng tôi không hiểu ông
có bao giờ nghĩ một đứa bé mười một tuổi mùa và điếc có thể sáng tạo ra chúng
hay chăng. Tôi không thể nghĩ rằng vì tôi không sáng tạo ra những ý tưởng đó
nên tác phẩm nhỏ của tôi hoàn toàn không có ý nghĩa gì. Nó cho tôi thấy tôi có
thể thể hiện sự cảm kích đối với những ý tưởng nên thơ và đẹp đẽ bằng thứ ngôn
ngữ rõ ràng và sinh động.
Những tác phẩm thời kỳ đầu này là
những rèn luyện trí não. Tôi đang học hỏi, như tất cả mọi cá nhân trẻ tuổi và
thiếu kinh nghiệm học hỏi, bằng sự đồng hóa và mô phỏng, để sắp đặt những ý
tưởng vào những từ ngữ. Mọi thứ tôi tìm được trong những cuốn sách khiến tôi
thích thú được lưu giữ lại trong ký ức của tôi, có ý thức hoặc vô thức thức, và
tôi phỏng theo đó. Một người viết trẻ tuổi, như Stevenson đã nói, cố sao chép
theo bản năng bất cứ thứ gì có vẻ đáng hâm mộ nhất, và anh ta biến đổi sự hâm
mộ này với sự linh hoạt đáng kinh ngạc, Chỉ sau nhiều năm thực hành cách này
ngay cả những con người vĩ đại mới học được cách điều khiển binh đoàn từ ngữ ùa
đến qua mọi ngõ ngách tâm trí.
Tôi e rằng tôi chưa hoàn tất quá trình
này. Một điều chắc chắn là tôi không thể luôn phân biệt được những ý nghĩ của
chính tôi với những ý tưởng tôi đã đọc, vì những gì tôi đã đọc trở thành chất
liệu và kết cấu của tâm trí tôi. Hậu quả là trong hầu hết những gì tôi viết,
tôi tạo ra thứ gì đó rất giống với một mảnh vải chắp vá mà tôi từng tạo ra khi
học may lần đầu. Mảnh vải chắp vá này được tạo nên từ mọi thứ vụn vặt – những
mẩu lụa và nhung xinh đẹp; nhưng những mảnh thô không tạo niềm thích thú khi sờ
vào luôn chiếm phần hơn. Tương tự như vậy, những tác phẩm của tôi được tạo ra
từ những nhận thức thô kệch của chính tôi, đan xen với những ý tưởng đẹp đẽ và
những ý kiến chín mùi hơn của những tác giả mà tôi từng đọc. Dường như đối với
tôi, khó khăn lớn nhất của việc viết là tạo ra thứ ngôn ngữ của một tâm trí có
giáo dục thể hiện những ý tưởng, những cảm xúc nửa vời, ý tưởng nửa vời rối rắm
của chúng ta khi chúng ta không là gì ngoài những mớ các khuynh hướng mang tính
bản năng. Cố gắng viết rất giống với cố gắng xếp những mảnh ghép thông minh
(tangram) lại với nhau. Chúng ta có một khuôn mẫu trong tâm trí mà chúng ta
mong muốn thực hiện bằng những từ ngữ; nhưng những từ sẽ không phù hợp với các
khoảng không gian, hoặc nếu phù hợp, chúng sẽ không giống với thiết kế. Nhưng
chúng ta vẫn cố gắng vì biết rằng những người khác đã thành công, và chúng ta
không sẵn lòng chấp nhận sự thất bại.
Stevenson nói: “Không có cách nào để
trở nên độc đáo, ngoại trừ bẩm sinh đã là vậy,” và dù tôi có thể không độc đáo,
tôi hy vọng một lúc nào đó sẽ loại bỏ được những tác phẩm giả tạo, đội lớp của
mình. Có lẽ khi đó những ý tưởng và trải nghiệm của chính tôi sẽ hiện lên bề
mặt. Trong lúc đó tôi tin tưởng, hy vọng và kiên trì, và cố không để cho hồi ức
cay đắng của “Vua Sương giá” ngăn trở những nỗ lực của tôi.
Vì thế, trải nghiệm đau buồn này có
thể có ích cho tôi và khiến tôi suy nghĩ tới một số vấn đề rắc rối trong nghệ thuật
sáng tác. Tiếc nuối duy nhất của tôi là việc đánh mất một trong những người bạn
thân thương nhất của tôi, ông Anagnos.
Từ khi công bố “Câu chuyện đời tôi
trong tạp chí Ladies' Home, ông Anagnos đã phát biểu trong một lá thư
gửi ông Macy rằng vào thời điểm xảy ra vấn đề “Vua sương giá”, ông tin là tôi
vô tội. Ông bảo ban điều tra mà tôi bị đưa ra trước mặt gồm có tám người: bốn
người mù, bốn người sáng mắt. Ông bảo bốn người trong số họ cho rằng tôi biết
câu chuyện của cô Canby đã được đọc cho tôi nghe, và bốn người còn lại không
chấp nhận quan điểm này. Ông Anagnos nói rằng ông đã biểu quyết cho những người
ủng hộ tôi.
Nhưng dù vụ việc có như thế nào, và
ông đã biểu quyết cho phía nào, khi tôi bước vào căn phòng nơi ông Anagnos đã từng
rất thường đặt tôi lên đầu gối của ông và quên đi những quan tâm của mình để
chia sẻ cuộc vui với tôi và phát hiện ra tại đó những kẻ dường như ngờ vực tôi,
tôi cảm thấy có một sự thù địch và đe dọa nào đó trong bầu không khí ấy, và
những sự kiện sau đó đã xác nhận ấn tượng này. Trong suốt hai năm trời dường
như ông vẫn duy trì niềm tin rằng cô Sullivan và tôi vô tội. Sau đó rõ ràng ông
rút lại phán xét ủng hộ của mình, vì sao thì tôi không biết. Tôi cũng không
biết những chi tiết của cuộc điều tra. Tôi không bao giờ biết tên của những
thành viên của “tòa án” không nói chuyện với tôi. Tôi quá khích động để chú ý
tới bất cứ điều gì và quá sợ đến độ không dám hỏi. Thật sự, tôi hầu như không
thể nghĩ ra tôi đã nói gì, hay người ta đã nói gì với tôi.
Tôi đưa ra giải thích về vụ “Vua Sương
giá” này vì nó rất quan trọng trong cuộc đời và sự học hỏi của tôi; và để không
có một hiểu lầm nào, tôi đã đưa ra tất cả những sự kiện như chúng diễn ra đối
với tôi, không hề có ý nghĩ nào về việc tự biện hộ hay đổ lỗi cho bất cứ một
ai.
CHƯƠNG XV
Mùa hè và mùa đông sau sự cố “Vua Sương giá”, tôi sống cùng gia đình tại Alabama.
Tôi hồi nhớ lại với niềm vui về chuyến trở về nhà đó. Vạn vật đâm chồi và nở
hoa. Tôi rất hạnh phúc. Vụ “Vua Sương giá” đã bị lãng quên.
Khi mặt đất ngập đầy những chiếc lá thu
vàng và đỏ thẫm, và những dây nho thơm mùi xạ hương che phủ giàn cây ở cưới
vườn biến thành màu nâu vàng dưới ánh mặt trời, tôi bắt đầu viết một phác họa
về cuộc đời mình – một năm sau khi tôi viết “Vua Sương giá”.
Tôi vẫn còn rất thận trọng với mọi thứ
tôi viết ra. Cái ý nghĩ rằng những gì tôi viết có thể không hoàn toàn là của
chính tôi hành hạ tôi. Không ai biết những nỗi sợ đó trừ cô giáo của tôi. Một cảm
xúc lạ lùng ngăn tôi nhắc tới “Vua Sương giá”; và thường thường, khi một ý
tưởng nảy sinh trong quá trình trò chuyện tôi thường khẽ khàng viết lên tay cô:
“Em không chắc nó là của em.” Vào những lúc khác, ở giữa một đoạn văn tôi đang
viết, tôi tự nhủ với mình: “Có lẽ người ra sẽ phát hiện ra rằng tất cả những
điều này đã được ai đó viết ra từ lâu!” Một nỗi sợ hãi ma quái bóp chặt bàn tay
tôi khiến tôi không thể viết thêm bất cứ điều gì ngày hôm đó. Và ngay cả hiện
giờ đôi khi tôi vẫn cảm thấy sự khó chịu và băn khoăn đó. Cô Sullivan an ủi và
giúp tôi bằng mọi cách cô có thể nghĩ ra; nhưng trải nghiệm kinh khủng mà tôi
đã trải qua vẫn để lại một ấn tượng lâu dài trong tâm trí tôi mà tầm quan trọng
của nó tôi chỉ mới bắt đầu hiểu ra gần đây. Chính vì niềm hy vọng khôi phục lại
sự tự tin của tôi mà cô thuyết phục tôi viết cho tờ Bạn đồng hành của tuổi trẻ một bài ngắn về cuộc đời tôi. Khi đó tôi
mười hai tuổi. Khi nhìn lại nỗ lực để viết câu chuyện đó, có vẻ như tôi phải có
một viễn tượng mang tính tiên tri về sự tốt lành sẽ tới sau công việc này, không
thì chắc chắn là tôi đã thất bại.
Tôi viết một cách rụt rè, sợ sệt,
nhưng kiên quyết dưới sự thôi thúc của cô giáo, người biết rằng nếu tôi kiên
trì, tôi sẽ tìm lại được chỗ đứng và sẽ nắm chắc những khả năng của tôi. Cho
tới giai đoạn “Vua Sương giá”, tôi đã sống cuộc sống vô ý thức của một đứa trẻ
nhỏ; giờ những ý nghĩ của tôi quay vào nội tâm, và tôi nhìn thấy những điều vô
hình. Dần dà, tôi thoát ra khỏi vùng nửa sáng nửa tối của kinh nghiệm đó với
một tâm trí đã trở nên sáng tỏ hơn sau thử thách và một kiến thức chân thực hơn
về cuộc sống.
Những sự kiện chính của năm 1893 là
chuyến đi tới Washington trong lễ nhậm chức
của Tổng thống Cleveland, và chuyến du lịch tới Niagara và Hội chợ Thế giới. Dưới những hoàn cảnh đó việc
học tập của tôi thường xuyên bị gián đoạn và bị gác lại suốt nhiều tuần, vì thế
tôi không thể thuật lại mọi sự một cách mạch lạc.
Chúng tôi tới Niagara
vào tháng Ba, 1893. Khó mà mô tả những cảm xúc của tôi khi tôi đứng trên vị trí
nơi những thác nước treo lơ lững và cảm thấy sự rung chuyển của bầu không khí và
sự chấn động của mặt đất.
Dường như mọi người rất lạ lùng khi
tôi bị gây ấn tượng bởi những sự kỳ diệu và những vẻ đẹp của thác nước. Họ luôn
hỏi: “Vẻ đẹp này hay thứ âm nhạc đó có ý nghĩa gì với cháu? Cháu không thể nhìn
thấy những lượn sóng cuộn lên bãi biển hay nghe thấy tiếng gầm của chúng. Chúng
có ý nghĩa gì với cháu?” Trong nhận thức hiển nhiên nhất chúng có nghĩa mọi thứ.
Tôi không thể đo lường hay xác định ý nghĩa của chúng cũng tương tự như tôi
không thể đo lường hay xác định tình yêu hay tôn giáo hay sự tốt lành.
Vào mùa hè năm 1893, cô Sullivan và
tôi tới Hội chợ Thế giới cùng Tiến sĩ Alexander Graham Bell. Tôi nhớ lại với
niềm vui trọn vẹn những ngày khi một ngàn tưởng tượng trẻ con trở thành những
hiện thực tươi đẹp. Mỗi ngày, tôi làm một chuyến du lịch vòng quanh thế giới trong
trí tưởng, và tôi nhìn thấy nhiều điều kỳ diệu từ những nơi xa xôi nhất trên
quả đất – những kỳ công phát minh, những kho tàng công nghệ và kỹ năng và tất
cả những hoạt động của sự sống nhân loại đã thật sự lướt qua dưới những đầu
ngón tay của tôi.
Tôi thích tới thăm công viên Midway
Plaisance. Dường như nó rất giống “Ngàn lẻ một đêm”; nó chất chứa đầy sự mới lạ
và thú vị. Ở đây là xứ Ấn Độ của những quyển sách của tôi trong khu chợ lạ lùng
với những vị thần Shivas và những thần voi; kia là xứ sở của những kim tự tháp
tập trung trong một Cairo hiện đại với những nhà thờ Hồi giáo và những đoàn lạc đà
dài dằng dặc; ở xa xa là những cái phá của Venice, nơi chúng tôi ngồi thuyền
mỗi tối khi thành phố và những đài phun nước được soi sáng. Tôi cũng lên một
con tàu Viking cách cái cảng nhỏ một quãng ngắn. Trước đó tôi đã gặp một chiến
binh ở Boston, và tôi rất thích thú khi nhìn thấy người thủy thủ trước kia đã
làm những gì trên con tàu Viking này – ông ta giương buồm ra sao, đương đầu với
sóng gió ra sao với một trái tim quả cảm, và đuổi theo bất cứ một ai đáp lại
tiếng hét của ông: “Chúng ta là của biển cả!” và chiến đấu với bộ não và cơ
bắp, tự lực, độc lập thay vì bị đẩy vào hậu trường bởi một cỗ máy không thông
minh như Jack hiện nay. Vì thế, luôn vẫn là: “con người chỉ thú vị đối với con
người.”
Cách con tàu này một quãng ngắn có một
mô hình của con tàu Santa Maria,
và tôi cũng tới thăm con tàu này. Vị thuyền trưởng chỉ cho tôi phòng của Columbus và cái bàn giấy
trên có một cái đồng hồ cát. Thiết bị nhỏ bé này khiến tôi có ấn tượng nhất vì
nó khiến tôi nghĩ nhà hàng hải hào hùng đó đã cảm thấy mệt mỏi thế nào khi ông
thấy cát rơi xuống từng hạt trong lúc những con người tuyệt vọng đang âm mưu
chống lại ông.
Ông Higinbotham, Chủ tịch của Hội chợ
Thế giới đã tốt bụng cho phép tôi sờ vào các đồ vật trưng bày, và với một sự
nôn nao cực độ chẳng khác chi sự nôn nao chiếm lấy những kho báu của Peru của Pizarro,
tôi tiếp nhận những vẻ huy hoàng của Hội chợ với những ngón tay của mình. Nó là
một dạng kính vạn hoa hữu hình, cái thành phố trắng của miền Tây này. Mọi thứ
đều mê hoặc tôi, nhất là những tượng đồng của Pháp. Chúng rất giống người thật,
tôi nghĩ chúng là những ảo ảnh thiên thần mà người nghệ sĩ đã nắm bắt và nhốt
vào những hình dáng trần tục.
Ở phòng triển lãm Mũi Hảo Vọng, tôi
biết được nhiều thứ về quá trình khai thác kim cương. Bất cứ lúc nào có thể,
tôi sờ vào cỗ máy khi nó đang chuyển động để có một ý tưởng rõ ràng những tảng
đá được cân, cắt và đánh bóng như thế nào. Tôi tìm kiếm một viên kim cương trong
chậu đãi quặng và tìm được nó – viên kim cương thật duy nhất, họ nói, đã được
tìm thấy tại Hoa Kỳ.
Tiến sĩ Bell đi khắp nơi cùng chúng tôi và với cách
thức vui vẻ của riêng ông mô tả cho tôi những đối tượng thú vị nhất. Trong tòa
nhà đồ điện chúng tôi kiểm tra những cái máy điện thoại, máy hát đĩa và những
phát minh khác, và ông giúp tôi hiểu làm cách nào để gửi một thông điệp trên
những sợi dây chế nhạo không gian và qua mặt thời gian, và, như Prometheus, rút
lửa từ bầu trời. Chúng tôi cũng tới thăm cơ sở nhân loại học, và tôi rất thích
thú với những di tích Mexico cổ đại, những công cụ đá thô sơ thường là dữ liệu
duy nhất của một thời đại – những tượng đài đơn giản của những đứa con mù chữ
của thiên nhiên (tôi nghĩ thế khi tôi sờ vào chúng) mà dường như lưu giữ tới
phút tận cùng những vật kỷ niệm của các vị vua và các thánh nhân đã tan thành
tro bụi – và những xác ướp Ai Cập mà tôi co lại khi sờ chúng. Từ những di tích
này tôi biết nhiều về sự tiến triển của nhân loại hơn tôi từng nghe hay đọc từ
trước tới giờ.
Ảnh: Marshall, 1902
CÔ KELLER VÀ TIẾN SĨ ALEXANDER GRAHAM BELL
CÔ KELLER VÀ TIẾN SĨ ALEXANDER GRAHAM BELL
Tất cả những trải nghiệm này bổ sung nhiều từ ngữ mới trong
vốn từ vựng của tôi, và trong ba tuần ở Hội chợ tôi đã có một bước nhảy vọt từ
sự quan tâm tới những câu chuyện cổ tích và những thứ đồ chơi của một đứa trẻ
nhỏ tới niềm thán phục sự có thật và nghiêm chỉnh của thế giới thường ngày.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét