Virginia Woolf
Nguyễn Thành Nhân dịch
Thật
kinh khủng, ông kêu lên, kinh khủng, kinh khủng!
Tuy nhiên, mặt trời đang nóng. Tuy
nhiên, người ta phải chấp nhận mọi sự đã qua. Tuy nhiên sự sống có một cung
cách bổ sung thêm cho mỗi ngày. Tuy nhiên, ông nghĩ, ngáp dài và bắt đầu chú ý
– công viên Regent’s đã thay đổi rất ít từ khi ông còn là một cậu bé, ngoại trừ
những con sóc – tuy nhiên, giả sử có những bù đắp – khi em bé Elise Mitchell,
người đã nhặt những hòn cuội để bổ sung cho bộ sưu tập đá cuội mà nó và anh nó
đang thực hiện trên cái bệ lò sưởi của phòng trẻ em, đã trút ào cả nắm cuội lên
đầu gối của người vú em và đã lao hết tốc lực vào đôi chân của một quý cô.
Peter Walsh cười phá lên.
Nhưng Lucrezia Warren Smith đang tự
nhủ; vì sao mình phải chịu khổ? Cô đang tự hỏi, khi bước dọc theo con đường
rộng. Không; mình không thể chịu đựng thêm nữa, cô đang nói, sau khi rời khỏi
Septimus, kẻ không còn là Septimus nữa, cứ nói ra những điều khó nghe, độc ác,
xấu xa, tự nói với chính mình, nói với một người chết, trên cái ghế đằng kia;
khi một đứa bé chạy đâm sầm vào cô, ngã sóng soài và bật khóc.
Điều đó an ủi đôi chút. Cô đỡ nó
đứng lên, phủi bụi trên váy nó, hôn nó.
Nhưng với chính mình cô chưa làm
điều gì sai trái cả; cô đã yêu Septimus; cô đã hạnh phúc; cô đã có một ngôi nhà
đẹp đẽ, và ở đó các chị em của cô sống lặng lẽ, làm những chiếc mũ. Vì sao cô
phải chịu khổ?
Đứa bé chạy thẳng về chỗ người vú em
của nó, và Rezia thấy nó nhăn nhó, được vỗ về,
được người vú em của nó bế lên sau khi đặt món đồ đan xuống, và người
đàn ông trông có vẻ tốt bụng đưa cho nó cái đồng hồ của mình để nó mở tung ra,
để an ủi nó – nhưng vì sao cô lại bị phơi trần? Vì sao không bỏ đi ở Milan? Vì sao bị hành hạ?
Vì sao?
Hơi lung liêng chao động bởi những
giọt nước mắt, con đường rộng, người vú em, người đàn ông mặc đồ xám, cái xe
đẩy, dâng lên rồi hạ xuống trước đôi mắt của cô. Bị kẻ hành hạ hiểm ác này làm
cho rúng động là số phận của cô. Nhưng vì sao? Cô giống như một con chim ẩn náu
dưới lòng trũng mong manh của một chiếc lá, chớp mắt nhìn ánh mặt trời khi
chiếc lá chuyển động; giật mình với một tiếng rạn lách tách của một nhánh cây
khô. Cô bị phơi trần. Cô bị vây quanh bởi những cây cối to lớn, những đám mây
thênh thang của một thế giới bàng quang, bị phơi trần; bị hành hạ; và vì sao cô
phải chịu khổ đau? Vì sao?
Cô nhăn mặt; cô dậm chân. Cô phải
quay lại với Septimus vì đã tới lúc họ phải tới nhà ngài William Bradshaw. Cô
phải quay lại và nói với anh ta, quay lại với anh ta đang ngồi đó trên cái ghế
xanh bên dưới cái cây, đang nói chuyện với chính mình, hay với người đàn ông đã
chết Evans đó, người mà cô chỉ thoáng nhìn thấy một lần trong trong cửa tiệm.
Có vẻ như anh ta là một người lặng lẽ tốt bụng; một người bạn thân của
Septimus, và anh ta đã bị giết trong chiến tranh. Nhưng những điều như thế xảy
ra với mọi người. Mọi người đều có những người bạn bị giết trong cuộc chiến. Mọi
người đều từ bỏ một thứ gì đó khi họ kết hôn. Cô đã từ bỏ ngôi nhà của mình. Cô
đã tới sống ở đây, trong cái thành phố dễ sợ này. Nhưng Septimus cứ cho phép
bản thân suy nghĩ về những điều khủng khiếp, vì cả cô cũng có thể, nếu cô cố
gắng. Anh ta ngày càng trở nên xa lạ. Bà Filmer nghĩ là điều đó thật kỳ quặc.
Anh ta còn nhìn thấy nhiều điều nữa – anh ta đã nhìn thấy đầu của một bà già ở
giữa một lùm dương xỉ. Nhưng anh ta có thể hạnh phúc nếu anh ta chọn. Họ đã tới
điện Hampton
trên tầng trên của một chiếc xe buýt, và họ đã hoàn toàn hạnh phúc. Tất cả những
loài hoa nho nhỏ màu đỏ và màu trắng đều ở ngoài bãi cỏ, như những ngọn đèn
trôi nổi bập bềnh, anh ta đã nói, tán gẫu và cười lớn, bịa ra những câu chuyện.
Đột nhiên anh ta nói, “Giờ chúng ta sẽ tự sát,” khi họ đang đứng cạnh dòng
sông, và anh ta nhìn nó với một ánh mắt mà cô đã nhìn thấy trong mắt anh ta khi
có một con tàu hỏa chạy ngang, hay một chiếc xe buýt hai tầng – một ánh mắt như
thể có cái gì đó đang mê hoặc anh ta; cô cảm thấy anh ta sắp rời khỏi cô và cô
chụp lấy cánh tay của anh ta. Nhưng khi về nhà anh ta hoàn toàn lặng lẽ – hoàn
toàn hợp lý. Anh ta thường tranh cãi với cô về việc họ tự sát; và giải thích
mọi người xấu xa như thế nào; anh ta có thể thấy họ bịa đặt những lời dối trá
thế nào khi họ đi ngang qua trên phố. Anh ta biết tất cả những ý nghĩ của họ,
anh ta bảo; anh ta biết mọi thứ. Anh ta biết ý nghĩa của thế gian này, anh ta
bảo.
Rồi khi họ đã về nhà anh ta hầu như
không thể bước đi. Anh ta nằm trên cái trường kỷ và bảo cô nắm lấy bàn tay của
mình để ngăn không cho anh ta rơi xuống, rơi xuống, vào những ngọn lửa! Anh ta
khóc, và nhìn thấy những gương mặt đang cười nhạo anh ta, gọi anh ta bằng những
cái tên kinh tởm khủng khiếp, từ những bức tường, và những bàn tay chỉ vòng qua
bức bình phong. Thế nhưng họ hoàn toàn chỉ có một mình. Nhưng anh ta bắt đầu
nói lớn tiếng, trả lời mọi người, tranh luận, cười, khóc, trở nên rất kích động
và bắt cô phải viết lại các thứ. Điều đó thật phi lý; về cái chết; về cô Isabel
Pole. Cô không thể chịu đựng được nữa. Cô sẽ quay lại.
Lúc này cô đã tới gần anh ta, có thể
nhìn thấy anh ta đang nhìn chòng chọc lên bầu trời, lẩm bẩm, vỗ tay. Thế nhưng
bác sĩ Holmes đã bảo không có gì nghiêm trọng với anh ta hết. Vậy chuyện gì đã
xảy ra – vậy vì sao anh ta bỏ đi, khi cô ngồi cạnh anh ta, anh ta lại giật mình,
cau mặt nhìn cô, nhích ra xa, và chỉ vào tay cô, cầm lấy tay cô, nhìn nó một
cách kinh hoàng?
Có phải cô đã tháo chiếc nhẫn cưới
ra không? “Tay em đã trở nên quá gầy,” cô ta
nói. “Em phải cất nó vào ví,” cô ta nói với anh.
Anh buông tay cô ta xuống. Cuộc hôn
nhân của họ đã kết thúc, anh nghĩ, với sự thống khổ, với sự nhẹ nhõm. Sợi thừng
đã bị cắt đứt; anh đã trèo lên; anh tự do, như lệnh đã ban rằng anh, Septimus,
chúa tể của những người đàn ông, sẽ được tự do; đơn độc (vì vợ anh đã vất bỏ
chiếc nhẫn cưới của mình; vì cô ta đã bỏ mặc anh), anh, Septimus, chỉ có một
mình, được kêu gọi tiến lên trước đám đàn ông để nghe sự thật, để biết ý nghĩa,
mà cuối cùng giờ đây, sau tất cả những công việc nhọc nhằn của việc dân sự hóa
– những người Hy Lạp, những người La Mã, Shakespeare, Darwin và giờ là bản thân
anh – sẽ phải trao tất cả cho… “Cho ai?” Anh lớn tiếng hỏi. “Cho ngài thủ
tướng,” những giọng nói lao xao bên trên đầu anh trả lời. Bí mật tối cao phải
được báo cho nội các; đầu tiên là những cây cối đang sống; tiếp đến là không có
tội ác; tiếp đến là tình yêu, tình yêu phổ quát, anh lẩm bẩm, thở hổn hển, run
rẩy, rút ra một cách đau đớn những chân lý sâu xa này, những chân lý rất sâu xa
mà cần có một nỗ lực rất đỗi khó khăn, to lớn để nói lên, nhưng thế gian đã bị
chúng làm cho thay đổi hoàn toàn mãi mãi.
Không có tội ác; tình yêu; anh lặp
lại, lần mò tìm tấm danh thiếp và cây bút chì, khi một con chó săn giống Skye
đánh hơi cái quần của anh và anh giật mình hoảng hốt. Nó đang biến thành một
người đàn ông! Anh không thể quan sát chuyện này diễn ra! Việc nhìn thấy một
con chó biến thành một người đàn ông thật kinh hoàng, khủng khiếp! Con chó bỏ
chạy ngay lập tức.
Trời đất khoan dung cực kỳ, nhân từ
vô hạn. Nó đã tha cho anh sống, khoan thứ sự yếu đuối của anh. Nhưng đâu là lý
giải theo khoa học? (Vì trên tất cả mọi thứ người ta phải có đầu óc khoa học.)
Vì sao anh có thể nhìn thấu qua những thân thể, nhìn thấy tương lai, khi những
con chó trở thành người? Có thể cho đó là làn sóng nhiệt, tác động lên một bộ
não đã trở nên nhạy cảm bởi nhiều niên đại tiến hóa. Nói theo khoa học, thịt da
đã tan chảy khỏi trần gian. Thân thể anh trở nên cằn cỗi cho tới khi chỉ còn
sót lại những sợi thần kinh. Nó trải ra như một tấm voan trên một tảng đá.
Anh nằm ngửa trên ghế, kiệt sức
nhưng giữ vững tinh thần. Anh nằm ngơi nghỉ, chờ đợi, trước khi một lần nữa anh
diễn giải cho nhân loại, với nỗ lực, với niềm thống khổ. Anh nằm rất cao, trên
lưng cõi thế. Quả đất rùng mình bên dưới thân anh. Những cây hoa màu đỏ mọc qua
da thịt anh; những chiếc lá cứng của chúng lao xao cạnh đầu anh. Tiếng nhạc bắt
đầu lanh lảnh vọng lên những tảng đá trên này. Đó là một tiếng còi xe ở dưới
phố, anh lẩm bẩm; nhưng ở trên này nó bắn từ tảng đá này sang tảng đá khác,
tách ra, nhập lại trong những âm thanh chấn động; chúng cất cao thành những cây
cột mịn màng (việc có thể nhìn thấy thứ âm nhạc đó là một phát hiện) và trở
thành một bản thánh ca, một bản thánh ca lúc này bị cuộn tròn lại bởi tiếng sáo
của một thằng bé chăn cừu (Đó là một ông già đang thổi một cái còi thiếc cạnh
tiệm rượu, anh lẩm bẩm); trong lúc thằng bé bất động, bản nhạc vẫn sôi sục
thoát ra từ cái ống sáo, và rồi, khi anh trèo lên cao hơn, tiếng sáo trở nên
cực kỳ ão não trong lúc xe cộ lưu thông bên dưới. Khúc bi ca của thằng bé này
được chơi giữa đám xe cộ lưu thông, Septimus nghĩ. Lúc này anh rút lui vào lớp
tuyết, và những bụi hoa hồng rũ nhánh quanh anh – những nhánh hoa hồng dày mọc
trên vách phòng ngủ của mình, anh tự nhắc bản thân. Tiếng nhạc dừng lại. Thằng
bé đã nhận được đồng xu của nó, nhận định về đồng xu, và đã đi sang tiệm rượu
kế bên.
Nhưng bản thân anh vẫn còn ở trên
tảng đá cao của mình, như một thủy thủ chết đắm trên một tảng đá. Tôi vươn
người ra thành tàu và rơi xuống, anh nghĩ. Tôi chìm xuống biển. Tôi đã chết,
thế nhưng lúc này còn sống, nhưng hãy để tôi nằm yên; anh cầu xin (anh lại đang
nói với chính mình – nó thật kinh khủng, kinh khủng!); và trong lúc, trước khi
thức tỉnh, giọng hót của lũ chim chóc và âm thanh của những bánh xe trộn lẫn vào
nhau và lao xao trong một sự hài hòa kỳ lạ, ngày càng lớn dần và người nằm ngủ
cảm thấy mình bị cuốn tới những bãi biển cuộc đời, anh cảm thấy mình bị cuốn về
phía cuộc sống như thế, mặt trời ngày càng nóng hơn, những tiếng kêu nghe lớn
hơn, một điều gì đó lớn lao sắp xảy ra.
Anh chỉ cần mở mắt ra; nhưng một sức
nặng đè lên chúng; một nỗi sợ. Anh căng người; anh đẩy; anh nhìn; anh nhìn thấy
công viên Regent’s trước mặt. Những luồng ánh nắng vuốt ve đôi bàn chân của
anh. Đám cây cối nghiêng ngả, vươn cành. Chúng tôi chào đón, dường như thế giới
nói; chúng tôi chấp nhận; chúng tôi sáng tạo. Vẻ đẹp, dường như thế giới nói.
Và như thể để chứng minh (một cách khoa học), bất cứ nơi nào anh nhìn tới,
những ngôi nhà, những hàng rào, những con linh dương đang vươn cổ qua hàng rào,
vẻ đẹp ngay lập tức bừng lên. Quan sát một chiếc lá run rẩy trong luồng không
khí là một niềm vui tinh tế. Trên trời, những con chim nhạn sà xuống, lượn
vòng, chao liệng vào ra giữa đàn, hết vòng này sang vòng khác, thế nhưng luôn
luôn với sự kiểm soát hoàn hảo như thể có một sợi dây cao su giữ chúng lại; và
những con ruồi vút lên hạ xuống; và mặt trời đáp xuống khi thì chiếc lá này,
lúc thì chiếc lá nọ, với sự chế giễu, khiến nó sáng lóa lên một sắc vàng mềm
mại trong sự an hòa thuần khiết; và thi thoảng có một tiếng chuông hòa âm (có
thể đó là một tiếng còi xe) kêu leng keng đến tuyệt vời trên những nhánh cỏ –
tất cả những thứ này, êm đềm và hợp lý như thường lệ, được tạo nên từ những sự
vật bình thường như thường lệ, giờ đây là chân lý; vẻ đẹp, giờ đây đó là chân
lý. Vẻ đẹp ở khắp mọi nơi.
“Đã tới lúc rồi.” Rezia nói.
Cái từ “lúc”
tách đôi cái vỏ của nó ra; trút những nội dung phong phú của nó lên anh; và từ
đôi môi anh rơi xuống như những cái vỏ sò, như những dăm kim loại từ một chiếc
máy bay, không hề do anh thốt ra, những từ cứng, trắng, bất diệt, và chúng bay
lên, tự gắn vào vị trí của chúng trong một khúc tụng ca Thời gian. Anh hát.
Evans đáp lại từ sau thân cây. Những người chết ở Thessaly,
Evans hát, giữa những chùm phong lan. Họ ở đó chờ cho
tới khi cuộc chiến tranh kết thúc, và giờ là những người chết, giờ là chính bản
thân Evans…
“Vì
Chúa, đừng tới!” Septimus kêu lên. Vì anh không thể nhìn vào những người chết.
Nhưng những nhánh cây tách ra. Một
người đàn ông mặc đồ xám đang thực sự bước về phía chúng. Nhưng trên người anh
ta không có bùn; không một vết thương; anh ta không thay đổi. Tôi phải nói với
toàn thế giới, Septimus la lên, giơ cao tay (trong lúc người đàn ông mặc đồ xám
tiến tới gần hơn), giơ cao tay như một nhân vật khổng lồ đã một mình than khóc trong
sa mạc suốt nhiều niên đại cho định mệnh của con người, với đôi tay áp vào
trán, những nếp nhăn tuyệt vọng hằn trên má, và lúc này nhìn thấy ánh sáng ở
rìa sa mạc; nó mở rộng ra và tấn công vào nhân vật đen như sắt (và Septimus hơi
nhổm lên trên ghế), và với những binh đoàn người nằm sóng soài phía sau ông ta,
người than khóc khổng lồ, đón nhận trong khoảnh khắc trên mặt mình toàn bộ…
“Nhưng em rất đau khổ, Septimus ạ.”
Rezia nói, cố kéo anh ngồi xuống.
Nhiều triệu người than khóc; họ đã đau
buồn biết bao lâu nay. Anh sẽ quay người lại, anh sẽ nói với họ trong giây lát,
chỉ thêm trong giây lát, về sự khuây khỏa này, về niềm vui này, về phát hiện
đáng kinh ngạc này…
“Mấy giờ, Septimus?” Rezia lặp lại.
“Mấy giờ rồi?”
Anh đang nói. Anh đang bắt đầu,
người đàn ông này phải chú ý tới anh. Ông ta đang nhìn họ.
“Tôi sẽ nói cho anh biết giờ.”
Septimus nói, rất chậm rãi, rất uể oải, mỉm cười bí ẩn. Trong lúc anh mỉm cười
với người đàn ông đã chết mặc đồ xám, đồng hồ đổ chuông – mười hai giờ kém mười
lăm.
Và đó là tuổi trẻ, Peter Walsh nghĩ
khi ông đi ngang qua họ. Có một cảnh tượng đáng sợ – cô gái khốn khổ trông có
vẻ hoàn toàn tuyệt vọng – vào giữa buổi sáng. Nhưng đó là về cái gì, ông tự
hỏi, người thanh niên mặc áo khoác đó đã nói gì với cô ta để khiến cho cô ta
trông như vậy; họ đã tự gắn mình vào sự việc đáng sợ nào, khiến cả hai trông
tuyệt vọng đến thế trong một buổi sáng mùa hạ đẹp trời?
Điều thú vị về việc quay trở lại
Anh, sau năm năm, là cái cách thức nó khiến cho, bất kể những ngày đầu tiên ra
sao, những sự việc nổi bật lên như thể người ta chưa bao giờ nhìn thấy chúng
trước đó; đôi tình nhân cãi nhau dưới một gốc cây; cuộc sống gia đình của những
công viên. Ông chưa bao giờ thấy London
có vẻ mê hoặc như thế – sự mềm mại của những khoảng xa; sự phong dật; sự xanh
tươi; sự văn minh, sau Ấn Độ, ông nghĩ, lững thững băng qua bãi cỏ.
Không ngờ gì nữa, sự nhạy cảm đối
với những ấn tượng này đã làm hại ông. Ở tuổi mình, ông vẫn có những tâm trạng
đan xen này như một cậu bé hay thậm chí một cô bé; những ngày tốt đẹp, những
ngày tệ hại, bất kể vì lý do gì, niềm hạnh phúc từ một gương mặt xinh xắn rơi
tụt xuống nỗi khốn khổ khi nhìn thấy một người đàn bà ăn mặc lôi thôi. Sau Ấn
Độ, dĩ nhiên người ta phải lòng mọi phụ
nữ người ta gặp. Ở họ có một sự tươi tắn; ngay cả người ăn mặc tồi tàn nhất
chắc chắn cũng đẹp hơn năm năm trước; và với đôi mắt của ông, các thứ thời
trang chưa bao giờ thích hợp đến thế; những chiếc áo choàng đen dài; thanh
mảnh; tao nhã; rồi tới thói quen thú vị và rõ ràng là phổ quát về mỹ phẩm. Mọi
phụ nữ, ngay cả người khả kính nhất, đều như hoa hồng đang nở; những làn môi
sắc sảo; những lọn tóc đen nhánh; có sự thiết kế, mỹ thuật ở mọi nơi; một thay
đổi nào đó chắc chắn đã xảy ra. Những người trẻ tuổi nghĩ về cái gì? Peter Walsh
tự hỏi.
Năm năm đó – 1918 tới 1923 – vì lý
do nào đó là rất quan trọng, ông ngờ thế.
Mọi người trông có vẻ khác hẳn.
Những tờ nhật trình dường như khác hẳn. Chẳng hạn như hiện nay có một người đàn
ông viết hoàn toàn cởi mở trên một trong những tờ tuần báo khả kính về những
nhà vệ sinh. Mười năm trước bạn không thể làm điều đó – viết hoàn toàn cởi mở
về những cái nhà xí trên một tờ tuần báo khả kính. Rồi tới việc lấy ra một thỏi
son môi hay một nùi bông thoa phấn và trang điểm trước đám đông này nữa. Trên
boong con tàu về nhà có nhiều thanh niên nam nữ – cụ thể là Betty và Bertie,
ông nhớ – xử sự hoàn toàn cởi mở; bà mẹ già ngồi quan sát với mớ đồ đan, thản
nhiên như không. Cô gái đứng yên và thoa phấn lên môi trước mặt mọi người. Và
họ chưa đính hôn với nhau, chỉ tận hưởng một thời gian vui vẻ; không bên nào có
cảm giác tổn thương. Cô ta, Betty hay gì nhỉ, cứng như một cây đinh, nhưng là
một người hoàn toàn tử tế. Cô ta sẽ trở thành một bà vợ rất tốt ở tuổi ba mươi
– cô ta sẽ kết hôn khi tới thời điểm thích hợp; lấy một người đàn ông giàu có
nào đó và sống trong một ngôi nhà lớn gần Manchester.
Người đã thực hiện điều đó là ai
nhỉ? Peter Walsh tự hỏi, quẹo vào đường Broad Walk – đã lấy một người đàn ông
giàu có và sống trong một ngôi nhà lớn gần Manchester? Một ai đó đã viết cho ông một lá
thư dài lai láng hoàn toàn muộn màng về “những bông hoa tú cầu xanh”. Chính
việc nhìn thấy những bông hoa tú cầu xanh đã khiến cho bà ấy nghĩ tới ông và
những ngày xưa – Sally Seton, tất nhiên rồi! Chính là Sally Seton – người cuối
cùng trên đời này mong đợi lấy được một người đàn ông giàu có và sống trong một
ngôi nhà lớn gần Manchester, cái cô nàng Sally hoang dã, táo tợn, lãng mạn!
Nhưng trong cả đám bạn xưa của
Clarissa – vợ chồng nhà Whitbread, Kinderley, Cunningham, Kinloch-Jones – có lẽ
Sally là người tốt nhất. Bằng cách nào đó cô đã cố hiểu đúng được vấn đề. Bằng
cách nào đó cô đã nhìn thấu Hugh Whitbreads – cái gã Hugh đáng ngưỡng mộ – khi Clarissa và số còn lại đều bị anh ta mê
hoặc.
“Vợ chồng nhà Whitbread à?” Ông có
thể nghe cô nói. “Vợ chồng nhà Whitbread là ai? Những thương gia ngành than.
Những nhà buôn khả kính.”
Cô ghét cay ghét đắng Hugh vì một lý
do nào đó. Anh ta không nghĩ tới thứ gì khác ngoài ngoại hình của chính mình,
cô ta bảo. Lẽ ra anh ta nên là một công tước. Chắc chắn là anh ta sẽ cưới một
trong những công nương trong hoàng tộc. Và dĩ nhiên Hugh có một sự tôn kính đặc
biệt, tự nhiên nhất, siêu phàm nhất, đối với giới quý tộc Anh trong số bất kỳ
người nào anh ta từng gặp gỡ. Ngay cả Clarissa cũng phải thừa nhận điều đó.
Chà, nhưng anh ta là một gã rất dễ thương, rất vị tha, đã từ bỏ việc săn bắn để
làm vừa lòng bà mẹ già của mình, nhớ tới sinh nhật bà cô của mình, vân vân.
Sally, thật đáng ngưỡng mộ, đã nhìn
thấu tất cả những điều đó. Một trong những điều mà ông nhớ nhất là một cuộc
tranh cãi vào một sáng Chủ nhật ở Bourton về những quyền của phụ nữ (cái đề tài
cũ rích đó), khi Sally đột nhiên mất bình tĩnh, nổi cáu lên, và nói với Hugh
rằng anh ta đại diện cho tất cả những thứ đáng ghét nhất trong cuộc sống của
tầng lớp trung lưu nước Anh. Cô bảo với anh ta rằng cô cho là anh ta phải chịu
trách nhiệm về tình trạng của “những cô gái nghèo ở khu Piccadilly” – Hugh, quý
ông hoàn hảo, Hugh khốn khổ! – chưa từng có người đàn ông nào trông hoảng kinh
hồn vía hơn thế! Sau đó cô ta bảo rằng cô ta làm thế là có mục đích (vì họ
thường tụ hợp với nhau trong vườn rau và trao đổi ý kiến). “Anh ta không hề đọc
thứ gì, suy nghĩ điều gì, cảm thấy điều gì,” ông có thể nghe cô ta nói với cái
giọng nhấn mạnh đó, nó chuyên chở rất nhiều điều hơn mức cô ta biết. Trong
những cậu bé chăm sóc ngựa còn có nhiều sức sống hơn là trong Hugh, cô ta nói.
Anh ta là một mẫu vật hoàn hảo của kiểu trường công lập, cô ta nói. Không quốc
gia nào ngoài nước Anh có thể sản sinh ra anh ta. Cô ta thật sự hằn học, vì một
lý do nào đó; có một mối hận nào đó đối với anh ta. Một chuyện gì đó đã xảy ra
– ông quên mất là gì – trong phòng hút thuốc. Anh ta đã sỉ nhục cô ta – đã hôn
cô ta? Không thể tin nổi! Tất nhiên là không ai tin vào một lời chống lại Hugh.
Ai có thể tin chứ? Hôn Sally trong phòng hút thuốc! Nếu đó là một công nương
Edith hay phu nhân Violet thì có lẽ; nhưng không phải là cô nàng Sally ăn mặc
nhếch nhác không có một xu thừa kế với một ông bố hay bà mẹ chơi cờ bạc ở Monte
Carlo đó. Bởi trong số tất cả những người ông từng gặp Hugh là một gã hợm mình
ghê gớm nhất – một gã xun xoe nhất – không, chính xác thì anh ta không khúm
núm. Anh ta quá khinh khỉnh ta đây đối với điều đó. Một gã hầu phòng hạng nhất
là một so sánh hiển nhiên – một ai đó đi theo sau mang những cái va li; có thể
tin cậy để gửi những bức điện tín – tuyệt đối cần thiết đối với những bà chủ
nhà. Và anh ta đã tìm được công việc của mình – kết hôn với cô nàng Evelyn danh
giá; có một chức vụ nhỏ ở triều đình, chăm sóc cho những hầm rượu của đức vua,
lau chùi những cái khóa giày của hoàng đế, đi lại với cái quần chẽn gối và
những ống tay áo viền đăng ten. Cuộc sống thật tàn nhẫn biết bao! Một công việc
nhỏ ở triều đình!
Anh ta đã cưới tiểu thư này, cô nàng
Evelyn danh giá, và họ sống gần đâu đây, ông nghĩ thế (khi nhìn vào những ngôi
nhà tráng lệ quay ra hướng công viên), vì ông đã có lần ăn trưa ở đó, trong một
ngôi nhà mà, như tất cả các tài sản của Hugh, có một thứ gì đó mà không ngôi
nhà khác có thể có được – có thể đó là những cái tủ chứa quần áo vải lanh. Bạn
phải tới và nhìn thấy chúng – bạn luôn phải bỏ ra nhiều thì giờ để tán thưởng
bất kể nó là gì – những cái tủ chứa đồ vải lanh, những cái áo gối, những đồ nội
thất cổ bằng gỗ sồi, những bức tranh, mà Hugh đã chọn ra cho một bài hát cũ.
Nhưng đôi khi bà Hugh để lòi cái dốt ra. Cô ta là một trong những phụ nữ nhỏ
nhắn như chuột nhắt luôn hâm mộ những gã đàn ông to lớn. Cô ta hoàn toàn không
đáng kể. Rồi đột nhiên cô ta nói một điều gì đó hoàn toàn bất ngờ – một điều gì
đó sắc sảo. Có lẽ cô ta có tàn tích những lề thói trưởng giả. Hơi than quá nồng
đối với cô ta – nó khiến cho bầu không khí dày đặc. Và họ sống như thế, với
những cái tủ đựng đồ vải lanh, những người chủ nhà đất già nua và những cái áo
gối viền đăng ten thật với mức năm hoặc mười ngàn bảng mỗi năm, có lẽ, trong
lúc ông, người lớn hơn Hugh hai tuổi, vẫn lang thang để tìm một việc làm.
Ở tuổi năm mươi ba ông phải tới và
nhờ họ gửi gắm ông vào một văn phòng thơ ký nào đó, tìm cho ông một công việc
trợ giáo tiếng Latin cho những cậu bé, chịu sự sai khiến của một viên quan lại
nào đó trong một văn phòng, một việc làm nào đó có thể mang lại năm trăm bảng
một năm; vì nếu ông cưới Daisy, ngay cả với tiền lương hưu của ông, họ cũng
không thể nào sống nổi.
Có lẽ Whitebread có thể làm được
điều này; hoặc Dalloway. Ông không quan tâm tới điều ông đã yêu cầu Dalloway.
Ông ta là một người hoàn toàn tốt; hơi hạn chế một chút; chậm hiểu một chút;
phải, nhưng là một người hoàn toàn tốt. Bất kể bắt đầu một việc gì, ông ta đều
thực hiện nó với cùng một cách thức thực tế; không có chút đầu óc tưởng tượng
nào, không một tia sáng tài hoa, nhưng với sự tỉ mỉ bất khả lý giải theo cách
của ông ta. Lẽ ra ông ta phải là một quý ông ở nông thôn – ông ta đã lãng phí
cho chính trị. Ông ta có khả năng tốt nhất ở ngoài trời, với lũ ngựa và lũ chó
– chẳng hạn, ông ta đã tài giỏi biết bao khi con chó lông xồm to lớn của
Clarissa bị mắc bẫy và đứt mất bàn chân, Clarissa ngất xỉu và Dalloway đã làm
mọi thứ: băng bó, buộc nẹp, bảo Clarissa đừng có ngốc nghếch. Có lẽ bà ấy thích
ông ta ở điều đó. Đó là thứ bà ấy cần. “Nào, cô thân mến, đừng có ngốc thế. Giữ
lấy cái này, đi lấy cái kia,” suốt thời gian đó nói chuyện với con chó như thể
nó là một con người.
Nhưng làm sao bà ấy có thể nuốt trôi
tất cả những thứ thơ thẩn đó nhỉ? Làm sao bà ấy có thể để cho ông ta nói tràng
giang đại hải về Shakespeare thế nhỉ? Một cách nghiêm túc, trang trọng, Richard
Dalloway tỏ ra tức giận và bảo rằng không người đàn ông lịch sự nào nên đọc
những bài sonnet của Shakespeare vì nó giống như nghe lén qua lỗ khóa (ở ngoài
những mối quan hệ không phải là một điều ông ta chấp nhận). Không người đàn ông
lịch sự nào nên để cho vợ mình tới thăm một cô em gái đã chết. Thật không thể
tin nổi! Điều duy nhất để làm là xối xả tấn công ông ta bằng món mứt quả hạnh –
đó là vào bữa tối. Nhưng Clarissa đã bị che mắt hoàn toàn; nghĩ rằng ông ta rất
chân thành; rất độc lập; có trời biết bà ấy có nghĩ rằng ông ta là người có đầu
óc bình thường nhất mà bà ấy từng gặp hay không.
Đó là mối liên kết giữa Sally và
ông. Có một khu vườn nơi họ thường đi dạo, một nơi có tường bao bọc, với những
bụi hoa hồng và những cây cải bắp to lớn – ông có thể nhớ Sally đã hái một bông
hồng, dừng lại để cảm thán về vẻ đẹp của những lá cải bắp dưới ánh trăng (thật
lạ lùng, cách thức tất cả những chuyện mà ông không nghĩ tới suốt nhiều năm quay
lại với ông), trong lúc cô ta van nài ông, dĩ nhiên là nửa đùa nửa thật, hãy
chiếm lấy trái tim của Clarissa, để cứu bà ấy khỏi gia đình Hugh và Dalloway và
tất cả những quý ông hoàn hảo khác, những kẻ sẽ bóp nghẹt linh hồn của bà ấy
(dạo đó bà ấy viết hàng tập thơ), biến bà ấy thành một bà chủ nhà đơn thuần,
khuyến khích bà ấy trở nên phàm tục. Nhưng người ta ngưỡng mộ Clarissa. Dù sao
đi nữa, bà ấy đã không lấy Hugh. Bà ấy có một nhận thức hoàn toàn rõ ràng về
điều mình muốn. Tất cả mọi cảm xúc của bà ấy đều ở trên bề mặt. Bên dưới, bà ấy
rất sắc sảo – chẳng hạn giỏi xét đoán về tính cách hơn Sally nhiều, và với tất
cả những điều đó, bà hoàn toàn nữ tính; với khả năng thiên phú khác thường ấy,
cái khả năng thiên phú của một người phụ nữ trong việc tạo ra một thế giới
riêng ở bất cứ nơi đâu bà ấy có mặt. Bà ấy bước vào một căn phòng; bà ấy đứng,
như ông thường nhìn thấy bà ấy, ở lối ra vào với nhiều người xung quanh. Nhưng
thứ người ta nhớ chính là Clarissa. Không phải vì bà nổi bật; bà không xinh đẹp
chút nào; ở bà không có gì ấn tượng; bà chưa bao giờ nói bất cứ điều gì đặc
biệt thông minh; tuy nhiên, bà có mặt ở đó; bà có mặt ở đó.
Không, không, không! Ông không còn
yêu bà ấy nữa! Ông chỉ cảm thấy, sau khi gặp bà hồi sáng, với cây kéo và những
mảnh lụa, đang chuẩn bị cho bữa tiệc, không thể nào thoát khỏi ý nghĩ về bà ấy;
bà ấy cứ quay lại, quay lại mãi, như một cái giường ngủ cứ xóc người ông lên
trong một toa xe lửa; dĩ nhiên đó không phải là tình yêu; chỉ là việc suy nghĩ
về bà ấy, phê phán bà ấy, bắt đầu lần nữa, sau ba mươi năm, cố lý giải về bà
ấy. Điều hiển nhiên để nói về bà ấy là bà ấy thực tế; quan tâm quá nhiều tới
giai tầng và xã hội và việc tiến thân trong đời – ở ý nghĩa nhất định điều này
đúng; bà ấy đã thừa nhận với ông điều đó. (Bạn luôn có thể làm cho bà ấy thừa
nhận nếu bạn gắng công; bà ấy trung thực.) Điều bà ấy sẽ nói là bà ấy ghét
những phụ nữ ăn mặc lôi thôi, những kẻ thất bại, có lẽ giống như ông; nghĩ rằng
mọi người không có quyền đi lại lừ đừ với hai bàn tay thọc trong túi; phải làm
điều gì đó, phải là một thứ gì đó; và người ta gặp những nhân vật lớn ăn mặc
bảnh bao này, những nữ công tước này, những nữ công tước già khụ trong phòng
khách của bà ấy, xa rời vô tả như ông cảm thấy với bất cứ thứ gì quan trọng,
đại diện cho một thứ gì đó có thật đối với bà ấy. Phu nhân Bexborough, có lần
bà ấy nói, đã giữ người rất thẳng (bản thân Clarissa cũng thế; bà ấy không bao
giờ ngồi với vẻ uể oải theo bất cứ ý nghĩa nào của từ này; bà ấy thẳng như một
chiếc lao, thật sự là hơi cứng nhắc). Bà ấy bảo họ có một kiểu can đảm mà càng
lớn tuổi hơn bà ấy càng kính trọng hơn. Trong tất cả những điều này Dalloway
chiếm một phần lớn, dĩ nhiên; một phần lớn của tinh thần vì mọi người, đế quốc
Anh, sự cải cách thuế má, tinh thần của giai cấp thống trị, đã lớn lên trong bà
như nó có xu hướng là thế. Với trí thông minh gấp đôi ông ta, bà ấy phải nhìn
thấy mọi sự qua đôi môi của ông ta, một trong những bi kịch của cuộc sống hôn
nhân. Với trí tuệ của mình, bà ấy phải luôn trích dẫn lời của Richard – như thể
người ta không thể biết chút gì về một cái tựa mà Richard nghĩ tới bằng cách
đọc tờ Morning Post của một buổi sáng! Mấy bữa tiệc này chẳng hạn, là tất cả
đối với ông ta, hoặc đối với ý nghĩ của bà ấy về ông ta (nói một cách chính
xác, lẽ ra Richard sẽ hạnh phúc hơn nếu sống trong một nông trại ở Norfolk.) Bà
ấy biến phòng khách của mình thành một nơi hội họp; bà ấy có một thiên tài về
việc chuyện trò. Lần này sang lần khác, ông đã nhìn thấy bà ấy tóm lấy một
thanh niên non nớt nào đó, vặn người anh ta, xoay anh ta lại, đánh thức anh ta,
lèo lái anh ta. Tất nhiên có vô số người đần độn xúm xít quanh bà. Nhưng có
những người kỳ quặc bất ngờ xuất hiện; khi thì một diễn viên; khi thì một nhà
văn; những con cá lạ trong bầu khí quyển đó. Và đằng sau tất cả những điều này
là cái mạng lưới của sự thăm viếng, để lại những tờ danh thiếp, tỏ ra tử tế với
mọi người; chạy lăng xăng với những bó hoa, những món quà nho nhỏ; một ai đó sẽ
sang Pháp – phải có một cái gối hơi; một sự hút kiệt thật sự sức lực của bà ấy;
tất cả những dòng lưu thông vô tận đó mà những người phụ nữ như kiểu bà ấy theo
đuổi; nhưng bà ấy thực hiện nó một cách tài tình, từ một bản năng tự nhiên.
Thật lạ lùng, bà ấy là một trong
những kẻ hoài nghi tuyệt đối nhất mà ông từng gặp, và có thể (đây là một lý
thuyết mà ông thường bịa ra để lý giải về bà ấy, rất minh bạch theo một số cách
nào đó, rất bí hiểm theo một số cách khác), có thể bà ấy đã tự nhủ: Vì chúng ta
là một chủng tộc có định mệnh bi đát, bị xiềng vào một con tàu đắm (tác giả ưa
thích của bà hồi còn con gái là Huxley và Tyndall, và họ ưa thích những phép ẩn
dụ về biển này), vì toàn bộ sự việc là một trò đùa tệ hại, chúng ta hãy, ở bất
cứ giá nào, thực hiện phần việc của chúng ta; làm giảm bớt nỗi đau khổ của
những người bạn tù của chúng ta (lại Huxley); trang trí căn ngục thất bằng
những bông hoa và những cái gối hơi; cố hết sức tỏ ra lịch sự. Những tên vô lại
đó, những thần linh, không thực hiện tất cả những điều đó theo cách riêng của
họ – nhận thức của bà rằng những thần linh, những kẻ không bao giờ đánh mất một
cơ hội để gây tổn hại, ngăn trở và làm băng hoại cuộc sống của loài người, sẽ
bị cản trở ra trò nếu, dù sao đi nữa, bạn cư xử như một phu nhân. Giai đoạn đó
đến ngay sau cái chết của Sylvia – sự kiện kinh khủng đó. Nhìn thấy em gái của
mình bị giết chết bởi một thân cây đổ (tất cả là do lỗi của Justin Parry – tất
cả do sự bất cẩn của ông ta) ngay trước mắt mình, một cô gái cũng đang ở bên
rìa cuộc sống, người có tài năng nhất trong số họ, Clarissa luôn nói thế, là đã
đủ để khiến cho một người trở nên cay đắng. Có lẽ sau đó bà không còn quá lạc
quan nữa; bà nghĩ rằng không có các thần linh; không có ai để oán trách; và thế
là bà đã phát triển thứ tín ngưỡng vô thần làm điều tốt vì sự tốt lành này.
Và dĩ nhiên bà ấy tận hưởng hết mức.
Bản chất của bà ấy là hưởng thụ (vì chỉ có Chúa biết, bà ấy có những dè dặt của
mình; đó là một phác thảo đơn giản, ông thường cảm thấy, mà thậm chí ông, sau
tất cả ngần ấy năm, mới có thể vẽ nên về Clarissa). Dù sao, trong bà không có
sự khắc nghiệt; không có cái ý thức về đức hạnh luân lý đáng kinh tởm ở những
người đàn bà tốt. Bà ấy thật sự tận hưởng mọi thứ. Nếu bạn tản bộ với bà ấy
trong công viên Hyde, khi thì một luống uất kim hương, khi thì một đứa bé trong
chiếc xe đẩy, khi thì một vở kịch nhỏ ngớ ngẩn nào đó mà bà ấy nghĩ ra do sự
kích thích của khoảnh khắc. (Rất có khả năng bà ấy sẽ nói chuyện với cặp tình
nhân đó, nếu bà ấy nghĩ họ không hạnh phúc.) Bà ấy có một cảm quan về hài kịch
thật sự tuyệt vời, nhưng bà ấy cần tới mọi người, luôn phải có mọi người, để
trưng nó ra, với cái kết quả không thể tránh khỏi là bà phung phí thì giờ của
mình, ăn trưa, ăn tối, tổ chức những bữa tiệc liên miên này, nói những điều phi
lý, nói những điều bà ấy không định nói, làm cùn mòn trí tuệ của mình, đánh mất
sự suy xét đúng đắn của mình. Bà ấy thường ngồi ở đầu bàn, cố gắng vô hạn để
chịu đựng một lão già ngu ngốc có thể có ích cho Dalloway – họ biết những thứ
đáng chán kinh khủng ở châu Âu – hoặc Elizabeth bước vào và mọi thứ phải nhường
bước trước con bé. Nó học ở một trường trung học, ở vào cái giai đoạn mơ hồ mà
ông đã trải qua, một cô gái mặt tròn trĩnh, trắng trẻo, không có chút nét nào
của mẹ mình, một sinh vật im lặng dửng dưng, xem mọi thứ là chuyện bình thường,
mặc cho mẹ mình lăng xăng rối rít lên vì mình, và rồi nói: “Giờ con có thể đi
chưa?” như một em bé bốn tuổi; ra ngoài để chơi khúc côn cầu, Clarissa giải
thích, với sự trộn lẫn giữa niềm vui và sự tự hào mà dường như chính Dalloway
đã khơi dậy ở bà ấy. Và giờ đây Elizabeth đang “ra ngoài”, có lẽ; nghĩ ông là
một ông già cổ hủ, cười nhạo những người bạn của mẹ mình. Chà, tốt, cứ vậy đi.
Sự bù đắp của tuổi già đơn giản là điều này, Peter Walsh nghĩ, bước ra khỏi
công viên Regent’s, tay cầm mũ; rằng niềm đam mê vẫn còn mạnh mẽ như trước giờ,
nhưng rốt cuộc người ta đã có được cái khả năng này: nó bổ sung thêm hương vị
quan trọng cho sự tồn tại – khả năng nắm giữ kinh nghiệm, xoay tròn nó một cách
chậm rãi trong ánh sáng.
Đó là một lời tự thú kinh khủng (ông
đội lại mũ lên đầu), nhưng giờ đây, ở tuổi năm mươi ba người ta hiếm khi cần
tới mọi người nữa. Bản thân cuộc sống, từng phút giây của nó, từng giọt của nó,
ở tại đây, vào khoảnh khắc này, ngay bây giờ, dưới ánh mặt trời, trong công viên
Regent’s, đã đủ rồi. Thật sự là quá nhiều. Toàn bộ một cuộc đời là quá ngắn để
đưa ra, khi giờ đây người ta đã thủ đắc được khả năng đó, hương vị trọn vẹn đó;
để trích từng ao-xơ lạc thú, từng bóng dáng của ý nghĩa; cả hai thứ này đều đậm
đặc hơn trước rất nhiều; ít tính chất cá nhân hơn rất nhiều. Việc ông sẽ lại
đau khổ khi Clarissa làm cho ông đau khổ là điều không thể có. Suốt nhiều giờ
liên tục (cầu Chúa để người ta có thể nói ra những điều này mà không bị nghe
lén!), suốt nhiều giờ và nhiều ngày ông chưa bao giờ nghĩ tới Daisy.
Có lẽ nào khi đó ông yêu cô ấy, nhớ
lại nỗi khốn khổ, sự dằn vặt, niềm say mê lạ thường của những ngày đó? Đây là
một việc hoàn toàn khác hẳn – một việc thú vị hơn nhiều – sự thật là, dĩ nhiên,
bây giờ cô ấy đang yêu ông. Và đó có lẽ là lý do vì sao, khi con tàu thật sự ra
khơi, ông cảm thấy một sự nhẹ nhõm lạ thường, không muốn gì hơn là được ở một
mình; bực bội khi phát hiện ra những quan tâm nho nhỏ của cô ấy – những điếu xì
gà, những cuốn sổ ghi chép, một tấm chăn cho chuyến đi – trong căn phòng trên
tàu của ông. Mọi người, nếu họ trung thực, sẽ nói cùng một điều; người ta không
cần tới mọi người sau tuổi năm mươi; người ta không muốn tiếp tục nói với những
người phụ nữ rằng họ xinh đẹp; đó là điều mà hầu hết những người đàn ông ở lứa
tuổi năm mươi sẽ nói, Peter Walsh nghĩ, nếu họ trung thực.
Nhưng rồi những cơn dâng trào cảm
xúc đáng kinh ngạc này – việc rơi nước mắt lúc sáng nay, tất cả những thứ đó là
nghĩa làm sao? Clarissa có thể nghĩ gì về ông? Có lẽ nghĩ ông là một gã ngốc,
không phải là lần đầu. Ở dưới đáy của nó là sự ghen tức – sự ghen tức đã cứu
sống mọi đam mê khác của loài người, Peter Walsh nghĩ, mở con dao nhíp ra. Cô
ấy đã gặp Thị trưởng Orde, Daisy nói trong lá thư cuối của cô ấy, nói điều đó
với một mục đích, ông biết; nói thế để làm cho ông ghen tức; ông có thể nhìn
thấy cô ấy nhíu trán lại trong lúc viết, tự hỏi có thể nói gì để làm tổn thương
ôn; thế nhưng nó đã không tạo được điều gì khác biệt; ông đã nổi giận! Tất cả
những sự nhặng xị này về việc trở lại nước Anh và gặp những luật sư không phải
là để cưới cô ta, mà để ngăn không cho cô ta kết hôn với bất kỳ ai khác. Đó là
điều đã dằn vặt ông, đó là điều đã áp đảo ông khi ông thấy Clarissa bình thản
đến thế, lạnh lùng đến thế, quan tâm đến thế tới chiếc váy của mình hay bất cứ
thứ gì; nhận ra rằng bà ấy có thể không cần tới ông, cái mà bà ấy có thể giảm
thiểu ông thành – một con lừa yếu đuối, than van. Nhưng những người phụ nữ, ông
nghĩ, khép con dao nhíp lại, không biết sự đam mê là gì cả. Họ không biết ý
nghĩa của nó đối với những người đàn ông. Clarissa lạnh lùng như một cột băng.
Bà ấy ngồi đó cạnh ông trên chiếc trường kỷ, để cho ông nắm tay mình, tặng cho
ông một nụ hôn… Ông đã tới ngã tư rồi.
Một âm thanh cắt ngang ý nghĩ của
ông; một âm thanh run rẩy mong manh, một giọng nói trào lên vô phương hướng, vô
sinh lực, đang bắt đầu hoặc kết thúc, chạy một cách yếu ớt và chói tai với một
sự vắng mặt của toàn thể ý nghĩa loài người vào những từ
ee um fah um so
foo swee too eem oo…
giọng nói không có tuổi hay giới
tính, giọng nói của một dòng suối cổ trào lên từ quả đất; nó phát ra ngay từ
phía đối diện trạm xe điện ngầm của công viên Regent’s từ một hình dáng cao run
rẩy, giống như một cái máy bơm nước han rỉ, giống như một thân cây bị gió hoành
hành mãi đến cằn cả lá đang để cho cơn gió quăng quật những nhánh cây của nó
trong lúc hát
ee um fah um so
foo swee too eem oo…
và đung đưa, kêu cọt kẹt và rên rỉ
trong trận gió thiên thu.
Xuyên qua mọi thời đại – khi mặt
đường lát đá còn là cỏ, khi nó còn là đầm lầy, qua thời đại của ngà voi và khổng
tượng, qua thời đại của bình minh lặng lẽ, người phụ nữ bị ngược đãi – vì bà mặc một cái váy – với tay phải xòe ra, tay
trái giữ chặt bên hông, đứng hát về tình yêu – tình yêu đã tồn tại một triệu
năm, bà hát, tình yêu đã thắng thế, và hàng triệu năm trước, người yêu của bà,
kẻ đã chết trong những thế kỷ này, đã bước đi, bà ngâm nga, với bà trong tháng
Năm; nhưng trong quãng thời gian nhiều niên đại đó, dài như những ngày hè, và
rực rỡ, bà nhớ, chỉ với những hoa cúc đỏ, ông ta đã ra đi; lưỡi hái to lớn của
tử thần đã quét qua những ngọn đồi mênh mông, và cuối cùng khi bà đặt mái đầu
bạc trắng già nua của mình lên mặt đất, lúc này đã trở thành một lớp xỉ băng,
bà van nài các thần linh hãy đặt bên cạnh bà một bó hoa cúc tím, ở đó, trên
ngôi mộ cao của bà, nơi những tia nắng cuối cùng của vầng thái dương cuối cùng
ve vuốt; vì khi đó hoạt cảnh lịch sử của vũ trụ sẽ kết thúc.
Trong lúc bài hát cổ xưa trào lên ở
phía đối diện trạm xe điện ngầm của công viên Regent’s, dường như quả đất vẫn
còn xanh mướt đầy hoa cỏ; vẫn còn, dù nó thoát ra từ một cái miệng rất thô lỗ,
một cái lỗ trên mặt đất, đầy bùn, chằng chịt rễ cây và cỏ rối, bài hát cổ xưa
phun trào vẫn còn đó, ngấm qua những cọng rễ đầy mấu đốt của vô vàn niên đại,
những bộ xương và kho báu, chảy đi trong những dòng suối trên vệ đường và suốt
dọc phố Marylebone, xuôi về hướng Euston, bồi bổ đất đai, để lại một vết ẩm
ướt.
Vẫn còn nhớ có lần trong một tháng
Năm ban sơ nào đó bà đã bước đi với người tình ra sao, cái máy bơm han rỉ này,
người phụ nữ già tơi tả này, với một bàn tay xòe ra để nhận những đồng xu và
tay kia khép lại bên hông, sẽ còn ở đó suốt mười triệu năm, nhớ có lần bà đã
bước đi thế nào trong tháng Năm, nơi hiện giờ biển khơi tuôn chảy, với ai không
quan trọng – ông ta là một người đàn ông, ồ, phải, một người đàn ông đã từng
yêu bà. Nhưng sự lướt trôi của nhiều niên đại đã bôi mờ đi sự rõ ràng của cái ngày
tháng Năm xa xưa đó; những cánh hoa rực rỡ đã bị sương muối phủ lên, xám và
trắng bạc; và bà không còn nhìn thấy, khi bà van nài ông ta (như hiện giờ bà
đang làm rất rõ ràng): “hãy chăm chú nhìn vào mắt em với đôi mắt dịu dàng của
chàng,”
bà không còn nhìn thấy đôi mắt nâu, bộ râu quai nón đen nhánh hay gương mặt rám
nắng nữa mà chỉ một hình dáng lờ mờ, một bóng hình mà bà vẫn hát líu lo với sự
tươi tắn như loài chim ở lứa tuổi già này, “hãy trao cho em bàn tay của chàng
để em khẽ khàng áp tay lên” (Peter Walsh không thể không cho sinh vật khốn khổ
này một đồng xu khi ông bước vào chiếc taxi), “và nếu có ai đó nhìn thấy thì có
gì là quan trọng?” bà gặng hỏi; và bàn tay của bà khép chặt bên hông, và bà mỉm
cười, bỏ đồng siling vào túi, và tất cả những đôi mắt tò mò đang nhìn dường như
mờ đi, và những thế hệ lướt qua – vệ đường đông nghẹt những người trung lưu
đang hối hả – biến mất, như những chiếc lá, để bị dẫm lên, bị nhúng và ngâm
nước và làm cho mốc meo bởi mùa xuân vĩnh cửu đó…
ee um fah um so
foo swee too eem oo
“Bà cụ tội nghiệp.” Rezia Warren
Smith nói trong lúc chờ băng qua đường.
Ôi bà cụ khốn khổ bất hạnh!
Giả sử đó là một đêm ẩm ướt? Giả sử
cha của một người, hay ai đó từng biết một người trong những ngày tốt đẹp hơn
đã trôi qua, và nhìn thấy người ấy đứng đó trong bùn lầy nước đọng? Và bà ấy
ngủ ở đâu vào ban đêm?
Vui vẻ, hầu như hoan hỉ, âm thanh
bất khả chiến bại mong manh như sợi chỉ đó cuộn vào bầu không như làn khói từ
một ống khói nhà, cuốn lên trên những cây sồi thẳng tắp và tản mác thành một
đám khói xanh giữa những chiếc lá trên cùng. “Và nếu có ai đó nhìn thấy thì họ
có gì là quan trọng?”
Vì cô rất khốn khổ, suốt mấy tuần
qua, Rezia đã gán ý nghĩa cho những sự việc xảy ra, đôi lúc hầu như cảm thấy cô
có thể chặn mọi người trên phố lại, nếu họ có vẻ là những người tốt bụng, tử
tế, chỉ để nói với họ “Tôi thật bất hạnh”; và bà cụ đang hát “nếu có ai đó nhìn
thấy, thì họ có gì là quan trọng?” giữa phố này khiến cô đột nhiên hoàn toàn
chắc chắn rằng mọi thứ sẽ đi đúng hướng. Họ sắp tới nhà của ngài William
Bradshaw; cô nghĩ tên của ông ta nghe có vẻ hay hay; ông ta sẽ chữa ngay cho
Septimus. Và sau đó có một cỗ xe ngựa của người ủ rượu bia, và những con ngựa
xám có gắn những túm rơm thẳng vào đuôi; có những tấm áp phích quảng cáo nhật
trình. Cảm thấy bất hạnh chỉ là một giấc mơ ngu xuẩn, ngu xuẩn.
Thế là họ băng qua đường, ông và bà
Septimus Warren Smith, và nói cho cùng, có bất cứ thứ gì khiến họ bị chú ý, có
bất cứ thứ gì khiến một khách qua đường ngờ rằng đây là một người đàn ông trẻ
mang trong người một thông điệp lớn lao nhất trần đời, và hơn nữa, là người đàn
ông hạnh phúc nhất trần đời, và bất hạnh nhất trần đời hay không? Có lẽ họ đi
chậm hơn những người khác, và có gì đó do dự, dùng dằng trong bước chân của
người đàn ông, nhưng điều tự nhiên hơn đối với một viên thư ký, người chưa từng
có mặt tại khu West End vào giờ này của một ngày trong tuần suốt nhiều năm, là
cứ nhìn lên bầu trời, nhìn người này, kẻ nọ, người kia, như thể phố Portland
Place là một căn phòng anh ta đã bước vào khi gia đình đi khỏi, những ngọn đèn
chùm treo trong những túi vải lanh Hà Lan và người chăm sóc – khi cô ta để cho
những luồng ánh sáng dài mờ bụi tràn lên những cái ghế bành không người, trông
có vẻ kỳ quặc – nhấc một góc của tấm màn che lên, giải thích với những vị khách
rằng nó là một nơi chốn tuyệt vời thế nào; thật tuyệt, anh ta nghĩ, khi anh ta
nhìn những thứ bàn ghế, thật lạ lùng.
Thoạt trông, có thể anh ta là một
viên thư ký, nhưng thuộc loại khá hơn; vì anh mang một đôi ủng nâu; hai bàn tay
của anh có rèn luyện; nét mặt nhìn nghiêng của anh – cái mũi to, đầy góc cạnh,
nét nhìn nghiêng thông minh, nhạy cảm; nhưng đôi môi của anh thì hoàn toàn
không, vì chúng mềm nhũn; và đôi mắt của anh (như những đôi mắt có xu hướng là
thế) chỉ đơn giản là một đôi mắt; màu lục nhạt, to; anh là thế, nhìn chung, một
trường hợp nửa vời, không phải loại này cũng không phải loại kia, có thể kết
thúc với một ngôi nhà ở Purley và một chiếc xe hơi, hoặc tiếp tục thuê những
căn hộ ở các dãy phố mặt hậu suốt đời mình; một trong những người đàn ông có
trình độ văn hóa nửa vời, tự học, mà toàn bộ học vấn của anh ta là từ những
cuốn sách mượn ở những thư viện công cộng, đọc vào lúc chiều tối sau một ngày
làm việc, làm theo lời khuyên của những tác giả nổi tiếng đã tư vấn qua thư.
Còn về phần những kinh nghiệm khác,
những kinh nghiệm cô đơn mà mọi người trải qua một mình, trong phòng ngủ, trong
văn phòng, khi bước trên những cánh đồng và những đường phố của London, anh có
chúng; đã rời khỏi nhà, khi chỉ là một cậu bé, vì mẹ của anh; bà đã nói dối; vì
anh đi xuống uống trà lần thứ năm mươi với đôi tay chưa rửa; vì anh không thể
nhìn thấy tương lai cho một nhà thơ ở thị trấn Stroud; và thế là, sau khi thổ
lộ tâm tình với cô em gái nhỏ, anh đã tìm tới London, bỏ lại một lá thư ngớ
ngẩn, như kiểu những người vĩ đại từng viết, mà sau đó thế giới sẽ đọc khi câu
chuyện về những cuộc đấu tranh của họ đã trở nên nổi tiếng.
London đã nuốt sống nhiều triệu
thanh niên có tên là Smith; dù không có gì kỳ lạ ở những cái tên thánh như
Septimus mà cha mẹ của họ đã nghĩ ra để phân biệt họ. Ở trọ trên phố Euston, có
những kinh nghiệm, lại những kinh nghiệm, như thời gian hai năm đã biến đổi một
gương mặt, từ trái soan hồng hào ngây
thơ trở thành một gương mặt gầy guộc, teo tóp, đầy thù địch. Nhưng trong số tất
cả những điều này, một người bạn giỏi quan sát nhất có thể nói gì ngoại trừ
điều một người làm vườn nói khi sáng ra ông ta mở cánh cửa vào nhà kính và phát
hiện ra có một cây vừa mới trổ hoa: Nó
đã nở hoa; nở hoa từ sự phù phiếm, tham vọng, lý tưởng chủ nghĩa, niềm đam mê,
sự cô độc, lòng can đảm, sự lười nhát, tất cả những hạt giống bình thường đã
rối tung lên (trong một căn phòng ở phố Euston) khiến cho anh hổ thẹn và nói cà
lăm, khiến anh nôn nóng muốn tự cải thiện bản thân, khiến anh phải lòng cô
Isabel Pole, đang giảng dạy về Shakespeare ở phố Waterloo.
Ông ấy không giống Keats sao? Cô ta
hỏi; và nhớ lại cô ta có thể cho anh nếm thử cảm giác về Antony và Cleopatra và
số còn lại ra sao; cho anh mượn những cuốn sách; viết cho anh những lá thư; và
thắp lên trong anh một ngọn lửa chỉ bùng lên một lần trong suốt một đời người,
không sức nóng, lấp lóe một ngọn lửa đỏ vàng vô cùng thoát tục và không có thật
đối với cô Pole; Anthony và Cleopatra; và phố Waterloo. Anh nghĩ cô ta xinh
đẹp, tin vào sự khôn ngoan hoàn hảo của cô ta; mơ về cô ta; viết cho cô ta
những bài thơ, mà, làm ngơ không thèm chú ý tới chủ đề, cô ta sửa lại chúng bằng
mực đỏ; anh nhìn thấy cô ta đang đi trong một quảng trường, mặc một cái váy
xanh lá. “Nó đã nở hoa,” người làm vườn có thể nói, nếu ông ta mở cửa ra; nghĩa
là nếu ông ta bước vào, vào giờ này của bất kỳ đêm nào, và nhìn thấy anh đang
xé nát những gì mình viết; tìm thấy anh đang hoàn thành một kiệt tác vào lúc ba
giờ sáng và chạy ra ngoài để thả bước trên những con đường, viếng thăm các nhà
thờ, hôm này nhịn ăn, hôm khác say sưa chè chén, ngấu nghiến đọc Shakerpeare,
Darwin, Lịch sử của nền văn minh và Bernard Shaw.
Có điều gì đó đang xảy ra, ông
Brewer biết; ông Brewer, chánh văn phòng hãng Sibleys và Arrowsmiths, người
điều khiển các cuộc bán đấu giá, định giá viên, đại diện chủ đất và bất động
sản; điều gì đó đang xảy ra, ông nghĩ, và, quan tâm tới những chàng trai giúp
việc của mình như một người cha, và đánh giá rất cao các khả năng của Smith,
tiên đoán rằng cậu ta, trong vòng mười hoặc mười lăm năm, sẽ ngồi vào cái ghế
bành bọc da ở phòng trong bên dưới cửa sổ mái nhà với những cái hộp kim loại
đựng hồ sơ xung quanh, “nếu cậu ta giữ gìn sức khỏe của mình,” ông Brewer nói,
và nguy hiểm là chỗ đó – trông anh ta yếu ớt quá; ông đã khuyên anh ta chơi
bóng đá, mời anh ta tới ăn tối và đang theo dõi cách thức của anh ta để xét tới
việc đề nghị tăng lương thì một chuyện đã xảy ra, xóa đi nhiều tính toán của
ông, tước mất những chàng trai có năng lực nhất của ông, và cuối cùng, những
ngón tay của cuộc chiến châu Âu thật quá tọc mạch và xảo quyệt, đã phá tan một
cái khuôn đúc tượng Ceres,
xới một cái hố trong những luống cây phong lữ, và phá hỏng hoàn toàn những sợi
dây thần kinh của người đầu bếp tại cơ sở kinh doanh của ông Brewer ở Muswell
Hill.
Septimus là một trong những tình
nguyện viên đầu tiên. Anh sang Pháp để cứu một nước Anh bao gồm hầu như toàn bộ
những vở kịch của Shakespeare và cô Isabel Pole mặc chiếc váy xanh đi dạo trong
một quảng trường.
Ở đó, trong những chiến hào, sự thay
đổi mà ông Brewer ao ước khi ông khuyên về bóng đá đã xuất hiện ngay lập tức;
anh đã phát triển tính cách đàn ông; anh được đề bạt; anh thu hút sự chú ý,
thật ra là cảm tình của viên sĩ quan chỉ huy anh, Evans. Đó là trường hợp hai
con chó đang chơi đùa trên một một tấm thảm trước lò sưởi; một con nhá nhá một
con đinh ốc đóng giấy, gầm gừ, táp, thỉnh thoảng lại nhá nhá tai của con chó
già; con kia nằm ngủ lơ mơ, hấp háy mắt trước ngọn lửa, giơ một bàn chân lên,
quay lại và gầm gừ một cách hiền hậu. Họ phải ở bên nhau, chia sẻ với nhau,
đánh nhau, cãi cọ nhau. Nhưng khi Evans (Rezia, chỉ gặp anh ta một lần, gọi anh
ta là một “con người lặng lẽ”, một gã đàn ông tóc đỏ, cường tráng, kín đáo khi
có mặt những người phụ nữ), khi Evans bị giết ở Ý, ngay trước Ngày đình chiến,
Septimus, không hề biểu lộ chút cảm xúc hay ghi nhận nào, rằng đây là sự kết
thúc của một tình bạn, đã tự chúc mừng mình vì đã cảm xúc rất ít và rất hợp lý.
Cuộc chiến đã dạy anh. Nó thật phi thường. Anh đã trải qua toàn bộ vở kịch,
tình bạn, cuộc chiến châu Âu, cái chết, đã được thăng cấp, vẫn chưa tới ba mươi
và nhất định phải sống sót. Anh đã ở ngay tại đó. Những quả đạn pháo cuối cùng
đã sượt qua anh. Anh quan sát chúng nổ tung với sự dửng dưng. Khi hòa bình lặp
lại, anh đang ở Milan, tạm trú trong nhà của một ông chủ nhà trọ; ngôi nhà có
một mảnh sân nhỏ, những chậu hoa, những cái bàn nhỏ đặt ngoài trời, các cô con
gái hành nghề làm mũ, và một tối nọ anh đã hứa hôn với Lucrezia, cô con gái nhỏ
hơn, trong lúc đang hoang mang – rằng anh không thể cảm nhận được.
Vì bấy giờ tất cả đã kết thúc, thỏa
ước ngừng bắn đã được ký kết, và những người chết đã được chôn cất, anh chợt có
những cơn sợ hãi đến đột ngột như sét đánh này, nhất là vào chiều tối. Anh
không thể cảm thấy. Khi mở cửa căn phòng nơi những cô gái Ý đang ngồi làm mũ,
anh có thể nhìn thấy họ; có thể nghe thấy họ; họ đang chà những sợi dây giữa
những hạt nhiều màu trong những cái đĩa nông; họ đang tạo dáng cho những mảnh
vải hồ cứng; cái bàn vương vải những chiếc lông chim, trang kim, lụa, ruy băng;
những cây kéo đang nhấp trên bàn; nhưng có gì đó đã hỏng trong anh; anh không
thể cảm thấy. Tuy nhiên, những cây kéo vẫn nhấp, các cô gái cười lớn tiếng,
những cái nón đang được làm ra bảo vệ anh; anh yên tâm về sự an toàn; anh có
một nơi ẩn náu. Nhưng anh không thể ngồi đó suốt đêm. Có những khoảnh khắc thức
giấc vào sáng sớm. Cái giường đang rơi; anh đang rơi. Ôi chao, vì những cây
kéo, ánh đèn và những mảnh vải hồ tạo dáng! Anh đã đề nghị Lucrezia cưới mình; cô
là người trẻ hơn trong hai cô gái, có tính tình vui vẻ, nhẹ dạ, với những ngón
tay nhỏ nhắn của một nghệ nhân. Cô thường giơ mấy ngón tay lên và bảo: “Tất cả
đều ở trong chúng.” Lụa, những cái lông chim, và những thứ khác đều sống động
đối với chúng.
“Chính cái mũ là thứ quan trọng
nhất.” Cô thường nói, khi họ cùng đi dạo. Cô thường khảo sát từng cái mũ đi
ngang qua; cả chiếc áo choàng, váy và cách thức người phụ nữ đó đi đứng. Cô chê
bai: ăn mặc tệ, ăn mặc quá lòe loẹt, không hề có ác ý, mà đúng hơn với những cử
động nôn nóng của đôi bàn tay, như đôi bàn tay của một họa sĩ gạt bỏ đi một sự
lạm dụng rõ ràng sắc màu lòe loẹt dù là với thiện chí; và rồi, một cách khoan
dung, nhưng luôn mang tính chỉ trích, cô sẽ hoan nghênh một cô gái bán hàng đã
thay đổi cách phục trang một cách gan dạ, hoặc ca ngợi hết mình, với sự thấu
hiểu nồng nhiệt và đầy tính chuyên nghiệp, một quý bà người Pháp đang bước ra
khỏi cỗ xe ngựa, trong chiếc áo choàng lông sóc, cái váy ngắn và chuỗi ngọc
trai.
“Đẹp quá!” Cô sẽ lẩm bẩm, thúc cùi
chỏ vào Septimus để anh có thể nhìn thấy. Nhưng vẻ đẹp nằm phía sau một tấm kính.
Ngay cả chuyện ăn uống (cô thích kem, sô-cô-la, những món ăn ngọt) cũng chả có mùi vị gì đối với anh. Anh đặt
cái cốc lên cái bàn đá hoa nhỏ. Anh nhìn những người ở bên ngoài, họ có vẻ hạnh
phúc, đang tụ hợp giữa phố, la hét, cười đùa, cãi cọ những chuyện không đâu.
Nhưng anh không thể thưởng thức, anh không thể cảm nhận. Trong tiệm trà, giữa
những cái bàn và những người bồi bàn đang tán gẫu, nỗi sợ kinh khủng lại chế
ngự anh – anh không thể cảm nhận. Anh có thể suy luận; anh có thể đọc, Dante
chẳng hạn, một cách hoàn toàn dễ dàng (“Septimus, hãy đặt cuốn sách xuống đi
nào,” Rezia nói, nhẹ nhàng khép cuốn Inferno
lại), anh có thể cộng tờ hóa đơn của mình; bộ não của anh hoàn hảo; hẳn đây là
lỗi của thế giới – rằng anh không thể cảm nhận.
“Người Anh thật lặng lẽ.” Rezia nói.
Cô thích điều đó, cô bảo. Cô tôn trọng những người Anh này, muốn tham quan
London, những con ngựa Anh, những bộ com-lê may tiệm, và có thể nhớ đã từng
nghe nói những cửa tiệm tuyệt vời như thế nào, từ một bà cô đã lấy chồng và
sống ở Soho.
Rất có khả năng, Septimus nghĩ, nhìn
nước Anh từ cửa sổ toa tàu, khi họ rời Newhaven; rất có khả năng rằng chính bản
thân thế giới không có ý nghĩa gì cả.
Ở văn phòng, họ bổ nhiệm anh vào một
chức vụ có trách nhiệm đáng kể. Họ tự hào về anh; anh đã được thưởng những
chiếc bội tinh. “Cậu đã thực hiện xong bổn phận; việc của chúng tôi là…” ông
Brewer mở đầu, và không thể nói hết câu, rất vui sướng là cảm xúc của ông ta.
Họ đã có chỗ cư ngụ đáng ngưỡng mộ ở phố Tottenham Court.
Tới đây anh lại mở cuốn kịch
Shakespeare ra. Niềm say mê ngôn ngữ của một chàng trai – Antony và Cleopatra –
đã hoàn toàn co rúm lại. Shakespeare kinh tởm con người biết bao – việc mặc
quần áo vào, việc sinh con đẻ cái, sự bẩn thỉu của cái mồm và cái bụng! Điều
này giờ đã hé lộ với Septimus; cái thông điệp ẩn nấp trong vẻ đẹp của ngôn từ.
Cái dấu hiệu bí mật mà một thế hệ đã đi ngang qua, nằm dưới lớp ngụy trang, đối
với thế hệ kế tiếp là sự kinh tởm, căm ghét, tuyệt vọng. Dante cũng vậy.
Aeschylus
(đã được dịch) cũng vậy. Rezia ngồi bên bàn tô điểm những cái nón. Cô tô điểm
chúng cho những người bạn của bà Filmer; cô đã tô điểm chúng cả tiếng đồng hồ.
Trông cô có vẻ nhợt nhạt, bí ẩn, như một đóa hoa huệ chết đắm trong lòng nước,
anh nghĩ.
“Người Anh rất nghiêm túc.” Cô
thường nói khi vòng đôi tay quanh người Septimus, má áp vào má của anh.
Đối với Shakespeare, tình yêu giữa
nam và nữ thật đáng tởm. Công việc giao hợp trước khi kết thúc với ông là sự
bẩn thỉu. Nhưng Rezia bảo cô phải có con. Họ đã lấy nhau năm năm.
Họ đã cùng nhau tới tháp Big Ben;
tới nhà hát Victoria và viện bảo tàng Albert; đứng trong đám đông để xem nhà
vua khai mạc Quốc hội. Và có những cửa tiệm – những tiệm nón, tiệm quần áo,
những cửa tiệm với những cái túi xách bằng da ở cửa sổ, nơi cô thường đứng nhìn
chằm chặp. Nhưng cô phải có một đứa con trai.
Cô phải có một đứa con trai giống
Septimus, cô bảo. Nhưng không ai có thể giống như Septimus; rất dịu dàng, rất
nghiêm túc; rất thông minh. Phải chăng cô cũng không thể đọc Shakepeare? Phải
chăng Shakespeare là một tác giả khó đọc? Cô hỏi.
Người ta không thể đưa trẻ con vào
một thế giới như thế này. Người ta không thể duy trì sự khổ đau, hay gia tăng
nòi giống của những con vật đầy dục vọng này, những kẻ không có những cảm xúc
lâu dài mà chỉ có những ý thích bất chợt và những thứ hão huyền phù phiếm, cuốn
xoay họ trong vòng xoáy khi theo hướng này, khi theo hướng khác.
Anh quan sát cô cắt, tạo hình, như
một người quan sát một con chim nhảy nhót, di chuyển nhẹ nhàng trên bãi cỏ,
không dám nhúc nhích một ngón tay. Bởi sự thật là (cứ mặc cho cô ta làm ngơ nó)
con người không có lòng tốt, hay sự trung thành hay lòng nhân ái ngoài những
thứ phục vụ cho việc gia tăng lạc thú của khoảnh khắc. Họ đi săn theo đàn.
Những bầy đàn của họ lùng sục khắp sa mạc và thét lên biến mất vào chốn hoang
vu. Họ bỏ rơi những ai gục ngã. Họ trát dầy bộ mặt của mình với những nụ cười
nhăn nhở. Có Brewer ở văn phòng, với bộ ria vuốt sáp, cái kẹp cà vạt màu san
hô, cái áo lót trắng, và những cảm xúc thú vị – bên trong toàn là sự lạnh lùng
và lãnh đạm – những chậu phong lữ của ông ta đã bị hủy hoại trong cuộc chiến –
những sợi dây thần kinh của đầu bếp của ông ta đã bị hủy hoại; hoặc Amelia, tên
cô ta là gì nhỉ, đã phân phát những tách trà vào đúng năm giờ – một nữ yêu tinh
bé nhỏ tục tĩu hay liếc mắt đưa tình và cười khẩy; và các gã Tom và Bertie mà
mặt trước áo sơ mi của họ rỉ ra những giọt đồi bại đậm đặc. Họ chưa bao giờ
thấy anh đang vẽ những bức tranh về họ, trần truồng với những trò hề của họ,
trong cuốn vở của anh. Trên đường phố, những chiếc xe tải gầm rú chạy qua anh;
sự thô bạo gào rú om xòm trên những bức tranh cổ động; những người đàn ông mắc
kẹt trong những cái mỏ; những phụ nữ bị thiêu sống; và có lần một hàng người
điên, đang tập thể dục hay biểu diễn để giúp vui cho một đám đông (họ cười rất
lớn), bước thong thả, gật đầu và nhe răng cười khi đi ngang qua anh trên phố
Tottenam Court, mỗi người đâm thọc với vẻ hối lỗi nhưng đắc thắng vào vết
thương vô vọng của anh. Và anh có sẽ nổi điên không?
Vào giờ uống trà, Rezia nói với anh
rằng con gái của bà Filmer đang mang thai một em bé. Cô không thể già đi và
không có đứa con nào! Cô rất cô đơn, cô rất bất hạnh! Cô khóc, lần đầu tiên từ
khi họ cưới nhau. Từ xa, anh nghe thấy tiếng nức nở của cô; anh nghe thấy nó
một cách chính xác, anh nhận ra nó một cách bản năng; anh so sánh nó với một
tiếng nổ pít-tông. Nhưng anh không cảm thấy gì cả.
Vợ anh đang khóc, và anh không cảm
thấy gì cả; chỉ có điều mỗi lần cô ta nức nở theo cách thức sâu sắc, im lặng,
vô vọng này, anh lại dấn thêm một bước xuống cái hố sâu.
Cuối cùng, với một cử chỉ thống
thiết, mà anh giả định một cách máy móc và hoàn toàn có ý thức về sự không chân
thành của nó, anh gục đầu vào đôi bàn tay. Giờ anh đã đầu hàng; giờ những người
khác phải giúp anh. Mọi người phải được cử tới. Anh đã chịu thua.
Không gì có thể đánh thức anh. Rezia
đặt anh lên giường. Cô mời một bác sĩ tới – bác sĩ Holmes của bà Filmer. Bác sĩ
Holmes khám cho anh. Không có bất cứ điều gì quan trọng, ông nói. Ôi thật nhẹ
nhõm biết bao! Một người tử tế biết bao, một người tốt biết bao! Rezia nghĩ.
Khi ông cảm thấy giống như thế ông sẽ tới Nhà hát lớn, bác sĩ Holmes nói. Ông
sẽ nghỉ việc một hôm ở với vợ và chơi gôn. Vì sao không thử hai viên thuốc an
thần hòa tan trong một ly nước vào giờ đi ngủ? Những ngôi nhà Bloomsbury
cổ lổ này, bác sĩ Holmes nói, gõ lên tường, thường đầy những giấy dán rất đẹp,
mà những người chủ nhà đã đủ điên rồ để dán nên. Chỉ có điều một hôm khác, khi
đi thăm một bệnh nhân, Ngài gì đó Chức vụ gì đó ở quảng trường Bedford…
Vậy là không có gì để biện minh;
không có gì bất kể vấn đề thế nào, trừ tội lỗi mà vì nó bản chất con người đã
tuyên án tử hình anh; rằng anh không cảm nhận được. Anh đã không quan tâm khi
Evans bị giết; điều đó tệ hại nhất; nhưng tất cả những tội ác khác bên trên cái
chấn song giường vào những giờ đầu buổi sáng cũng ngóc đầu lên, búng ngón tay,
cười nhạo và châm chọc cái thân thể sóng soày đang nằm nhận thức về sự thoái
hóa của nó; anh đã cưới vợ mình mà không yêu cô ta ra sao; đã nói dối cô ta; đã
quyến rũ cô ta ra sao; đã sỉ nhục cô Isabel Pole, và bị đánh dấu, đầy những vết
rỗ đồi bại đến nỗi những người phụ nữ phải rùng mình khi họ nhìn thấy anh trên
phố ra sao. Phán quyết của bản chất con người đối với một kẻ xấu xa đến thế là
cái chết.
Bác sĩ Holmes lại tới. To cao, mặt
mũi hồng hào tươi tắn, đẹp mã, vừa lật nhanh cuốn sách của ông, vừa nhìn vào
cái ly, ông gạt tất cả các thứ sang một bên – chứng nhức đầu, mất ngủ, những
nỗi sợ, những giấc mơ – những triệu chứng thần kinh và không có gì khác, ông
nói. Nếu bác sĩ Holmes phát hiện ra chính mình bị giảm chỉ cần nửa cân Anh dưới
160 cân, ông sẽ bảo vợ mình thêm một đĩa cháo đặc nữa vào bữa điểm tâm. (Rezia
sẽ học cách nấu cháo đặc.) Nhưng, ông ta nói tiếp, sức khỏe nói chung là một
vấn đề nằm trong tầm kiểm soát của chính chúng ta. Hãy lao vào những mối quan
tâm bên ngoài, tìm một thú tiêu khiển nào đó. Ông mở quyển kịch Shakespeare ra
– Anthony và Cleopatra; hãy gạt Shakespeare sang một bên. Một thú tiêu khiển
nào đó, bác sĩ Holmes nói, vì không phải ông đã thừa nhận rằng sức khỏe tuyệt
vời của chính ông (và ông đã làm việc vất vả ngang với bất kỳ người đàn ông nào
ở London) bắt nguồn từ thực tế rằng ông luôn có thể chuyển từ những bệnh nhân
của mình sang những món đồ nội thất cũ hay sao? Và bà Warren Smith, nếu ông có
thể nói, đang cài một cái kẹp tóc thật xinh xắn!
Khi gã ngu ngốc chết tiệt đó đến lần
nữa, Septimus từ chối gặp ông ta. Anh ta thật sự từ chối hả? Bác sĩ Holmes hỏi,
mỉm cười dễ chịu. Thật sự ông phải thân mật đẩy quý bà nhỏ nhắn dễ thương đó
một cái trước khi ông có thể đi ngang qua cô để vào phòng ngủ của ông chồng.
“Vậy là anh đang khiếp sợ.” Ông ta
nói với vẻ dễ chịu, ngồi xuống bên cạnh người bệnh. Anh đã thật sự nói về việc
tự sát với vợ mình, một cô gái cực kỳ, một người ngoại quốc, phải không nhỉ?
Điều đó có khiến cô ta có một ý tưởng rất kỳ quặc về ông chồng người Anh hay
không? Người ta có mang ơn, có lẽ là một bổn phận, đối với vợ của mình hay
không? Có tốt hơn khi làm một điều gì đó thay vì nằm trên giường hay không? Bởi
ông ta có bốn mươi năm kinh nghiệm ở sau lưng; và Septimus có thể tin lời của
bác sĩ Holmes về điều đó – không có bất kỳ vấn đề gì với anh cả. Và lần sau khi
bác sĩ Holmes tới ông hy vọng sẽ tìm thấy Smith rời khỏi giường và không làm
cho quý bà nhỏ bé đáng yêu vợ của anh phải lo lắng về anh.
Bản chất con người, nói tóm lại,
đang đè nặng lên anh – gã vũ phu kinh tởm đó, với hai lỗ mũi đỏ lòm máu. Holmes
đang đè nặng lên anh. Bác sĩ Holmes đến rất đều đặn mỗi ngày. Một khi bạn sẩy
chân, Septimus đã ghi vào mặt sau một tấm bưu thiếp, bản chất con người đè nặng
lên bạn. Holmes đang đè nặng lên bạn. Cơ may duy nhất của họ là tẩu thoát,
không để cho Holmes biết; sang Ý – bất cứ nơi nào, bất cứ nơi nào, tránh xa bác
sĩ Holmes.
Nhưng Rezia không hiểu anh. Bác sĩ
Holmes là một người tử tế đến thế. Ông ta rất quan tâm tới Septimus. Ông ta chỉ
muốn giúp đỡ, ông ta nói. Ông ta có bốn đứa con nhỏ và đã mời cô dùng trà, cô
nói với Septimus.
Vậy là anh đã bị bỏ rơi. Toàn thế
giới đang gào thét: Hãy tự sát, hãy tự sát đi, vì chúng tôi. Nhưng tại sao anh
phải tự sát vì họ chứ? Thức ăn là một lạc thú; mặt trời nóng ấm; và việc tự sát
này, người ta thực hiện nó bằng cách nào, với một con dao ăn, một cách xấu xí,
với những vòi máu – bằng cách hít một cái ống dẫn khí đốt chăng? Anh quá yếu ớt;
anh hầu như không giơ tay lên nổi. Ngoài ra, hiện giờ khi anh hoàn toàn cô độc,
bị kết án, bị bỏ rơi, như những người sắp chết luôn cô độc, có một sự xa hoa
trong việc đó, một sự lẻ loi đầy tính siêu phàm; một sự tự do mà thân quyến
không bao giờ có thể biết được. Holmes đã thắng, dĩ nhiên; gã cục súc với đôi
lỗ mũi đỏ máu đã thắng. Nhưng ngay cả bản thân Holmes cũng không thể chạm vào
thánh tích duy nhất đang lang thang ở rìa cõi thế này, kẻ bơ vơ này, kẻ ngoái
nhìn lại những miền có cư dân, kẻ nằm, như một thủy thủ chết chìm, trên bờ của
cõi trần gian.
Chính cái khoảnh khắc ấy (Rezia đã
đi mua đồ), phát hiện lớn lao đã xảy ra. Một giọng nói từ phía sau tấm bình
phong. Evans đang nói. Những người chết đang đi với anh ta.
“Evans, Evans!” Anh kêu lên.
Ông Smith đang nói với chính mình,
cô người hầu Agnes gọi bà Filmer đang ở trong bếp. “Evans, Evans,” ông ta đã
nói khi cô ta mang cái khay vào. Cô đã nhảy nhổm lên, cô đã làm thế. Cô hấp tấp
chạy xuống thang.
Và Rezia vào nhà, cùng với bó hoa,
băng ngang qua căn phòng, cắm những bông hồng vào lọ; mặt trời rọi thẳng vào
cái lọ và nó cười phá lên, nhảy nhót quanh căn phòng.
Cô phải mua hoa hồng, Rezia nói, từ
một người đàn ông nghèo trên phố. Nhưng chúng gần như đã chết héo rồi, cô nói,
sửa sang lại những nhánh hoa.
Vậy là có một người đàn ông ở bên
ngoài; có lẽ là Evans; và những nhánh hoa hồng, mà Rezia bảo là đã chết nửa
phần, đã được anh ta hái ở những cánh đồng của Hy Lạp. “Giao tiếp là sức khỏe;
Giao tiếp là hạnh phúc, giao tiếp….” anh lẩm bẩm.
“Anh đang nói gì vậy, Septimus?” Rezia
hỏi, phát điên lên vì kinh hoàng, vì anh ta đang nói với chính mình.
Cô nhờ Agnes chạy tới mời bác sĩ Holmes.
Chồng cô, cô bảo, đã nổi điên. Anh ta hầu như không biết cô.
“Đồ cục súc! Đồ cục súc!” Septimus kêu lên, nhìn thấy bản chất con
người, đó là bác sĩ Holmes, đang bước vào phòng.
“Nào, tất cả những vụ này là sao
đây?” Bác sĩ Holmes nói với vẻ hòa nhã nhất trần đời. “Đang nói vớ vẩn để hù
dọa vợ của anh hả?” Nhưng ông sẽ cho anh thứ gì đó để làm cho anh ngủ. Và nếu
họ là những người giàu có, bác sĩ Holmes nói, nhìn một cách mỉa mai quanh căn
phòng, tất nhiên họ có thể tới phố Harley; nếu họ không tin vào ông, bác sĩ
Holmes nói, trông có vẻ hoàn toàn tử tế.
Theo cuốn
khảo luận Virginia Woolf: An
Inner Life của nhà phê bình nổi tiếng Julia Briggs, những lời của bài
hát này dịch từ bài thơ Allerseelen (All Souls’ Day) của Heberb von Gilm, được
nhạc sĩ Richard Strauss phổ nhạc. Bản tiếng Anh (do bà Malcolm Lawson dịch) như
sau:
Lay by my side your bunch of purple heather,
The last red asters of an autumn day,
And let us sit and talk of love together,
As one in May, as once in May.
Give me your hand, that I may press it gently,
And if the others see, what matter they?
Look in mine eyes with your sweet eyes intently,
As one in May, as once in May.
Dịch
nghĩa:
Hãy đặt cạnh
em bó hoa thạch nam tím của chàng/ Bó hoa cúc tía cuối cùng của một ngày thu/
Và chúng ta hãy cùng ngồi chuyện vãn về tình yêu/ Như một ngày trong tháng Năm,
như một lần trong tháng Năm.
Hãy trao cho
em tay chàng, để em khẽ khàng áp tay lên/ Và nếu những người khác thấy, thì họ
có gì là quan trọng?/ Hãy chăm chú nhìn vào mắt em với đôi mắt ngọt ngào của
chàng/ Như một ngày trong tháng Năm, như một lần trong tháng Năm.
Địa ngục. Phần 1 trong kiệt tác Thần khúc (Divina)
của Durante degli Alighieri,
thường gọi là Dante ( khoảng
1265–1321), thi sĩ Ý nổi tiếng thời Trung cổ.