Thứ Tư, 8 tháng 5, 2013

Walter de la Mare - Ba Cậu Bé Nằm Ngủ ở xứ Warwickshire


Dịch từ nguyên tác
Collected Stories for Children [1947]
của Walter de la Mare 
Dịch giả giữ bản quyền bản Việt ngữ
Copyright © Nguyễn Thành Nhân 2009
 





Trong một căn phòng dài, trần thấp, quét vôi trắng, ở tầng trên của một tòa nhà gạch đỏ ở phố Pleasant, Cheriton, nằm xếp theo loại trong những cái hộp, là một bộ sưu tập các thứ vỏ sò, ốc xà cừ, rong biển, hải quỳ, san hô, những vật hóa thạch, cá thòi lòi, chim nhồi rơm – dưới biển và trên mặt đất – và “những người cá”. Những két đựng tiền, rương hòm, mỏ neo, những khẩu súng xưa cũ và những tảng hổ phách, quặng sắt và thạch anh. Ngoài ra, còn có mọi loại đồ vật lạ lùng, kỳ dị, hiếm quý khác. Những cánh cửa sổ hẹp, trên đó chạm trổ hình những trái cây, bông hoa, và những ống máng bằng chì cũ kỹ, tiếp tục đón nhận ánh sáng ban ngày đổ lên chốn ẩn dật lặng lẽ của các món đồ đó. Và trong suốt nhiều, rất nhiều năm, Ba Cậu Bé xứ Warwickshire[1] vẫn nằm ngủ trong cái hòm thủy tinh lớn của họ. Câu chuyện kể về họ phải lùi lại một quãng thời gian dài. Nhưng hầu hết những câu chuyện, buồn hay vui, đều như thế cả, nếu bạn sẵn lòng theo dõi chúng.
Vào khoảng năm 1600, khi Nữ hoàng Elizabeth được sáu mươi bảy tuổi, và William Shakespeare đang viết vở kịch có tựa đề “Julius Caesar”, một ông chủ cối xay lúa giàu có tên là John Nollykins đã lìa đời ở một nơi cách vùng Stratford-on-Avon chừng hai mươi bốn dặm. Cái cối xay của ông là cái cối xay đẹp nhất ở Warwickshire. Nhưng không có người hàng xóm nào của ông - hay ít nhất không có ai trong số những người hàng xóm nghèo hơn của ông – có thể chịu đựng được khi nhìn thấy mặt ông ta. Ông là một lão già khinh người, bủn xỉn và không có lòng trắc ẩn. Ông lừa bịp khách hàng và không hề thương xót đối với những người mà ông đã dụ dỗ lọt vào nanh vuốt của mình.
Càng già, ông càng trở nên ti tiện và bủn xỉn hơn. Cuối cùng, thậm chí ông bắt đầu bỏ đói cả những con ngựa của chính mình. Dù ông chết trong giàu có, ít có người láng giềng nào than khóc vì ông. Ngay sau khi ông chết, tiền bạc của ông cũng bắt đầu đội nón ra đi. Ba người con trai của ông ngấu nghiến những gì ông để lại sau lưng như những con chó rừng ngấu nghiến bữa ăn còn thừa của một con sư tử. Nó lọt qua kẻ tay của họ như cát lọt qua một cái sàng. Họ cờ bạc, rượu chè đủ kiểu. Họ nhảy nhót, múa may và tiệc tùng trong những bộ áo quần lòe loẹt; nhưng họ hầu như không phân biệt được cám và thóc. Họ nhanh chóng đánh mất không chỉ công việc làm ăn mà cả toàn bộ những gì cha họ dành dụm được. Khách hàng của họ nói rằng trong bột không chỉ có bụi mà còn có đá, và cả cỏ dại. Nó ẩm mốc. Nó hôi mùi chuột. Họ quan tâm tới chuyện gì? Họ cùng lũ chó đi săn chuột, nhưng là vì mục đích thể thao chứ không phải vì bột. Mọi thứ của cối xay ngày càng tàn tạ và đang đi tới chỗ tiêu tan. Những tấm buồm toàn là vải vá víu, chúng bị xé toạt trong cơn gió. Mưa tạt vào nhà. Cỏ dại mọc đầy trong dòng nước chạy máy xay và tạo thành vật chắn ở nơi lẽ ra không được có gì khác ngoài dòng nước trong veo. Khi những người khách hàng nghèo khổ than phiền, họ được chào đón bằng giọng cười say xỉn và những lời chế nhạo.    
Rốt cuộc, ba bốn năm gì đó sau cái chết của con ngựa đực khốn khổ cuối cùng, luôn bị bỏ đói gần chết của người chủ cối xay, các con của ông bị phá sản. Lẽ ra họ cũng chết đói theo cách đó nếu như một đêm nhiều gió nọ, khi họ cùng ngồi uống rượu và ca hát với nhau trong ngôi nhà cối xay, người em út không đánh đổ cái đèn dầu đang tỏa khói trên bàn và do đó đã thiêu rụi cái cối xay.
Người anh cả, với những gì có thể nhặt nhạnh được, lên đường ra biển, lưu lạc ở những vùng đất ngoại quốc, rồi chết vì bệnh sốt vàng da ở Tobago. Người con trai thứ hai được một ông chú làm nghề kim hoàn đưa tới London. Nhưng anh ngốc nghếch và lười biếng tới mức phá hỏng nhiều hơn là sửa chữa. Cuối cùng, do nuốt phải một viên đá khắc hình quả đào rất thanh nhã do chính Marco Polo mang về Ý, anh khiến cho ông chú nổi cơn thịnh nộ đến nỗi ông đã tống cổ anh ra khỏi nhà ngay sau đó. Anh ta đi tới khu Đông London, trở thành một người buôn cá ở Đại lộ Ratcliff, có một cửa hàng giống như cái rạp với một cái bảng dài đằng trước. Nhưng anh cũng chẳng quan tâm gì tới công việc này, và cuối cùng trở thành một người làm đủ thứ nghề (hay chẳng có nghề nào hết) trong cái nhà hát Địa cầu cũ kỹ ở Southwalk. Ở đó, anh đã từng trông thấy Shakespeare phục trang như một con ma trong vở “Hamlet” và bị chết do sự cố khi đóng vai tên Sát thủ Thứ hai trong vở “Macbeth”.
Người con trai út, tên là Jeremy, kết hôn với một góa phụ giàu có của một người thợ làm yên cương. Cô là chủ của một ngôi nhà xinh đẹp trên phố High của thị trấn Cheriton thịnh vượng – cách Tòa Giám mục Hitchingworth khoảng tám dặm đường. Anh thừa hưởng được tất cả vẻ dễ nhìn ít oi của gia đình, nhưng anh ranh mảnh, gian giảo và khó chịu. Điều đầu tiên anh làm sau khi trở về từ chuyến đi hưởng tuần trăng mật là vẽ một cái mũi dài đỏ choét lên bức chân dung của người thợ đóng yên ngựa. Việc tiếp theo là nhấn nước con mèo của vợ mình trong một cái chậu, vì anh bảo rằng con mèo đói đó đã ăn vụng pho mát. Việc thứ ba là đốt cái mũ đội vào ngày Chủ nhật đẹp nhất của cô vợ, rồi sau đó là bộ tóc giả, để cho chúng có đôi có bạn. Làm thế nào để cô vợ có thể cắn răng tiếp tục sống với anh là một điều bí mật. Tuy nhiên, cô đã làm như thế.
Anh chàng Jeremy này có ba cậu con trai: Job, John và Jeremy (con). Nhưng anh không hề nuôi nấng gì chúng cả. Trái lại là khác. Gia đình này ngày càng xuống dốc cho tới khi cuối cùng nó đã xuống tận đáy. Rồi  nó bắt đầu trèo lên trở lại. Nhưng đó là nhờ mấy đứa con của Jeremy. Đứa con gái út của anh cưới một tay buôn ngựa làm ăn phát đạt, và đứa con trai duy nhất của họ (lại có tên là Jeremy), dù bỏ nhà ra đi vì anh ta ghét món cháo loãng như nước và món bánh pút-đinh mỡ thận, đã kiếm được công việc làm ăn với tư cách là phụ tá cho Trưởng ban Quét ống khói ở Cheriton. Cuối cùng, nhờ sự gian manh, độc ác, dễ hồi phục tinh thần và sự lao động cần cù thừa hưởng từ sếp của  mình, anh ta đã mua lại căn nhà xinh đẹp của người ông cậu, trở thành Ông chủ Dịch vụ Quét ống khói và “Quét theo phân công” cho ông thị trưởng, Phường hội và các ông chủ đất của ba trang viên lân cận. Anh ta chưa bao giờ lấy vợ. Bất chấp tuổi thơ vất vả, bất chấp lòng tốt của ông chủ, và bất chấp tương lai tốt đẹp của mình với ba chủ nhân của các trang viên, anh ta là một kẻ bủn xỉn và thu nhặt chắt bóp từng đồng xu một. Anh ta có một cây chổi khổng lồ đặt trước cửa, một cái vòng đập cửa đẹp bằng đồng, và là thợ quét ống khói giỏi nhất, nổi tiếng nhất trong vùng.     
Nhưng phần lớn tiền bạc anh ta thu được, và trong những năm sau đó, phần lớn những lời ca tụng tán dương anh ta, là nhờ vào ba đứa trẻ mồ côi của anh ta – Tom, Dick và Harry. Thời đó, những cái lò sưởi rộng lớn như một căn phòng nhỏ, hoặc, với bất cứ giá nào, cũng phải to như những cái tủ ngăn to lớn hoặc những phòng chứa đồ. Chúng có những cái góc lò tiện nghi ấm áp, và những cái ống khói giống như những cái giếng sâu chạy thẳng lên mái nhà, đôi khi hẹp lại hay uốn khúc về phía đỉnh. Và những chiếc ống khói này được lau quét bằng tay. 
Vậy là những chú thợ học việc của Jeremy phải trèo lên, trèo lên mãi, từ viên gạch ám bồ hóng này tới viên khác, với một cái chổi, và quét cho tới khi chúng cũng trở nên đen thui như những người da đen đen nhất, ở cả bên ngoài lẫn bên trong. Đâu đâu cũng toàn là bồ hóng! Bồ hóng tràn ngập mắt, mũi, miệng, tai. Đôi khi gạch trong lò sưởi vẫn còn nóng rực, và đôi tay của chúng bị bỏng giộp hoàn toàn. Đôi khi tất cả bọn chúng bị ngạt thở trong những khúc ống khói nhỏ hẹp. Đôi khi, chúng suýt kẹt cứng ở đó để bị sấy khô như những xác ướp trong bóng tối. Và cũng đôi khi, ở giữa màn khói mù mịt, một cái chân có thể bị trượt, và chúng rơi tòm xuống như những quả táo rời khỏi thân cây hay như những hạt mưa đá rơi khỏi một đám mây tháng Tư.   
Sau khi vét sạch mọi tiền bạc bọn trẻ đem về gói trong những tấm vải dầu rồi bỏ vào những cái túi bằng da, Jeremy Nollykins [lúc này đã cao tuổi] cho chúng thưởng thức những bữa ăn toàn là cháo loãng. Cả những bữa điểm tâm cũng chỉ cháo loãng thế thôi. Vào các bữa tối ngày thứ Ba và thứ Năm, lão cho chúng những tấm bánh pút-đinh mỡ thận với những tảng mỡ thận bên trong giống như những hạt hổ phách xanh nhợt; cho chúng cái thứ mà lão gọi là món xúp vào ngày thứ Hai, thứ Tư và thứ Sáu; và một ít thịt mèo (mua giá rẻ từ người anh họ thứ hai của lão) vào ngày Chủ nhật. Nhưng bạn không thể trèo ống khói mà không có thịt. Thứ Bảy chúng được thưởng thức món đậu hầm và thịt hầm nóng sốt, vì ngài thị trưởng có thể ghé qua vào hôm đó. 
Bạn khó mà tin nổi chuyện này, nhưng bất chấp điều kiện sinh hoạt khốn khổ thiếu thốn đó, bất chấp những vết bỏng, vết bầm tím trên người và bồ hóng trong đôi mắt, trong buồng phổi và trong mái tóc xác xơ của chúng, ba cậu bé này, Tom, Dick và Harry, đã xoay xở để tự vực dậy tinh thần. Thậm chí chúng còn chà xát cho đôi má chúng hồng lên sau khi bồ hóng của một tuần làm việc đã được rửa sạch bên dưới vòi nước vào tối thứ Bảy.
Chúng cũng giống như Tom Drace trong bài thơ sau: 
Thằng nhóc Tom khóc om xòm
Khi người ta cạo sạch trơn mái đầu
Mà hàng ngày nó tự hào:
Loăn xoăn như cuộn len nâu lưng cừu.
Thương nó, tôi bảo: “Đừng lo
Khi đầu cháu trọc như là bình vôi!
Bởi vì bồ hóng đen thui
Sẽ không làm hỏng sắc tươi tóc mềm!”
Thế là nó nín khóc liền,
Và đêm, gặp những bạn hiền trong mơ:
Hàng ngàn những đứa trẻ thơ
Dick, Joe, Jack, Ned… bấy giờ ngủ say
Bên trong những cỗ quan tài
Đen thui như mực, ôi Trời, quá đen… 
Chúng luôn luôn gọi những phụ nữ lớn tuổi là “mẹ” và các chị hầu gái là “cô”, và luôn tỏ ra đàng hoàng đúng mực, ngay cả khi một bà già cáu kỉnh nào đó bảo chúng là đồ tai quái, nghịch ngợm. Và đôi khi, một bà vợ tốt tặng cho chúng một lát bánh pút-đinh, một ca sữa, một củ khoai nướng, một túi đầy bánh dẹt hoặc một lát bánh mì trắng (sẽ không còn trắng trong chốc lát). Thỉnh thoảng, thậm chí chúng còn được thưởng thức một ngụm rượu vang làm từ quả cơm cháy. Nói cho cùng, ngay cả những con chim sẻ đói gần chết cũng thỉnh thoảng tìm được dăm ba món ăn lặt vặt, và người đói không phải là không biết thưởng thức các món ngon.
Khi nào có thể trốn đi chơi chút đỉnh, chúng thường chuồn ra ngoài sông để chèo thuyền, săn lùng tổ chim trong những khu rừng, hay trèo lên một cái mỏ đá cũ cách thị trấn không xa lắm. Quanh đấy đều là những miền quê có rừng cây xinh đẹp đáng yêu, gần thị trấn cổ Cheriton.
Dù chúng có trốn việc đi chơi hay không, Jeremy Nollykins Đệ Tứ – Già Noll, như những người hàng xóm gọi lão – thường đánh đập chúng suốt, bất kể sáng, trưa, chiều, tối. Lão tin vào roi vọt. Lão chẳng chừa ai cả, dù đó là người hay thú. Tom, Dick và Harry ghét Già Noll, và đó là điều khá tệ hại. Nhưng, mặt khác, chúng cũng rất linh hoạt, vui vẻ và hạnh phúc khi không bị đánh đòn. Chúng cũng luôn quá đói, thậm chí cả khi vừa ăn xong món cháo loãng, nên không thể suy tư ngẫm nghĩ xem chúng ghét lão đến mức nào.
Thật ra, với những cặp mắt long lanh sáng, những cặp má tròn trĩnh và những hàm răng trắng bóng, chúng là một bộ ba vui vẻ, dù ngực chúng gầy giơ xương và đôi bàn tay của chúng đầy vết bỏng. Ngay khi hàm răng chúng vừa thôi gõ vào nhau lộp cộp vì cơn lạnh, thân thể chúng vừa thôi đau đớn vì món nước chấm bằng roi vọt của Già Noll, và khi mắt chúng đã trôi sạch hoen bồ hóng, chúng bắt đầu cười to, chuyện trò, huýt sáo, như những con cào cào tháng Sáu hay những con chim sáo tháng Chín. Và dù thỉnh thoảng chúng cũng cãi vã, đánh nhau, cả cào cấu hay cắn nữa, vì chưa bao giờ chúng được dạy cách đánh nhau một cách cao thượng, chúng là những người bạn rất tốt của nhau. Thỉnh thoảng chúng cũng lén trèo lên những cây táo của các ông chủ trại để nếm trộm vài quả táo xanh. Thỉnh thoảng chúng cũng chọc phá những bà cụ già. Nhưng có gì mà những chú thợ quét ống khói bé nhỏ ấy lại không làm?
Chúng là ba đứa trẻ lê la đầu đường xó chợ, hoang dã như những con ngựa non, nhanh nhẹn như bao đứa trẻ khác, dù đen đúa hơn nhiều. Và dù có cố gắng cỡ nào, già Noll chưa bao giờ đưa được chúng vào khuôn phép. Chưa bao giờ. Vào ban đêm, chúng nằm ngủ yên lặng như những em bé nằm trong nôi – cả ba đứa nằm thành một dãy trên một tấm nệm rơm to rộng, trong một căn gác áp mái, mỗi đứa ôm một cái gối rơm và đắp một tấm bao tải thay cho chăn.
Lúc bấy giờ Già Noll, do cả bản tính lẫn sự thực hành thói quen lâu ngày, là một ông già keo kiệt, bủn xỉn và thô lỗ. Lão không ưa nhìn thấy một ai vui vẻ, sung sướng hay thậm chí tròn trịa đôi chút. Có lúc lão chỉ muốn lột tươi lớp da của ba cậu bé học việc. Nhưng rồi lão lại muốn bòn rút công sức của chúng càng nhiều càng tốt. Vì vậy lão buộc phải cho chúng ăn nhiều hơn một chút. Lão phải giữ gìn mạng sống của chúng, kẻo không ngài thị trưởng sẽ hỏi lý do. Tuy nhiên, việc không thể nào làm chúng suy sụp tinh thần khiến cho lão vô cùng cay cú. Dù bị đánh đập cỡ nào, chúng vẫn tiếp tục mỉm cười. Lão điên tiết khi biết rõ từ tận đáy tim (hoặc bất kỳ cái gì chiếm vị trí của nó) rằng chúng ghét cay ghét đắng mình – khi chúng không có việc gì tốt hơn để làm, hoặc khi sắp nhận một trận đòn đau. Thế nhưng chúng chưa bao giờ đối xử tệ với lão. 
Hàng ngày, khi chúng đang xì xụp ăn món cháo loãng, lão nhìn chúng hau háu như gã khổng lồ Despair nhìn Faithful và Christian[2] trong căn ngục. Thỉnh thoảng, vào ban đêm, lão thường bò lên căn gác trống trải lộng gió của chúng. Ánh sao hoặc ánh trăng soi cho lão thấy ba đứa bé đang nằm đó, ngủ ngon lành trên những tấm nệm rơm, tấm bao tải bị hất sang bên, và trên mặt chúng hiện lên một nụ cười mỉm xa xôi mơ hồ như thể những giấc mơ của chúng cũng an bình như những con thiên nga ở những hòn đảo của Chúa Trời. Điều đó làm lão nổi giận. Mấy thằng nhóc bé nhỏ xấu xa này có thể mơ thấy cái gì? Cái gì khiến cho bọn da đen bé nhỏ xấu xa này nhếch mép cười ngay cả trong khi đang ngủ? Bạn có thể đánh một đứa bé đang thức, nhưng bạn không thể đánh một kẻ nằm mơ; ít nhất là trong lúc nó đang mơ. Thế nên già Noll cảm thấy bất lực. Lão chỉ có thể nghiến răng khi nhìn thấy chúng. Thật khốn khổ cho Già Noll.
Lão còn nghiến răng nhiều hơn khi nghe thấy tiếng nhạc trong đêm lần đầu tiên. Lẽ ra lão không bao giờ có thể nghe thấy nó nếu như cơn đói không làm cho lão trằn trọc khó ngủ. Nhiều lắm, mỗi đêm lão chỉ chợp mắt được vài giờ, ngay cả trong mùa đông. Và nếu có bao giờ Tom, Dick hay Harry có dịp nhìn thấy lão khi lão đang nằm trên giường, chúng sẽ chẳng nhìn thấy nụ cười nào trên gương mặt già hóp đó, với cái mũi dài, cái cằm dài và mái tóc xác xơ – mà chỉ là một loại bóng tối dễ sợ. Thậm chí ắt hẳn chúng có thể cảm thấy thương hại cho lão nữa – cái con người đang nằm duỗi dài ở đó, với cơn ác mộng làm những đường nét khắc nghiệt trên mặt méo mó đi, nhăn nhó, và những ngón tay xương xẩu cứ co giật liên hồi.
Bởi lẽ Già Noll không thể ngủ vào ban đêm, đôi khi lão rời khỏi ngôi nhà im lặng để đi dạo trên đường phố. Và trong lúc đang thả bước, lão thường nhìn lên cửa sổ các nhà hàng xóm đang đen kịt lại dưới bầu trời đêm, rồi lão nguyền rủa họ vì họ được thoải mái ấm cúng hơn lão. Như thể thay vì tủy, trong xương lão chỉ có toàn ác ý và chẳng có chút mỡ nào trên đó.
Một đêm nọ, lần đầu tiên trong đời lão, ngoại trừ lần bị gãy chân hồi mười tám tuổi, Già Noll không ngủ được chút xíu nào. Đó là một đêm thanh vắng, không có gió, một mảnh trăng êm đềm tỏa sáng ở hướng tây và những vì sao lấp lánh. Bầu không gian ở Cheriton luôn có một mùi thơm dịu tỏa ra từ những đồng cỏ ven thị trấn. Và vào giờ đó, mọi thứ yên lặng đến nỗi bạn gần như có thể nghe thấy tiếng sóng rì rầm của con sông chảy giữa những rặng liễu phía xa xa.
Bấy giờ, khi Già Noll đang ngồi một mình như một cái bóng cằn cỗi ở cột đánh dấu dặm đầu tiên đi vào thị trấn – và lão keo kiệt đến mức thậm chí không dám hút một hơi ống píp – một làn gió nhẹ xuất hiện lướt dọc theo con phố. Và rồi, cùng với làn gió là một tiếng nhạc mơ hồ – một tiếng nhạc mà thoạt tiên có vẻ như không phải là tiếng nhạc chút nào. Dù sao đi nữa, nó vẫn tiếp tục, rồi cuối cùng lan chảy và run rẩy trong bầu không khí  đến nỗi ngay cả Già Noll, một người khá nặng tai, cũng nghe thấy nó và nhận ra giai điệu nhạc. Nó trôi dần tới gần hơn, cái giai điệu nhạc đó – tiếng đàn dây, tiếng sáo, tiếng tù và, và tiếng kèn hơi – ngày càng trở nên vui nhộn hơn trong bầu không khí êm dịu tháng Mười:   
Ơi này các bé gái trai
Ánh trăng sáng quá, ra ngoài chơi thôi!
Bữa ăn ngon, giấc ngủ vùi
Đáng chi mà tiếc ra ngoài chơi đi!...
“Ơi này các bé gái trai, Ánh trăng sáng quá, ra ngoài chơi thôi!” Điệu nhạc cứ tiếp nối, khi xa khi gần, khi vỡ òa đột ngột như từ bầu trời vọng xuống. Ánh trăng đêm ấy không sáng lắm, vì chỉ mới vào thượng tuần. Vầng trăng giống như một mảnh đồng xu lấp lánh nằm thấp bên dưới những vì sao. Hoặc như rìa của một cái chậu vàng nằm nghiêng. Nhưng dù ánh trăng chỉ sáng lờ mờ hay không có ánh trăng đi chăng nữa, những bóng người – lúc ấy đang hối hả đi, chạy, nhảy lò cò hay khiêu vũ trên con phố – đã nghe thấy lời kêu gọi và tuân theo nó. Từ các ngỏ hẻm, con phố, mảnh sân, cổng, cửa nhà, lũ trẻ ở Cheriton ùa ra như những dòng suối mùa xuân. Chúng đua nhau chạy nhảy múa may theo nhịp điệu của khúc nhạc. Già Noll thở hổn hển vì kinh ngạc trong khi quan sát chúng. Thật là một câu chuyện đáng sợ nếu kể lại với người khác – và tất cả những cư dân đáng kính ở Cheriton thì vẫn đang ngủ ngon trên giường của họ! Không thể tưởng nổi những đứa trẻ ngây thơ như thế lại là những đứa lừa dối xấu xa! Không thể tưởng nổi những thằng nhóc phàm ăn và bẩn thỉu chuyên chạy việc vặt cho các cửa tiệm này kia lại có thể trông sạch sẽ, lanh lợi, vui sướng và tự do như thế. Lão rùng mình, một phần do tuổi tác và bầu không khí ban đêm, một phần do điên tiết.
Nhưng dù những đứa trẻ đang nhảy nhót trong đêm này trông có vẻ rất thật, ở chúng vẫn có ba điều kỳ quặc. Thứ nhất, không có một âm thanh cực kỳ mơ hồ nào của việc mở hay đóng cửa ra vào, hay tiếng ken két của những khung cửa sổ bị mở tung. Thứ hai, thậm chí không có cả một tiếng bước chân khẽ nhất, dù có ít nhất phân nửa số trẻ con ở Cheriton lúc này đang nhảy nhót trên con phố như những chiếc lá mùa thu trong cơn gió, và tất cả đều hướng mặt về hướng đông nơi có cánh đồng cỏ phì nhiêu. Và cuối cùng, dù Già Noll có thể nhìn thấy từng đôi mắt trên mặt chúng trong ánh sáng lờ mờ của những vì sao và vầng trăng khuyết, chẳng hề có một đứa nào trong cái đám trẻ điên khùng đó quay đầu lại nhìn lão, hay tỏ ra một dấu hiệu nhỏ nhất nào rằng nó biết lão đang ở đó. Những hình nộm bằng gỗ hay sáp trên một cái đồng hồ treo tường cũng không thể phớt lờ lão hoàn hảo hơn thế được.   
Sau khi cảm thấy kinh ngạc, nhủn người ra, thậm chí hơi sợ hãi vào lúc đầu, bây giờ Già Noll bắt đầu nổi giận. Mấy cái răng già thưa thớt của lão nghiến vào nhau một cách mạnh mẽ như chiếc cối xay của Jeremy Đệ Nhất khi ông ấy còn giàu có và thịnh vượng. Cơn giận dữ của lão càng bùng lên khi, lạ lùng chưa, ngay vừa lúc lão quay đầu lại, nhảy vọt ra từ cánh cổng hẹp với ba bậc thềm gỗ tròn có xẻ rãnh của nhà lão là ba đứa nhóc học việc gần chết đói của chính lão, Tom, Dick và Harry. Lúc này trông chúng như những thằng bé chín tuổi béo tròn và xinh xắn; như thể chúng được nuôi nấng toàn bằng thịt mỡ; như thể trong đời chúng chưa hề được nếm món súp roi vọt nhiều như thế chúng bao giờ. Mồm chúng há ra rồi khép lại, như thể đang hú gọi nhau và hú gọi các bạn bè khác trên phố, dù không có âm thanh nào phát ra từ chúng. Chúng búng ngón tay trong không khí. Chúng nhún nhảy hướng về phía tiếng nhạc trên đôi chân trần, như thể những cái cùi chỏ bầm tím, những cái cằm bị cháy sém, những bắp thịt bị chuột rút và những đôi guốc quai sắt chưa từng một lần làm phiền đến linh hồn trẻ thơ của chúng. Thế nhưng lão già lãng tai không hề nghe thấy một âm thanh, một tiếng thì thầm hay một tiếng chân nào – không có gì khác ngoài giai điệu nhạc ngọt ngào khiến cho lão chói tai và điên tiết đó.
Trong vòng vài phút, đường phố đã trở nên trống vắng, một đám mây mỏng đã lướt qua vầng trăng, và chỉ còn một đứa bé đi tụt lại phía sau trong tầm mắt, một đứa cháu nội của ông thị trưởng. Nó là đứa đi chót chỉ vì nó bé nhất và chẳng có ai chú ý tới nó. Già Noll nhìn theo cho tới khi thằng bé đi khuất tầm mắt với đôi mắt như hai hòn bi bên dưới cặp lông mày gồ lên của lão, rồi tập tễnh quay trở về nhà. Sau khi đứng một lát ở trụ cửa gần nhất để vò bộ râu và suy nghĩ xem nên làm gì kế tiếp, lão trèo lên cái thang gác ba tầng bằng gỗ sồi, tới căn phòng cao nhất nằm áp sát mái nhà. Cuối cùng, lão thận trọng nhấc cái chốt cửa phòng rồi nhìn vào nơi mà lão cho rằng phải là một cái giường trống rỗng. Trống rỗng à? Không trống rỗng chút nào hết! Dưới ánh sao mờ nhạt rọi xuống từ cánh cửa sổ mái nhà phủ bụi, lão có thể nhìn thấy rõ ràng thân hình bất động của ba đứa bé học việc đang nằm đó. Chúng nhẹ nhàng thở trong giấc ngủ say sưa nhất.  Lão mang vào phòng một cây nến mỡ trên một cái giá nến bằng thiếc để có thể kiểm tra chúng gần hơn. 
Trong ánh nến mờ mịt khói, lão quan sát nét mặt của ba đứa bé đang ngủ. Chúng không biểu lộ dấu hiệu nào khi lão già keo kiệt đang cúi xuống sát chúng như một người đánh bẫy chim trên tấm lưới của hắn ta. Thậm chí  trên mí mắt chúng vẫn còn những đốm bồ hóng và lớp bụi bồ hóng vẫn đóng dày trên mái tóc cắt ngắn màu vàng hoe như lông cừu của chúng. Chúng đang mỉm cười xa vắng như thể đang ngồi trong một khu vườn kỳ diệu nào đó trong mơ để nhấm nháp những quả dâu tây và món kem sữa; như thể tấm linh hồn trong người chúng đang hạnh phúc không thể tả dù thân thể chúng đang say sưa trong giấc ngủ như những con ong mật mùa đông.
Già Noll lần từng bước xuống thang, thổi tắt ngọn nến rồi ngồi lên giường ngẫm nghĩ. Lão là một ông già ti tiện độc ác, không có chút tính phóng khoáng và sự thông minh nào cũng như một đồng xu ngâm nước khác rất xa với vầng trăng đêm rằm. Những ngón tay của lão ngứa ngáy muốn quật cho ba đứa bé quét ống khói đang ngủ một trận nên thân, chỉ để “dạy cho chúng một bài học”. Lão không ưa khi nghĩ tới nụ cười hạnh phúc lặng lẽ hiện lên trên nét mặt chúng trong lúc hồn vía chúng đang rong chơi nô đùa đâu đó bên ngoài, trong những đồng cỏ xanh rì ở ngoại ô thị trấn. Làm sao lão biết được đôi mắt tù mù của lão có đánh lừa lão hay không? Giả sử sáng ra lão tới nhà ông thị trưởng và kể cho ông ta nghe câu chuyện nửa đêm của lão, ai mà tin cho nổi? Mọi người, từ nghèo khó đến sang giàu đều ghét lão, và rất có khả năng họ sẽ tống lão vào nhà giam như là một gã điên, hoặc nói xấu lão vì cho rằng lão là một tên phù thủy. “Không, không, không!” lão tự lẩm bẩm với chính mình. “Chúng ta phải theo dõi và chờ đợi, anh bạn Jeremy ạ, để xem chúng ta sẽ thấy điều gì.”
Sáng hôm sau, trước lúc bình minh khoảng một giờ, Tom, Dick và Harrry thức dậy một cách hoạt bát như thường lệ. Bạn có thể cho rằng với đôi mắt long lanh và đôi má ửng hồng như táo chín của chúng, chúng vừa trở về nhà sau một kỳ nghỉ dài ngày ở những đồng cỏ hạnh phúc ở thiên đường. Chúng nháo nhào bắt tay vào công việc – vui vẻ như những chú ếch con – với những cái chổi, những cái túi, vẫn còn nhai nhóp nhép món bánh yến mạch đầy sạn, trong đó một phần là lúa mạch và ba phần là cám.
Già Noll quá tập trung vào việc quan sát từ góc ống khói để xem lão có thể tìm thấy gì trên nét mặt chúng vào bữa điểm tâm và cố nghe lỏm những lời chúng thì thào với nhau đến nỗi lão quên tặng cho chúng liều roi vọt thường lệ vào mỗi buổi sáng. Nhưng chẳng có lời nào nói về điệu nhạc, cuộc nhảy múa hay những trò chơi  đùa vui vẻ ở ngoài đồng cỏ. Chúng chỉ trao đổi với nhau những câu chuyện lắp bắp vớ vẩn thông thường của chúng – ngoại trừ lúc chúng thấy rằng lão già đang quan sát chúng. Và lão nhanh chóng tin chắc rằng dù ba hồn bảy vía trong mơ của chúng có những cuộc phiêu lưu nào đó trong đêm, những cuộc phiêu lưu này cũng không để lại một ấn tượng nào trong đầu óc tỉnh thức của chúng. 
Già Noll khốn khổ! Tiếng vọng của điệu nhạc đó và cảnh tượng mà lão từng nhìn thấy khiến lão thao thức suốt nhiều đêm sau đó. Thân thể lão teo tóp lại vì tuổi tác và vì những thói quen ti tiện, trở thành một cái túi đựng xương di động. Thế nhưng việc quan sát của lão chỉ tốn công vô ích. Lão trở nên mệt mỏi và thèm được ngủ đến nỗi cuối cùng khi vầng trăng của người thợ săn tỏa ra ánh sáng chói lọi hoàn hảo nhất của nó trên những mái nhà của thị trấn Cheriton, lão lại ngồi ngủ gật trong chiếc ghế. Lão bị đánh thức vài giờ sau đó bởi một quầng sáng mờ mờ trong phòng, chắc chắn đó không phải là ánh trăng, vì nó đến từ hành lang cầu thang tối mịt. Lão tỉnh táo lại ngay lập tức, nhưng đã quá muộn. Bởi lẽ, ngay đúng lúc lão nhìn qua khe cửa ra vào, ba đứa bé học việc của lão đã nhẹ nhàng lướt nhanh qua – như những bóng ma, những linh hồn hay những hình dáng trong mơ của chúng – rồi vui sướng chạy vụt ra xa. Chúng lướt qua lão êm hơn cả một cơn gió nhẹ lướt qua một cây liễu và biến mất khỏi tầm mắt bên dưới chân cầu thang trước khi lão có thể cục cựa thân mình.
Sáng ngày thứ hai sau hôm đó, khi Tom, Dick và Harry thức giấc trên tấm nệm rơm của chúng, một mùi thơm tuyệt diệu đang lan tỏa trong bầu không khí. Chúng hít ngửi mùi thơm đó một cách thèm thuồng khi nhìn nhau trong làn ánh sáng rạng dần của buổi bình minh. Và dĩ nhiên, ngay khi chúng xuống ăn bữa điểm tâm với những chiếc áo khoác rách rưới trên người, bà cụ già thường đến vào mỗi sáng để giúp việc lặt vặt cho Già Noll khệ nệ đi tới bàn ăn trong bếp với một cái chảo rán đầy thịt lợn xông khói đang kêu xèo xèo trong lớp mỡ.
“Nào, các cậu bé của ta,” Già Noll nói, chà xát hai bàn tay vào nhau với một nụ cười xu nịnh, “có một lát mỡ lợn xông khói dành cho tụi bay đây, hãy xóc nĩa vào cái chảo để đẩy lùi cái lạnh ra ngoài, sau một đêm dài chạy nhảy dưới ánh trăng.”
Lão nháy mắt với chúng và đưa một ngón tay lên mũi. Nhưng cả ba đứa bé, đang ngồi trên những chiếc ghế đẩu bằng gỗ ở mé kia chiếc bàn, chỉ ngưng lại một giây trong lúc đang chùi đĩa của chúng bằng một mẩu ruột bánh mì để nhìn chòng chọc vào lão với một vẻ kinh ngạc ngây thơ đến nỗi lão hoàn toàn chắc chắn rằng chúng chẳng hiểu lão muốn nói tới chuyện gì.
“Aha,” lão nói, “tụi bay có bao giờ nằm mơ không, bọn nhóc, khi chui rúc trên cái giường dưới mái nhà của tụi bay một cách ấm cúng? Tụi bay có bao giờ nằm mơ không? – có bao giờ nghe thấy tiếng gọi của một điệu nhạc, hay có thể nằm mơ thấy cái thứ mà người ta gọi là một cơn ác mộng? Ôi dào, khi tao còn trẻ chưa bao giờ có một đêm nào mà tao lại chẳng nằm mơ.”
“Nằm mơ!” Bọn trẻ nói, và há to miệng nhìn nhau. “Ồ, nếu ông hỏi tôi, ông chủ ạ,” Tom nói, “đêm qua tôi nằm mơ thấy trời sáng rực ánh trăng, còn tôi ngồi ăn tối với ông địa chủ.”
“Còn tôi,” Dick nói, “tôi mơ thấy tôi nhảy múa dưới những gốc cây, còn những bụi cây thì nở đầy hoa. Và tôi có thể nghe thấy tiếng người ta chơi đàn hạc và thổi sáo.”
“Còn tôi,” Harry nói, “tôi mơ thấy tôi ngồi bên bờ sông, và một phu nhân bước ra khỏi một bụi cây xanh gần dòng nước và nắm lấy tay tôi. Ông chủ ạ, tôi đoán người đó ắt hẳn là mẹ yêu của tôi, dù tôi chưa bao giờ nhìn thấy bà từ lúc bắt đầu hiểu biết.”
Nghe thấy thế, một nụ cười nở ra trên mặt Già Noll như mỡ loang trong một cái dĩa, vì cơn giận trong tâm trí lão đã chìm xuống dưới. Và lão đứng lên, bên cạnh ngọn lửa nhỏ mong manh trong cái lò sưởi rộng lớn. “Ông địa chủ!” “Đàn hạc!” “Mẹ yêu!” Lão nói to, “lũ quỹ con trơ tráo, vô ơn, tham lam tụi bay. Cút xéo đi, không tụi bay sẽ được cho ăn gậy và ngủ một giấc mãi mãi.”   
Hầu như trước khi chúng có đủ thời gian để vớ lấy túi và chổi, lão đã đuổi chúng ra khỏi nhà. Vì thế, chúng phải đứng nép sát người hết mức vào những bức tường trong một con hẻm nhỏ cạnh khu vườn như những con quạ ướt sũng để tránh cơn mưa đang trút xuống. Chúng trò chuyện với nhau, chờ đợi ông lão đang giận dữ bước ra và cử chúng đi làm công việc của ngày hôm đó.
Dĩa mỡ lợn xông khói của Già Noll không uổng phí chút nào. Giờ đây lão đã biết rằng lũ nhóc vô dụng đó chỉ mơ thấy những chuyến phiêu lưu về đêm của chúng, và chẳng hề biết chút gì về việc chính bản thân chúng trong những hình dáng trong mơ đã thật sự ra khỏi nhà trong đêm để đi tới nơi hẹn hò của tất cả bọn trẻ ở Cheriton để nhảy múa, hội hè tìm vui. Nhưng lão vẫn tiếp tục theo dõi, và thỉnh thoảng lại lẻn nhìn vào ba đứa bé đang nằm ngủ với nhau trên tấm ván trên căn gác áp mái, với hy vọng sẽ bắt quả tang chúng đã trốn ra khỏi nhà. Nhưng dù có đôi lúc lão lại nhận ra cái nụ cười nhẹ mơ hồ trên mặt chúng, và ánh sao soi sáng những vệt nước mắt trăng trắng trên những đôi má nhuộm đen bồ hóng, nhiều tuần liền lão vẫn không nghe thấy lại điệu nhạc lạ lùng hay một tiếng thì thầm mơ hồ nhất của những hình dáng trong mơ của chúng lướt qua những bậc thang gác gỗ.
Tuy nhiên, càng nghĩ tới những gì từng trông thấy, lão càng ghét ba thằng nhóc tì đó, và càng ghét cay ghét đắng cái cung cách vui vẻ của chúng. Có một điều mà lão không thể quyết định trong đầu được là lần tới, nếu lão bắt quả tang trò lừa lọc ban đêm của chúng, lão có nên quật gậy vào thân hình đang say ngủ của chúng không, hay là nên đợi cho tới khi những hồn vía trong mơ của chúng đã đi khỏi an toàn rồi sẽ cố ngăn không cho những hồn vía đó quay trở lại. Khi đó, chúng sẽ thật sự phụ thuộc vào lòng thương xót của lão.
Lúc bấy giờ ở Cheriton có một bà cụ rất già nổi tiếng về ma thuật phù thủy. Bà ta sống trong một mái che bằng đá ở đầu kia của một con hẻm quanh co nằm ngay bên cạnh những bức tường của già Noll. Và già Noll, gần như đã trở thành một cái bóng, một buổi chiều tối nọ đã tới gõ cửa nhà bà ta. Bà ta có thể già bằng bà nội của lão khi bà ngồi ở đó, co rúm người trong góc nhà bên cạnh cái nồi sắt to lớn đang sôi sùng sục trên bếp lửa. Lão lầm bầm kể lại câu chuyện về ba đứa nhóc láo xược, vô thần của mình, rồi ngồi mặc cả về số tiền mà lão phải trả cho bà ta để nhận được lời tư vấn. Ngay cả khi đó lão vẫn hy vọng bịp được bà ta. Cuối cùng, lão đặt đồng crown của mình vào bàn tay teo quắt của bà ta.
Việc đánh thức một người đang ngủ, bà ta bảo lão, trước khi hồn vía trong mơ của nó có thể quay về trong cái khung xác thân phàm tục, chẳng khác nào việc đem đến cho nó một cái chết bất ngờ. Nhưng giữ cho cái vía trong mơ ở bên ngoài mà không đánh thức thân thể đang ngủ của nó, khi đó nó có thể là nô lệ cho anh mãi mãi, và chẳng bao giờ lớn lên thêm. Và cái có thể giữ một hồn vía trong mơ của một người – hay của một con thú - ở bên ngoài là một cái nơ sắt hình số 8 lộn ngược, hay một cái móng ngựa han rỉ lật úp xuống, hay một cái vòng hoa làm bằng nhánh cây cơm cháy và cây tần bì xoắn lại và được treo lên trên một cây đinh sắt đóng bên trên ổ khóa – và phải đóng mọi cửa sổ lại. Tường gạch, đá và gỗ chẳng có nghĩa lý gì với những linh hồn lang thang đó. Nhưng chúng không thể chịu được sắt. Và điều bà ta nói có nửa phần đúng và nửa phần sai; nó có nửa phần sai là vì lão già ngu xuẩn không chịu trả cho bà ta đúng giá tiền.
Lão biết rõ, cả bà ta cũng thế, rằng chỉ có một cái then gỗ trên cửa nhà của lão, vì lão hà tiện đến mức không bao giờ nghĩ tới việc mua một cái ổ khóa bằng sắt để lắp vào đó. Lão không sợ lũ trộm, vì lão giấu tiền của mình kín đáo đến nỗi không có tên trộm nào trên đời có thể tìm ra nó, dù cho hắn ta có tìm suốt cả một tuần. Vì thế lão hỏi lại bà cụ, để chắc chắn gấp đôi, rằng một con người tự nhiên có thể sống và làm việc bao lâu nếu hồn vía trong mơ của anh ta không bao giờ quay lại. “Sao chứ,” bà cụ chép môi, ngẩng gương mặt già nua khô đét liếc nhìn lão, “điều đó tùy thuộc vào chúng trẻ như thế nào, dòng máu gì và trái tim gì. Hãy tiến hành khi chúng còn trẻ dại, và chúng sẽ sống mãi.” Từ lâu, bà ta đã nhìn thấy lão đang theo đuổi điều gì, và chẳng hề ưa gì lão hơn là ba đứa nhóc quét ống khói ồn ào của lão.
Rất miễn cưỡng, lão thả một đồng tiền khác vào lòng bàn tay xương xẩu của bà ta rồi quay trở về nhà, không biết rằng để trả thù sự keo kiệt của lão, bà cụ già đó chỉ nói cho lão nghe phân nửa câu chuyện. Tối hôm ấy ba đứa bé học việc của lão được hưởng cái thú nô đùa hiếm hoi với trò chơi “trốn tìm” trong ngôi nhà cũ nhiều phòng và nhiều hang chuột của lão, vì chủ của chúng vắng nhà. Lúc nghe thấy tiếng bước chân lệt bệt của lão, chúng chạy vụt trở về giường, và làm ra vẻ đang nằm ngủ trước khi lão có thể nhìn thấy chúng.
Lão đã xách về một bó cành cây cơm cháy và tần bì, một cây đinh giá mười xu, một chiếc chìa khóa lớn và một cái móng ngựa rạn nứt. Và, lạ lùng thay, chiếc chìa khóa mà lão đã mua từ một nhà buôn hàng đồng nát trước kia từng là chìa khóa cái cối xay lúa của ông già Jeremy Đệ Nhất giàu có ở Stratford-on-Avon! Lão ngẫm nghĩ suốt gần phân nửa đêm hôm đó về điều mà bà cụ đã nói, và “chắc chắn”, lão tự nhủ, “máu chúng khá là tươi, cái roi cũ của ta đã ngăn chúng khỏi điều ác, và còn gì tốt cho một thân thể tươi trẻ thanh xuân hơn là một ngày dài lao động và không có chi nhiều để ăn, và một nơi thoáng khí để ngủ ban đêm? Lão già độc ác thật sự cho rằng nếu bằng trò ma thuật này lão có thể ngăn hồn vía trong mơ của lũ nhóc khỏi thân thể chúng mãi mãi, ba đứa nhỏ học việc trẻ trung của lão sẽ không bao giờ già, không bao giờ đau yếu, mà có lẽ sẽ sống mạnh khoẻ, nhanh nhẹn đến một thế kỷ.
Chà, lão sẽ sử dụng chúng chừng nào còn cần tới chúng, và bán chúng đi trước khi lão chết. Lão sẽ dạy cho chúng biết thế nào là trốn đi chơi trong đêm khi những người dân chân chính đang nằm ngáy trên giường họ. Lần đầu tiên trong suốt nhiều tuần, bữa ăn hà tiện của lão, gồm một mẩu vỏ bánh, một cái xương đùi lợn và một ca nước, có mùi vị ngon lành như những sơn hào hải vị của nhà Trời.
Ngày hôm sau đó cũng chính là ngày kỷ niệm Thánh Nicholas. Và thời điểm đó đang là mùa đông của nước Anh già nua. Một lớp tuyết mỏng đã rải khắp mặt đất như những tảng bột sago, và những dòng sông, ao hồ đã đóng băng cứng như sắt. Hay hơn nữa là đêm đó trăng đang độ vào rằm, và những vũng nước nhỏ trên Đại lộ Cheriton sáng lên lấp lánh như đồ pha lê Trung Quốc trong những tia sáng đổ xuống chúng từ giữa những mái hiên của các ngôi nhà.
Suốt năm giờ ban tối dài dằng dặc, sau bữa ăn lúc bảy giờ, già Noll cố tìm cách để không bị ngủ quên. Thế rồi, sau nửa đêm một chút, sau khi đã chắc chắn rằng ba đứa bé học việc của lão đang ngủ say trên giường, lão dò dẫm xuống thang, khẽ nhấc cái then cửa lên và nhìn ra. Không bao giờ từng có một quang cảnh sáng trưng rực rỡ như thế trước đó. Tuyết trên những mái nhà, những đầu hồi và những phần công trình bằng đá có chạm trổ của những ngôi nhà trắng lóng lánh và mịn như thứ bột xay tốt nhất của những ông chủ cối xay. Không có một bóng người nào, hay thậm chí một con mèo, hiện ra trên suốt quãng đường dài thiếu ánh đèn. Và những vì sao trên bầu trời xanh xám lấp lánh như những giọt sương trên một cây táo gai.
Tất nhiên, ngay đúng lúc tiếng chuông nửa đêm cuối cùng phát ra từ tháp chuông nhà thờ Thánh Andrew, giai điệu nhạc cổ xưa quyến rũ lại mơ hồ vẳng đến từ phía xa xa. Lạy Chúa, giá mà trong những huyết mạch của Già Noll còn sót lại dù chỉ một giọt máu duy nhất của tuổi thanh xuân, lão sẽ không thể cưỡng lại việc nhún nhảy thân hình chỉ còn như bộ xương của lão xuống những bậc thềm, đi vào con phố thênh thang khi nghe thấy âm thanh của nó:
Ơi này các bé gái trai
Ánh trăng sáng quá, ra ngoài chơi thôi!
Bữa ăn ngon, giấc ngủ vùi
Đáng chi mà tiếc ra ngoài chơi đi!...
Nhưng, thay vì thế, lão vội vã lê chân vào trong nhà trở lại như một con chuột; nép mình vào bên dưới lồng cầu thang và chờ đợi, vẫn để mở hé cánh cửa ra vào.
Ô, cái gì thế kia? Những quầng sáng xa xôi mơ hồ lúc này đang hiện ra trên con phố, và một âm thanh giống như tiếng kêu của những loài thú nhỏ. Trong giây lát, tiếng nhạc trở nên lớn đến nỗi một cái hộp thủy tinh trên một cái bàn gần đó – bên trong đựng mô hình một chiếc thuyền hai buồm trước kia từng thuộc về người ông xấu xa của già Noll, kẻ đã chết ở Tobago – cũng khẽ ngân lên vì sự rung động phi thường của bầu không khí. Và hồn vía của ba đứa nhóc học việc của già Noll nháo nhào lao ra khỏi giường, giống như chúng vừa trượt ra khỏi tấm bao tải, trong những chiếc áo sơ-mi và quần ống túm rách tả tơi mặc lúc ban ngày. Với những đôi chân trần, chúng lướt nhẹ từ bậc thang này xuống bậc thang khác. Già Noll hầu như không có đủ thời gian để nhìn thấy nụ cười tuyệt diệu trên mặt chúng hay để bắt gặp ánh sáng lấp lánh của những hàm răng trắng bóng bên dưới đôi môi hé mở của chúng, trước khi chúng lướt ra khỏi nhà và biến mất.
Run lẩy bẩy cả người, như thể bị tê liệt, lão già vội vã lao lên cầu thang, và trong giây lát ngôi nhà trống vang lên tiếng gõ búa khi lão đóng chiếc đinh giá mười xu vào cái ổ khóa bên trên cánh cửa của căn phòng áp mái, rồi treo lên đó cái vòng hoa, chiếc chìa khóa và cái móng ngựa. Khi làm xong việc này, lão hạ chiếc búa xuống và lắng nghe. Không có một tiếng thì thào, thở dài hay tiếng kêu nhỏ nhất nào phát ra từ bên trong. Nhưng do sợ cái mà lão có thể trông thấy, lão không dám mở cánh cửa ra.
Thay vì thế, sự tò mò thôi thúc lão. Khoác một tấm áo choàng rộng lên đôi vai xương xẩu, lão vội vã bước xuống đường. Dĩ nhiên, đây đó khắp nơi trên mặt tuyết và sương muối là những dấu chân – những dấu vết mà ở bất kỳ giá nào cũng đủ để cho đôi mắt đố kỵ của lão có thể nhận ra, dù chúng hầu như chỉ rõ hơn một chút so với những vết cánh của một con chim đói quét nhẹ lên mặt tuyết.
Với đầu óc đơn giản của lão, già Noll cho rằng lúc này mình đã lừa được bọn trẻ học việc một cách an toàn, rằng những thân hình trẻ trung trống rỗng của chúng sẽ phải ngoan ngoãn nghe theo sự sai khiến của lão mãi mãi. Lão quyết định đi theo những hồn vía trong mơ của bọn trẻ, lúc này đã khuất khỏi tầm mắt, ra khỏi thị trấn và đi vào đồng cỏ. Lão đi, đi mãi cho tới khi hơi thở của lão kêu khò khè trong buồng phổi và lão hầu như không thể lê thêm một bước nào.
Cuối cùng, lão đi tới một nhánh của dòng sông Itchen. Trên mặt nước lóng lánh như gương dưới ánh trăng của nó có một vòng tròn những cây liễu còi và  bị cắt cụt ngọn. Ở đó, trong những bãi cỏ tươi xanh và phủ đầy sương, khúc nhạc giao hưởng tuyệt vời, thần bí vút cao lên, dường như từ trong lòng của một gò đất gần đó, gọi là Trại của Caesar. Và lão nghe thấy tiếng của nhiều giọng khác nhau đang đồng ca trong đó. Và lang thang trên khắp đồng cỏ là những hình bóng trong mơ của lũ trẻ, không chỉ ở Chriton, mà cả từ những nông trại, những ngôi nhà, những khu cắm trại của người Gip-xy cách nhiều dặm quanh đó. Ở đó có cả những đàn cừu, những đôi mắt vàng của chúng lóng lánh dưới ánh trăng khi lão bước qua chúng. Nhưng không có con nào để ý tới lũ trẻ hay tới “những kẻ lạ lùng”, những người đã kêu gọi chúng đi ra từ những giấc mơ của chúng.
Những kẻ lạ lùng này thật sự kỳ quặc: chiều cao ở mức trung bình, quần áo trông giống như mạng nhện; mái tóc thẳng màu vàng rơm của họ rũ xuống hai bên má, khiến cho khi mới thoạt nhìn thoáng qua lần đầu trông chúng như là những bộ râu quay nón. Và khi họ bước đi, những lớp cỏ đóng băng hầu như không hề lay động dưới bàn chân của họ. Họ quay mặt từ phía này sang phía khác, nhìn vào bọn trẻ. Trên nét mặt của họ hiện lên một vẻ ngay thẳng không hề thay đổi, và đôi mắt họ có một ngọn lửa mơ hồ giống như mặt nước vào những đêm trời có sấm chớp khi thủy triều nhẹ nhàng ập những lượn sóng vỗ bờ của nó lên bờ cát rộng của biển khơi.
Khi nhìn thấy họ, Già Noll bắt đầu cực kỳ sợ hãi. Ở đó không có dấu hiệu nào của Tom, Dick và Harry. Ắt hẳn chúng đã đi vào gò đất đang vang vang tiếng nhạc – có thể đang có tiệc tùng ở đó, nếu những hồn vía trong mơ cũng biết ăn tiệc. Tiếng nhạc liên miên không dứt khiến cho đầu óc lão quay cuồng. Lão nhìn quanh để tìm một nơi ẩn nấp, rồi cuối cùng đi tới một trong những cây liễu già nhiều mấu bên cạnh dòng nước đóng băng. Lẽ ra lão có thể ở đó an toàn và bình ổn cho tới sáng, nếu khi lão đu người lên một cành thấp của cây liễu sương muối không lọt vào lỗ mũi của lão và khiến lão hắt hơi. Lẽ ra lão vẫn có thể ở đó an toàn và bình ổn nếu lão chỉ đơn giản hắt hơi, vì tiếng hắt hơi của một ông già không khác gì tiếng thở khò khè vào mùa đông của một con cừu đực. Nhưng lão già khốn khổ này quá cảnh giác và hoảng sợ đám người kia đến nỗi lão kêu lên, “Thượng đế phù trợ chúng con!” sau cái hắt hơi – như mẹ lão từng dạy lão.
Đó là sự kết thúc của lão già xấu xa Nollykins. Vì đó là bước đầu tiên của lão trên con đường dài của sự ăn năn. Vì điều kế tiếp mà lão nhớ lại được là lão đã mở mắt ra trong ánh rạng đông còn chưa sáng hẳn và nhận ra mình đang nằm vắt vẻo trên cành của một cây liễu trơ trụi lá. Một làn sương mù mỏng  manh trùm lên cánh đồng cỏ thấp. Đàn cừu đang thong dong gặm cỏ, để lại những vệt xanh xanh trên mặt cỏ đọng sương muối khi chúng bước lên phía trước mặt. Lão cảm thấy trong bộ xương mình một cơn đau nhức cực kỳ mà kể từ lúc còn quấn tã, lão chưa bao giờ nếm trải. Như thể mỗi nhánh mềm đọng đầy sương muối của cái cây liễu không bị xén ngọn trong cái vòng tròn cây liễu thần kỳ nằm kề bên nhánh sông Itchen đã nện lên người lão một cách tùy thích trong suốt cái đêm dài đó. Nhiệt tâm và lòng can đảm của lão đã mất hết. Thở dài và rên rỉ, lão trèo xuống khỏi cây liễu, nhặt một nhánh cây khô rơi xuống để làm gậy chống rồi lên đường quay lại thị trấn. 
Trời vẫn còn rất sớm ngay cả đối với những cô gái vắt sữa, dù những con gà trống đang gáy rộ lên từ chỗ đậu đầy sương muối của chúng và màu đỏ của mặt trời đang mọc đã cháy rực lên ở chân trời hướng đông. Lão dò dẫm bước vào nhà và đóng cửa lại. Với nhiều lần nghỉ giữa chặng, lão lần mò leo từ bậc thang này lên bậc thang khác cho tới khi tới cánh cửa của căn gác áp mái. Lão áp tai vào bức vách và lắng nghe một lúc. Không có một âm thanh nào hết. Rồi len lén đẩy cánh cửa nhích ra từng phân một, lão thò cái đầu đang run bắn của mình về phía trước và nhìn vào bên trong. 
Ánh sáng tươi hồng ở hướng đông đang rạng rỡ dần, thậm chí đã luồn qua những tấm kính cáu bẩn của cánh cửa sổ ở mái nhà như để soi sáng giấc ngủ của những đứa trẻ học việc nhỏ bé của lão. Đó là một buổi sáng Chủ nhật. Làn da hồng hào và những búp tóc xoăn như len cừu không để lại dấu vết gì của bồ hóng trong tuần. Nhưng đối với Già Noll, vào những lần khác khi lão đang nhìn trộm, những nụ cười của chúng trông như làm bằng sáp; còn bây giờ thì trông chúng như làm bằng thạch cao. Vì mỗi đứa bé trong số đó – Tom, Dick, Harry – đều đang nằm ngửa, những bàn tay nứt nẻ, ám đen bồ hóng với những móng tay sứt sẹo đặt hai bên hông chúng. Không có một nét cười nào trên mặt chúng, mà chỉ duy nhất một vẻ bình thản nghiêm trang như hình ảnh của những người đã nghỉ ngơi vĩnh viễn. Tình trạng đó của ba đứa trẻ khiến cho ngay cả Già Noll cũng không dám cố đánh thức chúng vì lão biết rõ rằng giờ đây không có một cây roi trần tục nào có thể khuấy động chúng khỏi giấc ngủ say này. Ít nhất là cho tới khi linh hồn của chúng đã quay trở về nhà. Và hẳn là bà cụ chua ngoa sẽ không giúp lão trong chuyện đó.  
Lão nguyền rủa bà cụ già nua, đập liên hồi vào cửa của bà ta, nhưng bà ta không hề chú ý tới lão. Cuối cùng, khi những hồi chuông nhà thờ Cheriton bắt đầu kêu gọi mọi người đi dự lễ buổi sáng, lão chẳng còn biết làm gì khác, nếu như có bất kỳ hy vọng nào để thoát thân, ngoài việc lê tấm thân tới nhà ông thị trưởng để báo với ông ta rằng mấy đứa trẻ học việc của lão đã chết.
Tuy nhiên chúng không chết. Người nhà ông thị trưởng cho gọi một bác sĩ. Sau khi đặt một loại ống gỗ nào đó lên ngực chúng, vị bác sĩ đoan chắc rằng lồng ngực chúng vẫn còn động đậy. Chúng đã rơi vào một trạng thái hôn mê, ông ta bảo. Tình trạng đó gọi là triệu chứng giữ nguyên thế[3]. Đó là một cơn tai biến não giống như một trạng thái mơ màng sẽ qua đi nhanh chóng. Nhưng dù bà mụ già mà vị bác sĩ gọi tới đã rang nóng muối để làm những cái túi muối, và suốt mấy giờ liền đặt một hòn gạch ủ nóng lên bàn chân lạnh cóng như đá của từng đứa trẻ học việc, chẳng có đứa nào chứng tỏ là nó còn sống hay có thể chú ý bằng cách chớp mắt hay thở dài thật nhẹ một cái. 
Chúng nằm đó, trên tấm nệm rơm, bất động như những cái xác ướp, lặng im và thanh thản, đáng yêu như bất kỳ bà mẹ nào luôn mong muốn, với những đôi má, những chiếc mũi, những cái cằm và những vầng trán nghiêm nghị đã được cọ rửa bằng xà bông cho ngày Chủ nhật, và không hề đáp lại như những tiểu thiên sứ làm bằng đá.
Thị trưởng của thị trấn, sau khi lắng nghe toàn bộ những gì Già Noll có thể kể, phạt lão năm túi tiền vàng ghi-nê vì đã để cho ba đứa bé học việc của lão rơi vào trạng thái hôn mê do mong muốn có thức ăn và dinh dưỡng kha khá. Và do cơn đau khớp, cùng nỗi thống khổ của việc có những người lạ đi lại rầm rầm khắp nhà mình, của việc phải van nài ông thị trưởng và của việc nhìn thấy tiền của mình bị lấy ra khỏi nơi cất giấu và tính đếm trên bàn, lão già bất hạnh quá đỗi choáng váng và rối trí đến mức lão không bao giờ nghĩ tới việc gỡ cái vòng hoa làm bằng nhánh cây cơm cháy và tần bì, chiếc chìa khóa và cái móng ngựa khỏi cánh cửa. Đó là lý do vì sao một tuần rồi hai tuần trôi qua nhưng chẳng có dấu hiệu nào cho biết là tình trạng hôn mê này sẽ kéo dài thêm bao lâu nữa. Ông thị trưởng và Hội đồng thị trấn quyết định rằng vì Tom, Dick và Harry không thể phục vụ cho thị trấn với tư cách thợ quét ống khói nữa, có lẽ chúng sẽ giúp cho thị trấn kiếm tiền một cách lương thiện với tư cách là “Những Kỳ nhân của Thời đại”.
Thế là người hầu của ông thị trưởng, với một dải băng bằng vải muslin trắng cột phấp phới trên cái nón đen, và hai người khóc mướn của anh ta – trên tay cầm những bó hoa loa kèn – đi tới nhà Già Noll với một chiếc xe kéo và đưa ba thân hình bất động đó đi. Người ta làm cho chúng một cái hòm có nắp thủy tinh rộng rãi bằng loại gỗ sồi Warwickshire chắc chắn, với một ổ khóa chạm trổ đẹp đẽ và một chiếc chìa khóa. Và trước lúc những kẻ chờ đợi bắt đầu hát những bài ca Giáng sinh trong màn tuyết trắng, ba đứa bé đã được đặt vào cái hòm này trên tầng lầu của Viện bảo tàng Cheriton. Chúng nằm đó mãi, lặng lẽ như nàng Bạch Tuyết trong cỗ quan tài của những chú lùn. Ánh sáng ban  ngày êm đềm rọi xuống gương mặt lặng lẽ của chúng dù thông thường trong những ngày hè dài có một bức màn màu sẫm được phủ lên trên mặt kính khi nào mặt trời rọi nắng quá gắt vào cửa sổ.
Tin tức về điều kỳ diệu này lan nhanh, và trước mùa xuân tiếp đó, du khách từ khắp nơi trên thế giới – thậm chí từ những thành phố xa xôi như Guanojuato và Seringgapatam – đến chật cứng Warwickshire chỉ để ngắm nhìn một lát ba cậu bé quét ống khói đang nằm ngủ, với giá 6 hào một lượt nhìn. Sau đó, một phần lớn trong số họ sẽ đi tới Stratford để tham quan ngôi nhà thờ đặt bộ xương được vinh danh của William Shakespeare. Thật sự, bà Giles, một bà cụ dựng một quầy bán táo và bánh gừng bên cạnh viện bảo tàng, chỉ trong vài năm đã kiếm được nhiều tiền từ hàng hóa của mình đến nỗi bà ta có thể nuôi dưỡng đến lớn toàn bộ chín đứa cháu mồ côi của mình một cách thoải mái, và cuối cùng nghỉ hưu ở tuổi sáu mươi tại một ngôi nhà bốn phòng cách nhà của Anne Hathaway[4] không đầy một trăm mét.
Theo thời gian, viên trung úy chỉ huy quân đội, các vị quận trưởng, các vị thẩm phán hòa giải, ngài giám mục và thị trưởng các thị trấn lân cận, chắc chắn là do ghen tỵ về danh vọng và sự nhiệm màu ở giữa vùng này, đã cố hết sức thuyết phục và thúc ép ông thị trưởng và Hội đồng thị trấn dời các cậu bé tới thị xã. Bản thân ngài Bá tước cũng hứa sẽ đặt chúng vào một ngôi nhà cũ cách nơi thờ tổ tiên của ông ta, nhà nguyện Beauchamp Chapel, chưa đầy một tầm ném đá. Nhưng tất cả đều uổng công vô ích. Nhân dân Cheriton giữ chặt quyền lợi của họ: và ngài chánh án sau khi điềm tĩnh lắng nghe cả hai bên một cách trọn vẹn đã lắc cái đầu mang tóc giả của mình để ủng hộ họ. 
Mấy cậu bé nằm ngủ cứ tiếp tục ngủ trong suốt năm mươi năm. Trong thời gian này, Hội đồng thị trấn đã nhận được chỉ riêng số lệ phí tham quan là Một trăm hai mươi ba ngàn năm trăm năm mươi lăm đồng tiền sáu xu (tương đương £3,088 17s. 6d.). Và gần như mỗi xu trong số tiền lớn này đều là lợi nhuận minh bạch. Họ cũng sử dụng chúng một cách rộng rãi – mở rộng những cái ống khói hẹp, trồng những hàng cây chanh trên Đại lộ và rừng cây tần bì, liễu cạnh dòng sông, xây một vòi phun nước và một cái chuồng chim bồ câu lớn bằng đá, và cách ly một vùng đồng cỏ có rừng với mọi tiện nghi mà mọi sinh vật hoang dã có thể hy vọng được ban  tặng cho bởi người đốc công của chúng – Con người.
Thế rồi, một ngày đẹp trời nọ, viên phụ trách viện bảo tàng, người trong suốt bốn mươi năm chưa một lần bỏ qua công việc đầu tiên trong buổi sáng là lau sạch bụi cái hòm thủy tinh của “các cậu bé học việc”, lăn ra ốm và phải nằm dưỡng bệnh. Cháu gái của ông, một cô gái xinh xắn, lanh lợi và cao quý, đến đó với tư cách trợ lý của ông trong một thời gian để coi sóc viện bảo tàng, bán vé và theo dõi khách tham quan thay cho ông. Cô chỉ mới mười bảy tuổi; và là người đầu tiên cất tiếng hát trong viện bảo tàng – dù dĩ nhiên là chỉ hát ậm ừ trong cổ họng, và không bao giờ trong lúc đang mở cửa.  
Bấy giờ đang là mùa hè, nói đúng hơn là ngày đầu của tháng Năm. Và cũng như mọi buổi sáng, cô mở cánh cửa lớn của viện bảo tàng, bước lên cái cầu thang lớn có nhiều hình chạm trổ và kéo những tấm màn cửa sổ ở tầng trên lên, rồi quay lại – như thường lệ – nhìn chăm chú vào Ba Cậu Bé đang ngủ (mà chẳng phải trả một đồng xu nào cả). Cô thở ra một hơi dài như thể vừa thoát khỏi một giấc mơ hạnh phúc.
“Các cậu bé đáng yêu!” Cô thường thì thầm với chính mình. “Các cậu bé đáng yêu, rất đáng yêu!” Cô có một tấm lòng của mẹ hiền và những lọn tóc của cô trở nên trong suốt trong ánh ban mai. Đôi mắt xanh lơ của cô hạ xuống cái hòm thủy tinh với một sự trắc ẩn và nhạy cảm đến nỗi nếu một cái nhìn đơn giản có thể đánh thức ba đứa trẻ, hẳn là chúng sẽ cùng khiêu vũ điệu jig của Ái Nhĩ Lan với cô vào mỗi buổi sáng vui tươi.
Vì còn trẻ, cô có xu hướng hơi bất cẩn, và thậm chí có khi còn bẻ một nhánh san hô hay gỡ một cái vảy từ đuôi của một nàng tiên cá để tặng cho bất kỳ một người trẻ tuổi xa lạ nào mà cô đặc biệt có cảm tình như là một món quà lưu niệm của xứ Cheriton. Ngoài ra, cô chưa bao giờ được nghe kể về tính chất ma thuật của những chiếc chìa khóa, móng ngựa hay cây cơm cháy và cây tần bì. Cô lớn lên dưới một mái trường nơi ma thuật và phép thuật phù thủy chưa bao giờ được nhắc tới nhiều trong những giờ học. Làm sao cô có thể nhận ra rằng chiếc chìa khóa nhỏ của cái hòm thủy tinh và chiếc chìa khóa lớn của cửa viện bảo tàng (mà, sau khi mở cả hai, cô đã đánh rơi khỏi túi khi bất ngờ rơi tỏm xuống cái giếng trong vườn) có thể giữ được một kẻ bất kỳ nào đó hay một vật bất kỳ nào đó ở ngoài hay ở bên trong nhà, ngay cả khi những cánh cửa đang mở rộng? Hay rằng nước có thể rửa sạch ngay cả ma thuật của phù thủy?
Chính trong buổi sáng hôm ấy, bầu trời tỏa ra một ánh nắng vô cùng tráng lệ, và những con chim hét cứ hót véo von trong những cây chanh vừa thay lá mới khi cô đi tới nơi làm việc, đến nỗi cô không thể cưỡng lại lòng thương cảm và niềm ao ước thêm phút giây nào nữa. Sau khi kéo những tấm màn ở tầng trên lên, cô thận trọng nhấc ba cái nắp thủy tinh của cái hòm lớn lên trong sự im lặng, rồi dựng chúng lên. Và với từng người một – sau khi trước hết là lén lút áp tai lắng nghe ở đôi môi của chúng như thể với niềm hy vọng sẽ nghe thấy những điều chúng thì thầm nói nhỏ trong mơ – cô hôn lên đôi môi lạnh lẽo như đá của những cậu bé đang ngủ. Khi hôn Harry xong, cô tưởng như cô nghe có tiếng chân trên bậc cầu thang. Và cô chạy ra ngay để xem có ai không.
Không có ai cả. Thay vì thế, khi cô đứng trên cái cầu thang rộng để lắng nghe, gương mặt tươi trẻ của cô hơi nghiêng đi và tập trung chú ý, bỗng xuất hiện một mùi gì đó thoang thoảng như những làn gió mang mùi gia vị đến từ những vùng đất mênh mông của Damascus. Không một âm thanh, không có gì hơn ngoài một hơi thở, mơ hồ xa xăm thế nhưng hầu như ngọt ngào không chịu nổi của Mùa xuân – băng qua những đồng cỏ nằm men theo dòng sông uốn lượn, nơi loài chim lui tới, nơi những đàn cừu gặm cỏ: mùi thơm của một tiếng thầm thì. Như thể một ký ức xa xăm đã hiện lên và lướt qua mắt cô trong niềm hân hoan vui sướng. Rồi sự tĩnh lặng lại một lần nữa bị phá vỡ bởi âm thanh của một giọng nói nhỏ hơn cả tiếng kêu của một con muỗi mắt. Rồi tiếng thủy tinh vỡ loảng xoảng đến ghê tai. Rồi ba người bạn nhỏ của chúng ta – ba cậu bé quét ống khói – chạy ùa ra, những linh hồn trong mơ của chúng rốt cuộc đã về nhà.
Lúc bấy giờ Già Nollykins đã nằm dưới mộ từ lâu. Vì thế, thậm chí nếu có ai đó có thể bắt được chúng, Tom, Dick và Harry cũng không quét thêm cái ống khói nào cho ông ta nữa. Ngay cả ông thị trưởng mới cũng không thể làm được điều đó. Cả toàn thể Hội đồng thị trấn cũng không. Cả anh mõ của thị trấn cũng không, dù anh ta có hét lên mỗi ngày hai lần cho đến cuối năm đó: “Ồ – phải! Ồ – phải! Ồ – phải!!! Đã mất tích, bị đánh cắp hay thất lạc: Ba Cậu Bé Nằm Ngủ của xứ Warwickshire lừng danh và nổi tiếng toàn thế giới của chúng ta!” Ngay cả viên trung úy chỉ huy quân đội cũng không. Ngay cả ngài Bá tước giàu mạnh cũng không.
Còn về phần cái gò đất nằm cạnh những cây liễu bị cắt cụt ngọn – chà, có một kẻ tỉnh thức thông minh nào có thể cung cấp bất kỳ thông tin nào về nó hay không nhỉ?






[1] Warwickshire: một quận nằm ở phía tây miền Trung nước Anh. Thường được gọi tắt là Warks hoặc Warwicks.
Có lẽ Warwickshire nổi tiếng là vì đây chính là nơi sinh trưởng của đại thi hào Anh William Shakespeare  (ở Stratford-upon-Avon). Hiện nay, bảng chỉ đường ở ranh giới quận vẫn ghi là “Quận của Shakespeare".
[2] Ba nhân vật trong truyện ngụ ngôn Thiên Chúa giáo Tiến trình hành hương từ Thế giới này đến Thế giới khác sẽ tới (The Pilgrim's Progress from This World to That Which Is to Come) của nhà văn Anh John Bunyan (xuất bản 2-1678). Quyển sách này được xem là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong nền văn học Anh và đã được dịch ra hơn 200 thứ tiếng.
[3] catalepsy
[4] Anne Hathaway (1556 – 1623): vợ của đại thi hào William Shakespeare.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét