Thứ Năm, 16 tháng 5, 2013

Walter de la Mare - Maria-Ruồi


Dịch từ nguyên tác
Collected Stories for Children [1947]
của Walter de la Mare 
Dịch giả giữ bản quyền bản Việt ngữ
Copyright © Nguyễn Thành Nhân 2009
 




Sáng hôm ấy –- cách nay đã rất nhiều năm – bé Maria mặc một chiếc váy yếm màu đen và trắng có viền ren. Mái tóc của bé được cột ở phía sau đôi vành tai nhỏ nhắn bằng một sợi ruy-băng trắng. Bé ngồi trong phòng khách, trên một cái ghế bành tô thấp có trải đệm. Đôi chân mang vớ dài đong đưa về phía trước. Bé chỉ có một mình. Bé đã đi lang thang vào đó, không có ai đi cùng; sau khi đi vòng vòng một lúc để nhìn ngắm mọi vật trong phòng và đưa mũi ngửi cái bát đựng mấy đóa hoa hồng Damas, bé ngồi xuống đó, trông rất xinh xắn, và từ tốn đến nỗi bạn gần như có thể cho rằng có một người nào đó đang hiện diện và bé đang “đóng kịch.”  
Nhưng không phải thế, chỉ là bé đang suy nghĩ. Đó là một buổi sáng yên tĩnh. Căn phòng khá dài, với hai khung cửa sổ vòm lắp kính vuông. Ánh nắng rọi vào căn phòng im lặng và dù trông như thể không còn một sinh vật nào khác giữa những bức tường ngoại trừ chính bé, cả căn phòng cũng trông có vẻ rất hạnh phúc. Và Maria bắt đầu suy nghĩ – nói đúng hơn, không chính xác là suy nghĩ mà cũng không chính xác là mơ mộng, mà là (nếu có thể là như thế) bé thực hiện cả hai điều cùng một lúc; dù bé không thể nói với bất cứ người nào rằng bé đang suy nghĩ và mơ mộng về cái gì.
Bé đã ăn điểm tâm một chén bánh mì chấm sữa, nửa trái táo và hai lát bánh mì kẹp mứt. Bé cảm thấy thoải mái. Giờ tập đàn dương cầm của bé ở căn phòng cũ kế bên phòng dành cho trẻ con đã qua rồi, và giờ chỉ có một mình bé. Nhưng bé thấy lẻ loi hơn bình thường. Như thể bé không chỉ đang ngồi đó đong đưa chân trong chiếc ghế bành tô trải đệm màu xanh dương mà còn có thể nhìn thấy chính bản thân bé đang ngồi đó. Khi chợt nghĩ ra ý tưởng này, bé hơi giật mình chút xíu. Như thể ắt hẳn vào lúc ấy bé đã trượt vào trong một giấc mơ. Bé ngẩng nhanh gương mặt tròn trĩnh, trong sáng lên, chớp chớp mắt để chắc chắn điều đó. Và bé nhìn thấy một con ruồi đậu trên lớp sơn trắng ở cạnh cánh cửa ra vào, cách đó không xa lắm.
Đó chỉ là một con ruồi. Nhưng chỉ vì vào lúc ấy mọi thứ trên đời đều quá yên tĩnh, và cũng có lẽ vì khác với những bộ bàn ghế xung quanh nó, con ruồi là một vật sống động, nên Maria dán mắt vào nó. Tuy nhiên đó chỉ là một con ruồi hoàn toàn bình thường – một con ruồi nhà. Nó đứng đó một mình trên sáu cái chân lông lá và những bàn chân có vuốt, những cái gan bàn chân bé tí ti, lanh lợi của chúng dính chặt vào lớp sơn bóng láng. Nhưng dù bình thường, nó khá là nổi bật – như cảnh tượng một người đàn ông mặc quần áo đen với đôi ủng to tướng và một cái nón chóp cao trên một sườn núi rộng phủ tuyết cheo leo cũng khá là nổi bật. Và có vẻ như Maria đang nhìn con ruồi một cách rõ ràng và tỉ mỉ hơn là bạn nghĩ, để đo lường khoảng cách giữa nó và bé.   
Mặt khác, không phải con ruồi chỉ đậu ở đó và không có chi để làm giống như bé Maria ngồi đó không có chi để làm. Ví dụ, nó không chỉ đơn giản đậu trên lớp sơn trong căn phòng khách của nó và nhìn vào một con ruồi khác bé tí hơn nhiều trên lớp sơn trắng của một cánh cửa tí hon của căn phòng đó. Nó bận rộn như những con ruồi vẫn luôn bận rộn trong những tháng hè ấm áp.
          Bé Maria đã thức dậy và tự mặc quần áo nhiều giờ trước đó; nhưng những con ruồi dường như lúc nào cũng đang mặc quần áo, hay ít nhất cũng đang làm vệ sinh và tự chải chuốt khi chúng không bay lảng vảng trên một cái bàn để tìm thức ăn, hay bay lang thang khắp chốn, hay hút nước, hay đậu như những con ruồi giả vờ ngủ, hay lượn vòng trong không khí bên dưới một ngọn đèn chùm, hay rủ rê một con ruồi khác cùng kết bạn.
          Không phải là Maria yêu thích những con ruồi, dù với bất kỳ lý do nào. Bé đã xua chúng đi nơi khác bằng cái muỗng khi chúng bay vo ve trên cái bánh flăng hay bánh tạc nhân nho đỏ và quả mâm xôi của bé, hay đáp lên trên cánh tay trần của bé, hay đang bò nhanh vòng quanh trên tấm ra trải giường. Có lần bé đã rứt đôi cánh của một con ruồi khỏi thân hình nó, và không thể nào quên được bé đã cảm thấy hôi đến ngạt mũi và nóng như thế nào sau khi làm điều đó.
          Và có một điều mà bé Maria không thể nào chấp nhận được, đó là việc một con ruồi nổi bập bềnh trong cái bồn tắm của bé. Việc đó khác thường ở chỗ dù cái xác của nó chỉ là một vật bé tí ti, ngay lúc ấy bạn hoàn toàn không thể nhìn thấy một thứ gì khác hơn được. Nó khác thường ở chỗ toàn bộ số nước ngay lúc ấy dường như biến thành “nước-ruồi”. 
          Bé thường yêu cầu bà vú vớt cái xác của con vật không may ra khỏi bồn tắm và đặt nó lên ngưỡng cửa sổ để nhỡ khi nó chưa chết hoàn toàn và có thể hồi phục lại.
          Và sáng hôm sau nếu bé nhớ  ra và tới thử nhìn xem, có thể nó không còn, cũng có thể nó vẫn còn ở đó – nhưng chỉ thân hình của nó. Bé cũng từng nghe thấy nhiều lần tiếng vo ve buồn thảm yếu ớt của một con ruồi khi nó bị vướng vào một tấm mạng nhện và nhìn thấy con nhện từ chỗ ấn nấp hình tròn óng bạc của nó ở một góc chạy ra tấn công. Việc đó khiến cho lòng bé tràn ngập niểm kinh hãi, căm ghét và sự xót thương. Thế nhưng nó không khiến cho bé thấy thích những con ruồi hơn chút nào vì chính bản thân của chúng. Nhưng không phải lúc nào người ta cũng luôn luôn có cảm giác chính xác y như thế về bất cứ vật gì. Nó tùy thuộc vào việc bạn đang ở đâu, bạn đang trong tâm trạng như thế nào và vật kia đang ở đâu và tâm trạng của nó ra sao.
          Sáng nay cũng thế. Vì một lý do nào đó, con ruồi cụ thể này rất khác biệt; và bé Maria ngồi nhìn nó thật chăm chú. Dường như cũng giống như bản thân bé Maria là một cô bé cụ thể, nó là một con ruồi cụ thể. Một con ruồi lẻ loi một mình. Một con ruồi đang sống cuộc đời của nó, tự tin, lanh lẹ, một mình, trong Thế giới Ruồi của nó.
          Xét từ sự lẻ loi và cung cách con ruồi sử dụng thời gian của nó một cách thoải mái, bất cẩn và bận rộn, thật sự có thể cho rằng nó có toàn thể vũ trụ riêng của nó. Nó có thể cho rằng nó là sao Thiên Lang (Sirius) chứ không phải là ngôi sao nào khác trên bầu trời. Một lúc sau đó, bé Maria trở nên tập trung chú ý đến nỗi dường như bé đang làm gì đó nhiều hơn là chỉ đơn thuần quan sát con ruồi. Bé như bị thôi miên.
          Lúc này bé cúi rạp người trên chiếc ghế như thể bé là một cái gối cắm kim còn đôi mắt của bé là hai cây kim có cái đầu đen cắm trong đó. Dường như bé gần như trở thành một con ruồi: Maria-Ruồi. Nếu có thể như thế, bé đã trở thành hai thứ cùng một lúc. Đó là một trải nghiệm lạ lùng, và nó kéo dài ít nhất ba phút theo cái đồng hồ nhỏ bằng vàng, với con cá mắt lồi mạ vàng ở hai bên mặt đồng hồ, nằm bên dưới cái hộp thủy tinh trên bệ lò sưởi. Ba phút, nghĩa là theo thời gian bình thường của cái đồng hồ.
          Vì khi bản thân bé Maria hồi tỉnh lại, dường như bé đã đi xa ít nhất là ba thế kỷ - như thể, như kẻ xa lạ trong một bài thơ, bé đã cùng với cây nến của mình đi hết quãng đường tới Babylon: như thể bé đã ra đi khi là Maria, trở lại là Maria-Ruồi và bây giờ lại chỉ là Maria. Thế nhưng, khi bé đã hồi tỉnh, mọi thứ hơi khác đi chút xíu.
          Bé không thể giải thích vì sao, nhưng bé cảm thấy vô cùng vui vẻ. Như thể có một giọng hát, ngọt ngào và vang vọng như giọng hát của thiên thần Israfel, đang cất lên trong tâm trí bé từ một nơi rất xa xăm. Bé nhìn quanh mình với sự kinh ngạc lạ lùng. Mọi vật trong phòng yên tĩnh hơn bao giờ hết, thế nhưng bé gần như có thể cho rằng một khoảnh khắc trước đó chúng đã sống động và quan sát bé, và bây giờ lại giả vờ như không hề sống động.
          Bé nhìn những bông hồng trong cái bát. Chúng đang nổi bập bềnh trong bát, tỏa ra mùi hương và vẻ đẹp như một giọt sương được ánh sáng rọi lên. Những con cá ở hai bên cái đồng hồ nhỏ dường như được làm bằng lửa thay vì bằng nhựa mạ vàng. Có cả một khoảnh nắng nữa – chỉ là một khoảnh nắng hình chữ nhật đang nằm trên tấm thảm và một phần của một cái ghế. Dường như trông nó đáng yêu hơn là ngôn từ có thể nói lên và nó nằm ở đó như thể đang tôn thờ vẻ đẹp của chính nó. Bé Maria nhìn thấy tất cả những điều này với đôi mắt trẻ thơ của mình, và không thể nhận ra chuyện gì đã xảy ra cho bé. Bé mừng vì được ở một mình. Bé chưa bao giờ cảm thấy như thế trước đó. Như thể bé đã ngưng không còn là chính bản thân bé, trong bộ váy đen và trắng, và đã trở thành một  gói đồ có dán nhãn “Hạnh phúc Thuần túy” với ngày tháng bên trên.
          Khi bé dần nhận ra rằng căn phòng yên tĩnh như thế nào – và tất cả mọi sự vật yên lặng, dĩ nhiên, dường như đang nhòm ngó – bé cảm thấy bé phải đi ra khỏi phòng. Bé cảm thấy bé phải đi ra khỏi nó ngay lập tức. Thế là bé trườn xuống khỏi cái ghế. Một cách cố tình, thậm chí bé không nhìn lại con ruồi bạn của bé. Bé đặc biệt không muốn nhìn lại nó một lần nữa (dù bé không biết vì sao). Bé đi hơi nghiêng qua một bên, đầu bé quay sang một phía, để không phần nào của mắt bé có thể tình cờ nhìn thấy lại con ruồi.
          Bé đi ra khỏi phòng, băng qua đại sảnh rồi đi xuống những bậc cầu thang tối để vào nhà bếp. Có một ngọn lửa đang cháy trên mặt bếp lớn được lau chùi bóng loáng. Một cây xanh hiện ra ở cửa sổ, và một vại thủy tinh còn lưng nửa phần bia với những con tò vò bay vòng quanh đang sáng lấp lánh trên ngưỡng cửa sổ. Bà Poulton, đầu bếp, đang lăn một cục bột trên tấm ván nhồi bột, với một cái tạp dề được cột chặt quanh eo. Có một cái lọ rắc bột to tướng bên cạnh tấm ván nhồi và một con thỏ có bộ lông mềm như len màu nâu và trắng tuyết đang nằm ở đầu bàn phía bên kia. Bộ răng dài trắng tinh của nó sáng lấp láng như ngà voi giữa đôi môi hé mở.  
          “Bà Poulton ơi,” bé Maria nói, “cháu đã nhìn thấy một con ruồi.”
          “Ổ, vậy sao?” bà đầu bếp nói. Và chữ “vậy sao” giống như một thung lũng hay một đồng cỏ uốn lượn lên xuống với những bông hoa dại nở khắp nơi trong đó. “Thế con ruồi có nhìn thấy cháu không?”
          Bé Maria chưa hề nghĩ tới điều này. Bé hơi nhíu mày. “Nó có rất nhiều mắt, bà biết đó,” bé nói. “Nhưng ý của cháu là cháu đã nhìn thấy nó.”
          “Đó là một điều lạ lùng,” bà đầu bếp nói, khéo léo nhấc cục bột lên và trùm nó lên những trái mận ngọt, thẫm màu, tròn trịa trong cái dĩa bánh nông, với một cái chén đựng trứng lật úp nằm ở giữa. Bà nhìn nó rồi cầm con dao làm bếp lên và, khéo léo như một người thợ cạo, liếc lưỡi dao quanh rìa của cái dĩa để cắt bỏ những phần thừa. ‘Cháu có thích một con búp bê không, cháu cưng?” Bà nói. 
          “Không, cám ơn bà,” bé Maria nói, hơi nghiêm nghị, vì không muốn đề tài bị thay đổi. “Cháu đã kể cho bà nghe về con ruồi,” nó lặp lại, “thế mà dường như bà không hề chú ý gì tới nó.”
          Bà đầu bếp nhấc con dao cắt bột lên, quay gương mặt tròn của bà lại và nhìn cô gái bé tí. Bà có một đôi mắt nhỏ, linh hoạt màu xanh trời nhạt, còn mái tóc bên dưới cái mũ trùm của bà thì vàng hoe như màu của rơm mới cắt. Đó là một gương mặt hơi phinh phính, thế nhưng có nét. “Thế bà có thể hỏi ý của cháu là gì hay không?” bà nói, nhìn bé Maria.
          ‘Ý cháu là,” Maria nói một cách bướng bỉnh, “cháu đã nhìn thấy một con ruồi. Nó đậu trên lớp sơn của cánh cửa phòng khách, và nó chỉ lẻ loi một mình.”
          “Ở đâu nào?” Bà Poulton nói, cố nghĩ ra điều gì đó để nói.
          “Cháu đã nói là trên cánh cửa.” Maria nói.
          “Vâng, nhưng ở chỗ nào trên cánh cửa?” Bà đầu bếp khăng khăng.
          “Ở bên phía nó bị cắt và có một phần khác gắn vào.”
          “Ồ, trên thanh dọc của khung cửa [jamb],” bà Poulton nói.
          “Mứt à! [jam]” Bé Maria nói. ‘Làm sao mứt lại có thể ở trên cánh cửa?”
          ‘Ồ, bà không chắc về chuyện đó, cô bé hay ăn vụng à,” bà đầu bếp nói. “Nhưng ý bà nói là jamb, có nghĩa là thanh dọc của khung cửa, chí ít là bà nghĩ rằng nó đánh vần khác hơn. Thế con ruồi - những con vật xấu tính ấy- đang làm gì?”
          Bé Maria nhìn bà. “Đó là điều mà mọi người nói,” bé nói. “Con ruồi của cháu không làm bất cứ điều gì xấu cả.” Thật ra điều này không chính xác lắm, và cảm thấy hơi khó chịu về nó, bé Maria nhận xét với một giọng rất khẽ. “Nhưng giờ thì cháu đi đây, cám ơn bà.”
          “Đúng đấy,” bà đầu bếp nói. “Hãy cẩn thận và chú ý tới những bậc thang nhé, cháu yêu quý của bà.” 
          Bé Maria liếc nhìn những con tò vò đang bay lượn trên cái chai, liếc nhìn bà Poulton, ngọn lửa trên mặt bếp, những cái úp đĩa treo trên tường. Rồi bé đi ra cửa.
          Bé vẫn lưu ý tới những bậc thang nhà bếp nhiều như thường lệ, dù bé hơi phẫn nộ sau cuộc trò chuyện với bà đầu bếp. Khi lên tới đầu cầu thang, bé tiếp tục đi dọc theo tòa đại sảnh trơn trợt, đi qua cái đồng hồ của ông nội, với gương mặt vầng trăng màu trắng trên nền xanh của những chiếc kim, đi qua cái bàn với chậu quỳ thiên trúc hoa màu hồng thắm bên trên, rồi trèo lên cái cầu thang rộng, hơi cạn, lần lượt vịn vào từng chiếc tay nắm của lan can, nhưng cố bước gần vào khoảng giữa tấm thảm cầu thang mềm có in hình những bông hồng. 
          Lên tới đầu cầu thang, bé đi tới một căn phòng mà bé biết bé sẽ tìm thấy một người khách đang cư ngụ trong nhà. Tên của ông là Kittleson. Ông là một mục sư, và sáng thứ Bảy ấy ông đang viết một bài giảng đạo cho ngày Chủ nhật. Bài giảng của ông có tựa là “Hãy xem xét những cây hoa loa kèn trên cánh đồng… Chúng không lao động mà cũng không dạo chơi.”
          Sau khi sờ soạng cái tay nắm cửa một lúc, bé Maria đẩy cửa mở ra và nhìn vào. Ông cụ đang ngồi đó, trong một cái ghế da tròn, bộ râu bạc phơ rũ xuống ngực, tờ bài giảng của ông đặt trên quyển sổ giấy thấm trước mặt ông, bên cạnh là một cái giá để bút mực bằng đồng. Đôi môi ông động đậy trong lúc ông viết. Nhưng khi nghe tiếng cửa mở ông dừng bút, quay cái đầu đang cúi xuống lại và nhìn bé Maria qua đôi kính gọng vàng.
          “Ồ, ồ, cháu thân mến, thật là một cảnh tượng rất thú vị, ông có thể làm gì cho cháu nào?” Ông nói. Ông là một trong những quý ông lớn tuổi đặc biệt, không bao giờ lưu tâm tới việc bị cắt ngang thậm chí cả khi họ đang viết những bài giảng đạo.
“Cháu,” bé Maria nói, hơi nhích thêm một chút vào trong căn phòng, “cháu vừa nhìn thấy một con ruồi! Nó đậu một mình trên… thanh dọc của cánh cửa phòng khách.”
          “Trong phòng khách? Thật thế!” ông cụ nói, vẫn còn nhìn nó qua đôi kính gọng vàng. “Nó là một con ruồi rất may mắn khi được cháu kết bạn, cháu thân mến của ông. Và cháu thật là tốt bụng khi tới đây nói cho ông biết.”
Bé Maria gần như không hài lòng với sự nhã nhặn của ông cụ y hệt như với cuộc trò chuyện với bà nấu bếp. “Vâng,” bé nói, “nhưng đây không phải là một con ruồi bình thường. Nó chỉ có một mình, và cháu nhìn thấy nó.”
          Ông cụ nhìn một cách lơ đãng xuống dòng chữ rõ ràng, hơi nghiêng của mình trên tờ giấy. “Thế ư?” Ông nói. “Nhưng Maria bé bỏng của ông ạ, không có con ruồi nào thật sự bình thường. Chúng là những sinh vật rất đáng chú ý nếu cháu nhìn chúng một cách chăm chú. Nhất là khi qua một cái kính hiển vi. Cuốn sách nói: ‘được tạo ra một cách đáng sợ và kỳ diệu’ là nghĩa làm sao? Chúng có cái mà người ta gọi là một cái vòi – cái mũi dài, cháu biết đó, giống như những con voi. Và chúng có thể đi ngược xuống. E hèm, chuyện đó thế nào?” 
          Ngay lúc ấy, từ trong cái tổ tối tăm của nó, một con bướm đêm có lớp vỏ ánh bạc bay lướt qua ánh nắng bên trên bàn viết của ông. Ông cụ vung tay về phía nó, nhưng nó đảo người bay vút lên và thoát khỏi nắm tay của ông.
          “Bà bếp bảo những con ruồi là những sinh vật xấu tính,” bé Maria nói.
“À,” vị mục sư đáp, “ông không nghi ngờ gì rằng bà bếp phải tránh có chúng trong thức ăn của chúng ta. Nhưng chúng có cách sống của chúng, điều có thể không làm cho chúng ta hài lòng, cũng như chúng ta có cách sống riêng của chúng ta và có thể không làm cho một người nào đó hài lòng. Nhưng ngay cả một con ruồi, cháu cưng ạ, cũng hưởng thụ cuộc đời bé nhỏ của riêng nó và làm điều mà nó muốn làm. ‘Chú ruồi bé nhỏ, bận rộn và đang đói,” ông cụ bắt đầu, nhưng bé Maria, người đang chăm chú nhìn ông như lúc nãy nhìn con côn trùng (nghĩa là trước khi bé trở thành một bé Maria-Ruồi), cắt ngang câu thơ của ông ngay lập tức.
          “Đó là một bài thơ đẹp,” bé nói, gật đầu. “Cháu biết rất rõ bài thơ đó, cám ơn ông. Nhưng đó là tất cả những gì cháu muốn nói. Rằng cháu đã nhìn thấy nó. Cháu không nghĩ cháu có thể nói cho ông nghe điều gì khác – vì thế, cháu muốn nói rằng cháu giải thích cho ông nghe.”
          Ông cụ, với cây bút trong tay, tiếp tục mỉm cười với vị khách của mình qua chòm râu theo một cách thức dịu dàng đầy thận trọng mà ông luôn giữ, cho tới khi cô bé đã vòng ra sau cánh cửa, ra khỏi tầm mắt của ông và khép chặt nó lại. 
          Trên đường quay về dọc theo hành lang, bé Maria đi qua cửa phòng làm việc. Nó đang mở hé. Bé nhìn vào. Cô Salmon, trong chiếc váy đen, đang ngồi bên cái bàn mà trên đó là một cái máy may. Lúc này cô đang bận may. Cô luôn tỏa ra mùi thơm tươi mát, nhưng hơi thoang thoảng; dù cũng có cả mùi long não nữa. Cô có một khuôn mặt dài trắng trẻo – trán cao và cằm nhọn – với đôi mắt hơi lồi và đôi cùi chỏ hơi nhô ra. Cô và bé Maria là bạn cũ với nhau.
          “Sáng nay cô có thể làm gì cho cháu, tiểu thư?” cô kêu lên với một giọng trầm như giọng đàn ông.
          “Ồ cháu chỉ ghé vào thôi, cô ạ, để nói với cô rằng cháu đã nhìn thấy một con ruồi.”
          “Nếu cháu nhìn qua cái lỗ của cây kim nhỏ nhất trong cái túi đựng đồ kia, cháu sẽ thấy những cái cổng thiên đường,” cô Salmon nói, lại tiếp tục may với một tiếng lách cách nghe lớn như thể có một ông thợ mộc đang làm việc trong phòng.
          “Đưa nó cho cháu,” bé Maria nói.
          “Ah ha!” cô Salmon kêu lên, “những vật như thế cần phải tìm kiếm chúng.”
          “Ah ha!” bé Maria kêu nhỏ, “và thế có nghĩa là sẽ làm rối tung cả cái giỏ lên.” 
          “Không tìm gì thì không thấy gì,” cô Salmon nói to, “như con mèo nói với con cá gai, câu này tốt hơn tiếng Latin nhiều, tiểu thư ạ. Và, cô xin phép được hỏi, tên của ngài Ruồi Xanh đó là gì? Nếu cháu vui lòng đề nghị quý ông đó quá bộ qua đây, cô sẽ làm cho ông ta một cái nhà bằng giấy có chấn song, và chúng ta sẽ cho ông ta ăn dâu tây và kem.”
          Tâm hồn của bé Maria dường như chìm xuống đôi giày của nó. “Nó không phải là loại ruồi đó,” bé nói, “và… và cháu không muốn nói cho cô nghe cái tên, cám ơn cô nhiều.”
          ‘Buổi sáng tốt lành,” cô Salmon nói, nhấc cây kim lên và mở to đôi mắt, “và đừng quên giờ đóng cửa là lúc bảy giờ nhé.”
          Điều lạ lùng là bé Maria cảm thấy rất thất vọng với sự biến chuyển trong câu chuyện này khi xét tới việc bé và cô Salmon là những người bạn cũ đến thế và luôn có chuyện nho nhỏ gì đó để vui thú cùng nhau. Bé Maria nhìn người bạn đang ngồi thẳng lưng ở đó trong chiếc váy đen cổ cao, với mái đầu ngẩng cao của cô ta.
          “Buổi sáng tốt lành, tiểu thư,” cô Salmon nói.
Và bé Maria rút lui. 
          Đối diện với phòng làm việc có một bức chân dung trong một cái khung mạ vàng lớn treo trên đầu cầu thang. Bé Maria nhìn vị phu nhân được vẽ trong đó, trong bộ quần áo kỳ lạ của bà ta, với một cái mũ trùm bằng vải muslin xếp nếp cao trên đầu, và bé nói qua  hơi thở, dù không phát ra tiếng, “Phu nhân, bà không biết cháu đã nhìn thấy một con ruồi.” Rồi nó chạy xuống cầu thang và gặp cha nó lúc ấy đang bước ra khỏi căn phòng làm việc nhỏ của ông với cái khúc nối cuối cùng của một chiếc cần câu cá trong tay. Ông mặc một bộ vét nâu xấu xí và mang một đôi giày nâu đế dày.
          “Cha ơi,” bé Maria gọi ông, “con vừa nói với ông ấy con đã nhìn thấy một con ruồi.”
          “Vậy sao,” ông nói, “cái con bé nhếch nhác mắt đen của cha. Và có việc gì mà con phải lén lút tới phòng của ông ấy vào giờ này buổi sáng, cha muốn biết đấy? Còn nói về những con ruồi, cô bé áo trắng đen ạ, con sẽ đề nghị món gì cho buổi chiều nay, để cha hoàn toàn chắc chắn rằng cha sẽ câu được một con cá hồi béo ngậy?”
          “Cha biết đó, cha yêu.” Bé Maria nói một cách kiên quyết, “cha luôn luôn quay ngoắt mọi thứ đi như thế. Đó là một chuyện rất đặc biệt mà con muốn nói với cha.” 
          “Nhìn xem này,” cha của bé nói, gõ nhẹ cái chóp đầu của chiếc cần câu thanh mảnh, “cái mà chúng ta sẽ làm là cái này, chúng ta sẽ làm. Con sẽ kể cho cha nghe mọi thứ về con ruồi đó khi cha vào phòng con để chúc ngủ ngon tối nay. Và có lẽ cho tới lúc đó con sẽ nhìn thấy nhiều thứ khác. Con sẽ có một xu cho mỗi thứ bắt đầu bằng chữ Q. Có rất nhiều ruồi,” ông nói thêm.
          “Con không nghĩ là con sẽ quan tâm tới việc nhìn thấy nhiều thứ khác,” bé Maria nói, “nhưng cứ để xem!” Rồi bé bước vào khu vườn một cách bình thản, thậm chí còn bình thản hơn cả Nữ hoàng Victoria già bé nhỏ. 
          Cho tới lúc đó, buổi sáng giống như một tấm gương soi có khung màu xanh dương, nhưng giờ đây một đám mây đang trải ra trên bầu trời mênh mông. Ở phía xa của khu vườn nhà bếp, bé Maria tình cờ gặp ông Pratt, người thợ làm vườn. Với hai tay áo sơ mi vải coton sọc xắn cao bên trên khuỷu tay, ông ta đang phun nước cho một cây hoa hồng rực rỡ đến nỗi giá như mặt trời hôm ấy lại hiện ra lần nữa với tất cả vẻ huy hoàng, nó cũng không thể làm cho cây hoa hồng đó thêm rực rỡ được. Bé Maria quan sát ông ta.
          “Ông đang làm việc đó để làm chi vậy? Đưa cho cháu,” bé Maria nói.
          “Bình tĩnh, bình tĩnh, cháu thân yêu,” ông Pratt nói, “cháu không thể tự một mình xoay xở với cái thứ to lớn này được.” Nhưng ông cũng đặt cái bình phun nước còn đọng lại một giọt nước bé xíu trên cái vòi bằng đồng vào đôi tay của bé. “Nào, ấn đi,” ông nói, “với tất cả sức của cháu.”
          Maria ấn thật mạnh, cho tới khi những khớp ngón tay trên hai bàn tay mũm mĩm của bé trở nên trắng bệch, còn mặt của bé thì đỏ bừng như mận chín. Nhưng chả có gì phun ra cả. Thế là ông Pratt đặt đôi tay to bè màu nâu lên đôi tay của nó, nắm lấy cái ống tuýp, rồi cả hai cùng ấn. Và một chùm tia nước nhỏ mảnh mai như một đám mây nhỏ phun ra khỏi miệng vòi.
“Nó phun ra rồi, bé Maria reo lên đắc thắng. “Cháu có thể làm nếu cháu thật sự cố gắng. Xin nói cho cháu biết, ông làm thế để làm gì?” 
“À, đó là những bí mật,” ông Pratt đáp.
“Ồ,” bé Maria nhại theo ông, “cháu cũng có một bí mật đây.”
“Đó là gì thế?” Người thợ làm vườn hỏi.
Cô bé giơ một ngón tay về phía ông. “Cháu-vừa-nhìn-thấy-một-con-ruồi. Nó có đôi cánh giống như ông nhìn thấy dầu loang trên mặt nước, và một cái mặt đỏ với đôi mắt màu bạc, và nó không bay vo ve hay làm chi hết, mà chỉ đưa hai chân trước lên cào vào đôi cánh, rồi chà chà chúng. Rồi nó lắc lư cái đầu, và rồi bắt đầu lại một lần nữa – nhưng cháu không có ý nói tới tất cả những chuyện đó. Ý cháu là cháu đã nhìn thấy con ruồi – đã nhìn thấy nó, ý cháu là vậy.”
“À,” ông Pratt nói, mồ hôi lấp lánh trên gương mặt nâu sậm của ông, và đôi mắt ông xanh thẫm hơn mắt của bà Poulton, dù mặt trời và bầu trời ghen tỵ đã tẩy đi phần lớn màu sắc của chúng. “À, một con ruồi? Và đó cũng là một thứ gì đó để nhìn thấy. Nhưng còn những con bướm Meadow Browns bé nhỏ xinh xắn ở đằng kia thì sao, và con bướm Painted Lady kia nữa – im lặng, nào, nhìn kìa – trên cụm hoa cẩm quỳ đằng kia! Đó là một vẻ đẹp. Và hãy nhìn tất cả những kẻ lang thang trên luống cải bắp mùa đông đằng kia nữa. Chúng ta sẽ không có nhiều rau, cô chủ ạ, nếu cháu có thể tiêu thụ dưới mức trung bình, nếu chúng có cái cách bé nhỏ của chúng.”
          Bé Maria hoàn toàn có thể tiêu thụ dưới mức trung bình. Nhưng bé ghét rau xanh. Bé ghét chúng nhiều như thể bé đã từng ăn chúng trên những cái đĩa lạnh ở một thế giới khác. Thật kỳ lạ là không một ai có một nhận thức nhỏ nhất nào về điều mà bé muốn nói về con ruồi. Không ai cả. Thật ngu ngốc. Nhưng dù sao thì bé cũng nhìn con bướm Painted Lady. Nó đang đậu một cách ẻo lả trên một bông hoa cẩm quỳ trắng nhợt như màu giấy, với đôi râu dài có chóp tròn, và đang hút thứ mật hoa bí mật của nó cho toàn thế giới như Nữ hoàng đang thưởng thức lát bánh mì dày với mật ong của bà trong phòng. Và rồi ánh nắng lại hiện ra trên bầu trời, và tự kéo chính nó lướt qua khu vườn mờ mờ như một tấm voan vàng óng ả. Đôi cánh của con bướm Painted Lady, với những đường sọc và đốm màu cam, đen, và trắng, khẽ rung lên trong sức nóng êm dịu của ánh nắng, như thể với một niềm hạnh phúc và khát khao không thể tả.    
          Nhưng dù bé Maria ngưỡng mộ con vật trong vẻ đẹp phô phang của nó hơn là bé có thể nói ra, đây không phải là con ruồi của bé. Ít nhất, đây không phải là Maria-Ruồi. Nó chỉ đơn giản là một con bươm bướm – nó đang chuyển động một cách thanh nhã, một cách đáng yêu như ánh sáng, một cách đáng yêu như một sự ảo huyền rực rỡ sắc màu đang trôi giạt bềnh bồng, mấy cái chân của nó gập lại bên dưới thành bụng mỏng và giúp nó nhẹ nhàng lấy thăng bằng cho thân hình mong manh nhẹ như lông chim trên cái bệ hoa đang đong đưa đó như thể thế giới mà nó biết cũng thuần nhất như đá cẩm thạch và không có bất kỳ thay đổi nào; dù lúc này đây nó hiện ra êm đềm như một giấc mơ.
          Bé Maria thậm chí không suy nghĩ khi đang ngắm nhìn con bướm, ngoại trừ một điều bé đang tự nhủ thầm, dù không sử dụng một lời nào, rằng ngay bây giờ bé không muốn đi vào phòng khách chút nào; rằng bé không muốn nhìn thấy lại con ruồi của bé; rằng bé không còn muốn trở thành người lớn nữa; rằng người lớn không bao giờ có thể tiêu thụ dưới mức trung bình với ý nghĩa tối thiểu nhất của điều mà bạn thật sự đang nói; rằng giá như họ đừng cố gắng mỉm cười và nhẫn nại như thể một hơi thở lạnh lẽo nhẹ nhất cũng có thể thổi văng bạn đi, bạn có thể chứng minh rằng cả bạn cũng đã trưởng thành và còn già hơn họ nhiều – mặc dù bạn phải ăn rau xanh và làm những điều họ bảo và không được phá ngang ông cụ đang viết những bài giảng đạo, và phải chờ cho tới giờ đi ngủ - không, bé không thật sự suy nghĩ bất kỳ điều nào trong những thứ trên. Nhưng lồng ngực nhỏ nhoi của bé phồng lên rồi xẹp xuống với một hơi thở dài dằng dặc khi bé liếc nhìn lên ông Pratt một lần nữa. 
          Ông đang cần mẫn làm việc trở lại với cái bình phun nước, và bấy giờ, vì mặt trời đang chiếu sáng, nó tạo thành một cái cầu vồng nhỏ rực rỡ trong bầu không gian, gần như là hình tròn, với màu xanh lá đậm đà như màu xanh của vô số con rệp vừng kết vào nhau như những chuỗi hạt sinh động xung quanh cuống của những nụ hoa hồng.  
          “Cháu đã nói với ông,” giọng bé Maria rung lên buồn bã, dù bé cố gắng nói một cách bình thường, “Cháu đã nói với ông về một điều gì đó nhưng ông không chú ý chút nào.”
          ‘Ờ, ờ, ờ,” người thợ làm vườn nói. Nhưng ông không có thời gian để hoàn tất câu nói của mình trước khi bé Maria bước xuống con đường mòn, và trong giây lát đã biến mất sau góc khu nhà kính.
          Sau đó một lúc, cô bé tình cờ gặp Job, con trai của người thợ làm vườn. Job là một thằng bé vụng về đần độn, với mái tóc rậm, cái mũi hếch và cái miệng ngốc nghếch. Nó là một dạng trẻ con mà dân làng gọi là người ngây dại. Nó cười to với bất cứ điều gì bạn nói với nó, ngay cả khi bạn cau đôi lông mày nhìn nó. Nhưng không có một đứa bé trai con nhà làm vườn nào giống như  nó; những cọng rễ cây nó sờ vào dường như muốn tự đan lấy chúng quanh những ngón tay của nó; và nó là một “nhà ảo thuật tài ba” với lũ ong. Trên lớp sỏi cạnh chỗ nó đang quỳ gối là ba cái bẫy chuột chũi nhỏ bằng thép, và nó đang cọ rửa những cái chậu hoa với một cái bàn chải cứng. Khi bé Maria xuất hiện, nó nhìn lên với một khuôn mặt giống như một quả bí ngô vui vẻ, và nó nhe răng cười toe toét với bé.
          “Chào buổi sớm, cô chủ.”
          “Chào buổi sáng, anh Job” bé Maria nói. Bé đứng nhìn nó, nhìn đôi mắt ti hí như mắt lợn trong khuôn mặt to bự vui vẻ của nó, và ngần ngừ. Rồi bé cúi xuống một chút và thì thầm vào tai nó.
          “Anh có bao giờ nhìn thấy một con ruồi chưa?”
          “Ồ, nhìn thấy một con gùi hả, cô chủ?” Nó đáp, há miệng ra, “Ồ, cô chủ à, tui đã nhìn thấy một con gùi gồi.”  
          “Nhưng anh có,” và bé Maria đã mất hết cả hơi – chỉ với ba từ đầu tiên đó, “Nhưng Job à, anh có bao giờ nhìn thấy một con ruồi nhỏ xíu xiu hơn hết thảy: con ruồi của anh chưa? 
          Job gãi đầu và trông có vẻ rất nghiêm nghị trong một lúc khiến bé Maria e rằng nó sắp sửa khóc òa lên. “Ờ, cô chủ,” cuối cùng nó đột ngột hét lên với một tràng cười hô hố, “có gồi, cô chủ à, tui còn có thể bắt một con ong cho nó phóng thẳng vào cổ họng như một lưỡi dao. Ờ, ong là một loài gùi, đúng thế.”
Bé Maria bật cười. Cả hai đồng thanh cười lớn; rồi bé nhận ra đôi mắt mình đang rưng rưng nước mắt và đột nhiên bé trở nên im lặng và buồn bã. “Bây giờ,” bé nói, “tốt hơn anh nên tiếp tục với mấy cái chậu hoa.”
          Bé quay đi, trái tim nhỏ bé của bé như tràn ngập một giai điệu cổ xưa, buồn như những âm thanh của thủy triều trên những bờ cát không người thăm viếng của đại dương. Cách đó không xa có một cái nhà hóng mát luôn luôn có mùi hơi nước ngay cả sau nhiều tuần thời tiết oi nồng – dù lúc đó nó có mùi hơi nước bị khô.
          Bé Maria đi vào bóng râm của nhà hóng mát và đứng đó một mình trong giây lát. Bé không biết vì sao bé lại đi vào đó. Nó rất yên tĩnh. Nhưng là một sự yên tĩnh ẩm mốc, ngột ngạt và u ám – hoàn toàn khác với sự yên tĩnh rực rỡ sắc màu ánh sáng của phòng khách. Có tiếng vo ve inh tai ở bầu không khí bên ngoài. Hàng ngàn giọng kêu nhỏ xíu hòa vào nhau như tiếng réo rắt của những sợi dây đàn vi-ôn khổng lồ. Một con chim nhảy lên trên mái nhà; bé Maria có thể nghe thấy tiếng những chiếc vuốt của nó trên lớp gỗ. Sự va chạm đó làm rơi ra một đám bụi nhỏ. Nó rơi xuống lớp bụi mịn dưới chân bé. Các góc của nhà hóng mát bám đầy mạng nhện.
          Bé Maria thở ra một hơi dài khác, rồi nhìn quanh như thể hy vọng rằng có một ai đó mà với họ bé có thể kể ra câu chuyện bí mật của mình – về con ruồi; về Maria-Ruồi. Bé ngừng lại – nhìn chăm chú. Và rồi, như thể làm theo một ám hiệu, bé đột ngột nhảy ra khỏi nhà hóng mát, hầu như nhẹ nhàng như một con chim, và bay lên bên trên thảm cỏ xanh màu ngọc lục bảo, hướng về phía ánh nắng vui tươi chói lọi mà không biết chút gì về lý do, hay nơi sẽ tới.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét