Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2013

Walter de la Mare - Vua cá


Dịch từ nguyên tác
Collected Stories for Children [1947]
của Walter de la Mare 
Dịch giả giữ bản quyền bản Việt ngữ
Copyright © Nguyễn Thành Nhân 2009
 




Ngày xưa, ở làng Tussock huyện Wiltshire có một chàng trai tên là John Cobbler (John Thợ chữa giày). Tên như vậy, hẳn trong gia đình anh phải có người làm nghề sửa giày. Thế nhưng cả đời mình, John không thấy có ai làm nghề đó cả, ngay cả trong ký ức của những người đang sống cũng vậy. Và John chẳng sửa giày cho ai khác ngoài những đôi giày cũ của chính mình và của mẹ anh. Dù vậy, anh là một chàng trai khéo léo. Giá mà anh khác đi một chút, chắc hẳn anh có thể bảo đảm cho cuộc sống hai mẹ con được đầy đủ, với nhiều bơ cho bánh mì của họ. Anh lười biếng quá.
Dù lười hay không, mẹ anh vẫn yêu anh hết mực. Bà yêu anh từ lúc anh còn là một em bé, khi niềm vui chính của nó là mút ngón tay và đưa đôi mắt to màu xanh biển nhìn ngơ ngác vào một thứ gì đó mà nó chưa có lời để nói ra. Thói quen đó vẫn còn được giữ cho đến lúc John đã trở thành một chàng trai khéo léo. Anh có thể làm ra nhiều loại giỏ; anh lấy mật ong rất tài. Anh có thể chữa những cái chậu và xoong chảo nếu có người đưa cho anh hợp kim để hàn và anh có thể tìm ra sắt. Anh có thể trồng bắp cải, cuốc khoai, dựng một cái chuồng gà hay quét vôi một cái chuồng heo. Nhưng anh chỉ làm được những thứ lặt vặt thế thôi và chẳng chuyên về một thứ gì cả. Ít khi anh làm hoàn tất một việc gì; cũng giống như “Kẻ giết Người khổng lồ”[1] chẳng bao giờ hoàn tất việc của mình. Anh bắt đầu tốt công việc. Anh tiếp tục hơi tệ và ngáp dài khi kết thúc. Và nếu mẹ anh không cố xoay xở với các công việc giặt giũ, ủi đồ, quét tước, sửa chữa đồ dùng, nấu nướng và khâu vá ở các nhà địa chủ trong làng, trong nồi của họ ắt chẳng có gì để duy trì linh hồn và thân xác họ – và cả hai thứ đó - cùng nhau.
Thế nhưng dù John có bản tính lười nhác và hay mơ mộng, anh vẫn có thể giúp cho mẹ anh bớt lo lắng hơn nhiều về tương lai của anh nếu như anh có thể từ bỏ một thú tiêu khiển nho nhỏ; anh có thể không chỉ kiếm được tiền mà còn có thể dựng nên sự nghiệp – thậm chí cho dù anh phải rời làng Tussock để nhanh chóng làm được điều này. Chính tình yêu sông nước của anh một ngày nào đó sẽ trở thành tai họa của anh. Nói đúng hơn, đó không phải là tình yêu đối với sông nước mà là niềm đam mê câu cá trong lòng nước. Chỉ cần anh bắt gặp một vũng nước, hay nước mưa phun ra từ một máng nước, hay vào giữa đêm khuya nghe thấy một cái vòi nước bị rò rỉ đang ngân nga bài hát vui vẻ “chuông leng keng” của nó khi từng giọt nước tí tách rơi vào bồn nước, chỉ cần một cơn gió đông thổi về nam; thế là ngay lập tức mọi ý nghĩ khác sẽ biến mất khỏi tâm trí anh. Tất cả những gì anh muốn lúc đó là một cái cần câu, dây câu, lưỡi câu, một con giun đất và một cái phao bần; một cái ao, một con suối hay một dòng sông – hay biển xanh sâu thẳm. Không phải anh khao khát những con cá, mà chỉ đơn giản là cái thú đi câu cá. 
Lẽ ra niềm khao khát này sẽ chẳng có hại gì cho lắm nếu như anh có thể giữ nó trong vòng giới hạn. Nhưng anh không thể. Anh đi câu vào buổi sáng, buổi trưa, hay thậm chí trong đêm. Vì cứ liên tiếp nhìn chăm chú vào cái phao, đôi mắt anh trở nên tròn xoe, còn cặp cùi chỏ của anh thì chìa ra như hai cái vây cá khi anh bước đi. Điều lạ lùng là máu anh còn chưa biến thành nước. Và dù có rất nhiều loại cá ngon ở nước Anh, rốt cuộc mẹ anh cũng ngán đến tận cổ bất kỳ loại cá nào trong những bữa cơm. Như những lời hát cũ sau đây:

Một bữa cơm cá ngon
Là điều ai cũng thích
Dĩ nhiên món tuyệt vời
Là thịt bò mù tạt

Chỉ có kẻ phàm ăn
Mới khoái thịt cừu đông
Còn thịt heo trái mùa
Thường nhiều mỡ hoặc xương

Nhưng với kẻ sành ăn
Những món ấy vẫn hơn
Là nhìn vào mâm cơm
Chẳng thấy chi ngoài cá! 
Một con cá nhỏ, thậm chí chỉ là một con cá chép nhí, cũng phải mất nhiều giờ mới câu được và thời gian nấu nướng gần như cũng không kém gì so với một con cá to hết cỡ; và cả hai đều có số lượng xương như nhau. Nhưng bất chấp những con cá và thú câu cá của John, mẹ anh vẫn tiếp tục yêu thương con trai bà. Bà hy vọng tới một lúc nào đó chính anh cũng sẽ phát ngán lên với chúng. Hay là còn có bí mật gì khác trong niềm đam mê sông nước của anh mà bà chưa biết? Có thể một ngày nào đó anh sẽ câu được một thứ gì thật sự đáng đồng tiền bát gạo, đáng để giữ lại? Có lẽ là một hộp hồng ngọc và kim cương, hoặc một rương đầy hổ phách và vàng ròng? Khi đó mọi bất hạnh của họ sẽ qua đi.
Trong lúc đó John không có dấu hiệu gì tỏ ra ít lười nhác hơn hoặc bắt đầu chán ngán việc đi câu, dù anh không còn thích câu cá ở những chỗ cũ. Anh có thể đi hàng chục dặm với hy vọng tìm thấy một cái vũng, ao, hay hồ mà anh chưa từng gặp trước đó, hoặc một con suối lạ. Bất cứ lúc nào nghe nói tới một chỗ có nước trong vòng một ngày đi về, anh sẽ lên đường tìm nó. Đôi khi trong những chuyến hành trình, anh cũng làm đôi ba công việc và mang về cho mẹ không chỉ một vài xu mà cả những món quà nho nhỏ - một cái băng cài tóc, một cái hộp đựng kim, một giỏ bánh xốp hay một cái trứng vịt cho bữa trà của mẹ; bất cứ thứ gì có thể khiến cho bà vui lòng. Đôi khi những con cá mà anh câu được ở những vùng nước xa xôi có mùi vị tươi ngon, đậm đà hơn những con cá ở gần nhà; đôi khi chúng thật tệ - khô, toàn xương là xương và hôi bùn. Một phần là tùy vào loại cá, phần khác là thời gian cần thiết để mang chúng về nhà, và phần khác nữa là cảm giác của mẹ anh lúc đó.
            Lúc bấy giờ John nghe nói tới một con suối nhưng suốt một thời gian dài anh không tìm ra nó. Bởi vì bất cứ lúc nào anh lên đường tìm nó – anh biết rằng nó nằm cách làng Tussock khoảng hơn mười bốn dặm – anh luôn bị cản trở bởi một bức tường đá cao. Đó là bức tường cao nhất mà anh từng thấy, và, như Vạn lý trường thành của Trung Hoa, nó kéo dài suốt nhiều dặm. Lạ lùng hơn nữa là dù anh đã đi dọc theo bức tường suốt nhiều giờ mỗi chuyến, anh chưa bao giờ tìm thấy một cánh cổng, một cánh cửa hay một lối đi qua nó.
            Khi hỏi thăm những người lạ tình cờ gặp được vào những lúc đó xem họ có biết cái gì nằm phía sau bức tường bí mật đó hay không, có loại cá ngon nào trong dòng suối mà anh nghe nói hay không, và nếu có, thì chúng là loại cá gì, có hình dạng, kích thước, mùi vị ra sao – mỗi người lại kể cho anh nghe một câu chuyện khác nhau. Một số người nói rằng bên trong có một tòa lâu đài cách bức tường chừng một dặm, rằng có một phù thủy sống ở đó, người này có những tấm gương trên một ngọn tháp mà nhờ đó ông ta có thể phát hiện ra bất kỳ người lạ nào tới gần những bức tường. Những người khác bảo rằng có một vị thủy thần già, rất già, đã tự tay dựng lên trong đó một tòa nhà lớn nằm giữa một mê cung – tạo nên bằng những dòng nước và những cây thủy tùng, một vị thủy thần già đã biến thành một kẻ ăn thịt người và luôn nhấn chìm bất kỳ ai xâm phạm qua bức tường của ông ta trước khi ăn thịt họ. Một số khác nữa bảo rằng ở đó có những phù thủy nước, sống trong một cái hồ rộng do dòng suối ở mé ngoài những bức tường đổ nát của một cung điện tạo thành. Cung điện này là nơi cư ngụ của những ông hoàng thời xa xưa. Tất cả đều đồng ý rằng đó là một nơi nguy hiểm, và rằng họ không dám mạo hiểm đi qua bức tường, dù là vào ban đêm hay ban ngày, dù có được trả công cả một túi đầy những đồng ghi-nê vàng.
            Họ bảo rằng vào những đêm hè, người ta có thể nghe thấy những tiếng nói lạ lùng vọng đến từ xa, và có thể nhìn thấy ánh sáng trên bầu trời. Một số người thề rằng họ đã từng nghe thấy tiếng còi đi săn khi trăng lên. Về phần những con cá, tất cả đều nhất trí rằng đó phải là những con quái vật.
            Những chuyện kể mà John được nghe về mọi thứ nằm phía sau bức tường kéo dài không dứt. Và vì là một chàng trai đơn giản, anh tin vào những câu chuyện đó. Nhưng không có câu chuyện nào làm thay đổi được niềm khao khát đã chế ngự anh, đó là đi vào phía bên kia bức tường và câu cá trong dòng suối đó. Những bức tường khó vượt qua, anh nghĩ, hẳn phải giữ một thứ gì đó đáng giá bên trong. Mọi cuộc đi câu khác giờ đây dường như trở nên nhàm chán, vô vị. Hy vọng duy nhất của anh là tìm ra bí mật của cái nằm sau bức tường xám rêu phong phủ đầy cỏ dại, cao lớn và dài vô tận đó. Và anh ngưng việc này lại chỉ vì mẹ của mình.
            Nhưng dù với lý do này anh có thể ở nhà khoảng hai ba hôm, hôm sau nữa anh lại lên đường, khao khát tìm những vùng nước xa lạ không người biết.
            John không chỉ nghĩ về bức tường suốt cả ngày, anh còn mơ thấy nó và những thứ nằm phía sau nó vào ban đêm. Nếu gió lùa qua cửa sổ, anh sẽ nhìn thấy trong mơ những mặt hồ lộng ánh trăng. Nếu một con vịt trời cất tiếng kêu bên dưới những vì sao trên đầu, cũng sẽ có hàng ngàn con vịt trời và thiên nga cùng nhiều loại chim nước khác ám ảnh tâm trí của anh khi anh đang nằm trên giường. Đôi khi những con cá voi to lớn bơi vào những giấc mơ của anh. Và anh có thể nghe thấy những nàng tiên cá đang thổi vào những cái tù và bằng vỏ ốc và cất tiếng hát véo von khi họ chải đầu.
            Với tất cả những niềm khao khát này anh bắt đầu trở nên tiều tụy. Mắt anh mờ đi và không còn ánh nhìn linh hoạt. Những hàng xương sườn của anh bắt đầu lộ ra. Và dù mẹ anh gặp con trai của bà nhiều hơn do anh đã ngưng đi câu cá, cuối cùng bà bắt đầu ngày càng nhớ tới những thứ bà đã trở nên quen thuộc. Đó là những con cá – luộc, rán, nướng hay bỏ lò. Và niềm mong mỏi của bà trở nên mạnh mẽ đến mức rốt cuộc trong một bữa ăn bà đã đặt dao nĩa xuống bên cạnh một lát heo ướp muối và bảo, “Con à, mẹ muốn nếm lại một miếng cá chép! Con có nhớ những con cá chép mà con câu được ở cái ao của cha Tu viện trưởng hay không? Hoặc là một con cá hồi nhỏ ngon lành, John à! Hoặc một con cá chình kho! Hoặc thậm chí một vài con cá chép ở cái hào của Trại cũ, dù cho chúng sặc mùi bùn! Thật buồn cười, John à, nhưng cá biển không bao giờ vừa miệng mẹ dù chúng ta có thể mua được; và mẹ gần như không còn muốn nếm tới thịt nữa. Ngoài ra, mẹ nhận thấy bây giờ pho mát đã làm cho con gặp toàn ác mộng. Nhưng cá ư? - Chưa bao giờ!” 
Thế là đã quá đủ cho John. Suốt mấy tuần qua đầu óc anh cứ như ngồi trên một cái bập bênh, nên chỉ cần một cú nghiêng nhẹ nhất như thế cũng đủ đẩy anh đi tới một quyết định. Thật sự không phải là nỗi sợ  hãi đối với tất cả những câu chuyện về những gã khổng lồ, những ma thuật và những ông hoàng của thời quá vãng đã ngăn anh không thám hiểm bức tường lớn và đánh liều với những nguy cơ ở phía sau nó. Hoàn toàn không phải vậy. Mà chỉ là một cảm giác tiềm ẩn trong đầu anh rằng nếu như anh đã sang phía bên kia bức tường, có thể anh sẽ không bao giờ hoàn toàn là một con người như trước. Bạn có thể bước xuống giường vào một buổi sáng, ánh nắng thường ngày rọi qua cửa sổ và lũ chim đang hót líu lo như vẫn luôn hót mọi ngày, thế nhưng lại biết chắc rằng trong những giờ sắp tới sẽ có một điều gì đó xảy ra – một điều chưa từng xảy ra trước đó. Đối với John Cobbler cũng thế. Ngay vào lúc mẹ anh đặt dao và nĩa xuống bên cạnh lát heo ướp muối và bảo, “Con à, mẹ muốn nếm lại một miếng cá chép!... Hoặc là một con cá hồi nhỏ ngon lành, John à!...” anh đã có một quyết định trong đầu.
“Dĩ nhiên, mẹ thân yêu,” anh nói với bà, với một giọng mà anh cố gắng một cách vô ích để giữ cho nó khỏi run lên. “Ngày mai con sẽ xem thử con có thể làm được gì cho mẹ.” Anh thắp nến lên, gần như không thể thở được vì niềm vui khi nghĩ về điều đó, rồi leo lên chiếc thang gỗ tới căn gác áp mái của anh để tìm chiếc cần câu tốt nhất và chuẩn bị các dụng cụ đi câu.
Sáng hôm sau, bầu trời hướng đông xanh nhạt ánh bình minh, những đám mây nhỏ trông như một đàn cá bạc đang im lìm bơi lội. Trước đó, khi mặt trời chưa mọc, John đã lên đường rời làng Tussock với cái cần câu, dây rợ, cái giỏ đựng cá cũ móp méo, một khoanh bánh mì và pho mát to gói trong một cái khăn tay lấm tấm hoa đỏ. Không có bóng dáng một ai. Mọi bức rèm cửa vẫn còn buông xuống. Những chiếc ống khói còn chưa tỏa khói. Toàn thể ngôi làng vẫn còn đang say ngủ. Anh vừa đi vừa huýt sáo và thỉnh thoảng ngước nhìn lên bầu trời. Những đàn cá bạc đang tản mác ra báo hiệu cho một cơn gió từ hướng nam thổi tới, anh nghĩ. Anh tiến bước với một mục đích tốt lành, không gặp một bóng người nào ngoại trừ một người chăn cừu cùng con chó và đàn cừu và một thằng bé đang chăn một đàn bò. Những vùng này rất quạnh quẽ dân cư. Anh tới chỗ bức tường ngay trong buổi sáng. Một buổi sáng tươi tắn và xanh ngắt của nước Anh.
Lần này John không chỉ đi tới chỗ bức tường mà là một nơi cụ thể ở đó. Đó là nơi mà trong một buổi chiều muộn trước đó ít lâu, anh đã chú ý tới những nhánh cao của một thân cây. Chúng đã bị ngã rạp xuống trong một cơn gió lớn, nằm vắt ngang qua bức tường và nghiêng xuống bãi cỏ hẹp nằm ven tường. Dường như có rất ít người đi theo lối này, nhưng có những bầy thỏ rừng làm hang trong lùm cây phủ cát, và vào chiều tối, những con cú muỗi rúc lên trong bóng tối. John cũng nhận thấy đó là một nơi cư ngụ ưa thích của lũ dơi.
Sau một cái nhìn lướt xuôi ngược con đường để xem chỗ này có sạch sẽ không, John tới bên dưới những nhánh cây rũ bóng. Và giống như truyện ngụ ngôn Con cáo và chùm nho, anh nhảy lên, nhảy lên lần nữa. Nhưng bất kể anh nhảy cao tới mức nào, những nhánh cây thấp nhất vẫn nằm ngoài tầm với của anh. Anh nghỉ một lát, nhìn quanh, và phát hiện ra một tảng đá lớn lú ra một phần trên lùm cây phủ cát. Anh hì hục vần nó tới bên dưới gốc cây, và sau lần cố gắng thứ ba, anh đã bám được vào một nhánh cây. Anh bò theo nhánh cây rồi nhảy xuống một cách lặng lẽ xuống phía bên kia bức tường  trước khi tin tức về sự có mặt của anh được truyền đi trong các loài hoang thú sống ở đó. Thế rồi từ con két này tới con két khác vang lên lời báo động. Có tiếng di động nhốn nháo lao xao bên dưới những cành lá của lùm dương xỉ. Một bầy quạ vừa bay vụt lên trời vừa kêu ỏm tỏi. Rồi tất cả yên lắng lại. John liếc nhìn quanh. Anh chưa bao giờ cảm thấy lẻ loi như thế trong đời. Chưa bao giờ, ngay cả trong những giấc mơ, anh tới một nơi xa lạ đối với anh như thế này. Những ngọn đồi và lũng nhỏ phủ đầy cây mao địa hoàng và dương xỉ hiện lên xanh ngắt ở những nơi ánh mặt trời rọi xuyên qua những tàng cây lớn của khu rừng. Ngoài ra, những tàng cây rất rậm rạp đến nỗi phần lớn những chỗ bên dưới bóng cây chỉ sáng lờ mờ một màu ngọc lục bảo. Và một sự im lặng sâu thẳm ngự trị nơi này.
John tiếp tục bước đi trong một lúc, mắt mở to. Khi xa khi gần, anh nghe thấy tiếng những con chim giẻ cùi hót gọi nhau, và tiếng những con chim cu xanh phành phạch vỗ cánh bay ra khỏi tàng lá. Thỉnh thoảng, tiếng gõ của một con chim gõ kiến, hoặc tiếng kêu của nó vang lên trong im lặng. Có một lần anh đi dọc theo rìa một trảng cỏ và vừa kịp nhìn thấy một đàn nai đang chạy phía trước anh ở một quãng cách trong tầm mắt. Chúng lặng lẽ phi nhanh qua trảng cỏ rồi khuất sau rặng cây. John vẫn tiếp tục bước đều, lâu lâu hỉnh mũi lên để đánh hơi bầu không khí; vì năng khiếu thợ câu của anh đã báo hiệu rằng nước đang ở gần đây.
Cuối cùng, anh tới một cái dốc nhỏ cao ngang hông người mọc đầy những lùm dương xỉ thơm dìu dịu, và ở đỉnh dốc anh thấy mình đang nhìn xuống  mặt nước của một dòng suối lớn chảy êm đềm giữa đôi bờ rêu phủ trong cái thung lũng bên bưới chân anh. “Aha!” John reo to. Tiếng reo của anh vang vọng trong bầu không khí một cách kỳ lạ đến nỗi anh ngưng phắt lại và nhìn chăm chú quanh mình như thể có ai đó đang nói. Nhưng chẳng có dấu hiệu nào của con người, chim hay thú. Tất cả lại lặng im. Thế là anh thận trọng tìm đường đi xuống dòng suối và bắt đầu câu.
Trong khoảng hơn một giờ anh không câu được gì cả. Ở bờ bên kia những hàng cây mọc dầy hơn, còn dòng nước thì sâu, tối và chảy chậm. Tuy nhiên, dù không nhìn thấy con cá nào, thâm tâm anh vẫn biết rằng con suối này có khá nhiều cá. Thế nhưng chẳng có con nào cắn câu, dù chỉ là một phát rỉa mồi.
Dù vậy, John vẫn thường ngồi câu cả nửa ngày mà chẳng được nhiều hơn một con cá cắn câu. Do đó, anh vẫn cảm thấy sung sướng và thoải mái, miễn là dòng nước vẫn lặng lẽ chảy xuôi bên dưới và anh vẫn có thể ngắm nhìn những hình ảnh phản chiếu của các vòm cây và những khoảng trời xanh lộ ra giữa chúng trong tấm gương tối thẫm này. Thế rồi đột ngột, như thể muốn chế nhạo anh, một con cá có cái lưng xanh đốm và cái bụng màu ánh bạc thuộc một loài mà anh chưa bao giờ trông thấy trước đó phóng vọt lên khỏi mặt nước cách cái phao của anh chừng ba mét. Dường như nó nhìn anh trong một thoáng với đôi mắt cá không có mí rồi ngay lập rơi trở lại trong lòng nước. Anh không thể nói được đó chỉ là tiếng nó quẫy nước, hay là những lời nói đã thật sự phát ra từ cái mõm há hốc của nó, nhưng chắc chắn là trước khi nó biến mất anh đã nghe thấy một giọng nói kỳ lạ kêu lên, “Này, John!.. Hãy cố xuống thấp hơn!”
 Anh tự cười nhạo mình; rồi lắng nghe. Chờ đợi trong giây lát, anh nắm chặt chiếc cần câu hơn, rồi vừa cảnh giác nhìn quanh bốn phía, anh vừa đi theo dòng nước chảy, thỉnh thoảng dừng lại để buông câu. Và vẫn không có con cá nào đớp mồi trong lúc những cái mõm mở rộng của mấy con cá phóng lên mặt nước ở ngoài tầm với của anh dường như tiếp tục thốt ra những lời kêu gọi nghe như tiếng nước reo mà anh đã nghe trước đó, “Này, John! Này, John Cobbler, anh bạn, ở đằng kia! Cố xuống thấp hơn!” Những con cá này thật sự giống như những con cá bỏ bùa mê đến nỗi John bắt đầu ước chi anh cứ tới những địa điểm cũ hay lui tới và không mạo hiểm vượt qua bức tường; hay ít ra cũng báo cho mẹ anh biết nơi anh định tới. Giả sử anh không bao giờ quay về nữa? Bà sẽ tìm anh ở đâu? Ở đâu? Ở đâu? Và tất cả những gì bà yêu cầu, có lẽ chính vì bản thân anh, chỉ là một bữa cơm có cá!
Dòng nước màu xanh bi ve lúc này chảy xiết hơn, và trước khi chuẩn bị tư tưởng, đột nhiên John nhận thấy mình đang nhìn chòng chọc lên những bức tường của một ngôi nhà cao âm u chỉ có hai cánh cửa sổ hẹp trên mặt đá đang chọc thẳng lên bầu trời bên trên. Và hình ảnh ngôi nhà đã khiến cho tim anh đập nhanh hơn. Anh sợ. Ở mé ngoài bức tường bên tay phải hiện ra những mái nhà bằng đá của một tòa nhà thấp hơn, và những cây ăn quả thân xanh mốc rêu đã rụng sạch lá. Trên mái ngói có hàng đàn quạ đen và quạ đầu xám đi đi lại lại, tiếng kêu thét chuyện gẫu chói tai của chúng nổi lên trên tiếng chảy rì rào của dòng nước. Lúc này, ngay bên dưới chân anh, dòng suối thu hẹp lại để luồn vào bên dưới một vòm đá thấp trên bức tường và  sự im lặng âm u bên trong nó. Trong đầu John hiện ra ngay hai ý nghĩ khi anh nhìn lên ngôi nhà đơn độc lạ lùng này. Một là nó phải bị ếm bùa, và hai là ngoại trừ những con chim và lũ cá trong dòng suối, ngôi nhà đã bị bỏ hoang và trống rỗng. Anh đặt chiếc cần câu lên bờ suối xanh rêu rồi len lén đi từ thân cây này sang thân cây khác để tới gần và nhìn rõ hơn, quyết định rằng nếu có thời gian anh sẽ đi vòng quanh hết khu vườn có tường bao nằm ở mé bên kia của ngôi nhà mà anh có thể nhìn thấy, nhưng sẽ không mạo hiểm bước vào. Bầu không khí lặng im một cách khác thường trong ánh nắng rơi lỗ chỗ, và John quyết định nghỉ ngơi một lát trước khi mạo hiểm đi xa hơn. Ngồi xuống bên dưới một gốc cây, anh mở cái khăn tay ra và nhìn thấy trong đó không chỉ có khoanh bánh mì và pho mát mà anh đã gói, mà còn có cả một khoanh xúc xích to và vài quả táo mà mẹ anh đã thêm vào sau đó. Anh thấy đói lạ lùng, và vừa cảnh giác nhìn lên hai cánh cửa sổ từ tàng lá trên đầu, anh vừa tiếp tục nhai chóp chép. Khi anh đang ăn, những con quạ đầu xám, với đôi cánh đen óng lên như bạc dưới ánh nắng, vẫn tiếp tục kêu om xòm, còn lũ cá vẫn lặng lẽ phóng lên từ lòng nước rồi rơi trở xuống, đôi mắt của chúng đờ đẫn nhìn anh khi ra khỏi mặt nước, và dòng nước tiếp tục chảy nhanh vào con đường hầm âm u bên dưới những bức tường của ngôi nhà.
Nhưng lúc này, khi lắng nghe và quan sát, John tưởng tượng rằng những âm thanh này quyện vào nhau thành một bản đồng ca êm dịu của ban mai, và anh thoáng nghe mơ hồ một giọng hát ở phía xa – một giọng hát ngọt ngào. Nhưng anh biết rất rõ tiếng nước chảy có thể lừa dối đôi tai một cách lạ thường. Đôi lúc, khi người ta lắng nghe nó, nó sẽ kêu vang như thể những cái trống và đàn dây đang rung lên những giai điệu sâu xa của chúng; đôi lúc, như thể có những ngón tay đang khảy lên những sợi dây của một chiếc hạc cầm, hay tiếng kêu than của những cái miệng vô hình. John ngừng ăn để lắng nghe một cách chăm chú hơn.
Chẳng bao lâu sau, anh không còn nghi ngờ gì nữa rằng đây không chỉ là tiếng nước reo, mà là tiếng hát của con người, và cách không xa lắm. Nó vẳng đến như thể từ bên trong những bức tường của ngôi nhà, nhưng anh không thể nhận ra bất kỳ một từ nào của bài ca. Nó lướt từ nốt nhạc này sang nốt nhạc khác như một con chim chưa biết tên nào đó đang buồn bã hót trong những cơn gió lạnh đầu tiên của tháng Tư sau chuyến du hành trên biển của nó từ châu Phi sang bờ biển Anh Quốc; và dù anh không hiểu, gương mặt của anh trong lúc lắng nghe nhăn nhúm lại như thể anh đã trở lại làm một đứa bé và đang sắp sửa khóc òa lên.
Anh từng nghe kể về những mỹ nhân ngư tàn nhẫn, về những hải tinh ngao du lang thang trên biển cả, về việc họ hát ca như thế nào giữa những hòn đảo đá, hoặc nằm dài bên bờ đại dương trên những hòn đảo tràn ánh nắng. Nơi những con cá biển khổng lồ tung tăng nô giỡn trong lòng nước mặn. Nơi những con cá heo phóng qua những lượn sóng trong veo như gương, xanh thẳm như đá quý. Cả mẹ anh cũng đã kể cho anh nghe hồi anh còn bé – hồi đó, như Simon Đơn giản[2], anh đã khởi sự câu cá trong cái xô đựng nước của bà! – về những mối hiểm nguy khi lắng nghe những âm thanh đó; ngay cả những người thủy thủ cũng phải dùng sáp ong nút chặt đôi tai của họ lại để không bị tiếng nhạc này quyến rũ tới những hòn đảo của loài mỹ nhân ngư và không bao giờ quay về quê nhà được nữa. Nhưng dù John vẫn nhớ tới lời cảnh báo này, anh tiếp tục lắng nghe, và trong anh tràn ngập một niềm khát khao mãnh liệt được khám phá xem người ca sĩ bí ẩn này là ai, và nàng ta đang trốn ở đâu. Có lẽ anh sẽ nhìn trộm, anh nghĩ thầm, qua một tấm rèm hay vết nứt nào đó trên những bức tường tăm tối và sẽ không bị nhìn thấy.
Nhưng dù anh đã lẻn vào, lúc trong bóng râm, lúc dưới ánh mặt trời, qua những bụi mâm xôi và thạch nam rậm rạp, qua những bụi dương xỉ và bụi nhăng mọc gần sát mấy bức tường, anh vẫn không tìm ra một cánh cửa ra vào, cửa sổ, hay thậm chí một khe hở trên tường để nhìn vào – ít ra là ở phía này của ngôi nhà. Cuối cùng anh quay lại bờ suối nơi anh đã để lại chiếc cần câu, nóng bức, mệt nhoài và khát nước.
Trong lúc anh đang quỳ gối để uống nước bên bờ suối, giọng hát đã im bặt một lúc bắt đầu cất lên trở lại, buồn bã nhưng ngọt ngào. Cách gương mặt đang cúi xuống của anh không tới một cánh tay, một con cá lớn phóng lên khỏi mặt nước, cái đuôi nó gần như gập đôi lại, đôi mắt lồi của nó dán vào anh, và qua cái mõm lởm chởm răng nó kêu lên, “A-whoof! Oo-ougoolkawott!' Đối với John, ít nhất đó là những gì mà nó nói ra. Sau khi chuyển xong thông điệp, nó rơi trở lại vào lòng nước tối và biến mất trong một xoáy nước. Giật mình vì tiếng động đột ngột này, John nhanh chóng lùi người về phía sau, và cử động này làm một hòn đá xanh rêu lớn bị bật ra khỏi bờ suối. Nó lăn lóc cóc trên bờ dốc rồi rơi tõm xuống suối. Thế là tiếng hát im bặt ngay lập tức. John liếc mắt về phía sau tới bức tường cao và hai cánh cửa sổ trống. Từ sự im lặng một lần nữa đang buông xuống giữa trưa, anh nghe thấy tiếng rúc buồn thảm của một con chim cú, và một cơn ớn lạnh chạy dọc khắp người anh. Anh đứng lên, vớ lấy chiếc cần câu và giỏ đựng cá, vội vã gói phần còn sót của bữa ăn trưa vào chiếc khăn tay và ngay lập tức lên đường trở về nhà. Anh không hề quay nhìn lại lần nào cho tới khi ngôi nhà đã khuất khỏi tầm nhìn. Lúc này cơn sợ hãi tan đi và anh bắt đầu thật sự cảm thấy hổ thẹn.
Vì lúc này anh bắt gặp một nhánh khác của dòng suối, anh quyết định dù có mất bao lâu cũng sẽ câu ở đó cho tới khi bắt được một thứ gì đó – dù là một con cá gai – để không làm mẹ anh thất vọng về bữa ăn tối mà bà mong mỏi.
  Con cá nhỏ tẩm tủy lợn mà anh dùng làm mồi trên lưỡi câu đã khô. Dù sao thì anh cũng quăng nó vào dòng suối, và gần như ngay trước lúc cái phao chạm vào mặt nước một đợt sóng lăn tăn cuộn tới từ mé bờ bên kia, và một con cá chó tham ăn màu xám bạc, dài ít nhất sáu tấc, đã ngay lập tức đớp mồi và mắc câu. John gần như không tin vào mắt của mình. Như thể nó đã nằm ở đó để chờ bị bắt. Anh cúi xuống nhìn vào đôi mắt lạ lùng bất động của nó khi nó nằm trên lớp cỏ dưới chân anh. Nó giận dỗi nhìn lại anh như thể trong lúc còn sống thêm một hai phút nữa, nó đang cố gắng một cách dũng cảm trao cho anh một thông điệp, nhưng là một thông điệp mà anh không thể hiểu.
Lòng lâng lâng vui sướng, anh không ở lại thêm phút giây nào nữa. Thế nhưng trên từng dặm trong hành trình trở về nhà, trong anh dâng lên niềm mong mỏi được quay trở lại ngôi nhà đó, chỉ để nghe lại giọng hát buồn thương phát ra từ bóng tối trong những bức tường. Nhưng anh không kể gì với mẹ về cuộc phiêu lưu của mình, và cả hai ngồi xuống ăn bữa cơm có cá ngon lành như chưa từng có.
“Mẹ thấy lạ một điều, John à,” cuối cùng mẹ anh nói, trước đó họ nói chuyện rất ít do đang đói bụng, “dù con cá này là một con cá chó, được nấu như mọi bữa, được nêm thêm chút lá xạ hương và kinh giới, chút ít bơ, một trái chanh vắt và ít lát hẹ tây, nó ngon hơn thế nhiều. Thịt nó thơm và ngọt như thể nó được nuôi một cách cầu kỳ. Con câu nó ở đâu vậy John?”
Nhưng khi vừa nghe câu hỏi này John bật ho một tràng dài – như thể có một cái xương mắc vào cổ họng anh – đến nỗi anh trông như có thể mắc nghẹn vào bất cứ lúc nào. Và khi mẹ anh ngưng vỗ vào lưng anh, bà đã quên những gì đã hỏi. Với miếng cá khác trong miệng, bà đang nghĩ tới một điều khác; và may mắn là bà có một hàm răng rất chắc, nếu không có lẽ một hai cái răng đã gãy làm đôi khi bà nhai phải một vật gì đó.
“Mẹ xin lỗi, John,” bà nói, và rút trong miệng ra không phải một cái xương, mà là một vật gì đó nhỏ xíu, cứng và sáng lấp lánh. Sau khi đã được rửa dưới vòi nước trông nó rõ ràng là một chiếc chìa khóa. Trên nó có khắc những ký hiệu hình chim, thú và cá, có thể chỉ để trang trí, hoặc, John nghĩ thầm, mặt anh đỏ bừng như gấc chín, một dòng chữ bí mật.
“Ồ, mẹ chẳng ngờ! Đồng thau!” mẹ anh nói, nhìn vào chiếc chìa khóa trong lòng bàn tay của bà.
“Con cũng vậy,” John nói. “Con sẽ đem nó tới chỗ ông thợ rèn ngay. Mẹ ạ, để xem ông ấy bảo sao.”
Trước khi bà có thể đồng ý hay phản đối điều này, John đã đi rồi. Khoảng nửa giờ sau anh quay về.
“Mẹ ạ, ông ấy bảo,” anh nói, “nó là một chiếc chìa khóa, không phải bằng đồng thau mà là vàng ròng. Một chiếc chìa khóa bằng vàng! Của ai nhỉ? Và lại nằm trong bụng một con cá!”
            “Này John,” mẹ anh nói, bà hơi buồn ngủ sau một bữa tối no nê. “Mẹ chưa bao giờ thấy việc câu cá có gì tốt đẹp ngoại trừ con cá này, nhưng nếu còn có chiếc chìa khóa vàng nào khác nữa ở chỗ con cá đó, sáng mai cả hai mẹ con ta hãy dậy sớm và chẳng bao lâu chúng ta sẽ giàu như những ông hoàng thời xưa.”
            John không cần mẹ anh phải bảo. Sáng hôm sau anh lên đường khá lâu trước lúc mặt trời bắt đầu mạ vàng những giọt sương trên đồng cỏ, và anh nhận thấy mình, cùng với cần câu, giỏ đựng cá và mồi câu, lại ở bên dưới bức tường bí ẩn trước buổi trưa hơn ba giờ đồng hồ. Bầu trời trong vắt không một bóng mây. Dòng suối chảy lặng lẽ như một dòng thủy tinh nấu chảy, phản chiếu những thân cây rừng cao lớn, những bức tường đá tối tăm, những bông hoa bất động và những lá cỏ trên rìa của nó. John đứng đó một lúc, nhìn đăm đăm xuống nước, như thể hôm nay chính là ngày hôm qua quay trở lại, rồi ngồi xuống bờ suối và rơi vào một giấc mơ ban ngày, chiếc cần câu nằm hờ hững bên cạnh. Không có một con cá, chiếc chìa khóa, sự tươi tắn của ban mai hay bất kỳ một mong muốn hay ý tưởng nào khác trong tâm trí anh ngoại trừ một niềm khao khát được nghe lại giọng hát bí ẩn. Những bóng cây quanh anh đã dài hơn trên chặng hành trình mỗi ngày của chúng, và một tiếng chim cu gáy bên dưới bầu trời khoáng đãng được đáp lại bằng ba tiếng chim cu gáy trong một thung lũng xanh nào đó của cánh rừng. Rồi những nốt nhạc đã ám ảnh anh lại xuyên qua bầu không khí, vừa ru ngủ vừa làm cho tỉnh táo, như lần đầu tiên chúng lọt vào tai anh. Chúng tiếp tục réo rắc, trong im lặng, rõ ràng như một thiên sứ đang hát trong một thính phòng lặng lẽ ở thiên đường, và John biết chắc rằng cô gái đang hát không còn e ngại sự có mặt của anh, mà xuất phát từ nỗi niềm cô quạnh đó, đang cầu khẩn sự trợ giúp của anh.
            Anh đứng lên, một lần nữa ngắm nghía những bức tường cao lớn nghiêm nghị trên đầu. Không có gì ở đó ngoài những con quạ đang kêu quàng quạc giữa những chiếc ống khói, và một con bướm màu vàng nhạt đang bay chấp chới dọc theo bóng tối của những  hòn đá trên tường. Những bức tường này làm lòng anh ngập tràn niềm sợ hãi. Giọng hát vẫn vang lên réo rắt.
Cuối cùng anh dán mắt vào cái vòm tối mà bên dưới nó dòng suối nặng nề đang cuộn chảy qua. Thật sự không có lối vào! Nhưng chắc là nơi mà nước có thể chảy qua, anh cũng có thể đi qua?
            Không chờ thêm phút giây nào để cân nhắc những mối hiểm nguy có thể đang chờ đợi anh trong dòng nước tối tăm bên dưới những bức tường, anh cởi áo khoác và giày ra rồi trầm mình xuống nước. Anh bơi theo dòng suối cho tới khi chỉ còn cách cái vòm một khoảng ngắn; hít một hơi thật sâu rồi lặn xuống, xuống mãi. Khi không chịu được nữa anh trồi lên khỏi mặt nước – và vừa đúng lúc. Anh đã vớ được một cái gì đó khi lên tới mặt nước, và nhận ra mình đang nhìn lên trong một làn ánh sáng nhờ nhờ từ chân của một cầu thang đá – với một sợi dây xích han rỉ mắc ngang qua giữa. Anh đu người ra khỏi mặt nước và ngồi xuống một lúc để lấy lại hơi thở, rồi bắt đầu bước lên cầu thang. Khi tới đầu cầu thang, anh bắt gặp một hành lang đá thấp. Anh dừng lại ở đây.
            Lúc này giọng hát càng nghe rõ hơn. Anh vội vã đi theo hành lang và cuối cùng tới một căn phòng hẹp tràn ánh nắng từ phía cái cửa sổ nhìn ra khu rừng. Ngồi dựa vào cạnh cửa sổ, làn ánh sáng xanh xao rọi lên khuôn mặt nhợt nhạt và mái tóc vàng hung, là người mà thoạt tiên anh cho là một người cá. Bởi vì nàng có một cái đầu và thân hình của con người nhưng lại có một cái đuôi cá. Anh đứng đó, hoàn toàn bất động, nhìn nàng đăm đăm, và nàng cũng nhìn anh đăm đăm, nhưng anh không thể nghĩ ra điều gì để nói. Anh chỉ hé miệng để phòng khi có lời nào đó xuất hiện trong đầu. Trong lúc đó nước nhỏ giọt từ quần áo và mái tóc của anh xuống những phiến đá xung quanh. Khi đôi môi trên gương mặt nhỏ nhắn khác thường của sinh vật lạ lùng này bắt đầu nói với anh, anh hầu như không hiểu được từ nào. Thật sự, nàng đã im lặng khá lâu một mình trong tòa nhà xưa cũ này, nơi một phù thủy đã biến đôi chân nàng thành đuôi cá để nàng không thể trốn khỏi ngôi nhà. Ông ta đã ra đi cách đây vài năm, không bao giờ quay lại. Giờ đây nàng gần như đã quên mất giọng nói tự nhiên của mình. Nhưng nhạc điệu trong giọng nói còn nói nhiều với những ai hiểu nó hơn bất kỳ từ nào trong một cuốn tự điển. Chẳng bao lâu John đã hiểu ra rằng sinh vật đuôi cá khốn khổ này, kẻ chẳng có gì để tự an ủi ngoài giọng hát buồn bã của chính mình, vô cùng bất hạnh; rằng tất cả những gì nàng mong mỏi là thoát khỏi cái đuôi cá lạnh lẽo, và nhờ đó sẽ có lại ánh sáng, ánh nắng mặt trời, được giải thoát khỏi lời nguyền của tên phù thủy đã nhốt nàng trong bốn bức tường đá này.
            John ngồi lên một cái ghế gỗ đặt kế chiếc bàn và lắng nghe. Thỉnh thoảng, anh lại thở dài hay gật đầu. Anh hiểu ra rằng – dù hiểu một cách rất chậm – người bạn duy nhất của nàng là một người quản gia già bị điếc. Mỗi ngày hai lần, vào buổi sáng và buổi tối, ông ta mang đến cho nàng thức ăn và nước uống, và phần còn lại trong ngày tự nhốt mình trong một tòa tháp ở mé kia của ngôi nhà nơi nhìn ra khu vườn bỏ hoang mà trước kia đã từng rất xinh tươi với những cây đào, cây mộc qua và cây mơ, cùng tất cả những loài hoa ở Damacus[3].
Ngoài ra, nàng nói, thở dài, nàng luôn luôn cô độc một mình. Rồi tới lượt mình, với mọi khả năng có thể, John kể cho nàng nghe về bản thân anh và về mẹ anh.
“Người sẽ hết lòng giúp cô tất cả mọi thứ để cô thoát khỏi nơi này – tôi biết điều đó, nếu bà có thể. Vấn đề duy nhất là, làm cách nào? Vì, cô thấy đó, trước hết là quãng đường quá xa nên mẹ tôi không thể đến đây và chẳng có cách nào để leo qua bức tường, kế đến, giả sử như bà tới được, sẽ không dễ dàng gì để đi với một cái đuôi cá. Ý tôi là, thưa cô, để cô có thể bước đi.”
Nói tới đây anh nhìn đi nơi khác, e rằng có thể anh đã làm tổn thương nàng. Đồng thời ngay lúc ấy anh chợt nghĩ tới chiếc chìa khóa mà nếu anh không suýt bị nghẹn thở, có thể mẹ anh đã nuốt nó vào bụng vì tưởng lầm đó là cá. Anh móc nó ra khỏi túi quần và đưa nó về hướng cửa sổ, để ánh sáng có thể soi vào nó. Khi nhìn thấy nó, dường như có một cảm giác gì đó trộn lẫn giữa nỗi đau và sự vui mừng tràn ngập trong lòng cô gái tội nghiệp có cái đuôi cá, bởi lẽ nàng giấu gương mặt mình sau những ngón tay và khóc òa lên. 
            Điều này chẳng giúp ích gì mấy cho anh chàng John khốn khổ. Với cung cách biếng nhác và tình yêu đối với thú vui câu cá của mình, đôi khi anh là một của nợ đáng buồn đối với mẹ anh. Nhưng dù có vóc người bé nhỏ, bà lại dũng cảm như một con sư tử, và nếu có bao giờ bà rơi lệ, thì bà chỉ thầm lặng khóc. Có lẽ đây là một điều đáng tiếc, vì nếu John từng nhìn thấy mẹ anh khóc, có thể anh sẽ biết phải làm gì vào lúc này. Tất cả những gì anh thật sự làm là tỏ ra rầu rĩ và đưa mắt sang nơi khác. Và khi chúng chậm chạp lướt một vòng qua những bức tường trống trải, anh nhận ra một cái gì đó giống như một khe hở của một cánh cửa nhỏ trên tường và bên cạnh nó là một lỗ khóa tí hon. Điều duy nhất trên đời mà anh ao ước lúc này là an ủi cô gái có cái đuôi cá này, là khuyên nhủ nàng lau khô nước mắt và mỉm cười với anh. Nhưng vì không nghĩ ra được lời nào có thể giúp ích cho nàng, anh nhón chân đi tới xem xét bức tường kỹ càng hơn. Anh đọc thấy trên mặt đá bên trên ổ khóa có khắc mấy chữ H.A.N.G! John không hiểu chúng có ý nghĩa gì, ngoại trừ việc một cái hang là một cái gì đó lõm sâu và thường là trống rỗng. Tuy nhiên, vì ở đây có một cái lỗ khóa và John có một chiếc chìa khóa, anh bất giác đút chiếc chìa vào ổ khóa với những ngón tay lóng ngóng để xem nó có vừa không. Và lạ thay, có một tiếng kêu lách tách. Anh giật mạnh, kéo phiến đá ra khỏi những bản lề bằng sắt của nó, và nhìn vào bên trong.   
            Anh không biết mình mong đợi sẽ bắt gặp cái gì. Tất cả những gì thật sự có trong ngăn tủ bằng đá ấy là một cái lọ nhỏ màu xanh lá, bên cạnh nó là một mảnh nhỏ trông như một mảnh da dê, nhưng thật ra là da khỉ. John chưa bao giờ là người hay đọc sách. Anh là một người tối dạ. Khi còn bé anh thích ngắm nhìn những đám mây, những con bướm và lũ chim bay qua bay lại và những chiếc lá xanh lấp lánh ánh mặt trời, và thấy rằng những con ếch, sa giông và cá chép là những người bạn tốt hơn bất cứ thứ gì anh có thể đọc trong các quyển sách. Dù sao, rốt cuộc anh cũng cố xoay xở để học thuộc hết các mẫu tự và thậm chí đọc được, dù anh đọc chậm đến nỗi có khi anh quên mất những mẫu tự đầu của một từ dài trước khi đánh vần tới những mẫu tự cuối cùng của nó. Anh đưa mảnh da về phía ánh sáng, giữ chặt nó giữa những ngón tay, và đánh vần từng âm tiết một, lẩm bẩm tự hỏi chính mình rằng nó nói gì, chừa lại những từ dài cho tới khi anh có nhiều thời gian hơn.
            Lúc bấy giờ, cô gái xanh xao ngồi dựa bên cửa sổ đã ngưng khóc, đôi mắt nằm giữa những bím tóc màu vàng hung đang dõi theo anh qua hàng nước mắt. Và đây là những gì John đã đọc:
Hỡi kẻ dám cả gan
Cứu thoát cô gái này
Khỏi dáng hình người cá
Rồi trốn đi sau đó
Qua biển qua núi rừng
Khỏi bàn tay của ta:

Hãy trét mỡ cá này
Lên trên tim của ngươi
Rồi với đuôi, và vây
Hãy phóng mình xuống nước!

Và ngươi sẽ thỏa ước
Được gặp Vua Cá già
Bậc phù thủy đại sư
Đớp mồi của ông ta

Nếu ông ta vui lòng
Sẽ chỉ ngươi nơi tìm
Món thuốc cao kỳ diệu
Biến đuôi cá thành chân

Nhưng hãy nhớ liệu hồn
Chớ nấn ná lần khân
Nếu không mạng ngươi đấy
Sẽ khó mà giữ gìn
Khi bị lên bàn ăn
Vua Cá già vĩ đại!

John đọc bài thơ con cóc này một lần, rồi hai lần, và dù anh không thể hiểu nó một cách trọn vẹn ngay cả sau lần đọc thứ ba, anh cũng hiểu được nó ít nhiều. Điều duy nhất mà anh không thể nghĩ ra, dù dường như đó là điều quan trọng nhất, là cái gì sẽ xảy ra cho anh nếu như anh làm theo lời của bài thơ – trét mỡ cá lên phía trên trái tim mình. Nhưng anh nghĩ sẽ tìm ra nó sau.
Thế thì tại sao không làm ngay, John nghĩ, dù ngoại trừ lúc một con cá vừa mắc câu của anh, anh hiếm khi nào nhanh nhẩu như thế. Anh gấp mảnh da lại thật nhỏ, nhét nó vào túi quần. Rồi ra hiệu với cô gái đuôi cá với những điệu bộ khá nhất mà anh có thể thực hiện rằng anh sẽ đi xuống những bậc thang và lặn xuống nước. Anh hứa với nàng rằng anh sẽ quay lại với nàng ngay giây phút đầu tiên khi có thể, và nài nĩ nàng đừng hát cho tới khi anh quay trở lại. ‘Bởi vì…,” anh bắt đầu, nhưng không thể nói gì thêm. Lúc này, cô gái tội nghiệp lại bắt đầu khóc, khiến cho John, rất buồn khi phải nhìn thấy cô như vậy, càng thêm nôn nóng muốn đi ngay. Thế là anh lôi cái lọ ra khỏi ngăn tủ bằng đá, và gật đầu chào tạm biệt cô gái với một nụ cười, rồi vội vã đi ra hành lang hẹp,  bước xuống cầu thang dẫn tới mặt nước.
Ở đó, sau khi kiểm tra rất cẩn thận bằng những đầu ngón tay vị trí của quả tim, anh quẹt ngón tay vào chất mỡ màu xanh rồi chà xát nó lên ngực. Ngay lập tức, một bóng tối và sự choáng váng kinh khủng quét qua anh. Anh cảm thấy thân thể mình đang co lại bên dưới lớp da; đôi cánh tay và đôi chân của anh cứng đờ, đôi mắt anh dường như lộn ngược lên đầu. Khoảnh khắc kế tiếp, với một cơn co giật toàn thân, anh rơi tõm vào lòng nước. Anh nằm ở đó một lúc trong sự bất động đáng sợ. Rồi anh bắt đầu cựa quậy trở lại, và sau một khoảng thời gian ngắn kinh hoàng, anh thấy mình đang bơi nhanh đến nỗi chỉ trong nháy mắt anh đã vượt ra khỏi cái vòm và tiến vào màn nước xanh thẫm của dòng suối bên ngoài. Trước đó, chưa bao giờ anh di chuyển trong nước một cách dễ dàng đến thế. Và không có gì phải ngạc nhiên!
Bởi vì, khi anh co người lại để xem chuyện gì đã xảy ra với mình, một hình ảnh đã đập vào mắt anh. Nơi trước đây là hai cánh tay giờ đây là hai cái vây nhỏ. Một sợi râu bằng sụn chìa ra ở mỗi bên mép của anh. Thân hình ngắn lùn mập mạp của anh có màu xanh lá thẫm ngã sang nâu, còn đôi chân mà anh không lấy gì làm tự hào lúc này chỉ là một cái đuôi ve vẫy. Có lẽ nếu đừng quá lười nhác trong những ngày còn trẻ trung anh đã có thể thấy mình biến thành một con cá hồi đốm, cá trê, cá đối xinh đẹp hay một con cá chình linh hoạt, hoặc nếu còn là một gã John anh cũng có thể trở thành một chàng trai giỏi dắn. Nhưng không, anh khá chuyên nghiệp trong nghề câu cá để có thể tự nhận ra hình ảnh của mình – một con cá chép bình thường, thậm chí không được là một con cá chép xinh đẹp! Một con cá hạng trung bình, John tự đánh giá. Với phát hiện kinh khủng này, dù bài thơ cũng đã cảnh báo trước với anh điều đó, hết cơn rùng mình này tới cơn khác chạy dọc theo xương sống của anh. Anh lao bừa một cách mù quáng qua màn nước như thể đang mất trí. Anh có thể tự giấu mình ở đâu đây? Làm thế nào để lẩn trốn? Mẹ anh sẽ nói gì với anh? Và than ôi, cái lọ thuốc mỡ đã biến thành cái gì rồi? Ôi, hãy thương xót tôi, ôi, tôi thật là khốn khổ! Anh rên lên trong đầu, dù chẳng có một tiếng thì thầm nhỏ nhất nào lọt ra đôi hàm xương xẩu của anh. Thật là một cuộc mặc cả quá hời!
Anh lao xuống, càng lúc càng sâu hơn, và cuối cùng sục nhẹ mõm vào lớp cát dưới đáy suối, anh giấu cái đầu của mình giữa hai tảng đá. Ở đó, dưới một lớp rong xanh sáng, anh nằm thật yên một lúc, suy ngẫm về mẹ anh và về những cảm giác của bà nếu bà không nhìn thấy anh nữa, hoặc là thấy anh trong hình dáng lúc này! Giá mà anh chịu lắng nghe lời khuyên răn của bà và đừng quá chú tâm tới những thứ cần câu, lưỡi câu, dây câu, phao hay nước. Anh đã lãng phí tuổi trẻ của mình với trò câu cá, và bây giờ thì mãi mãi làm thân cá. 
Nhưng khi khoảnh khắc than thân trách phận qua đi, nỗi đau khổ và nản lòng bắt đầu phai nhạt và anh nhớ lại tên phù thủy gian xảo, độc ác. Bất kể bề ngoài của anh trông như thế nào, John đã trở lại là chính anh ở bên trong. Lòng can đảm, thậm chí cả một tia hy vọng mong manh, đã quay trở lại trong bộ não cá ngu đần của anh. Với một cú quẫy đuôi, anh lui ra khỏi khe hở tối tăm giữa hai tảng đá và chẳng bao lâu đã tung tăng bơi lội cách mặt nước vài phân. Ánh mặt trời vàng óng ánh trên những lớp vẩy của anh, dòng máu lạnh chảy qua thân thể anh, và trong tim anh chỉ có một ước ao duy nhất.
Trạng thái cao hứng này gần như suýt kết thúc cuộc sống của anh. Bởi ngay lúc đó, một con cá chó đói bụng và đang lảng vảng tìm mồi đã theo dõi con cá chép nhỏ mập mạp này từ chỗ nấp của nó chợt phóng qua màn nước như một mũi tên rời khỏi dây cung. John thoát khỏi cú táp của hàm răng lởm chởm răng nhọn chỉ trong gang tấc. Khi còn là người, anh từng cho rằng cá chép là bác sĩ của loài cá và luôn an toàn trước mọi kẻ phàm ăn! Sau kinh nghiệm choáng váng này anh bơi một cách cẩn trọng hơn, náu mình luồn lách giữa những tảng đá và rong tảo và thỉnh thoảng rỉa bất cứ thứ gì mà anh thấy có thể nuốt trôi. Và cái thế giới của cây cối, bầu trời mà vài giờ trước anh đã bước đi trong đó trên cặp chân con người là một cảnh tượng rất lạ lùng khi nhìn lên từ mặt nước méo mó và gợn sóng lăn tăn.
Khi buổi chiều bắt đầu tối hơn trên đầu, anh tìm ra một nơi có vẻ khá an toàn để ẩn náu trong đêm, và chẳng bao lâu sau đã rơi vào một giấc ngủ dài và thanh bình của loài cá. Một giấc ngủ lạ lùng nữa, bởi vì do không có mí mắt, cả hai con mắt của anh vẫn mở to, trong khi ngay cả một con thỏ vẫn còn có thể nhắm lại một con mắt khi ngủ!
Sáng hôm sau, khi trời còn rất sớm, John đã tiếp tục bơi. Hẳn đang có một cơn gió nam đang thổi qua, anh nghĩ, vì mặt nước trở nên êm ả và sống động một cách khác thường. Anh táp mọi thứ nho nhỏ do dòng suối đưa tới với  sự thú vị và một cơn đói không có gì thỏa mãn được. John tội nghiệp, anh chưa bao giờ nghĩ rằng một con ruồi bị chết đuối hoặc một con ong, một con ấu trùng hay sâu bướm lại có mùi vị ngon lành. Nhưng lúc này anh không cần phải thử để phát hiện ra điều đó. Hiện tại, anh đang dò xét một con giun đỏ đang ngọ nguậy và trông có vẻ đặc biệt ngon lành đang lơ lửng trên đầu anh, cách chừng bốn năm phân.
Tuy nhiên, như đã nói, khi còn rất bé, John đã tự nhủ không được ăn những con sâu bướm, bọ, ốc sên hay mọt gỗ, vì khi đang làm bánh bằng bùn trong khu vườn của mẹ anh, anh đã từng nhai phải một con giun đất nhỏ. Và anh đã rất khó chịu với cảm giác đó. Có lẽ chỉ vì lý do này, anh vẫn dán mắt vào mẩu mồi màu san hô đang ngọ nguậy trên đầu anh. Ký ức cũng nói với anh rằng những con sâu không có thói quen bơi lăng quăng trong nước như vậy. Và dù khi nhìn thấy nó anh càng lúc càng đói hơn trong lúc vẫn nhẹ nhàng vẫy đôi vây cá, anh tỉnh táo liếc mắt nhìn lên phía trên mặt nước. Và kia, anh nhận ra một hình dáng cao gầy cao đang khom người trên bờ suối, một con người có hình dáng kỳ lạ nhất mà anh từng trông thấy. Ông già ốm tong teo này hầu như không có đôi vai. Đôi mắt xám không hồn của ông ta lồi ra khỏi đầu, bên trên cái mũi xẹp lép. Một chòm râu đong đưa bên dưới cái cằm giống như mõm cá tuyết, và bàn tay đang giữ chặt cái cần câu chẳng có gì ngoài xương và da.
“Chà,” John tự nhủ khi tiếp tục quan sát ông ta, “nếu ông lão bất lương này không phải là Vua Cá mà bài thơ nhắc đến thì mình sẽ ăn mấy cái nút áo của mình.” Đó không phải là một lời hứa dễ thực hiện, vì lúc này John chẳng có một cái nút áo nào. Không có gì dễ dàng hơn là việc cái bộ não cá đang đói ngấu của anh quyết định sẽ táp con sâu cùng với  cơ hội sẽ xảy đến sau đó. Anh khao khát vô kể được trở về nhà; được trở lại nguyên hình như cũ – nhưng chỉ khi (dường như khi là cá John ngoan cố hơn so với khi là người), chỉ khi cô gái xinh đẹp đó thoát khỏi cái đuôi cá của nàng. Và làm sao có hy vọng đạt được những điều đó nếu anh từ bỏ cơ hội gặp Vua Cá này để tìm ra lọ “thuốc cao” mà bài thơ nhắc tới? Mọi việc xảy ra nhanh chóng thật!
Nếu không có gì xảy ra để cắt ngang những suy nghĩ này, có lẽ John sẽ suy nghĩ khá lâu. Nhưng ngay lúc đó một con cá rô tinh mắt đang bơi tới chỗ John và đã trông thấy miếng mồi ngon lành đang ngọ nguậy trong làn nước trong vắt như gương. Ngay khi thoáng thấy nó, John không còn do dự gì nữa. Với cái mồm há rộng và một cú quẫy đuôi mạnh, anh phóng tới con sâu. Một cơn đau nhói lan đi khắp cơ thể của anh. Anh bị lôi ra khỏi mặt nước vào không khí. Kế tiếp, anh nhận thấy mình đang nằm thở hổn hển trong đám cỏ xanh rì mọc kế bên bờ nước. Nhưng lão ngư ông già đã bắt anh thậm chí còn thành thạo nghề câu hơn cả John Cobbler. Hầu như ngay trước khi John có thể nấc lên tiếng thứ hai, cái lưỡi câu đã được gỡ ra khỏi miệng của anh.
Anh được bao bọc từ đầu tới đuôi bằng những lớp rêu xanh mát lạnh, một cái thòng lọng thít chặt vào đuôi anh, và John tội nghiệp bị dốc ngược đầu lại dưới những ngón tay dài xương xẩu của lão ngư ông, rồi bị xách đi tới một nơi nào đó mà anh không thể biết. Những ý nghĩ mơ hồ, ít ỏi và nghiêm trang lướt qua cái đầu đang há hốc mồm và thở hổn hển của anh trong chuyến hành trình thê thảm này.
Vua Cá, người đã bắt anh, sống trong một ngôi nhà đá thấp được bao quanh ba phía bởi một hồ nước, và cách không xa ngôi nhà của lão phù thủy. Những vòi nước phun nước trong những căn phòng trống, và nước dựng lên những bức tường của chúng ở khắp bốn phía. Trong ngôi nhà này không thể nghe thấy tiếng tru của một con cáo, tiếng kêu của một con công hay bất kỳ âm thanh nào của những loài chim chóc. Nó tràn ngập tiếng thở dài, âm nhạc và lời thì thầm của nước suốt ngày đêm dài thăm thẳm. Nhưng vì bị dốc ngược đầu, John tội nghiệp không có nhiều cơ hội để quan sát hay lưu ý tới những cảnh tượng khác thường của nó. Và vẫn bị bao bọc trong lớp rêu xanh dầy, lúc này anh nhận thấy mình bị treo vào một cái móc trong nhà chứa cá của Vua Cá, một căn phòng hay một căn hầm dài, tối và lạnh, chỉ có một cửa sổ, và đó chỉ là một cái lỗ ở phía trên của bức tường. Căn phòng này cũng làm bằng đá, và ngoài những con cá khác cũng ít may mắn như John đang bị treo trên những cái móc, có nhiều con khác, to béo hơn anh, đang nằm yên lạnh lẽo trên những cái kệ đá đen xung quanh.
Vua Cá có một người hầu bé nhỏ. Cô ta là người canh gác phòng chứa cá của ông. Sáng sớm hôm sau cô ta đi vào phòng và bắt đầu làm việc. John không ngừng quan sát cô ta. Gương mặt hẹp ló ra khỏi những lọn tóc xanh xám của cô ta trông giống mặt cá đến nỗi anh không thể đoán được cô ta khoảng bao nhiêu tuổi. Cô ta, anh nghĩ, có thể là mười hai, mà cũng có thể là sáu mươi, nếu tuổi tác không làm cô ta thay đổi mấy. Nhưng anh đoán cô ta phải khoảng mười bảy tuổi. Cô ta không đẹp lắm theo con mắt đánh giá của loài người – đôi vai hẹp quá xuôi, đôi bàn tay và bàn chân quá gầy guộc.
Trước tiên cô ta quét nhà bằng một cái chổi sể rồi rửa sạch nó với mấy xô nước. Rồi, với một chậu nước bằng đất nung, cô ta lần lượt rưới nước lên lớp rêu và cỏ bao bọc quanh thân hình của John và những con cá khác. Bởi vì Vua Cá thích ăn cá tươi, John đã sớm phát hiện ra điều đó. Khi một trong số chúng, nhất là những con trên kệ, trông có vẻ bất động và yếu đi, cô ta nhúng nó vào một cái máng nước chảy nông ở ngoài cửa bếp. Thật sự, John nghe thấy tiếng nước chảy suốt cả ngày trong khi anh gần như không thể cựa quậy được một cái vây nào. Mỗi sáng, khi làm xong những việc này, mỗi ngày hai lần, người hầu gái chọn ra một, hai hoặc thậm chí ba con cá mập mạp nhất và mang chúng ra khỏi phòng. John biết, với niềm kinh hãi, chúng sẽ đi tới kết thúc nào.
Nhưng có hai điều mang đến cho anh lòng can đảm và dũng khí ở cái nơi khủng khiếp này. Điều thứ nhất là sau lần viếng thăm thứ hai của mình, người hầu gái tốt bụng với anh đến lạ lùng. Có lẽ trên gương mặt của anh có một nét gì đó khác với những con cá khác. Vì anh thường cố thể hiện trong đôi mắt lồi của gương mặt cá một nét gì đó của một nụ cười khi cô ta đến gần anh, đồng thời cố vẫy cái chót đuôi, dù rất yếu ớt, như để chào mừng. Điều thứ hai, chắc chắn là cô ta thích John. Cô ta không chỉ cho anh nhiều thức ăn hơn những con cá khác để vỗ béo anh, mà còn chọn cho anh những món ăn ngon. Cô ta vẫy nước cho anh chậm hơn so với những con cá khác để anh được hưởng nhiều thoải mái hơn. Một buổi sáng nọ, sau khi liếc nhanh ra sau lưng, cô ta đổi chỗ cho anh trong phòng, treo anh vào một góc tối hơn. Chắc chắn, John nghĩ, điều này có nghĩa là cô ta muốn giữ mạng sống cho anh càng lâu càng tốt. John cố hết sức thốt lên những lời cám ơn nhưng không biết chắc cô ta có nghe thấy được hay không. 
Đây là một niềm hạnh phúc. Gần như ngay sau khi nhận ra mình nằm an toàn trong góc tối, anh phát hiện ra trên một ngăn kệ nằm ngang với đầu anh có một số bình, lọ sứ  và bát bằng thủy tinh và đất nung. Một số lọ đựng những rễ cây khô, một số khác đựng một thứ gì đó trông như những nùi cỏ, một số khác nữa đựng củ huệ đen hay những mẩu nhánh nhỏ, nụ và lá khô giống như trà. John đoán rằng đó là những thứ gia vị để nêm nếm các món thức ăn cho Vua cá, và tự hỏi một cách buồn rầu khi đến lượt mình, anh sẽ được nêm thứ gia vị nào trong số đó. Ngoài những lọ đó, trên một ngăn kệ ở phía trên mũi anh chừng bốn tấc là một lọ thủy tinh khác, trong đựng một chất gì đó màu xanh lá cây. Và sau nhiều nỗ lực đến khô mắt để đọc, rốt cuộc John đã đánh vần được trên cái nhãn lọ những từ lạ lùng sau: unguentum ad pisces hominibus transmogrificandos. Anh đọc đi đọc lại chúng cho tới khi thuộc nằm lòng.
John đã nghỉ học rất sớm. Anh đã phải ra đồng đuổi chim năm lên bảy, chăn heo năm lên chín, cuốc đất trồng củ cải năm lên mười hai – dù anh chẳng làm việc nào lâu cho lắm. Nhưng thậm chí nếu như John đi học cho tới lúc trưởng thành, anh cũng chẳng bao giờ biết được một chữ Latin nào, vì bản thân cô hiệu trưởng già của ngôi trường làng ở Tussock cũng chẳng biết một chữ Latin nào.
John chỉ chắc chắn một điều khi anh đã nhớ thuộc lòng những từ đó, rằng chúng không phải là tiếng Anh. Tuy nhiên, anh cũng khá khôn ngoan. Anh nhớ rằng có những từ giống như thế được viết bằng mực đỏ trên mảnh da, ở phía trên bài thơ, dù anh đã không chú ý chút nào tới chúng. Nhưng urguent là một từ mà anh biết rõ như biết cái tên của mình, nó có nghĩa là thuốc cao. Vài tháng trước, anh đã chữa giùm cái ghế cho một quý bà sống trong một ngôi nhà cao – một quý bà vui tính dù bà ta là con gái út của một  hầu tước trong vùng. John không mất nhiều thời gian lắm để làm xong việc đó, và bà ta rất hài lòng. Khi anh mang cái ghế trở lại đặt dưới ánh sáng ở một cánh cửa sổ, bà ta đã bảo: “Tốt lắm, John, thật là transmogrification! (biến hoá khôn lường) Và John đã đỏ bừng mặt mũi khi cười đáp lễ quý bà đó, đoán rằng bà ta muốn nói rằng cái ghế đã thay đổi tốt hơn.
Bên cạnh đó, khi còn là một cậu bé, mẹ anh thường kể cho anh nghe những câu chuyện về piskies (cá). “Piskies, PISCES,” John lẩm bẩm với chính mình. Rồi tới chữ HOMIBINUS. Nếu bạn thêm một chữ O vào âm tiết đầu, nó nghe giống như home (nhà). Thế có nghĩa là Vua Cá đã hàm ý nói bằng thứ từ ngữ lạ lùng này rằng trong lọ chứa một thứ thuốc cao có thêm một chất bí mật nào đó của cá, và nó có tác dụng “làm thay đổi” tốt hơn cho một thứ gì đó hay ai đó chà xát nó lên khi ở xa NHÀ. Không ai có thể gọi một căn phòng đá trong đó nhốt một cô gái bị phù phép thành người cá là một ngôi nhà; và bản thân John lúc này đang cách xa mẹ anh nhiều dặm!
Ngoài ra, cái chất chứa trong lọ trông giống một cách lạ lùng với thứ thuốc mỡ mà anh đã lấy ra từ một cái lọ khác và trét lên người mình. Sau tất cả những suy nghĩ này John đã có đủ thông minh để kết luận rằng thứ thuốc mỡ kia là phương tiện để biến người thành cá, còn chất thuốc cao trong cái lọ bên cạnh anh là để biến cá thành người trở lại. Khi nghĩ ra điều này, đôi mắt anh lồi hẳn ra, và bất chấp lớp rêu bọc xung quanh, hai cái vây của anh chìa ra ngoài, cứng như hai chiếc kim đan. Anh há hốc mồm ra thở – như một con cá rời khỏi nước. Trong lúc anh vẫn còn đang suy ngẫm về khám phá của mình, người hầu gái mở cửa phòng ra để làm những công việc buổi sáng.
“Ái chà,” cô ta khẽ kêu lên, vội vã bước tới gần anh, vì cô không bao giờ quên ghé thăm anh trước nhất, “ái chà, có gì không ổn với mày vậy?” Với những ngón tay gầy guộc, cô ta vuốt nhẹ đầu John, gương mặt nhỏ gầy nhíu lại khi nhìn thấy sự thay đổi đột ngột trong dáng vẻ của anh. Cô ta không nhận ra rằng đây không chỉ là một sự thay đổi mà còn là một sự biến hóa khôn lường! Cô ta vẫy nước cho anh hai lần, rồi thêm lần thứ ba, với thứ nước lạnh như băng, và nhét những mẩu thức ăn nhỏ vào miệng John cho tới khi anh không nuốt nổi nữa. Thở hổn hển và há hốc mồm, anh gắn mắt vào cái lọ thuốc cao rồi nhìn lại thật nhanh vào người hầu gái nhỏ bé, rồi lại nhìn vào lọ thuốc cao.
Vì người hầu gái này là cháu mấy đời của Vua Cá, cô ta cũng biết chút ít phép thuật. “À,” cô ta thì thầm, mỉm cười và vẫy ngón tay về phía anh. “Vậy đó là thứ mà chú mày muốn hả, cá chép nhỏ? Đó là thứ mà chú mày muốn phải không, chú cá chép ma mãnh kia. Ồ, mày làm tao sợ quá!”
Những lời nói của cô ta rít lên ra như một hồi còi, và những con cá đồng bọn của John, bị bó chặt trong lớp rêu và cỏ đang nằm trên kệ, hay đang treo trên những cái móc, run lên vì âm thanh đó.    
Những tiếng cựa quậy lao xao mơ hồ, những tiếng kêu than nho nhỏ phủ đầy gian phòng. John đã từng nghe những tiếng động này trước đó, và đã cho đó là những lời trò chuyện của cá, nhưng dù cố bắt chước chúng, anh không bao giờ biết chắc câu trả lời là gì. Tất cả những gì anh có thể làm lúc đó, là điều mà anh vừa làm: anh dán đôi mắt cá tròn đờ đẫn vào cái lọ rồi vào người hầu gái, và cố thực hiện điều này một cách đầy van nài và cảm động. Cũng giống như hồi còn bé anh đã dúi đầu vào gối mẹ để nài nỉ bà cho anh một lát bánh pu-đinh hay một muỗng mứt.
“Ta tự hỏi,” người hầu gái lẩm bẩm như tự nhủ với chính mình, “phải chăng ngươi là một loài khác. Và nếu đúng như vậy, ta có nên mở cái lọ đó hay không? 
Nghe thấy thế, John vùng vẫy thật mạnh, há rộng mồm hết cỡ, trông như thể anh sắp hát to lên vào bất cứ lúc nào.
“A,” người hầu gái kêu lên, nhìn anh với vẻ vui mừng, “nó hiểu! Nó hiểu! Nhưng nếu ta làm như thế, Vua Cá chủ ta sẽ nói gì với ta đây? Chuyện gì sẽ xảy ra với ta, hả? Chú mày, cá chép nhỏ ạ, chỉ nghĩ tới tiện nghi của chính mình.”
Nghe thấy thế, John thở dài và rũ người ra như đang trong nỗi buồn đau, phẫn nộ và hối tiếc. Người hầu gái nhìn anh một lúc nữa, rồi quay ra làm công việc của mình thật nhanh và gương mặt nhỏ hẹp của cô ta trông rất căng thẳng. Trong lúc đang làm việc, vẫy nước, cho ăn, cọ rửa, nhúng nước, cô ta nói chuyện với những con cá theo cung cách  giống hệt như một người giữ ngựa trò chuyện với những con ngựa, một cô giữ trẻ với một em bé, hay một người đàn ông với lũ chó của ông ta. Cuối cùng, làm xong mọi việc, cô ta vội vã ra khỏi phòng và đóng sập cửa lại.
Vua Cá có thói quen đi thăm một vòng gian bếp của ông ta vào mỗi thứ Ba, thứ Năm và thứ Bảy hàng tuần, xem xét những con cá mập mạp hay ốm o, cũ hay mới, yếu ớt hay linh hoạt, thỉnh thoảng thọt nhẹ những ngón tay vào dưới lớp rêu để xem chúng đã tới lúc đưa lên bàn ăn hay chưa. Hôm đó là ngày thứ Năm. Và người hầu gái vội vã quay trở lại, bước tới gần và thì thầm với John, “Suỵt, ông ta đến. Vua Cá! Giận dữ và đói. Hãy cẩn thận. Cố nằm thật im lặng, tỏ ra rũ rượi và yếu ớt, vì nếu Vua Cá chọn ngươi, mọi thứ sẽ kết thúc. Và trên tất cả mọi điều, đừng ngó tới cái lọ đó lần nào!”
Cô ta đi ra như một con én vào mùa làm tổ, và lúc này tiếng lê chân chậm chạp trên nền đá đang tiến tới gần, rồi Vua Cá bước vào phòng, theo sau là người hầu gái. Ông ta chả có dáng vẻ vua chúa chút nào, John nghĩ, thậm chí cả một hầu tước cũng không. Trông ông ta cau có, ủ rũ như một con cá tuyết già mùa chay trong giỏ của một người bán cá, với lớp áo khoác nâu xám cứng còng. John hầu như không dám thở, nằm treo mình một cách ủ rũ, bất động trên cái móc, mồm mở rộng và mắt đứng tròng.
“Ê, ê, ê,” Vua Cá càu nhàu khi bước tới góc của John. “Đây là con cá đần độn. Trông chỉ toàn xương. Một con cá trông như chết rồi vô dụng. Nè, cháu thân mến, cháu phải đưa nó lên mé có bóng râm trên kia. Hãy ngó chừng nó, cháu thân mến. Đúng là nó chỉ là một con chép hôi bùn đần độn. Nhưng, ồ phải, chúng ta có thể bồi bổ nó! Nó cần cuộc sống, nó cần vận động, nó cần được nâng niu, cho ăn và vỗ béo. Khi đó nó sẽ trông có vẻ ngon lành đến mức làm hài lòng cả bản thân ngài Giám mục.” Người hầu gái, một tay cầm một mớ rong còn tay kia từ tốn che miệng, bình thản gật đầu.
“Ông chủ à,” cô ta  nói, “nó đang được treo trong bóng mát. Nó rất yếu ớt. Nó ăn rất kém. Cháu sẽ cho nó tắm mát và phơi nắng trong máng nước. Tin cháu đi, ông chủ, cháu sẽ đem lại cho nó chút sức sống. Thứ Bảy sau hãy tới.” 
“Ừ, ừ,” Vua Cá nói. Sau khi đi một vòng xem xét các bạn đồng hành của John, ông ta rời khỏi bếp, rất hài lòng với chuyến thăm viếng buổi sáng của mình. Với một cái gật đầu nhanh ra hiệu với John qua đôi vai hẹp, người hầu gái nhanh trí đi theo ông ta. John được an toàn cho tới thứ Bảy. 
            Hầu như ngay khi tiếng bước chân lệt bệt của Vua Cá tắt hẳn, người hầu gái bé nhỏ đã quay trở lại, vung vẩy đôi bàn tay trong niềm hoan hỉ và hầu như không thốt nên lời vì đang cười ngặt nghẽo. “Nè, cá chép, mày có nghe thấy không? ‘Đây là con cá đần độn. Trông chỉ toàn xương. Một con cá trông như chết rồi vô dụng. Nè, cháu thân mến, cháu phải đưa nó lên mé có bóng râm trên kia. Hãy ngó chừng nó, cháu thân mến. Đúng là nó chỉ là một con chép hôi bùn đần độn. Nó cần được nâng niu, cho ăn và vỗ béo.’ – Giờ ngươi đã thấy chưa? Ta có láo cá không? Có ma mãnh không? Ông chủ già đã mắc mồi câu của ta, phải không, cá chép? Ôi trời, cá chép xinh đẹp của ta; ‘vỗ béo’, thật vậy!” Rồi cô ta vuốt nhẹ cái mõm của John. “Điều không ổn ở Vua Cá là ông ta ăn và ngủ quá nhiều. Hãy đến đây nào, chúng ta đừng trì hoãn nữa.”
Cô ta kéo một cái ghế gần đấy, leo lên ghế, gần như nín thở, cẩn thận nhấc cái lọ mỡ, dầu nhờn hay thuốc cao gì đó màu xanh lá xuống bằng cả hai tay. Rồi cô ta gỡ John ra khỏi cái móc, đặt nhẹ anh lên cái phiến đá bên cạnh, yêu cầu anh nếu có chuyện gì xảy ra cũng đừng sợ gì hết. Cô ta lột lớp rêu xanh ra khỏi người anh, rồi nhúng ngón tay vào lớp thuốc mỡ, trét nó lên người anh, dọc theo xương sống, từ gáy cho tới chót đuôi.
            Trong một khoảnh khắc, John cảm thấy mình giống như một cái nút bần, sau khi bềnh bồng trôi xuôi một dòng sông lặng chảy bỗng đột nhiên bị cuốn vào một xoáy nước. Anh cảm thấy giống như một viên pháo mà dây thuốc mồi gần cháy hết và sắp sửa nổ tung. Rồi dần dần màn sương mù trong mắt anh và tiếng ầm ĩ trong tai anh phai dần, và lạ lùng chưa, anh nhận thấy mình đã quay lại an toàn trong lớp da, hình dáng và ngoại hình như cũ. Anh đứng đó, trong căn bếp của Vua Cá, cười toe toét với người hầu gái mà vóc người chỉ cao hơn khuỷu tay của anh chút ít.
            “A,” cô ta kêu lên, nhìn anh qua đôi mắt bé nhỏ trong veo như nước, choáng váng và kinh ngạc vì sự biến hóa kỳ diệu này. “Thế anh là một loài khác thật, cá chép nhỏ!” Và cô ta nhìn anh một cách rất đỗi buồn bã và trìu mến đến nỗi John tội nghiệp chỉ có thể đỏ bừng mặt quay đi. “Và bây giờ,” cô ta nói tiếp, “ tôi cho rằng tất cả những gì anh muốn là đi khỏi nơi đây. Vậy tôi van anh hãy vội vã đi ngay, kẻo lớp da của tôi phải trả giá cho chuyện này.”
            John luôn là người đần độn với ngôn từ. Nhưng anh cũng cám ơn người hầu gái với những lời tốt đẹp nhất có thể về những gì cô ta đã làm cho anh. Rồi anh tháo khỏi ngón tay út một chiếc nhẫn bạc trước kia thuộc về cha anh, đặt vào lòng bàn tay của người hầu gái. Khi anh biến thành cá, tất cả quần áo và mọi thứ trên người anh đều biến mất, nhưng lúc này, khi anh biến thành người trở lại, tất cả đều quay về vị trí cũ của chúng, ngay cả mảnh da trong túi quần của anh. Quy luật của ma thuật là như thế. Thế rồi anh nài nỉ người hầu gái rằng nếu cô ta có dịp nào đi ra bên ngoài bức tường, hãy hỏi thăm làng Tussock, và khi đã tới đó hãy hỏi bà Cobbler.
            “Đó là mẹ của tôi,” John nói, “bà Cobbler. Người sẽ rất hân hạnh được gặp cô. Tôi xin hứa với cô như thế. Và cả tôi cũng vậy.”
            Người hầu gái nhìn John. Rồi cô ta cầm lấy chiếc nhẫn bằng ngón trỏ và ngón cái, thở dài, và đặt nó vào một khe hỡ giữa các phiến đá. “Hãy nằm ở đó,” cô ta thì thào với chiếc nhẫn, “rồi ta sẽ quay lại với mi ngay.”
            Thế rồi John - trong tay không có thứ gì khác, và biết rằng vì người hầu gái, anh phải để lại cái lọ - rút ra từ cái túi đựng đồng hồ trong túi quần một cái đồng hồ bằng bạc lớn của ông nội anh để lại. Nó chỉ là một cái vỏ đồng hồ, một hôm nọ anh đã lấy ra những thứ bên trong với hy vọng sẽ chữa cho chiếc đồng hồ chạy tốt hơn, rồi vì lười nhác không đặt chúng trở lại. Rồi anh trét thứ thuốc cao đó vào đầy cái vỏ đồng hồ.
            “Bây giờ, cá chép nhỏ, hãy đi lối này,” người hầu gái nói. “Anh phải đi, và phải đi mãi mãi. Theo lối này cho tới hết đường, rồi băng qua khu vườn nơi Vua Cá trồng các thứ thảo dược. Anh sẽ biết qua mùi của chúng trong không khí. Trèo lên tường và đi tiếp cho tới khi tới con sông. Lội qua đó rồi đi theo hướng mặt trời mọc. Vua Cá có cái mũi của một con sói cái. Ông ấy có thể ngửi thấy anh ở khoảng cách một cánh đồng trồng đậu. Anh hãy đi ngay và đừng dính dáng gì tới ông ấy nữa. Chà, tôi biết anh sẽ không nghĩ gì tới tôi nữa đâu khi đã được an toàn.”
            Không biết phải làm gì khác, John khom người xuống hôn những ngón tay lạnh mảnh khảnh của người hầu gái, nhìn một cách bất lực và vào buồn bã vào những con cá trên móc và kệ, thấy rằng không con nào có thể nằm trong tình trạng giống như anh, rồi vội vã bước đi.
            Anh không thể lạc đường. Những bức tường và các ống dẫn nước của Vua Cá đều làm bằng đá rất chắc chắn, như thể do những người La Mã xây nên, dù thật ra chủ yếu chúng được tạo nên do ma thuật, thứ không dính dáng gì tới thời gian. John vội vã bước đi dưới ánh mặt trời và cuối cùng tới bên dòng suối. Anh ngậm cái vỏ đồng hồ vào miệng để bảo đảm an toàn rồi bơi qua bờ bên kia. Ở đây mọc đầy những bụi cỏ gai cao lớn, một số cao tới hơn hai mét. Anh len lỏi đi qua chúng, không chú ý tới những cái gai và tiếng kêu sột soạt, và vừa kịp lúc. Vì ngay khi anh đã náu mình an toàn trong những bụi cỏ thấp mé ngoài, người mà lúc này anh thấy đang tiến tới gần bờ suối bên kia không phải ai khác ngoài Vua Cá, cần câu trong tay và giỏ đựng cá treo ở khuỷu tay. Gương mặt gầy guộc của ông ta nghếch lên và cái mũi của ông ta đang đánh hơi bầu không khí ban mai như thể nó tràn ngập những mùi gia vị của xứ Ả Rập. Người hầu gái đã nói đúng. Trong suốt gần một giờ, Vua Cá đứng bất động ở bờ suối bên kia, đối diện ngay với chỗ nấp của John. Trong suốt gần một giờ ông ta nhìn xoi mói xung quanh, khe khẽ đánh hơi. Và dù bị những con ruồi quấy rầy và bị gai tầm ma chích, John không dám động đậy một ngón tay. Cuối cùng Vua Cá cũng thấy mệt mỏi với việc quan sát và chờ đợi. Sau khi thấy ông ta đã đi khuất, John tiếp tục lên đường.
            Còn gì để kể nữa nhỉ? Cô gái đuôi cá đã mong chờ anh một cách lo âu buồn bã, buồn hơn mọi thứ khác trên đời. Bởi vì, từ lúc hứa với John, nàng thậm chí không thể hát để tự an ủi chính mình. Nhưng sau khi mất dạng mười bảy ngày, John lại một lần nữa lao người xuống vòm đá và trèo lên những bậc cầu thang đá để tới căn phòng của nàng. Anh không phí thời gian để tìm ra lời lẽ. Sau khi mở nắp cái vỏ đồng hồ, anh quỳ xuống bên cạnh nàng và nói, “Bây giờ, nếu cô vui lòng, nếu cô có thể giữ im lặng hoàn toàn, tôi sẽ làm nhanh thôi. Giá mà tôi có thể chịu đau đớn thay cô, tôi sẽ chịu nó gấp ba lần hơn, nhưng tôi hứa là nó sẽ qua nhanh thôi.” Cuối cùng, anh nhẹ nhàng dùng ngón tay trét thứ thuốc cao kỳ diệu từ đầu cho tới chót đuôi.
            Cuộc đời đầy những chuyện lạ lùng, và điều thật sự lạ lùng là lúc John đang nói, cô gái bị ếm bùa dường như không hiểu gì cả, và nàng chỉ có thể làm theo lời khẩn khoản đó thông qua những cử chỉ của anh. Sau đó, họ trò chuyện với nhau một cách hân hoan như thể họ chưa từng làm điều gì khác hơn trong suốt cuộc đời của họ. Nhưng họ không trò chuyện lâu lắm, vì đột nhiên xuất hiện tiếng lách cách của mái chèo, và ngay sau đó một bàn tay xương xẩu thò qua ngưỡng cửa sổ. Phần bánh mì, trái cây và nước uống hàng ngày của nàng được đặt lên cửa sổ. Tiếng chào “Halloo!” của Vua Cá khi ông ta đặt cái giỏ trở lại con thuyền khiến cho máu trong người John lạnh toát. Anh chờ cho tới khi tiếng khua của mái chèo tắt hẳn. Rồi anh nắm lấy bàn tay của cô gái, cả hai cùng bước xuống cầu thang. Ở đó, họ lao vào dòng nước tối, và ngay sau đó nhận ra họ đang ngồi với nhau trên thảm cỏ xanh rì bên bờ suối dưới ánh nắng chiều, gần như nín thở nhưng vui sướng không tả xiết. Trên đầu họ, những con quạ đen và quạ gáy xám đang quàng quạc chuyện trò như thể chúng đang tạ ơn trời đất vì đã nhìn thấy họ ở đó. John rũ khỏi chiếc áo khoác anh đã bỏ lại bên dưới gốc cây mười bảy hôm trước những nấm mốc và sương, hong nó khô dưới ánh nắng, rồi khoác lên vai cô gái.
            Họ về tới làng Tussock khi trời đã sụp tối một lúc lâu. Trên đường làng và những cánh đồng không có một bóng người nào cả. John nhìn mẹ anh qua cửa sổ. Bà ngồi lẻ loi bên cạnh lò sưởi, nhìn đăm đăm vào ngọn lửa, và trông có vẻ như bà chẳng bao giờ ấm lại. Khi John bước vào ôm chầm lấy bà trong vòng tay, đầu tiên bà nghĩ rằng bà sắp ngất đi, rồi bà bắt đầu khóc nho nhỏ, rồi trách mắng John như chưa bao giờ trách mắng anh trước đó. John lau nước mắt cho bà và xin bà đừng rầy la nữa. Sau khi kể tóm tắt cho bà nghe câu chuyện, anh đưa cô gái vào nhà. Trước tiên, mẹ của John nhún gối chào nàng, rồi bà hôn nàng và nói lời đón mừng nàng. Sau đó, bà nghe lại câu chuyện của John từ đầu tới cuối trước khi họ đi ngủ. Tối hôm ấy, giường của John là cái ghế bành.
            Một buổi sáng nọ, trước khi những chiếc chuông của nhà thờ Tussock, một ngôi nhà thờ nhỏ và lâu đời, reo lên những hồi chuông chúc mừng hôn lễ của John và cô gái, John lên đường thật sớm để trèo qua bức tường một lần nữa. Trong lúc vội vã thoát khỏi ngôi nhà của tên phù thủy, nàng đã để quên những tài sản của mình. Đặc biệt là một cái hộp hoặc tráp bằng chì, có khắc một chữ A lớn – viết tắt của Almanara; đó là tên của nàng.
            Rất thận trọng, John cởi áo khoác ra và lặng lẽ lặn xuống, bơi qua vòm đá. Rồi anh đi tới góc của căn phòng nơi cô gái từng chịu cảnh giam cầm đau khổ, đứng bên cạnh cái tráp bằng chì một cách an toàn. Nhưng khi cúi xuống nhấc nó lên, anh bắt đầu gặp rắc rối. Nó nặng quá mức, và anh có thể chìm xuống đáy nước nếu mang nó theo khi bơi. Anh ngồi ngẫm nghĩ một lúc, cuối cùng trèo lên cánh cửa sổ đá được chạm những bông hoa, chim chóc và cá, nhìn ra ngoài. Bên dưới là một rãnh nước nổi lềnh bềnh những cành lá huệ tây, không biết sâu đến cỡ nào. Nhưng may mắn thay, có một sợi thừng thắt nút treo trên một cái móc trong ngưỡng cửa sổ, chắc chắn là để Vua Cá cột chiếc thuyền của ông ta. John kéo sợi dây vào, cột một đầu vào cái vòng trên chiếc tráp chì và đầu kia vào một cái ghế gỗ nhỏ. Cuối cùng, sau một lúc lâu gắng sức, anh đưa được cái tráp lên ngưỡng cửa sổ. Anh đẩy nó ra, và nó rơi xuống, như một con heo nhỏ, kéo theo cái ghế. John lại trèo lên cửa sổ nhìn ra. Cái ghế nổi bập bềnh trên mặt nước bên dưới. Chỉ có một sự im lặng sâu thẳm sau tiếng va chạm mặt nước của cái tráp lúc nãy. Sau khi kéo nó lên khỏi rãnh nước, John đánh liều đi ra những bức tường bên ngoài để tìm căn phòng chứa cá của Vua Cá. Anh rất muốn gặp người hầu gái để cám ơn lần nữa. Cuối cùng khi anh tìm ra nó, nó hoàn toàn im ắng không một bóng người. Anh trèo lên cửa sổ nhìn vào, nhưng mau chóng nhảy xuống lại, vì những con cá bị treo bên trong đã chết cứng. Người hầu gái bé nhỏ đã đi khỏi. Nhưng John không bao giờ biết và cũng không bao giờ khám phá ra được cô ta có thử sử dụng thứ thuốc cao ma thuật trên chính bản thân Vua Cá rồi sau đó sợ hết hồn với những gì xảy ra và đã bỏ trốn, hay đã thử trên cả hai người và bây giờ họ đã trở thành cái gì đó mà anh cũng không tài nào đoán nổi. Anh rất buồn vì không gặp lại cô ta, và luôn nghĩ tới cô ta với thiện cảm chân thành.
Đi rồi lại nghỉ, nghỉ rồi lại đi, anh mất ba ngày để đưa cái tráp về nhà, dù đã xoay xở mượn được một chiếc xe cút kít cho hai dặm cuối cùng. Nhưng những khó khăn ấy cũng xứng đáng bỏ công. Khi anh nạy được cái nắp ra, trông như thể một dải cầu vồng đột ngột rọi sáng rực cả nhà bếp, cái tráp đó đựng đầy những viên đá quý. Sau đám cưới, Amanara đã nhờ thợ khắc thêm một chữ J lên cái tráp sau chữ A, vì giờ đây nó chứa đựng tài sản của cả hai người.
Nhưng dù John đã kết hôn, và không chỉ bớt lười nhác hơn mà còn hạnh phúc như một ông hoàng-thợ câu, khi ngọn gió nam mát dịu thổi về, những chiếc lá trở nên xanh mơn mởn trên những tàng cây và lũ chim kêu hót véo von, anh vẫn không thể ngăn được những ý nghĩ của mình khỏi niềm khát khao sông nước. Vì thế đôi khi anh tự mình trộn một ít bột nhão làm mồi câu hoặc đào vài con giun đất rồi lên đường đi câu cá. Nhưng anh đã tự đặt ra cho mình hai quy tắc. Thứ nhất, bất cứ khi nào anh câu được một con cá nào, đặc biệt là cá chép, anh luôn luôn trét một chút thuốc cao vào đỉnh đầu nó; và thứ hai, khi đã chắc chắn rằng con cá đó thật sự là cá, không là gì khác ngoài cá, anh sẽ thả nó xuống nước trở lại. Còn ngôi nhà của gã phù thủy, anh đã thề với Almanara và mẹ anh rằng anh sẽ không bao giờ đến câu cá ở đó nữa. Và anh đã không bao giờ làm điều đó.





[1] Giant Killer tức Jack (xem chú thích ở truyện Dick và cây đậu thần).
[2] Simple Simon: Một nhân vật trong bài hát ru em cùng tên phổ biến ở Anh. Trong đó có câu: “Simon  đi câu cá voi, nhưng tất cả nước mà nó có nằm trong cái xô của mẹ nó”.
[3] Thủ đô và thành phố lớn nhất của Syria.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét