Nguyễn Thành Nhân dịch
Với Septimus Warren Smith, đang ngồi trên chiếc
trường kỷ trong phòng khách, dường như ánh sáng và bóng tối cứ đến rồi đi, vẫy
tay, ra dấu, khi khiến cho bức tường xám đi, khi khiến cho những quả chuối trở
nên vàng rực, khi khiến cho phố Strand xám đi, khi khiến cho những chiếc xe
buýt trở nên vàng rực; quan sát màu vàng
long lanh như nước bừng lên và nhòa đi với sự nhạy cảm lạ lùng của một sinh vật
nào đó trên những bông hồng, trên lớp giấy dán tường. Ngoài đường, những cây
cối kéo những chùm lá của chúng như kéo những tấm lưới qua những độ sâu của bầu
không khí; trong phòng có âm thanh của nước và xuyên qua những làn sóng vang
lên tiếng hót của lũ chim. Mọi sức mạnh trút những báu vật của chúng lên đầu
anh, và bàn tay nằm đó, trên lưng trường kỷ, như anh đã nhìn thấy bàn tay của
anh nằm trong lúc anh đang tắm, nổi lềnh bềnh, trên đỉnh những làn sóng, trong
lúc từ bờ biển xa xa anh nghe thấy tiếng lũ chó sủa, ngày càng xa hơn. Đừng sợ
nữa, quả tim trong cơ thể cất tiếng; đừng sợ nữa.
Anh không sợ. Ở mỗi khoảnh khắc, Tự nhiên biểu lộ,
thông qua một ám hiệu vui tươi như cái chấm vàng di chuyển vòng quanh bức tường
đó – đó, đó, đó – quyết tâm thể hiện của nàng, bằng cách vung những chiếc lông
chim của nàng lên, lắc lư bím tóc của nàng, vung vẩy chiếc áo choàng của nàng
sang bên này bên khác một cách đẹp mắt, luôn một cách đẹp mắt, và đứng sát lại
gần để thì thào qua đôi bàn tay chụm lại những từ ngữ của Shakespeare, ý nghĩa
của nàng.
Rezia, đang ngồi ở bàn, hai tay vặn vẹo một cái mũ,
quan sát anh; thấy anh mỉm cười. Vậy là anh hạnh phúc. Nhưng cô không chịu nổi
việc nhìn thấy anh mỉm cười. Đó không phải là hôn nhân; làm chồng của một người
không phải là để trông lạ lùng như thế, lúc nào cũng giật mình, cười phá lên,
ngồi lặng thinh hết giờ này sang giờ khác, hoặc vồ lấy cô và bảo cô viết. Cái
ngăn bàn đầy những bài viết đó; về cuộc chiến; về Shakespeare; về những khám
phá lớn lao; việc không có cái chết ra sao. Gần đây anh đã trở nên kích động
một cách bất ngờ không vì lý do gì cả (và cả bác sĩ Holmes lẫn ngài William
Bradshaw đều bảo sự kích động là điều tệ hại nhất đối với anh), và vung vẫy đôi
tay, hét lên rằng anh biết sự thật! Anh biết mọi thứ! Người đàn ông đó, người
bạn đã bị giết của anh, Evans, đã tới, anh nói. Anh ta đang hát sau bức bình
phong. Cô đã viết lại nó ngay trong lúc anh nói. Có những điều rất đẹp; những
điều khác hoàn toàn vô ý nghĩa. Và anh luôn dừng lại giữa chừng, đổi ý; muốn bổ
sung thêm điều gì đó; đang nghe thấy điều gì đó mới; lắng nghe với bàn tay giơ
lên.
Nhưng cô không nghe thấy gì cả.
Có lần họ phát hiện ra cô gái dọn phòng đang đọc một
trong những tờ giấy đó và cười sằng sặc. Đó là một điều đáng tiếc kinh khủng.
Vì điều đó khiến cho Septimus kêu lên về sự tàn ác của con người – họ đã xé
nhau ra thành từng mảnh ra sao. Họ xé những người ngã xuống thành từng mảnh,
anh nói. “Holmes đang tấn công chúng ta,” anh thường nói, và anh thường bịa ra
những câu chuyện về Holmes; Holmes ăn cháo đặc; Holmes đang đọc Shakespeare –
khiến anh phải cười to hoặc gầm lên giận dữ, vì dường như bác sĩ Holmes đại
diện cho một điều gì đó kinh khủng đối với anh. “Bản chất con người,” anh gọi
ông ta như vậy. Rồi còn có những ảo ảnh. Anh bị chết đắm, anh thường nói, và
đang nằm trên một vách đá với những con chim hải âu đang gào thét bên trên
người anh. Anh thường nhìn qua mép trường kỷ xuống biển. Hoặc anh đang nghe
nhạc. Thật ra đó chỉ là một tiếng đàn thùng hay tiếng người đàn ông nào đó đang
la lối dưới phố. Nhưng anh thường kêu lên “Thật tuyệt vời!” và đôi dòng lệ lăn
xuống má anh, điều đáng sợ nhất đối với cô: nhìn thấy một người đàn ông như
Septimus, kẻ đã từng chiến đấu, kẻ quả cảm, đang khóc. Và anh thường nằm lắng
nghe cho tới khi đột nhiên anh la lên rằng anh đang rơi xuống, rơi vào những
ngọn lửa! Thật ra cô đã tìm kiếm những ngọn lửa, hình ảnh đó quá sống động.
Nhưng không có gì cả. Họ đang ở một mình trong phòng. Đó là một giấc mơ, cô
thường nói với anh và cuối cùng giúp anh bình lặng lại, nhưng đôi khi cô cũng
khiếp sợ. Cô thở dài trong lúc ngồi may.
Tiếng thở dài của cô dịu nhẹ đầy mê hoặc, như gió
thổi ngoài một cánh rừng lúc ban chiều. Khi cô đặt cây kéo xuống; khi cô quay
sang để lấy món gì đó trên bàn. Một chuyển động nho nhỏ, một nét lượn thoáng
qua, một tiếng vỗ khe khẽ, đã tạo nên thứ gì đó trên cái bàn, nơi cô đang ngồi
may. Qua đôi hàng mi anh có thể nhìn thấy đường nét nhòa nhòa của cô, thân hình
màu đen của cô; gương mặt và đôi bàn tay của cô; những cử động xoay người của
cô ở bàn, khi cô cầm lấy một ống chỉ, hay tìm kiếm (cô có khuynh hướng hay để
thất lạc các thứ) miếng lụa. Cô đang may một cái nón cho cô con gái đã lấy chồng
của bà Filmer, tên là – anh đã quên mất tên của cô ta.
“Tên của cô con gái đã lấy chồng của bà Filmer là gì
nhỉ?” Anh hỏi.
“Peters.” Cô đáp. Cô e là nó quá nhỏ, cô nói, giơ nó
ra trước mặt. Peters là một phụ nữ to lớn; nhưng cô không ưa cô ta. Chỉ vì bà
Filmer cư xử rất tốt với họ. “Hồi sáng này bà ấy cho em nho,” cô nói – Rezia
muốn làm gì đó để tỏ ra rằng họ biết ơn. Một chiều nọ cô bước vào phòng mình và
thấy cô Peters, do tưởng là họ đã đi ra ngoài, đang mở cái máy hát.
“Thật thế à?” Anh hỏi. Cô ta đang mở cái máy hát sao?
Phải; cô đã kể với anh suốt buổi về chuyện đó; cô đã phát hiện ra cô Peters
đang mở cái máy hát.
Anh bắt đầu, rất thận trọng, mở mắt ra, để nhìn xem
cái máy hát có thật sự ở đó không. Nhưng những đồ vật thật sự – những đồ vật
thật sự quá kích thích. Anh phải cảnh giác. Anh sẽ không phát điên. Thoạt tiên
anh nhìn những tờ giấy vẽ kiểu nón ở cái kệ thấp, rồi dần dà nhìn vào cái máy
hát với cái loa màu xanh. Không gì có thể xác thực hơn. Và thế là, gom hết can
đảm, anh nhìn cái tủ ngăn, đĩa chuối; bức tranh chạm hình Nữ hoàng Victoria và Hoàng tử
Consort; nhìn cái bệ lò sưởi, với lọ hoa hồng. Không thứ nào trong số các vật
này chuyển động. Tất cả đều bất động; tất cả đều có thật.
“Cô ta là một người đàn bà có cái lưỡi đầy ác ý.”
Rezia nói.
“Ông Peters làm nghề gì?” Septimus hỏi.
“Ờ,” Eezia nói, cố nhớ lại. Cô nghĩ bà Filmer đã bảo
rằng anh ta đi lại giao dịch cho một công ty nào đó. “Ngay lúc này anh ta ở Hull,” cô nói.
“Ngay lúc này!” Cô nói câu đó với giọng Ý của mình.
Cô tự nói câu đó. Anh che mắt lại để có thể nhìn thấy chỉ một phần nhỏ trên
gương mặt cô mỗi lần, trước tiên là cằm, rồi tới mũi, rồi tới trán, phòng khi
nó bị biến dạng, hay trên đó có một dấu vết kinh khủng nào đó. Nhưng không, cô
ngồi đó, hoàn toàn tự nhiên, đang may, với đôi môi mím lại mà những người phụ
nữ có, hình thể đó, biểu hiện buồn bã đó, khi đang may. Nhưng ở nó không có gì
kinh khủng cả, anh tự trấn an mình, tìm kiếm lần thứ hai, lần thứ ba ở gương
mặt của cô, đôi bàn tay của cô, một thứ đáng sợ hay có tính chất ngụy trang ở
cô trong lúc cô ngồi dưới ánh ngày thoáng đãng, đang may? Cô Peters có một cái
lưỡi đầy ác ý. Ông Peters đang ở Hull.
Vậy thịnh nộ và tiên đoán là sao? Bị hành hạ và ruồng bỏ là sao? Bị những đám
mây khiến cho run lên và khóc nức nở là sao? Vì sao phải tìm kiếm sự thật và
đem tới những thông điệp khi Rezia ngồi đính những cây kim gút vào phía trước
cái váy của mình và ông Peters đang ở Hull?
Những phép mầu, những phát hiện, những nỗi thống khổ, sự lẻ loi, đang rơi qua
biển, rơi mãi, vào những ngọn lửa, tất cả cháy tan tành, vì anh có một ý thức,
trong lúc quan sát Rezia tô điểm cho cái mũ rơm của cô Peters, về một tấm khăn
trải giường in hoa.
“Nó quá bé đối với cô Peters.” Septimus nói.
Lần đầu tiên trong suốt nhiều ngày anh đang nói như
dạo trước! Dĩ nhiên là thế – nhỏ một cách phi lý, cô nói. Nhưng cô Peters đã
chọn nó.
Anh nhấc nó khỏi tay cô. Anh nói nó là mũ của con khỉ
của người quay đàn hộp.
Câu nói đó khiến cô vui dạ biết bao! Đã nhiều tuần họ
không cười với nhau như thế này, chọc ghẹo nhau một cách kín đáo riêng tư như
những người đã kết hôn. Ý của cô là nếu bà Filmer có bước vào, hoặc cô Peters hoặc
bất kỳ người nào, họ sẽ không hiểu cô và Septimus đang cười cái gì.
“Kìa,” cô nói, ghim một bông hồng vào một phía của
cái nón. Cô chưa bao giờ sung sướng đến thế! Chưa bao giờ trong cuộc đời cô!
Nhưng việc đó chỉ thêm lố bịch, Septimus nói. Giờ đây
người đàn bà tội nghiệp đó giống như một con lợn trong một buổi hội chợ. (Chưa
hề có ai làm cho cô cười lăn lóc như Septimus.)
Cô có thứ gì trong hộp đồ nghề của mình? Cô có những
dải ruy băng và hạt cườm, những núm tua, những đóa hoa giả. Cô đổ ào chúng lên
bàn. Anh bắt đầu xếp những màu sắc kỳ quặc lại với nhau – vì dù anh không có những ngón tay khéo léo,
thậm chí không thể gói một gói đồ, anh có một con mắt tuyệt vời, và thường là
anh đúng, đôi khi phi lý, tất nhiên, nhưng đôi khi đúng một cách tuyệt vời.
“Cô ta sẽ có một cái nón đẹp!” Anh lẩm bẩm, cầm thứ
này thứ kia lên. Rezia quỳ gối cạnh anh, nhìn qua vai anh. Giờ nó đã hoàn tất –
đó là nói về thiết kế; cô phải đính các thứ lại với nhau. Nhưng cô phải rất,
rất cẩn thận, anh nói, để giữ cho nó nguyên vẹn như anh đã sắp xếp.
Thế rồi cô may. Khi cô may, anh nghĩ, cô tạo ra một
âm thanh giống như tiếng một cái ấm nước trên bếp ủ ấm; sôi lục bục, rì rầm,
luôn bận bịu, những ngón tay búp măng nhỏ nhắn kéo và đẩy, cây kim chuyển động
vun vút. Mặt trời có thể vào và ra, trên những cái núm tua, trên lớp giấy dán
tường, nhưng anh sẽ đợi, anh nghĩ, duỗi hai bàn chân ra, nhìn chiếc vớ ngắn có
viền ở đầu cái trường kỷ, anh sẽ đợi trong nơi chốn ấm áp này, cái hốc chứa
đựng không khí yên tĩnh này, mà đôi khi người ta bắt gặp ở một bìa rừng vào lúc chiều hôm, khi mà, vì một cú ngã
lăn ra đất, hoặc vì một sự sắp xếp nào đó của những cây cối (người ta phải có
đầu óc khoa học trên hết, có đầu óc khoa học), hơi ấm còn vương vất, và không
khí quật vào gò má như cánh của một con chim.
“Đây này,” Rezia nói, xoay tròn cái nón của cô Peters
trên những đầu ngón tay. “Nó sẽ xong trong giây lát. Sau đó…” câu nói của cô
sủi tăm lên, nhỏ giọt, nhỏ giọt, nhỏ giọt, như một cái vòi nước mãn nguyện được
để mặc cho chảy tí tách.
Nó thật tuyệt diệu. Anh chưa bao giờ làm bất cứ điều
gì khiến anh thấy tự hào đến vậy. Nó rất thật, nó rất cụ thể, cái mũ của cô
Peters.
“Cứ nhìn nó mà xem.” Anh nói.
Phải, việc nhìn cái nón đó sẽ luôn khiến cho cô hạnh
phúc. Vậy là anh đã trở lại là chính
mình, vậy là anh đã cười. Họ chỉ có một mình với nhau. Cô sẽ luôn luôn thích
cái mũ đó.
Anh bảo cô thử đội nó lên.
“Nhưng chắc trông em phải rất kỳ cục!” Cô la lên,
chạy tới chỗ tấm gương và nhìn, đầu tiên phía này, rồi tới phía kia. Rồi cô lại
lột nó xuống, vì có tiếng gõ cửa. Đó phải chăng là ngài William Bradshaw? Ông
ta đã tới rồi sao?
Không! Chỉ là con bé gái với tờ báo buổi chiều.
Điều luôn xảy ra, lúc đó đã xảy ra – điều xảy ra mỗi
tối trong đời họ. Con bé ấn ngón cái vào cửa; Rezia quỳ sụp xuống; Rezia nói
thủ thỉ và hôn nó; Rezia lấy ra từ trong ngăn bàn một túi kẹo. Vì nó luôn xảy
ra như vậy. Đầu tiên là điều này, rồi tới điều khác. Cứ thế cô dựng nó lên, đầu
tiên là một thứ, rồi tới thứ khác. Họ múa may, nhảy tung tăng vòng quanh căn
phòng. Anh cầm lấy tờ báo. Toàn hạt Surrey đều ra khỏi nhà, anh đọc. Có một đợt
nắng nóng. Rezia lặp lại: Toàn hạt Surrey đều ra khỏi nhà; có một đợt nắng nóng;
biến nó thành một phần của trò chơi mà cô đang chơi với cháu ngoại của bà
Filmer. Anh rất mệt mỏi. Anh rất hạnh phúc. Anh sẽ ngủ. Anh nhắm mắt lại. Nhưng
ngay tức khắc anh không thấy gì nữa, những âm thanh của cuộc chơi trở nên nhạt
nhòa đi đến lạ và nghe như tiếng kêu của những người đang tìm kiếm và không tìm
thấy, và đi ngày càng xa dần. Họ đã lạc khỏi anh!
Anh giật mình nhổm dậy trong nỗi kinh hoàng. Anh đã
nhìn thấy điều gì? Cái đĩa chuối trên cái tủ ngăn. Không có ai ở đó (Rezia đã
đưa con bé tới chỗ mẹ nó. Đã tới giờ ngủ). Là thế đó: cô đơn mãi mãi. Đó là số
phần bất hạnh đã được công bố ở Milan khi anh bước vào phòng và nhìn thấy họ
đang cắt những mảnh vải hồ với mấy cây kéo của họ; sống cô đơn mãi mãi.
Anh lẻ loi một mình với cái tủ ngăn và nải chuối. Anh
cô đơn, phơi trần ra trên mô đất hoang vu này, duỗi dài ra – nhưng không phải
trên một ngọn đồi – trên đỉnh; không phải trên một vách đá cheo leo; mà trên
cái trường kỷ trong phòng khách của bà Filmer. Còn về phần những ảo ảnh, những
gương mặt, những giọng nói của những người chết, chúng đâu rồi? Ở trước mặt anh
có một bức bình phong, với những cây cỏ chỉ đen và những con chim nhạn màu
xanh. Ở nơi trước đó anh đã nhìn thấy những ngọn núi, ở nơi anh đã nhìn thấy
những gương mặt, ở nơi anh đã nhìn thấy vẻ đẹp, có một bức bình phong.
‘Evans!” Anh kêu lên. Không có lời đáp. Một con chuột
nhắt ré lên, hoặc một tấm màn che kêu sột soạt. Đó là những giọng nói của những
người chết. Bức bình phong, cái thùng đựng than, cái tủ ngăn ở lại với anh. Vậy
anh cứ để cho đối mặt với bức bình phong, cái thùng đựng than và cái tủ ngăn…
nhưng Rezia vừa lao vào phòng vừa nói líu lo.
Có một lá thư đã đến. Các kế hoạch của mọi người đã
thay đổi. Rốt cuộc bà Filmer sẽ không thể tới Brighton được. Không có thì giờ
để cho bà Willliam biết, và thật sự Rezia nghĩ thật rất, rất bực mình, khi cô
bắt gặp cái mũ và nghĩ… có lẽ… cô… có thể làm một chút… Giọng của cô tắt lịm
trong giai điệu mãn nguyện.
“Ôi, chết tiệt!” Cô kêu lên (đó là một cách đùa của
họ, tiếng chửi thề của cô), cây kim đã gãy. Mũ, trẻ con, Brighton, cây kim. Cô xây
đắp nó; trước tiên là thứ này, rồi tới thứ kia, cô xây đắp nó, trong lúc may.
Cô muốn anh nói rằng bằng cách dời chỗ cái bông hồng
cô đã cải thiện cho cái mũ. Cô ngồi ở đầu cái trường kỷ.
Giờ thì họ hoàn toàn hạnh phúc, cô nói, đột ngột, đặt
cái mũ xuống. Vì lúc này cô có thể nói với anh bất cứ điều gì. Cô có thể nói
bất cứ thứ gì nảy ra trong đầu mình. Đó hầu như là điều đầu tiên cô đã cảm thấy
về anh, đêm hôm đó trong quán cà phê khi anh tới với những người bạn Anh của
mình. Anh đã bước vào, khá bẽn lẽn. nhìn quanh mình, và cái mũ của anh đã rơi
xuống khi anh treo nó lên. Cô có thể nhớ chuyện đó. Cô biết anh là người Anh,
dù không nằm trong số những người Anh to lớn mà chị gái cô ngưỡng mộ, vì anh
luôn gầy gò; nhưng anh có một màu da tươi tắn đẹp đẽ; và với cái mũi to, đôi
mắt sáng, cách thức anh ngồi hơi khòm xuống một chút khiến cho cô suy nghĩ, cô
đã thường nói với anh, tới một con chim ưng non, cái buổi tối đầu tiên cô gặp
anh đó, khi họ đang chơi cờ đô mi nô, và anh bước vào – một con chim ưng non;
nhưng với cô anh luôn rất dịu dàng. Cô chưa bao giờ trông thấy anh nổi điên lên
hay say rượu, chỉ đôi khi chịu đau khổ trong cuộc chiến khủng khiếp này, nhưng
ngay cả như vậy, khi cô bước vào, anh sẽ gạt bỏ nó đi. Bất cứ thứ gì, bất cứ
thứ gì trên toàn cõi thế này, bất cứ phiền muộn nhỏ nhoi nào với công việc của
mình, bất cứ thứ gì buộc cô phải nói ra cô sẽ nói với anh, và anh hiểu ngay lập
tức. Ngay cả chính gia đình cô vẫn không giống như vậy. Lớn tuổi hơn cô và
thông minh đến thế – anh thật là nghiêm túc, muốn cô đọc Shakespeare thậm chí
trước khi cô có thể đọc một câu chuyện thiếu nhi bằng tiếng Anh! – vì có nhiều
kinh nghiệm hơn, anh có thể giúp cô. Và cô cũng có thể giúp anh.
Nhưng giờ là cái mũ này. Và sau đó (đêm đã khuya) là
ngài William Bradshaw.
Cô áp hai tay vào đầu, chờ anh nói xem anh có thích
cái mũ hay không, và trong lúc cô ngồi đó, chờ đợi, nhìn xuống, anh có thể cảm
nhận được tâm trí cô, như một con chim, rơi từ nhánh này sang nhánh khác, và
luôn luôn tỏa sáng, một cách hoàn toàn chính đáng; anh có thể dõi theo tâm trí
của cô, trong lúc cô ngồi đó, trong một tư thế uể oải đến với cô một cách tự
nhiên và, nếu anh nói bất cứ điều gì, cô sẽ mỉm cười ngay lập tức, như một con
chim tỏa sáng với mọi móng vuốt của nó cắm chặt vào cành cây.
Nhưng anh nhớ Bradshaw nói, “Những người chúng ta yêu
quý nhất không tốt đối với chúng ta khi chúng ta bị ốm.” Bradshaw nói anh phải
được dạy cho cách nghỉ ngơi. Bradshaw nói họ phải cách ly nhau.
“Phải,” “phải,” vì sao lại “phải”? Bradshaw có quyền
gì đối anh? “Bradshaw có quyền gì để nói ‘phải’ với tôi?” Anh vặn hỏi.
“Đó là vì anh đã nói tới việc tự sát.” Rezia đáp.
(Trời đất thương tình, giờ cô không thể nói gì với Septimus.)
Vậy là anh đang nằm trong vòng quyền lực của họ!
Holmes và Bradshaw đang áp chế anh! Tên cục súc với hai lỗ mũi đỏ đang đánh hơi
sục sạo vào mọi nơi chốn bí mật! Nó có thể nói “phải”! Những tờ giấy của anh
đâu rồi? Những thứ anh đã viết ra đâu?
Cô mang tới cho anh những tờ giấy, những thứ anh đã
viết, những thứ mà cô đã viết giùm anh. Cô quẳng nó lên cái trường kỷ. Họ cùng
nhìn vào chúng. Những sơ đồ, những thiết kế, những người đàn ông và phụ nữ nhỏ
bé đang vung những cái que thay cho vũ khí; họ có cánh – phải không? – ở sau
lưng; những vòng tròn phỏng theo những đồng siling và đồng sáu su – những vầng thái dương và những vì sao; những vách
núi ngoằn ngoèo khúc khuỷu với những người leo núi đang cùng trèo lên, giống
hệt những những con dao và nĩa ăn; những mảnh biển khơi với những bộ mặt cười
ló ra từ cái có lẽ là những lượn sóng: tấm bản đồ thế giới. Đốt chúng đi! Anh
kêu lên. Còn giờ là những ghi chép của anh; những người chết ca hát ra sao đằng
sau những bụi đỗ quyên; những bài tụng ca Thời gian; những cuộc đối thoại với
Shakespeare; Evans, Evans, Evans – những thông điệp từ những người chết của anh
ta; đừng đốn hạ cây cối; hãy nói với Thủ tướng. Tình yêu phổ quát: ý nghĩa của
thế giới. Đốt chúng đi! Anh kêu lên.
Nhưng Rezia đặt hai tay lên chúng. Một số rất đẹp, cô
nghĩ. Cô sẽ cột chúng lại (vì cô không có phong bì) bằng một dải lụa.
Ngay cả khi họ
đưa anh đi, cô nói, cô sẽ đi với anh. Họ không thể phân ly cô và anh ngược với
ý muốn của hai người, cô nói.
Cô xếp lại cho các mép giấy ngay hàng thẳng lối, và
cột chồng giấy lại, hầu như không cần nhìn, đang ngồi cạnh anh, anh nghĩ, như
thể toàn bộ những cánh hoa của cô đang vây quanh cô. Cô là một cây trổ hoa; và
xuyên qua những cành lá của cô ló ra gương mặt của một người làm ra luật, kẻ đã
tới một chốn trú ẩn, nơi cô không còn sợ một ai; không sợ Holmes; không sợ
Bradshaw; một phép mầu, một thắng lợi, cuối cùng và vĩ đại nhất. Anh thấy cô
lảo đảo leo lên cái cầu thang đáng sợ, cõng trên lưng Holmes và Bradshaw, những
kẻ chưa bao giờ nặng dưới một trăm sáu mươi cân Anh, những kẻ đã đưa vợ họ tới
triều đình, những kẻ kiếm được mười ngàn bảng mỗi năm và nói về sự tương quan;
những kẻ có phán quyết khác nhau (vì Holmes nói một đằng, Bradshaw nói đằng
khác), thế nhưng họ là quan tòa; những kẻ trộn lẫn ảo ảnh với cái tủ ngăn;
không thấy gì rõ ràng, thế nhưng lại thống trị, thế nhưng lại có thẩm quyền.
“Phải,” họ nói. Cô đã chiến thắng họ.
“Đó!” Cô nói. Chồng giấy đã được cột lại. Sẽ không ai
chạm vào chúng. Cô sẽ cất chúng đi.
Và, cô nói, không gì có thể phân cách họ. Cô ngồi
xuống cạnh anh và gọi anh bằng cái tên của con chim ưng hoặc con quạ đó, cũng
ác độc và là một kẻ phá hoại mùa màng vĩ đại giống hệt như anh. Không ai có thể
phân cách họ, cô nói.
Rồi cô đứng lên, định đi vào phòng ngủ để gói ghém đồ
đạc của họ, nhưng nghe thấy những giọng nói bên dưới cầu thang và nghĩ rằng có
lẽ bác sĩ Holmes đã ghé tới, cô chạy xuống để ngăn không cho ông ta đi lên.
Septimus có thể nghe tiếng cô nói chuyện với Holmes ở
đầu cầu thang.
“Quý bà thân mến của tôi, tôi tới với tư cách một
người bạn.” Holmes đang nói.
“Không. Tôi sẽ không cho phép ông gặp chồng tôi.” Cô
nói.
Anh có thể trông thấy cô, giống như một con gà mái,
với đôi cánh dang ra để cản đường ông ta. Nhưng Holmes rất kiên trì.
“Quý bà thân mến của tôi, hãy cho phép tôi…” Holmes
nói, đẩy cô sang một bên (Holmes là một gã to lớn cường tráng).
Holmes đang đi lên gác. Holmes sẽ mở toang cửa.
Holmes sẽ nói “Đang hoảng sợ, hử?” Holmes sẽ tóm được anh. Nhưng không; Holmes
thì không; Bradshaw thì không. Đứng lên một cách khá loạng choạng, thật sự là
đang nhảy lò cò, anh xem xét con dao cắt bánh mì sạch đẹp của bà Filmer với chữ
“Bánh mì” khắc trên cán. Chà, nhưng người ta không được làm hỏng thứ đó. Lửa
bếp ga chăng? Nhưng giờ đã quá muộn. Holmes đang tới. Anh có thể lấy những con
dao cạo, nhưng Rezia, kẻ luôn làm loại công việc đó, đã gói chúng lại. Chỉ còn
cái cửa số, cái cửa sổ nhà trọ rộng lớn của khu Bloomsbury, chỉ còn cái công
việc mệt mỏi, rắc rối và khá bi thảm là mở cánh cửa sổ và tự quăng mình ra
ngoài. Đó là ý tưởng của họ về tấn bi kịch chứ không phải của anh hay của Rezia
(vì cô đứng về phía anh). Holmes và Bradshaw khoái kiểu đó. (Anh ngồi lên bệ
cửa sổ.) Nhưng anh sẽ chờ cho tới giây phút cuối. Anh không muốn chết. Cuộc
sống thật tốt đẹp. Mặt trời nóng ấm. Chỉ có con người – họ muốn gì nhỉ? Đi
xuống thang đối mặt với một người đàn ông lớn tuổi ngăn anh lại và nhìn anh
chòng chọc. Holmes đã tới cửa. “Tôi sẽ cho ông điều đó!” Anh kêu lên, và hùng
hổ, mạnh bạo, quăng mình xuống khu vực hàng rào của bà Filmer.
“Đồ hèn.” Bác sĩ Holmes la lên, mở tung cánh cửa.
Rezia chạy tới cửa sổ, cô nhìn thấy; cô hiểu. Bác sĩ Holmes và bà Filmer va vào
nhau. Bà Filmer đập vào tấm tạp dề của mình và đứng che mắt trong phòng ngủ. Có
nhiều cuộc chạy lên chạy xuống cầu thang. Bác sĩ Holmes bước vào – trắng như
một tờ giấy, cả người run lẩy bẩy, tay cầm một cái ly. Cô phải dũng cảm lên và
uống chút gì đó, ông ta nói (Thứ gì nhỉ? Một thứ gì đó ngọt), vì chồng cô đã bị
xé rách cả người một cách khủng khiếp, sẽ không tỉnh lại, cô không được nhìn
thấy anh ta, phải tránh đi càng nhiều càng tốt, sẽ có một cuộc điều tra tỉ mỉ,
người thiếu phụ tội nghiệp ạ. Ai có thể nói trước được điều đó? Một cơn bốc
đồng đột ngột, không thể đổ lỗi cho ai hết (ông nói với bà Filmer). Và anh ta
làm thế vì cái quái gì chứ, bác sĩ Holmes không thể hiểu.
Với cô, trong lúc uống thứ nước ngọt đó, dường như cô
đang mở những cánh cửa sổ dài ra, bước vào một khu vườn nào đó. Nhưng ở đâu?
Đồng hồ đang điểm giờ – một, hai, ba: âm thanh nghe thật rõ rệt; so với tất cả
những thứ thình thịch và thì thầm này; như chính bản thân Septimus. Cô đang ngủ
thiếp đi. Nhưng cái đồng hồ tiếp tục đổ chuông, bốn, năm, sáu, và bà Filmer đang
vẫy tấm tạp dề (họ sẽ không đưa cái xác vào đây chứ, phải không?) dường như là
một phần của khu vườn đó; hoặc một lá cờ. Có lần cô đã nhìn thấy một lá cờ chậm
chạp bung ra từ một cột cờ khi cô ở Venice với cô của mình. Những người đàn ông
tử trận được chào như thế, và Septimus đã trải qua cuộc chiến. Hầu hết những
hồi ức của cô đều hạnh phúc.
Cô đội mũ lên, và chạy qua những đồng lúa mạch – nó
có thể ở đâu? – trên một ngọn đồi nào đó, ở đâu đó gần biển, vì có những con
tàu, những con chim hải âu, những con bướm; họ ngồi trên một vách đá. Cả ở
London, họ ngồi đó, và trong lúc mơ mơ màng màng, đến với cô qua cánh cửa phòng
ngủ, mưa đang rơi, những tiếng lao xao thì thầm giữa những bụi lúa khô, sự mơn
trớn của biển – dường như nó đang ve vuốt cô – úp họ vào trong cái vỏ cong của
nó và thì thầm với cô đang nằm trên bờ biển, cô cảm thấy đang bị rải tung ra,
như những bông hoa bay lả tả bên trên một nấm mộ nào đó.
“Anh ấy đã chết.” Cô nói, mỉm cười với bà cụ già tội
nghiệp, kẻ đang canh chừng cô với đôi mắt xanh nhạt trung thực dán vào cánh
cửa. (Họ sẽ không đưa anh ta vào đây, có phải không?) Nhưng bà Filmer bác bỏ. Ồ
không, ồ không! Lúc này họ đang mang anh ta đi. Có nên nói cho cô ta biết hay
không? Những cặp vợ chồng nên ở cạnh nhau, bà Filmer nghĩ. Nhưng họ phải làm
như ông bác sĩ đã nói.
“Cứ để cho cô ấy ngủ.” Bác sĩ Holmes nói, sờ vào cái
ví của cô. Cô nhìn thấy đường viền tối to lớn của thân hình đang đứng ngược với
hướng cửa sổ của ông ta. Vậy ra đó là bác sĩ Holmes.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét