Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2013

Những câu chuyện kỳ bí vùng biển bắc 1


Jonas Lie


 Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
Dịch theo Bản tiếng Anh của R. Nisber Bain
Tranh Minh họa của Laurence Housman

 



Giới thiệu

Jonas Lauritz Idemil Lie (18331908): tiểu thuyết gia, được xem là một trong bốn nhà văn lớn nhất của Na Uy vào thế kỷ 19.
Ông chào đời ở Hokksund, Eiker, quận Buskerud thuộc miền Nam Na Uy. Ngay sau đó, cha ông được bổ nhiệm làm cảnh sát trưởng của vùng Tromsø, nằm trong Vòng Bắc Cực (vĩ tuyến 66°30), và cậu bé Jonas Lauritz Edemil Lie đã trải qua sáu năm đầy ấn tượng ở vùng hải cảng miền bắc xa xôi đó.
Lie được gửi tới học ở một trường hải quân ở Fredriksvỉrn, nhưng do thị lực kém, ông đành phải giã từ cuộc đời ngang dọc trên biển cả. Sau đó, ông tới học ở một trường Latin ở Bergen, và nhập học tại Đại học Cơ Đốc Giáo vào năm 1851, ở đó ông đã làm quen với Ibsen và Bjornson. Năm 1857 ông tốt nghiệp luật khoa, sau đó ít lâu bắt đầu tập sự tại Kongsvinger, một thị trấn nằm giữa hồ Mjosa và Thụy Điển.
Do vùng đó vắng thân chủ, có nhiều thời giờ rảnh rỗi, ông bắt đầu viết báo và trở thành cộng tác viên thường trực cho một số tờ tạp chí Cơ Đốc Giáo. Tác phẩm đầu tay của ông là một tập thơ công bố năm 1866 nhưng không thành công mấy. Trong bốn năm kế tiếp ông tập trung hoàn toàn vào nghề báo, làm việc hết mình mà không cần tưởng thưởng, nhưng nhờ đó ông đã thủ đắc được bút pháp của một nhà văn trẻ và tạo dựng được một văn phong hữu dụng cho sự nghiệp sau đó của ông. Năm 1860, ông xuất bản quyển Den Fremsynte (Phong cảnh hoặc Những bức tranh từ Miền Bắc), một câu chuyện thu hút về biển cả và những truyền thuyết quái dị ở miền bắc Na Uy. Nhờ một món tiền trợ cấp nhỏ của chính phủ, ngay lập tức ông lên đường tới Rome để tìm kiếm sự tương phản lớn nhất giữa Châu Âu và miền đất thời thơ ấu của mình. Ông sống một thời gian ở miền bắc nước Đức, rồi chuyển tới Bavaria, rồi tới Paris. Năm 1882 ông về thăm Na Uy một thời gian rồi quay lại Châu Âu. Sự lưu đày tự nguyện khỏi quê nhà của ông chấm dứt vào mùa xuân năm1893, khi ông định cư hẳn ở Holskogen, gần Kristiansund. Từ đó, các sáng tác của ông ngày càng phong phú.
Jonas Lie qua đời ở Stavern ngày 5-6-1908.
Trong các tác phẩm hay nhất của ông có thể kể quyển Gia đình Gilje, được so sánh ngang hàng với các tác phẩm của những nhà văn Anh như Austen và Bronte. Ngoài ra, còn có hai tuyển tập truyện ngắn có tên là Những khúc ca thần thoại (một số câu chuyện trong hai tập đó đã được R. Nisber Bain tuyển chọn và đưa vào Những câu chuyện kỳ bí vùng biển bắc), kể về những truyền thuyết quái lạ của ngư dân và thường dân vùng duyên hải Bắc Na Uy.
Trong quyển Những câu chuyện kỳ bí vùng biển bắc, Lie kể cho chúng ta nghe những truyền thuyết xa xưa của quê hương ông, miền Bắc Na Uy, những câu chuyện dữ dội mà ông đã từng nghe kể từ thời thơ ấu. Có thể nói, hẳn là chúng cũng đã từng mê hoặc và khiến cho ông ngây ngất trong niềm kinh hãi. Cuộc sống dân gian của những vùng đất quạnh hiu rộng lớn ở phía nam Bắc Cực như quyện gắn vào sự hung dữ khắc nghiệt của thiên nhiên. Hiếm khi chúng ta thấy có những yêu tinh và thần lùn thân thiện, dễ gần trong quyển truyện này. Ở vùng đất đó, phần lớn những sinh thể siêu nhiên ngự trị ở những vùng biển cả và duyên hải đều hung ác và hay gây tác hại. Dường như  chúng thù ghét con người. Chúng thích chế nhạo những lao khổ vất vả và vui đùa với nỗi tuyệt vọng của họ. Từ những truyền thuyết dân gian này, chúng ta có thể hiểu biết nhiều hơn về cuộc sống khó nhọc nhưng kiên cường bất khuất trước thiên nhiên khắc nghiệt của người dân Bắc Na Uy, cũng như của các dân tộc miền duyên hải Bắc Âu  nói chung.
Tôi xin chân thành tri ân cố dịch giả R. Nisber Bain, cố họa sĩ  Laurence Housman và những người tâm huyết đã bỏ công sức để công bố bản dịch hết thời hạn bản quyền này trên mạng internet để mọi người, ở khắp mọi nơi trên thế giới, có điều kiện thuận tiện hơn để thưởng thức những tác phẩm cổ điển hay và giá trị.

Nguyễn Thành Nhân





 
CHÀNG NGƯ PHỦ
VÀ CON THỦY QUÁI


Có một người ngư phủ nghèo tên là Elias sống ở thôn Kvalholm, mạn dưới quận Helgeland[1]. Karen, vợ anh, làm người giúp việc cho vị linh mục ở thôn Alstad mạn trên. Ở đó, họ dựng lên một túp lều, và thường ngày Elias lại ra khơi đánh cá quanh vùng Lofotens[2].
Việc thôn Kvalholm quạnh vắng bị quỷ ám là chuyện hiển nhiên, không ai còn ngờ vực về điều đó.  Mỗi khi chồng đi khỏi, Karen nghe thấy đủ loại âm thanh và tiếng hét lạ kỳ, không có chút ý nghĩa tốt lành nào. Một hôm, khi Karen đi lên đồi cắt cỏ để phơi khô dành làm thức ăn mùa đông cho hai con cừu của gia đình họ, nàng nghe thấy, rất xa xôi mơ hồ, một tiếng kêu rít kinh khủng dưới bờ biển mé chân đồi, nhưng nàng không dám nhìn xuống.
Mỗi năm nàng lại sinh một đứa con, nhưng đó không phải là gánh nặng, vì cả hai vợ chồng  nàng đều là những người tằn tiện và cần mẫn. Sau bảy năm, gia đình họ đã có sáu đứa trẻ con, nhưng mùa thu năm đó Elias  đã có những cuộc cãi cọ căng thẳng với các bạn đồng nghiệp đến mức anh nghĩ rằng mình nên đánh liều mua một chiếc thuyền sáu tay chèo[3], rồi sau đó sẽ đi đánh cá trên thuyền của riêng mình.
Một hôm, với một chiếc  lao đâm cá trong tay, suy nghĩ về mọi chuyện xảy ra, anh tình cờ đi tới gần một con hải cẩu khổng lồ, đang nằm phơi nắng ngay bên dưới một tảng đá trên bờ biển. Sự kinh ngạc của con vật khi trông thấy con người cũng tương tự sự kinh ngạc của Elias khi trông thấy nó. Nhưng Elias không dễ hoảng sợ; từ đỉnh của tảng đá anh đang đứng, Elias phóng mạnh chiếc lao dài, nặng vào giữa lưng, ngay sau cổ của con vật khổng lồ.
Ngay lập tức, con hải cẩu dựng cao cái đuôi của nó lên trời như một cây cột buồm, và nhìn Elias một cách hằn học đầy ác ý với đôi mắt đỏ ngầu máu, đồng thời nhe nanh ra, khiến cho Elias nghĩ rằng anh có thể chết đứng tim vì kinh hãi. Rồi nó lao mình xuống biển, biến mặt nước thành những vòng bọt sóng đỏ ngầu như  máu phía sau. Ngay sau đó, Elias cũng rời nơi ấy. Nhưng ngay chiều hôm đó, một khúc cán lao bằng gỗ, bị cắn đứt lìa khỏi cái mũi dài bằng sắt, đã giạt vào bãi đậu thuyền ở cửa sông Kval, mà bên  trên là ngôi nhà của anh.
Elias không nghĩ thêm gì về chuyện đó. Trong mùa thu ấy, anh mua một chiếc thuyền sáu tay chèo, mà anh đã biến thành một nơi trú ngụ nhỏ.
Một đêm thao thức, nghĩ tới chiếc thuyền mới,  anh thấy rằng có lẽ nó sẽ thăng bằng hơn nếu anh ghép thêm một khúc gỗ vào hai bên mạn thuyền. Anh yêu mến con thuyền một cách phi lý đến nỗi việc đốt lên ngọn đèn lồng và đi xuống để ngắm nhìn nó với anh cũng là một niềm vui giản dị.
Lúc bấy giờ, khi đang đứng nhìn chiếc thuyền dưới ánh đèn lồng, anh chợt thoáng thấy ở góc đối diện, trên một cuộn lưới, là gương mặt của con hải cẩu. Trong một khoảnh khắc, nó dữ tợn nhe răng ra nhìn anh và ánh đèn, miệng nó càng lúc càng há to hơn, rồi có một hình người to lớn chầm chậm lướt ra từ cái họng kinh khủng đó. Elias kịp thoáng thấy, dưới ánh đèn, một mũi sắt nhọn dài cắm trên lưng của hắn ta. Rồi cả hai nhập lại thành một và biến mất vào bóng tối. Elias không lo âu cho mạng sống của mình bằng cho chiếc thuyền, thế nên anh vẫn đứng ở đó, rồi sau đó ngồi xuống thuyền với cái đèn lồng và tiếp tục quan sát. Khi vợ anh đến đó vào sáng hôm sau, nàng thấy anh đang ngủ, với chiếc đèn lồng đã cháy rụi.
Một buổi sáng tháng Giêng, khi đang đánh cá trên thuyền cùng hai người khác, anh nghe thấy, từ bóng tối, một giọng nói  phát ra từ  một tảng đá ngầm ở cửa sông. Nó cười một cách khinh bỉ và nói rằng: “Khi ngươi có một chiếc thuyền mười tay chèo[4] thì, Elias, hãy liệu hồn!”
Nhiều năm trôi qua trước khi chuyện đó đến, nhưng một mùa thu nọ, khi thằng con trai cả Bernt của anh đã được mười sáu tuổi, Elias biết anh phải thực hiện việc này. Thế là anh đưa toàn thể gia đình cùng lên thuyền tới Ranen [5] để đổi chiếc thuyền sáu tay chèo của anh lấy một chiếc thuyền mười tay chèo, người duy nhất ở lại nhà là một bé gái người Phần Lan, mà họ đã dùng làm người giúp việc trước đó vài năm. Về sau này,  cô bé đó cũng là nhân chứng duy nhất của câu chuyện đã xảy ra.
Ở Ranen, Elias xem xét một chiếc mười tay chèo nhỏ, dành cho bốn người ngư phủ và một cậu bé trai. Một chiếc thuyền mà người thợ đóng thuyền giỏi nhất vùng đã hoàn thành và quét nhựa xong xuôi vào mùa thu đó.
Elias có một con mắt đánh giá thuyền khá tốt, và dường như chưa bao giờ anh từng nhìn thấy một chiếc thuyền mười tay chèo được đóng hoàn hảo đến thế ở phía dưới đường mớn nước. Ở phía trên đường mớn nước, thật sự trông nó chỉ ở mức trung bình, vì thế, với một người ít kinh nghiệm hơn anh, chiếc thuyền này chỉ hơi nhỉnh hơn những chiếc khác đôi chút, và không là gì ngoài một sản phẩm coi đường được.
Người chủ thuyền cũng biết tất cả giống như Elias. Ông ta cho rằng nó là một chiếc thuyền buồm nhanh nhất ở Ranen, nhưng Elias có thể mua nó với một giá phải chăng, nếu anh đồng ý hứa một điều, đó là không được thay đổi bất cứ chỗ nào trên thuyền, mà cũng không được quét thêm nhựa lên thuyền nữa. Chỉ khi Elias nhận lời ông ta mới trao cho anh chiếc thuyền đó.
Chắc hẳn “Ma vương” - kẻ đã khiến cho người thợ sử dụng trí thông minh bẩm sinh vốn hơi hiếm hoi của ông ta đóng con thuyền một cách gian trá giữa hai phần trên và dưới đường mớn nước – đã phải có mặt trước đó và định ra giá thật rẻ, để Elias có thể mua nó.  Người chủ thuyền nói thêm rằng chiếc thuyền không cần phải được xem xét quá cẩn thận, để che giấu việc con thuyền đã không được quét nhựa ở phía mũi và đuôi.  
Elias muốn giong buồm về nhà ngay, nhưng trước tiên, họ phải tới thị trấn để mua sắm những thứ  linh tinh mừng đón Lễ Giáng sinh, ngoài ra cũng để anh nhấm nháp chút rượu cho đã thèm. Mừng vì cuộc mua bán thành công, anh và cả người vợ làm thêm một ngụm, và cậu con trai Bernt của họ cũng được nếm môi chút xíu.
Sau đó, họ giong buồm con thuyền mới hướng về nhà. Không có gì nặng trên thuyền ngoài anh, vợ anh và lũ trẻ, cùng các thứ đồ đạc. Thằng Bernt con trai cả của anh ngồi bên cạnh cánh buồm chính, vợ anh, với sự giúp đỡ của thằng con trái kế, giữ những sợi dây thuyền. Elias ngồi ở bánh lái, trong khi hai đứa nhỏ hơn, mười hai và mười bốn tuổi, thay phiên nhau tát nước ra ngoài.
Họ phải vượt qua tám hải lý, và khi ra tới cửa sông, tất nhiên con thuyền phải được kiểm tra xem nó đi nhanh tới mức nào trong chuyến du hành đầu tiên của nó. Một cơn gió mạnh dần dần nổi lên, và những đỉnh sóng ngầu bọt bắt đầu cuộn lên trên mặt biển nặng nề.
Lúc này, Elias nhận ra con thuyền của anh thật sự thuộc loại nào. Nó lướt trên những ngọn sóng như một con hải âu, nước văng vào bên trong thuyền không nhiều lắm, do đó Elias cho rằng anh không cần phải sử dụng tất cả các cánh buồm phụ để chống chọi với cơn gió mà một con thuyền bình thường  cũng buộc phải đương đầu trong một thời tiết như thế.
Ở mặt biển bên ngoài, cách không xa lắm, anh nhìn thấy một con thuyền mười tay chèo khác, với đầy đủ buồm lái, và có bốn cánh buồm phụ, giống như  thuyền của anh. Nó đi theo cùng một hướng với anh, và anh nghĩ thật lạ lùng khi anh không nhận ra nó trước đó. Trông như thể nó muốn đuổi theo anh, và khi Elias nhận thấy điều này, anh không thể không căng lại một cánh buồm phụ.
 Bấy giờ, khi cho thuyền phóng đi như một mũi lao, băng qua những vịnh và đảo nhỏ, băng qua những mỏm đá, Elias cảm thấy như thể chưa bao giờ anh có một chuyến du hành bằng thuyền buồm tuyệt diệu như thế. Và bản thân con thuyền cũng chứng tỏ rằng nó là chiếc thuyền tốt nhất ở Ranen.
Trong lúc đó, thời tiết ngày càng tồi tệ, họ đã đi qua hai vùng biển đầy nguy hiểm. Họ dồn hết về phía cánh buồm chính ở trước mũi thuyền nơi Bernt ngồi, và căng  lại buồm phụ ở đó để tránh gió ở phía đuôi thuyền.
Khi bóng tối dày hơn, chiếc thuyền kia gần như đã lướt tới bên hông, và hai chiếc thuyền gần nhau tới mức họ có thể dễ dàng ném những cái xô múc nước từ thuyền này qua thuyền kia.
Họ đua với nhau, thuyền cạnh thuyền, trong mặt biển đông cứng cho tới lúc màn đêm buông xuống. Cánh buồm phụ thứ tư cần phải được căng lại, nhưng Elias không muốn căng vội, và nghĩ rằng anh có thể chờ cho tới lúc những thủy thủ bên thuyền kia cũng căng buồm. Thỉnh thoảng, chai rượu lại được lôi ra và chuyền cho nhau, vì lúc này họ vừa lạnh vừa ướt sũng cả người.
Những con cá có lớp vẫy lân tinh nhô lên trên những ngọn sóng cồn tối thẳm gần chiếc thuyền của Elias, lấp lánh một thứ ánh sáng chói rực lạ lùng trong lớp bọt sóng cuộn quanh chiếc thuyền, như thể có một cái xẻng xúc lửa vừa xới lên, đảo tung mặt nước. Trong ánh sáng lân tinh,  anh có thể nhận ra những đầu dây thừng  trên con thuyền kia, và cũng nhìn thấy khá rõ những người trên thuyền, với những chiếc mũ vải dầu vành rộng úp trên đầu. Nhưng vì mạn trái của con thuyền ở phía gần hơn, tất nhiên họ phải quay lưhg về phía anh, và được che khuất bởi sườn thuyền cao.
Đột nhiên một lượn sóng khổng lồ chụp xuống họ. Elias nhìn một lúc lâu cái chỏm trắng xuyên qua màn đêm của nó, ngay phía trên mũi tàu nơi Bernt ngồi. Lượn sóng trùm lấy cả con thuyền trong khoảnh khắc, những lớp ván lắc lư và rung lên dưới sức nặng của nó, và rồi, khi con thuyền đang nằm nửa trong nửa ngoài lượn sóng điều chỉnh lại thẳng hướng và tiếp tục lướt đi, nó lại trườn mình xuống phía dưới.
Khi ngọn sóng còn trùm lên họ, Elias mường tượng như nghe thấy một tiếng hét khủng khiếp từ chiếc thuyền kia. Khi nó đã lướt qua, vợ của anh, đang ngồi ở đống dây chằng cột buồm, thốt lên bằng một giọng làm hồn anh tan nát: “Lạy Chúa, Elias! Biển đã cuốn theo Martha và Nils rồi!” -  Đó là hai đứa con nhỏ nhất của họ, một đứa chín tuổi, đứa kia bảy tuổi, lúc nãy ngồi gần Bernt. Elias trả lời ngắn gọn: “Đừng phân tâm, Karen, không ta lại mất thêm con nữa đấy!”
Lúc bấy giờ, họ căng cánh buồm phụ thứ tư, và, khi đã làm xong, Elias thấy có lẽ sẽ tốt hơn nếu căng cả cánh buồm phụ thứ năm và thứ sáu, vì cơn gió vẫn ngày càng lớn, nhưng mặt khác, để chiếc thuyền có thể thoát khỏi mặt nước mỗi lúc một nặng nề, anh không dám giảm số buồm phụ hơn mức bắt buộc. Nhưng họ thấy rằng những mảnh vải buồm họ có thể mang ngày càng ít dần. Mặt biển sôi cuộn lên đến mức sóng đập thẳng vào mặt họ. Bernt và thằng em kế Anthony, trước đó giúp mẹ nó giữ dây cột buồm, cuối cùng, buộc phải nắm giữ trục căng buồm, một phương cách duy nhất khi con thuyền không thể mang nổi ngay cả cánh buồm phụ cuối cùng, cánh thứ năm.
Con thuyền đồng hành, lúc nãy biến mất, giờ lại đột nhiên hiện lên bên cạnh, với số buồm phụ đúng bằng số buồm phụ trên thuyền của Elias, nhưng lúc này anh bắt đầu cảm thấy anh hoàn toàn không thích cái vẻ ngoài của tốp người trên con thuyền đó. Theo anh, hai người ngồi và giữ trục căng buồm (anh thoáng thấy gương mặt nhợt nhạt của họ bên dưới những cái mũ rộng vành), dưới ánh sáng lạ lùng của lớp bọt lấp lánh, giống như những thây ma hơn là người, họ cũng chẳng thốt ra một lời nào cả.


Rời khỏi mạn thuyền trái một chút, anh nhìn thấy tấm lưng trắng xoá của một lượn sóng mới xuyên qua bóng tối, và anh chuẩn bị sẵn sàng để đón tiếp nó. Con thuyền được lái mũi đâm nghiêng  vào lượn sóng to, còn buồm thì được căng ra hết mức, để bắt đủ tốc độ thoát khỏi mặt biển nặng nề và tiếp tục lướt tới. Lượn sóng lại cuộn lên với một tiếng gầm hung hãn. Trong một lúc, con thuyền nằm dưới những ngọn sóng ngầu bọt của nó. Khi nó đã lướt qua, người vợ không còn ngồi ở chỗ mấy sợi dây căng buồm, và Anthony cũng không còn ở đó để níu giữ trục căng buồm. Họ đã văng ra khỏi con thuyền.
Lần này, Elias cũng hình dung như anh đã nghe thấy tiếng thét khủng khiếp trong không trung, và trong lúc đó, mơ hồ anh nghe thấy tiếng vợ anh gọi tên anh. Tất cả những gì anh có thể thốt lên khi nhận ra thực tế là vợ và một đứa con nữa của anh đã biến mất khỏi thuyền là: “Vinh danh Chúa Jesus!” Ao ước đầu tiên và mãnh liệt nhất của anh là đi theo người vợ, nhưng đồng thời, anh chợt nhận ra rằng anh phải cứu lấy mấy đứa con còn sót lại trên thuyền, Bernt và hai đứa em của nó, một đứa mười hai tuổi, đứa kia mười bốn. Chúng đã suýt văng khỏi thuyền lúc nãy, nhưng giờ đây đang ngồi ở đuôi thuyền sau lưng anh.
Lúc này Bernt phải một mình lo liệu những sợi dây căng trục buồm, dù hai dứa em của nó đang cố hết sức để giúp nó. Elias, người cầm lái, không dám gây ra một sơ suất nào, và anh lái thuyền đi với bàn tay cứng như sắt, tiếp tục nỗ lực không ngừng với một cảm giác vô tri.
Một lúc sau, chiếc thuyền bên cạnh lại nhô lên, trong khoảnh khắc trước đó nó đã biến mất. Lúc này, anh nhìn thấy người đàn ông ngồi ở đuôi thuyền rõ hơn. Từ lưng hắn ta, ngay bên dưới cái mũ rộng vành (khi hắn quay lưng, nó hiện ra rất rõ) nhô ra một khúc cán lao dài, mà Elias dễ dàng nhận ra nó chính là khúc lao của chính anh. Lúc bấy giờ, khi bình tĩnh suy nghĩ lại mọi chuyện, anh đã hoàn toàn xác định được hai điều: thứ nhất, chính con thủy quái đang lái chiếc thuyền của nó bên cạnh thuyền anh, để đưa anh vào chỗ chết; thứ hai, định mệnh đã được viết xong, rằng  đêm đó anh đang thực hiện chuyến đi biển cuối cùng. Vì ai trông thấy một con thủy quái trên biển là người đã tới hồi tận số. Anh không nói gì với mấy đứa trẻ, để chúng khỏi hốt hoảng, nhưng anh thầm lặng nguyện cầu Thượng đế.
Trong khoảng một giờ cuối, anh buộc phải chệch khỏi hướng đi vì cơn bão, không khí đã trở nên quánh lại vì tuyết, và Elias biết rằng anh phải đợi cho tới bình minh mới có thể nhìn thấy được đất liền. Trong lúc đó, anh vẫn cho thuyền lướt đi càng nhanh càng tốt. Thỉnh thoảng, mấy đứa trẻ ở đuôi thuyền than thở rằng chúng bị lạnh cóng, nhưng trong hoàn cảnh họ lúc này, anh không thể làm gì được. Ngoài ra, Elias đang nghĩ tới một chuyện khác. Một khát khao báo thù kinh khủng đang tràn ngập tim anh, và, nếu không vì mạng sống của ba đứa con, anh hẳn đã đột ngột quay thuyền để đánh đắm con thuyền đáng nguyền rủa đang lướt bên cạnh anh suốt thời gian đó như  thể đang chế nhạo anh. Giờ thì anh đã hiểu mục đích xấu xa duy nhất của nó rất rõ. Nếu khi trước ngọn lao có thể đâm vào người con thủy quái, lúc này một con dao hoặc một ngọn lao cũng có thể đâm vào nó được, và anh cảm thấy anh sẽ hân hoan từ bỏ mạng sống của mình để giết chết con vật đã tàn nhẫn tách khỏi anh những người thân yêu nhất trên đời.
Vào ba giờ sáng,  qua màn đêm, họ nhìn thấy hiện lên cái gì đó như hình dáng một ngọn đồi khiến lúc đầu Elias cho rằng họ phải tới rất gần đất liền, nơi sóng vỗ nhiều hơn hẳn. Tuy nhiên, anh sớm nhận ra thật sự đó là gì – một ngọn sóng cồn. Rồi dường như có một giọng cười phát ra từ chiếc thuyền kia, và như có một giọng nói rằng: “Thuyền của mi sẽ tới đó, Elias!” Tiên đoán được tai họa, anh hét lớn: “Vinh danh Chúa Jesus!”. Rồi anh thét bảo mấy đứa con hãy cố gắng hết sức bám chặt vào những sợi dây liễu buộc cột chèo khi con thuyền đi qua ngọn sóng cồn. Anh ra lệnh cho đứa lớn hơn tới chỗ của Bernt, còn mình thì kéo đứa kia lại sát bên, hôn nhẹ lên má nó đôi lần, tin chắc rằng anh đã ôm chặt nó vào lòng. Con thuyền, chìm dưới làn sóng dữ, dần được đưa lên bởi những lượn sóng rồi lại chìm xuống. Khi nhô khỏi mặt nước trở lại, con thuyền bị lật úp. Elias, Bernt và thằng Martin mười hai tuổi còn bám được vào sống thuyền, nhưng đứa thứ ba đã biến mất.
Lúc bấy giờ, trước hết họ phải cắt bỏ những sợi thừng ở một bên, để chúng rơi xuống mặt nước để khỏi làm mất cân bằng của con thuyền bên dưới, rồi họ bò lê trên đáy con thuyền đang lắc lư, đục một số lỗ thông hơi để cho không khí đang nâng con thuyền quá cao trên mặt nước thoát ra bớt. Sau nhiều nỗ lực họ thành công, và Elias, người quay lên sống thuyền đầu tiên, giúp hai đứa con trèo lên.
Họ ngồi đó suốt cái đêm mùa đông dài ảm đạm, bám chặt đôi tay và tì đầu gối xuống đáy thuyền, đang liên tiếp bị những ngọn sóng nhồi lên dập xuống.
Khoảng hai giờ sau đó, Martin chết vì kiệt sức. Suốt quảng thời gian đó, cha nó vẫn cố ôm lấy nó. Rồi xác nó trượt ra, rơi xuống biển. Họ đã cố kêu cứu nhiều lần, nhưng cuối cùng ngưng lại vì thấy chẳng ích gì.
Khi cả hai ngồi cô đơn trên đáy chiếc thuyền, Elias bảo Bernt rằng ngay cả anh cũng đã sắp sửa đi theo mẹ của nó, nhưng anh rất hy vọng rằng Bernt phải sống sót với bất cứ giá nào, nếu là một chàng trai xứng đáng. Rồi anh kể cho Bernt nghe mọi chuyện về con thủy quái mà anh đã phóng ngọn lao vào lưng nó. Bây giờ nó đã thực hiện cuộc báo oán, và tất nhiên sẽ không bỏ cuộc cho tới lúc nó giết được anh.
Mãi đến chín giờ sáng bình minh xám ngắt mới bắt đầu xuất hiện. Khi đó, Elias trao cho Bernt cái đồng hồ đeo tay bằng bạc và sợi dây đồng hồ bằng đồng mà anh đã làm đứt thành hai mảnh khi cố kéo nó ra khỏi cái túi áo khoác. Anh còn ngồi thêm một lúc nữa, nhưng, khi trời rạng hơn, Bernt nhận thấy mặt cha nó tái nhợt đi, mái tóc của anh rũ rượi xõa ra thành từng bệt, như thường thấy ở những người sắp chết, và lớp da tay của anh phồng rộp vì cố bám vào sống thuyền. Đứa con trai hiểu rằng cha nó sắp thở hơi thở cuối cùng, và cố gắng đỡ Elias lên, trong lúc con thuyền vẫn trồi sụt theo cơn sóng. Nhưng khi Elias nhận thấy điều đó, anh nói: ‘Không, hãy lo cho bản thân con, Bernt ạ, và hãy đi nhanh lên. Ba theo mẹ của con đây. Vinh danh Chúa Jesus!” Nói rồi, anh phóng người ra khỏi con thuyền.
Bất cứ ai đã từng đi biển nhiều lần đều biết rằng khi biển đã nguôi giận, nó dần trở nên bình thản lại, dù không phải ngay lập tức. Lúc này Bernt thấy việc cho thuyền tiến lên dễ dàng hơn, và càng có thêm nhiều hy vọng với ánh sáng ban ngày rực rỡ. Cơn bão đã ngưng, và khi nó đã dịu hẳn, Bernt mơ hồ biết rằng nó đang ở đâu, rằng nó đang ở gần đất nhà của mình, thôn Kavlholm.
Bấy giờ, nó bắt đầu kêu cứu, nhưng niềm hy vọng chính của nó đặt vào một luồng nước mà nó biết sẽ hướng vào bờ ở nơi có một mũi đất lú ra trên mặt sóng, và ở đó, nước chảy lặng hơn. Và thật thế, con thuyền tiến vào ngày càng gần bờ hơn, rồi cuối cùng tới thật gần một trong những tảng đá đến mức cái cột buồm, đã bị ngã nghiêng sang một bên thuyền từ lâu trước đó, chọc lên bên trên mỏm đá và đong đưa lên xuống theo cơn sóng. Dù cả tứ chi của nó lúc này tê dại hẳn vì ngồi và bám vào thuyền quá lâu, với một nỗ lực to lớn, cuối cùng Benrt cũng trèo được lên trên mỏm đá, nơi nó kéo cái cột buồm lên bờ, và con thuyền cặp sát bờ đá.
Cô bé người Phần Lan, một mình ở lại giữ nhà, nghĩ rằng trong suốt hai giờ liền nó đã nghe thấy tiếng kêu cứu lặp đi lặp lại nhiều lần, và khi tiếng kêu vẫn tiếp tục, nó đi lên ngọn đồi để xem chuyện gì. Ở đó, nó trông thấy Bernt đang nằm trên mỏm đá, và chiếc thuyền lật úp đang nhấp nhô cạnh đó. Ngay lập tức, cô bé chạy xuống chỗ đậu thuyền, chèo chiếc thuyền nhỏ cũ đi vòng theo bờ biển và hòn đảo, hướng về phía Benrt nằm.
Bernt nằm dưỡng bệnh dưới sự chăm sóc của cô bé suốt mùa đông ấy, và không hề đi đánh cá cho đến hết năm. Ngay cả sau đó, với dân cư quanh vùng, dường như cậu bé trở nên hơi gàn dở.
Bernt không bao giờ đi biển nữa, vì nó đã mắc phải chứng sợ biển. Sau đó, Bernt cưới cô gái người Phần Lan, và dời tới Malang. Ở đó, Bernt phát quang một khu rừng nhỏ, rồi sinh cơ lập nghiệp, khá thành đạt, như người ta kể lại.



[1] Một quận ở miền Bắc Na Uy
[2] Vùng quần đảo ở miền duyên hải tỉnh Nordland, Na Uy
[3] Loại thuyền mỗi bên có ba vị trí chèo thuyền
[4] Loại thuyền mỗi bên có năm vị trí chèo thuyền, dùng để đi biển trong mùa giông bão, thời tiết xấu.
[5] Cảng chính ở Nordland

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét