Jonas Lie
Bản dịch:
Nguyễn Thành Nhân
Dịch theo Bản
tiếng Anh của R. Nisber Bain
Tranh Minh họa
của Laurence Housman
Giới thiệu
Jonas Lauritz
Idemil Lie (1833 –1908): tiểu thuyết gia, được
xem là một trong bốn nhà văn lớn nhất của Na Uy vào thế kỷ 19.
Ông chào đời
ở Hokksund, Eiker, quận Buskerud thuộc miền Nam Na Uy. Ngay sau đó, cha
ông được bổ nhiệm làm cảnh sát trưởng của vùng Tromsø, nằm trong
Vòng Bắc Cực (vĩ tuyến 66°30), và cậu bé Jonas Lauritz Edemil Lie đã trải qua
sáu năm đầy ấn tượng ở vùng hải cảng miền bắc xa xôi đó.
Lie được gửi
tới học ở một trường hải quân ở Fredriksvỉrn, nhưng do thị lực kém,
ông đành phải giã từ cuộc đời ngang dọc trên biển cả. Sau đó, ông
tới học ở một trường Latin ở Bergen, và nhập học tại Đại học Cơ
Đốc Giáo vào năm 1851, ở đó ông đã làm quen với Ibsen và Bjornson. Năm
1857 ông tốt nghiệp luật khoa, sau đó ít lâu bắt đầu tập sự tại
Kongsvinger, một thị trấn nằm giữa hồ Mjosa và Thụy Điển.
Do vùng đó
vắng thân chủ, có nhiều thời giờ rảnh rỗi, ông bắt đầu viết báo và
trở thành cộng tác viên thường trực cho một số tờ tạp chí Cơ Đốc
Giáo. Tác phẩm đầu tay của ông là một tập thơ công bố năm 1866 nhưng
không thành công mấy. Trong bốn năm kế tiếp ông tập trung hoàn toàn
vào nghề báo, làm việc hết mình mà không cần tưởng thưởng, nhưng
nhờ đó ông đã thủ đắc được bút pháp của một nhà văn trẻ và tạo
dựng được một văn phong hữu dụng cho sự nghiệp sau đó của ông. Năm
1860, ông xuất bản quyển Den Fremsynte (Phong cảnh hoặc Những
bức tranh từ Miền Bắc), một câu chuyện thu hút về biển cả và
những truyền thuyết quái dị ở miền bắc Na Uy. Nhờ một món tiền trợ
cấp nhỏ của chính phủ, ngay lập tức ông lên đường tới Rome để tìm kiếm sự tương phản lớn
nhất giữa Châu Âu và miền đất thời thơ ấu của mình. Ông sống một
thời gian ở miền bắc nước Đức, rồi chuyển tới Bavaria,
rồi tới Paris.
Năm 1882 ông về thăm Na Uy một thời gian rồi quay lại Châu Âu. Sự lưu
đày tự nguyện khỏi quê nhà của ông chấm dứt vào mùa xuân năm1893, khi
ông định cư hẳn ở Holskogen, gần Kristiansund. Từ đó, các sáng tác
của ông ngày càng phong phú.
Jonas Lie qua
đời ở Stavern ngày 5-6-1908.
Trong các tác phẩm hay nhất của
ông có thể kể quyển Gia đình Gilje, được so sánh ngang hàng với
các tác phẩm của những nhà văn Anh như Austen và Bronte. Ngoài ra, còn
có hai tuyển tập truyện ngắn có tên là Những khúc ca thần thoại
(một số câu chuyện trong hai tập đó đã được R. Nisber Bain tuyển chọn
và đưa vào Những câu chuyện kỳ bí vùng biển bắc), kể về những truyền thuyết
quái lạ của ngư dân và thường dân vùng duyên hải Bắc Na Uy.
Trong quyển Những câu chuyện kỳ bí vùng biển bắc, Lie kể cho
chúng ta nghe những truyền thuyết xa xưa của quê hương ông, miền Bắc Na
Uy, những câu chuyện dữ dội mà ông đã từng nghe kể từ thời thơ ấu.
Có thể nói, hẳn là chúng cũng đã từng mê hoặc và khiến cho ông ngây
ngất trong niềm kinh hãi. Cuộc sống dân gian của những vùng đất quạnh
hiu rộng lớn ở phía nam Bắc Cực như quyện gắn vào sự hung dữ khắc
nghiệt của thiên nhiên. Hiếm khi chúng ta thấy có những yêu tinh và
thần lùn thân thiện, dễ gần trong quyển truyện này. Ở vùng đất đó,
phần lớn những sinh thể siêu nhiên ngự trị ở những vùng biển cả và
duyên hải đều hung ác và hay gây tác hại. Dường như chúng thù ghét con người. Chúng thích
chế nhạo những lao khổ vất vả và vui đùa với nỗi tuyệt vọng của
họ. Từ những truyền thuyết dân gian này, chúng ta có thể hiểu biết
nhiều hơn về cuộc sống khó nhọc nhưng kiên cường bất khuất trước
thiên nhiên khắc nghiệt của người dân Bắc Na Uy, cũng như của các dân
tộc miền duyên hải Bắc Âu nói
chung.
Tôi xin chân thành tri ân cố dịch giả R. Nisber Bain,
cố họa sĩ Laurence Housman và những
người tâm huyết đã bỏ công sức để công bố bản dịch hết thời hạn
bản quyền này trên mạng internet để mọi người, ở khắp mọi nơi trên
thế giới, có điều kiện thuận tiện hơn để thưởng thức những tác
phẩm cổ điển hay và giá trị.
Nguyễn Thành Nhân
CHÀNG NGƯ PHỦ
VÀ CON THỦY QUÁI
Việc thôn Kvalholm quạnh vắng bị quỷ ám là chuyện
hiển nhiên, không ai còn ngờ vực về điều đó. Mỗi khi chồng đi khỏi, Karen nghe thấy
đủ loại âm thanh và tiếng hét lạ kỳ, không có chút ý nghĩa tốt
lành nào. Một hôm, khi Karen đi lên đồi cắt cỏ để phơi khô dành làm
thức ăn mùa đông cho hai con cừu của gia đình họ, nàng nghe thấy, rất
xa xôi mơ hồ, một tiếng kêu rít kinh khủng dưới bờ biển mé chân đồi,
nhưng nàng không dám nhìn xuống.
Mỗi năm nàng lại sinh một đứa con, nhưng đó không
phải là gánh nặng, vì cả hai vợ chồng
nàng đều là những người tằn tiện và cần mẫn. Sau bảy năm, gia
đình họ đã có sáu đứa trẻ con, nhưng mùa thu năm đó Elias đã có những cuộc cãi cọ căng thẳng
với các bạn đồng nghiệp đến mức anh nghĩ rằng mình nên đánh liều
mua một chiếc thuyền sáu tay chèo[3],
rồi sau đó sẽ đi đánh cá trên thuyền của riêng mình.
Một hôm, với một chiếc
lao đâm cá trong tay, suy nghĩ về mọi chuyện xảy ra, anh tình cờ
đi tới gần một con hải cẩu khổng lồ, đang nằm phơi nắng ngay bên dưới
một tảng đá trên bờ biển. Sự kinh ngạc của con vật khi trông thấy con
người cũng tương tự sự kinh ngạc của Elias khi trông thấy nó. Nhưng
Elias không dễ hoảng sợ; từ đỉnh của tảng đá anh đang đứng, Elias
phóng mạnh chiếc lao dài, nặng vào giữa lưng, ngay sau cổ của con vật
khổng lồ.
Ngay lập tức, con hải cẩu dựng cao cái đuôi của nó
lên trời như một cây cột buồm, và nhìn Elias một cách hằn học đầy
ác ý với đôi mắt đỏ ngầu máu, đồng thời nhe nanh ra, khiến cho Elias nghĩ
rằng anh có thể chết đứng tim vì kinh hãi. Rồi nó lao mình xuống
biển, biến mặt nước thành những vòng bọt sóng đỏ ngầu như máu phía sau. Ngay sau đó, Elias cũng
rời nơi ấy. Nhưng ngay chiều hôm đó, một khúc cán lao bằng gỗ, bị
cắn đứt lìa khỏi cái mũi dài bằng sắt, đã giạt vào bãi đậu
thuyền ở cửa sông Kval, mà bên trên
là ngôi nhà của anh.
Elias không nghĩ thêm gì về chuyện đó. Trong mùa thu
ấy, anh mua một chiếc thuyền sáu tay chèo, mà anh đã biến thành một
nơi trú ngụ nhỏ.
Một đêm thao thức, nghĩ tới chiếc thuyền mới, anh thấy rằng có lẽ nó sẽ thăng bằng
hơn nếu anh ghép thêm một khúc gỗ vào hai bên mạn thuyền. Anh yêu mến
con thuyền một cách phi lý đến nỗi việc đốt lên ngọn đèn lồng và đi
xuống để ngắm nhìn nó với anh cũng là một niềm vui giản dị.
Lúc bấy giờ, khi đang đứng nhìn chiếc thuyền dưới
ánh đèn lồng, anh chợt thoáng thấy ở góc đối diện, trên một cuộn
lưới, là gương mặt của con hải cẩu. Trong một khoảnh khắc, nó dữ
tợn nhe răng ra nhìn anh và ánh đèn, miệng nó càng lúc càng há to
hơn, rồi có một hình người to lớn chầm chậm lướt ra từ cái họng
kinh khủng đó. Elias kịp thoáng thấy, dưới ánh đèn, một mũi sắt
nhọn dài cắm trên lưng của hắn ta. Rồi cả hai nhập lại thành một và
biến mất vào bóng tối. Elias không lo âu cho mạng sống của mình bằng
cho chiếc thuyền, thế nên anh vẫn đứng ở đó, rồi sau đó ngồi xuống
thuyền với cái đèn lồng và tiếp tục quan sát. Khi vợ anh đến đó
vào sáng hôm sau, nàng thấy anh đang ngủ, với chiếc đèn lồng đã cháy
rụi.
Một buổi sáng tháng Giêng, khi đang đánh cá trên
thuyền cùng hai người khác, anh nghe thấy, từ bóng tối, một giọng
nói phát ra từ một tảng đá ngầm ở cửa sông. Nó cười
một cách khinh bỉ và nói rằng: “Khi ngươi có một chiếc thuyền mười
tay chèo[4]
thì, Elias, hãy liệu hồn!”
Nhiều năm trôi qua trước khi chuyện đó đến, nhưng một
mùa thu nọ, khi thằng con trai cả Bernt của anh đã được mười sáu
tuổi, Elias biết anh phải thực hiện việc này. Thế là anh đưa toàn
thể gia đình cùng lên thuyền tới Ranen [5]
để đổi chiếc thuyền sáu tay chèo của anh lấy một chiếc thuyền mười
tay chèo, người duy nhất ở lại nhà là một bé gái người Phần Lan,
mà họ đã dùng làm người giúp việc trước đó vài năm. Về sau
này, cô bé đó cũng là nhân chứng
duy nhất của câu chuyện đã xảy ra.
Ở Ranen, Elias xem xét một chiếc mười tay chèo nhỏ,
dành cho bốn người ngư phủ và một cậu bé trai. Một chiếc thuyền mà
người thợ đóng thuyền giỏi nhất vùng đã hoàn thành và quét nhựa
xong xuôi vào mùa thu đó.
Elias có một con mắt đánh giá thuyền khá tốt, và dường
như chưa bao giờ anh từng nhìn thấy một chiếc thuyền mười tay chèo
được đóng hoàn hảo đến thế ở phía dưới đường mớn nước. Ở phía
trên đường mớn nước, thật sự trông nó chỉ ở mức trung bình, vì thế,
với một người ít kinh nghiệm hơn anh, chiếc thuyền này chỉ hơi nhỉnh
hơn những chiếc khác đôi chút, và không là gì ngoài một sản phẩm coi
đường được.
Người chủ thuyền cũng biết tất cả giống như Elias.
Ông ta cho rằng nó là một chiếc thuyền buồm nhanh nhất ở Ranen, nhưng
Elias có thể mua nó với một giá phải chăng, nếu anh đồng ý hứa một
điều, đó là không được thay đổi bất cứ chỗ nào trên thuyền, mà cũng
không được quét thêm nhựa lên thuyền nữa. Chỉ khi Elias nhận lời ông ta
mới trao cho anh chiếc thuyền đó.
Chắc hẳn “Ma vương” - kẻ đã khiến cho người thợ sử
dụng trí thông minh bẩm sinh vốn hơi hiếm hoi của ông ta đóng con
thuyền một cách gian trá giữa hai phần trên và dưới đường mớn nước –
đã phải có mặt trước đó và định ra giá thật rẻ, để Elias có thể
mua nó. Người chủ thuyền nói thêm
rằng chiếc thuyền không cần phải được xem xét quá cẩn thận, để che
giấu việc con thuyền đã không được quét nhựa ở phía mũi và
đuôi.
Elias muốn giong buồm về nhà ngay, nhưng trước tiên,
họ phải tới thị trấn để mua sắm những thứ linh tinh mừng đón Lễ Giáng sinh, ngoài
ra cũng để anh nhấm nháp chút rượu cho đã thèm. Mừng vì cuộc mua
bán thành công, anh và cả người vợ làm thêm một ngụm, và cậu con
trai Bernt của họ cũng được nếm môi chút xíu.
Sau đó, họ giong buồm con thuyền mới hướng về nhà.
Không có gì nặng trên thuyền ngoài anh, vợ anh và lũ trẻ, cùng các
thứ đồ đạc. Thằng Bernt con trai cả của anh ngồi bên cạnh cánh buồm
chính, vợ anh, với sự giúp đỡ của thằng con trái kế, giữ những sợi
dây thuyền. Elias ngồi ở bánh lái, trong khi hai đứa nhỏ hơn, mười hai
và mười bốn tuổi, thay phiên nhau tát nước ra ngoài.
Họ phải vượt qua tám hải lý, và khi ra tới cửa
sông, tất nhiên con thuyền phải được kiểm tra xem nó đi nhanh tới mức
nào trong chuyến du hành đầu tiên của nó. Một cơn gió mạnh dần dần
nổi lên, và những đỉnh sóng ngầu bọt bắt đầu cuộn lên trên mặt biển
nặng nề.
Lúc này, Elias nhận ra con thuyền của anh thật sự
thuộc loại nào. Nó lướt trên những ngọn sóng như một con hải âu,
nước văng vào bên trong thuyền không nhiều lắm, do đó Elias cho rằng anh
không cần phải sử dụng tất cả các cánh buồm phụ để chống chọi với
cơn gió mà một con thuyền bình thường
cũng buộc phải đương đầu trong một thời tiết như thế.
Ở mặt biển bên ngoài, cách không xa lắm, anh nhìn
thấy một con thuyền mười tay chèo khác, với đầy đủ buồm lái, và có
bốn cánh buồm phụ, giống như
thuyền của anh. Nó đi theo cùng một hướng với anh, và anh nghĩ
thật lạ lùng khi anh không nhận ra nó trước đó. Trông như thể nó muốn
đuổi theo anh, và khi Elias nhận thấy điều này, anh không thể không căng
lại một cánh buồm phụ.
Bấy giờ, khi cho
thuyền phóng đi như một mũi lao, băng qua những vịnh và đảo nhỏ, băng
qua những mỏm đá, Elias cảm thấy như thể chưa bao giờ anh có một
chuyến du hành bằng thuyền buồm tuyệt diệu như thế. Và bản thân con
thuyền cũng chứng tỏ rằng nó là chiếc thuyền tốt nhất ở Ranen.
Trong lúc đó, thời tiết ngày càng tồi tệ, họ đã đi
qua hai vùng biển đầy nguy hiểm. Họ dồn hết về phía cánh buồm chính
ở trước mũi thuyền nơi Bernt ngồi, và căng lại buồm phụ ở đó để tránh gió ở
phía đuôi thuyền.
Khi bóng tối dày hơn, chiếc thuyền kia gần như đã
lướt tới bên hông, và hai chiếc thuyền gần nhau tới mức họ có thể
dễ dàng ném những cái xô múc nước từ thuyền này qua thuyền kia.
Họ đua với nhau, thuyền cạnh thuyền, trong mặt biển
đông cứng cho tới lúc màn đêm buông xuống. Cánh buồm phụ thứ tư cần
phải được căng lại, nhưng Elias không muốn căng vội, và nghĩ rằng anh
có thể chờ cho tới lúc những thủy thủ bên thuyền kia cũng căng buồm.
Thỉnh thoảng, chai rượu lại được lôi ra và chuyền cho nhau, vì lúc
này họ vừa lạnh vừa ướt sũng cả người.
Những con cá có lớp vẫy lân tinh nhô lên trên những
ngọn sóng cồn tối thẳm gần chiếc thuyền của Elias, lấp lánh một
thứ ánh sáng chói rực lạ lùng trong lớp bọt sóng cuộn quanh chiếc
thuyền, như thể có một cái xẻng xúc lửa vừa xới lên, đảo tung mặt
nước. Trong ánh sáng lân tinh, anh
có thể nhận ra những đầu dây thừng
trên con thuyền kia, và cũng nhìn thấy khá rõ những người trên
thuyền, với những chiếc mũ vải dầu vành rộng úp trên đầu. Nhưng vì
mạn trái của con thuyền ở phía gần hơn, tất nhiên họ phải quay lưhg
về phía anh, và được che khuất bởi sườn thuyền cao.
Đột nhiên một lượn sóng khổng lồ chụp xuống họ.
Elias nhìn một lúc lâu cái chỏm trắng xuyên qua màn đêm của nó, ngay
phía trên mũi tàu nơi Bernt ngồi. Lượn sóng trùm lấy cả con thuyền
trong khoảnh khắc, những lớp ván lắc lư và rung lên dưới sức nặng
của nó, và rồi, khi con thuyền đang nằm nửa trong nửa ngoài lượn
sóng điều chỉnh lại thẳng hướng và tiếp tục lướt đi, nó lại trườn
mình xuống phía dưới.
Khi ngọn sóng còn trùm lên họ, Elias mường tượng như
nghe thấy một tiếng hét khủng khiếp từ chiếc thuyền kia. Khi nó đã
lướt qua, vợ của anh, đang ngồi ở đống dây chằng cột buồm, thốt lên
bằng một giọng làm hồn anh tan nát: “Lạy Chúa, Elias! Biển đã cuốn
theo Martha và Nils rồi!” - Đó là
hai đứa con nhỏ nhất của họ, một đứa chín tuổi, đứa kia bảy tuổi,
lúc nãy ngồi gần Bernt. Elias trả lời ngắn gọn: “Đừng phân tâm, Karen,
không ta lại mất thêm con nữa đấy!”
Lúc bấy giờ, họ căng cánh buồm phụ thứ tư, và, khi
đã làm xong, Elias thấy có lẽ sẽ tốt hơn nếu căng cả cánh buồm phụ
thứ năm và thứ sáu, vì cơn gió vẫn ngày càng lớn, nhưng mặt khác,
để chiếc thuyền có thể thoát khỏi mặt nước mỗi lúc một nặng nề,
anh không dám giảm số buồm phụ hơn mức bắt buộc. Nhưng họ thấy rằng
những mảnh vải buồm họ có thể mang ngày càng ít dần. Mặt biển sôi
cuộn lên đến mức sóng đập thẳng vào mặt họ. Bernt và thằng em kế
Anthony, trước đó giúp mẹ nó giữ dây cột buồm, cuối cùng, buộc phải
nắm giữ trục căng buồm, một phương cách duy nhất khi con thuyền không
thể mang nổi ngay cả cánh buồm phụ cuối cùng, cánh thứ năm.
Con thuyền đồng hành, lúc nãy biến mất, giờ lại
đột nhiên hiện lên bên cạnh, với số buồm phụ đúng bằng số buồm phụ
trên thuyền của Elias, nhưng lúc này anh bắt đầu cảm thấy anh hoàn
toàn không thích cái vẻ ngoài của tốp người trên con thuyền đó. Theo
anh, hai người ngồi và giữ trục căng buồm (anh thoáng thấy gương mặt
nhợt nhạt của họ bên dưới những cái mũ rộng vành), dưới ánh sáng
lạ lùng của lớp bọt lấp lánh, giống như những thây ma hơn là người,
họ cũng chẳng thốt ra một lời nào cả.
Rời khỏi mạn thuyền trái một chút, anh nhìn thấy
tấm lưng trắng xoá của một lượn sóng mới xuyên qua bóng tối, và anh
chuẩn bị sẵn sàng để đón tiếp nó. Con thuyền được lái mũi đâm
nghiêng vào lượn sóng to, còn buồm
thì được căng ra hết mức, để bắt đủ tốc độ thoát khỏi mặt biển
nặng nề và tiếp tục lướt tới. Lượn sóng lại cuộn lên với một
tiếng gầm hung hãn. Trong một lúc, con thuyền nằm dưới những ngọn
sóng ngầu bọt của nó. Khi nó đã lướt qua, người vợ không còn ngồi
ở chỗ mấy sợi dây căng buồm, và Anthony cũng không còn ở đó để níu
giữ trục căng buồm. Họ đã văng ra khỏi con thuyền.
Lần này, Elias cũng hình dung như anh đã nghe thấy tiếng
thét khủng khiếp trong không trung, và trong lúc đó, mơ hồ anh nghe
thấy tiếng vợ anh gọi tên anh. Tất cả những gì anh có thể thốt lên
khi nhận ra thực tế là vợ và một đứa con nữa của anh đã biến mất
khỏi thuyền là: “Vinh danh Chúa Jesus!” Ao ước đầu tiên và mãnh liệt
nhất của anh là đi theo người vợ, nhưng đồng thời, anh chợt nhận ra
rằng anh phải cứu lấy mấy đứa con còn sót lại trên thuyền, Bernt và
hai đứa em của nó, một đứa mười hai tuổi, đứa kia mười bốn. Chúng
đã suýt văng khỏi thuyền lúc nãy, nhưng giờ đây đang ngồi ở đuôi
thuyền sau lưng anh.
Lúc này Bernt phải một mình lo liệu những sợi dây
căng trục buồm, dù hai dứa em của nó đang cố hết sức để giúp nó.
Elias, người cầm lái, không dám gây ra một sơ suất nào, và anh lái
thuyền đi với bàn tay cứng như sắt, tiếp tục nỗ lực không ngừng với
một cảm giác vô tri.
Một lúc sau, chiếc thuyền bên cạnh lại nhô lên, trong
khoảnh khắc trước đó nó đã biến mất. Lúc này, anh nhìn thấy người
đàn ông ngồi ở đuôi thuyền rõ hơn. Từ lưng hắn ta, ngay bên dưới cái
mũ rộng vành (khi hắn quay lưng, nó hiện ra rất rõ) nhô ra một khúc
cán lao dài, mà Elias dễ dàng nhận ra nó chính là khúc lao của
chính anh. Lúc bấy giờ, khi bình tĩnh suy nghĩ lại mọi chuyện, anh
đã hoàn toàn xác định được hai điều: thứ nhất, chính con thủy quái
đang lái chiếc thuyền của nó bên cạnh thuyền anh, để đưa anh vào chỗ
chết; thứ hai, định mệnh đã được viết xong, rằng đêm đó anh đang thực hiện chuyến đi biển
cuối cùng. Vì ai trông thấy một con thủy quái trên biển là người đã
tới hồi tận số. Anh không nói gì với mấy đứa trẻ, để chúng khỏi
hốt hoảng, nhưng anh thầm lặng nguyện cầu Thượng đế.
Trong khoảng một giờ cuối, anh buộc phải chệch khỏi
hướng đi vì cơn bão, không khí đã trở nên quánh lại vì tuyết, và
Elias biết rằng anh phải đợi cho tới bình minh mới có thể nhìn thấy
được đất liền. Trong lúc đó, anh vẫn cho thuyền lướt đi càng nhanh
càng tốt. Thỉnh thoảng, mấy đứa trẻ ở đuôi thuyền than thở rằng
chúng bị lạnh cóng, nhưng trong hoàn cảnh họ lúc này, anh không thể
làm gì được. Ngoài ra, Elias đang nghĩ tới một chuyện khác. Một khát
khao báo thù kinh khủng đang tràn ngập tim anh, và, nếu không vì mạng
sống của ba đứa con, anh hẳn đã đột ngột quay thuyền để đánh đắm con
thuyền đáng nguyền rủa đang lướt bên cạnh anh suốt thời gian đó
như thể đang chế nhạo anh. Giờ thì
anh đã hiểu mục đích xấu xa duy nhất của nó rất rõ. Nếu khi trước
ngọn lao có thể đâm vào người con thủy quái, lúc này một con dao
hoặc một ngọn lao cũng có thể đâm vào nó được, và anh cảm thấy anh
sẽ hân hoan từ bỏ mạng sống của mình để giết chết con vật đã tàn
nhẫn tách khỏi anh những người thân yêu nhất trên đời.
Vào ba giờ sáng, qua
màn đêm, họ nhìn thấy hiện lên cái gì đó như hình dáng một ngọn
đồi khiến lúc đầu Elias cho rằng họ phải tới rất gần đất liền, nơi
sóng vỗ nhiều hơn hẳn. Tuy nhiên, anh sớm nhận ra thật sự đó là gì –
một ngọn sóng cồn. Rồi dường như có một giọng cười phát ra từ
chiếc thuyền kia, và như có một giọng nói rằng: “Thuyền của mi sẽ
tới đó, Elias!” Tiên đoán được tai họa, anh hét lớn: “Vinh danh Chúa
Jesus!”. Rồi anh thét bảo mấy đứa con hãy cố gắng hết sức bám chặt
vào những sợi dây liễu buộc cột chèo khi con thuyền đi qua ngọn sóng
cồn. Anh ra lệnh cho đứa lớn hơn tới chỗ của Bernt, còn mình thì kéo
đứa kia lại sát bên, hôn nhẹ lên má nó đôi lần, tin chắc rằng anh đã
ôm chặt nó vào lòng. Con thuyền, chìm dưới làn sóng dữ, dần được
đưa lên bởi những lượn sóng rồi lại chìm xuống. Khi nhô khỏi mặt
nước trở lại, con thuyền bị lật úp. Elias, Bernt và thằng Martin mười
hai tuổi còn bám được vào sống thuyền, nhưng đứa thứ ba đã biến
mất.
Lúc bấy giờ, trước hết họ phải cắt bỏ những sợi
thừng ở một bên, để chúng rơi xuống mặt nước để khỏi làm mất cân
bằng của con thuyền bên dưới, rồi họ bò lê trên đáy con thuyền đang
lắc lư, đục một số lỗ thông hơi để cho không khí đang nâng con thuyền
quá cao trên mặt nước thoát ra bớt. Sau nhiều nỗ lực họ thành công,
và Elias, người quay lên sống thuyền đầu tiên, giúp hai đứa con trèo
lên.
Họ ngồi đó suốt cái đêm mùa đông dài ảm đạm, bám
chặt đôi tay và tì đầu gối xuống đáy thuyền, đang liên tiếp bị những
ngọn sóng nhồi lên dập xuống.
Khoảng hai giờ sau đó, Martin chết vì kiệt sức. Suốt
quảng thời gian đó, cha nó vẫn cố ôm lấy nó. Rồi xác nó trượt ra,
rơi xuống biển. Họ đã cố kêu cứu nhiều lần, nhưng cuối cùng ngưng
lại vì thấy chẳng ích gì.
Khi cả hai ngồi cô đơn trên đáy chiếc thuyền, Elias
bảo Bernt rằng ngay cả anh cũng đã sắp sửa đi theo mẹ của nó, nhưng
anh rất hy vọng rằng Bernt phải sống sót với bất cứ giá nào, nếu
là một chàng trai xứng đáng. Rồi anh kể cho Bernt nghe mọi chuyện về
con thủy quái mà anh đã phóng ngọn lao vào lưng nó. Bây giờ nó đã
thực hiện cuộc báo oán, và tất nhiên sẽ không bỏ cuộc cho tới lúc
nó giết được anh.
Mãi đến chín giờ sáng bình minh xám ngắt mới bắt
đầu xuất hiện. Khi đó, Elias trao cho Bernt cái đồng hồ đeo tay bằng
bạc và sợi dây đồng hồ bằng đồng mà anh đã làm đứt thành hai mảnh
khi cố kéo nó ra khỏi cái túi áo khoác. Anh còn ngồi thêm một lúc
nữa, nhưng, khi trời rạng hơn, Bernt nhận thấy mặt cha nó tái nhợt đi,
mái tóc của anh rũ rượi xõa ra thành từng bệt, như thường thấy ở
những người sắp chết, và lớp da tay của anh phồng rộp vì cố bám
vào sống thuyền. Đứa con trai hiểu rằng cha nó sắp thở hơi thở cuối
cùng, và cố gắng đỡ Elias lên, trong lúc con thuyền vẫn trồi sụt theo
cơn sóng. Nhưng khi Elias nhận thấy điều đó, anh nói: ‘Không, hãy lo cho
bản thân con, Bernt ạ, và hãy đi nhanh lên. Ba theo mẹ của con đây. Vinh
danh Chúa Jesus!” Nói rồi, anh phóng người ra khỏi con thuyền.
Bất cứ ai đã từng đi biển nhiều lần đều biết rằng
khi biển đã nguôi giận, nó dần trở nên bình thản lại, dù không phải
ngay lập tức. Lúc này Bernt thấy việc cho thuyền tiến lên dễ dàng
hơn, và càng có thêm nhiều hy vọng với ánh sáng ban ngày rực rỡ. Cơn
bão đã ngưng, và khi nó đã dịu hẳn, Bernt mơ hồ biết rằng nó đang ở
đâu, rằng nó đang ở gần đất nhà của mình, thôn Kavlholm.
Bấy giờ, nó bắt đầu kêu cứu, nhưng niềm hy vọng
chính của nó đặt vào một luồng nước mà nó biết sẽ hướng vào bờ
ở nơi có một mũi đất lú ra trên mặt sóng, và ở đó, nước chảy lặng
hơn. Và thật thế, con thuyền tiến vào ngày càng gần bờ hơn, rồi
cuối cùng tới thật gần một trong những tảng đá đến mức cái cột
buồm, đã bị ngã nghiêng sang một bên thuyền từ lâu trước đó, chọc lên
bên trên mỏm đá và đong đưa lên xuống theo cơn sóng. Dù cả tứ chi của
nó lúc này tê dại hẳn vì ngồi và bám vào thuyền quá lâu, với một
nỗ lực to lớn, cuối cùng Benrt cũng trèo được lên trên mỏm đá, nơi
nó kéo cái cột buồm lên bờ, và con thuyền cặp sát bờ đá.
Cô bé người Phần Lan, một mình ở lại giữ nhà, nghĩ
rằng trong suốt hai giờ liền nó đã nghe thấy tiếng kêu cứu lặp đi
lặp lại nhiều lần, và khi tiếng kêu vẫn tiếp tục, nó đi lên ngọn
đồi để xem chuyện gì. Ở đó, nó trông thấy Bernt đang nằm trên mỏm
đá, và chiếc thuyền lật úp đang nhấp nhô cạnh đó. Ngay lập tức, cô
bé chạy xuống chỗ đậu thuyền, chèo chiếc thuyền nhỏ cũ đi vòng theo
bờ biển và hòn đảo, hướng về phía Benrt nằm.
Bernt nằm dưỡng bệnh dưới sự chăm sóc của cô bé
suốt mùa đông ấy, và không hề đi đánh cá cho đến hết năm. Ngay cả sau
đó, với dân cư quanh vùng, dường như cậu bé trở nên hơi gàn dở.
Bernt không bao giờ đi biển nữa, vì nó đã mắc phải
chứng sợ biển. Sau đó, Bernt cưới cô gái người Phần Lan, và dời tới Malang. Ở đó, Bernt
phát quang một khu rừng nhỏ, rồi sinh cơ lập nghiệp, khá thành đạt,
như người ta kể lại.
[1] Một
quận ở miền Bắc Na Uy
[2] Vùng
quần đảo ở miền duyên hải tỉnh Nordland, Na Uy
[3] Loại
thuyền mỗi bên có ba vị trí chèo thuyền
[4] Loại
thuyền mỗi bên có năm vị trí chèo thuyền, dùng để đi biển trong mùa
giông bão, thời tiết xấu.
[5] Cảng
chính ở Nordland
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét