JONAS LIE
Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
Dịch theo
Bản tiếng Anh của R. Nisber Bain
Tranh Minh
họa của Laurence Housman
JACK VÀ GAN-FINN
Vào thời của những tổ tiên chúng ta, ở Nordland
chẳng có gì ngoài những con thuyền gỗ tồi tàn, và người dân buộc
phải mua những cơn gió lành bị nhốt trong cái bao tải của lão
Gan-Finn[1],
vì đi thuyền vát theo hướng gió giữa biển trong mùa gió lớn là điều
rất nguy hiểm. Hồi ấy, một ngư phủ không bao giờ chết già, và chỉ
những người đàn bà, trẻ con và tàn tật mới được chôn cất ven bờ
biển.
Một lần nọ, một con thuyền cùng thủy thủ đoàn đã
xuất phát từ Thjöttö ở Helgeland, tiến về hướng đông quần đảo Lofotens
để đánh bắt cá.
Nhưng mùa đông ấy cá không xuất hiện. Họ ở lại đó
và chờ đợi hết tuần này sang tuần khác cho đến trọn tháng, và
chẳng còn gì để làm ngoài việc quay trở về với những thứ dụng cụ
đánh bắt và con thuyền trống rỗng.
Thế nhưng Jack ở Sjöholm, cùng đi với họ, phá ra cười
và bảo rằng, nếu ở đó không có cá, họ có thể tìm thấy chúng ở xa
hơn trên mạn bắc. Lẽ hẳn nhiên, mọi người đã vất vả chèo thuyền
suốt quảng đường này không phải chỉ để ăn hết những thực phẩm dự
trữ, anh ta nói thế.
Anh ta còn rất trẻ, và chưa từng ra khơi đánh cá lần
nào. Nhưng lời anh ta nói xem chừng cũng có lý, viên thuyền trưởng
nghĩ thầm.
Thế là họ giong buồm tiếp tục tiến về hướng bắc.
Ở bãi đánh cá tiếp theo, họ cũng chẳng đánh bắt
được gì, nhưng họ vẫn cố gắng cho đến lúc thực phẩm dự trữ sắp
cạn.
Lúc bấy giờ tất cả mọi người đều dứt khoát từ bỏ
việc đánh cá và quay trở về.
“Nếu ở đây không có, chắc chắn là ở đâu đó xa hơn
về hướng bắc phải có ít nhiều cá chứ,” Jack phát biểu, “và nếu
chúng ta đã đi xa đến thế rồi, chúng ta hẳn có thể đi xa hơn chút
nữa.”
Thế là họ thử vận may từ bãi đánh cá này sang bãi
kia, cho tới khi họ đã lên tới địa phận tỉnh Finnmark[2].
Ở đó họ gặp một cơn bão, và dù đã cố tìm nơi ẩn náu dưới những
mũi đất, cuối cùng họ cũng buộc phải quay ra khơi trở lại.
Lúc này họ lâm vào tình trạng tồi tệ hơn bao giờ
hết. Mũi thuyền liên tục chìm dưới những cơn sóng mạnh, không thể
ngoi lên khỏi chúng, và vào cuối ngày, con thuyền bị lật úp.
Tất cả ngồi tuyệt vọng trên sống thuyền, giữa mặt
biển cuồng nộ, và cay đắng trách móc Jack, kẻ đã lôi kéo và đẩy họ
vào đường chết. Rồi vợ con họ sẽ ra sao? Họ sắp chết đói ở đây
rồi, và ai sẽ chăm lo cho vợ con họ?
Khi trời sụp tối, tay của họ bắt đầu cóng lại, và
lần lượt, họ bị sóng biển cuốn đi.
“Mình phải cố bám chặt vào.” Jack tự nhủ. Vì ở
trên con thuyền bị lật dù sao cũng tốt hơn là rơi xuống biển. Thế
rồi anh cố kẹp chặt đầu gối vào sống thuyền và cố bám lấy nó cho
tới khi anh không còn cảm giác gì với tay chân mình nữa.
Trong bóng đêm đen như mực, anh nghĩ rằng mình đã nghe
thấy những tiếng kêu thét của người này hay người khác trong số thủy
thủ đoàn còn sót lại.
Jack nghe và nhìn thấy hết mọi chuyện, cho đến khi
người cuối cùng bị cuốn khỏi sống thuyền thét lên, và thời gian đó,
họ vẫn không ngừng mắng nhiếc anh đã đưa họ tới thảm cảnh đó và
khóc than cho nỗi niềm đau khổ.
“Họ còn có vợ con
nữa,” Anh nghĩ, “Không biết những người thân của họ có đổ lỗi trách
móc mình chăng?”
Trong lúc nằm đó, tự nhủ rằng có lẽ mình sẽ bị
sóng cuốn trôi giạt cho tới sáng, đột nhiên, anh cảm thấy con thuyền
đang nằm trong dòng hút mạnh của một luồng nước ven bờ, và cuối
cùng Jack đã tấp vào bờ biển. Nhưng nhìn về hướng nào, anh cũng chỉ
nhìn thấy mặt biển đen ngòm và những lớp tuyết trắng xóa chập
chùng.
Khi đang đứng đó, tự hỏi và tự kiểm tra lại thân
thể, Jack trông thấy ở xa xa làn khói bốc lên từ một túp lều Phần
Lan nằm nép bên dưới một vách đá, và anh cố lê tới đó.
Người đàn ông Phần Lan trong lều già đến nỗi ông ta
gần như bất động. Ông ta ngồi giữa những lớp tro ấm, lầm bầm gì đó
vào một cái bao tải lớn, không hề nói hoặc đáp một câu nào với
Jack. Những con ruồi vàng to tướng bay vo vo khắp mặt tuyết, như thể
đang vào giữa mùa hè, và chỉ có một một cô gái trẻ ở đó để trông
chừng đống lửa và cho ông lão ăn. Hai ông cháu họ sống với đàn tuần
lộc đang đi tìm thức ăn trên đồng tuyết.
Jack lo hơ khô quần áo dù đang thèm được nằm xuống
nghỉ ngơi. Seimke, cô gái Phần Lan, không giúp được gì nhiều lắm cho
anh. Cô ta cho anh uống sữa và ăn xương ống tuần lộc. Sau đó, anh nằm
lên trên những bộ lông da cáo trắng. Thật là ấm cúng và thoải mái trong
hơi khói ở đây. Nhưng khi nằm đó, nửa thức nửa ngủ, dường như có
những vật gì đó lạ lùng đang lướt vòng quanh anh.
Ông lão Phần Lan đứng ở cửa lều nói chuyện với lũ
tuần lộc, mặc dù chúng đang ở trên những ngọn núi cao cách đó rất
xa. Ông ta chặn đường những bầy sói và đe dọa con gấu lớn bằng những
câu thần chú, rồi ông ta mở cái bao da lớn ra, để cơn bão hú lên và
kêu rít, rồi có một cơn lốc xoáy tro cuốn vào trong túp lều. Khi tất
cả lặng trở lại, không khí dày dặc vì những con ruồi, đang đậu trên
những tấm da thú của ông ta. Trong lúc đó, ông ta lắp bắp, lầm bầm
và lắc lắc cái đầu trọc lóc xương xẩu hệt như một cái sọ người
của mình.
Nhưng Jack còn nghĩ tới một điều khác ngoài nỗi kinh
ngạc đối với lão phù thủy già.
Và ngay khi đi tới chỗ con thuyền, giấc ngủ nặng nề
cứ như ụp xuống đôi mắt anh.
Nó nằm kẹt trên bãi cát và nghiêng sang bên phải như
một cái máng lợn, trong lúc đó biển vỗ nhẹ và gợn sóng lăn tăn quanh sóng thuyền.
Anh kéo nó lên bờ đủ để ra khỏi tầm cuốn của thủy triều.
Nhưng càng kiểm tra nó, anh càng thấy dường như người
ta đóng những con thuyền như thế để cho biển cả vùi dập nó hơn là
để nó đối phó với biển cả. Mũi thuyền chỉ to hơn cái mũi lợn đôi
chút, còn tấm ván ở sống thuyền thì bằng phẳng như chuôi của một quân cờ. Anh nghĩ thầm
rằng để những con thuyền thực sự xứng đáng với biển khơi, chúng
phải được thiết kế hoàn toàn khác hẳn. Mũi thuyền ít nhất phải cao
hơn hai tấm ván nữa, và phải được làm vừa sắc sảo vừa mềm dẻo, để
nó có thể chúi về trước và chẻ đôi những lớp sóng, và người ta sẽ
có dịp lái một con thuyền tuyệt diệu.
Anh nghĩ về điều này suốt ngày đêm. Sự thư giãn duy
nhất của anh là trò chuyện với cô gái Phần Lan vào chập tối.
Anh không thể không nhận ra rằng Seimke đã đem lòng yêu
thương mình. Cô lẽo đẽo đi theo anh đến bất cứ nơi nào, và đôi mắt cô
trở nên buồn bã khi anh đi xuống chỗ mé bờ biển. Cô biết rất rõ
rằng mọi ý nghĩ của anh đều hướng về việc ra đi.
Còn ông già thì vẫn ngồi đó lầm bầm giữa những
lớp tro cho tới khi tấm áo khoác bằng da thú của ông bốc hơi và tỏa
khói.
Seimke vỗ về và dỗ ngọt Jack với đôi mắt nâu của cô,
trao cho anh những lời ngọt ngào như mật cho tới lúc cô lôi được anh
vào giữa đám khói nơi ông già Phần Lan không thể nghe thấy họ nói
gì.
Gan Finn quay đầu sang phải.
“Mắt ta kém rồi, và khói làm chúng mờ đi.” Ông ta
nói. “Jack tới đó để làm gì?”
“Hãy nói anh tới để lấy con gà gô bị mắc bẫy.” Cô
gái thì thầm.
Và Jack cảm thấy cô đang ngầm ra ám hiệu cho anh và
đang run lẩy bẩy hết thân người.
Rồi cô nhẹ nhàng nói với anh rằng Gan Finn đã đọc
được những ý nghĩ của anh, rằng ông nổi giận và đang thầm đọc thần
chú và hát những bài ca huyền bí
để chống lại Jack và con thuyền mà anh muốn làm. Nếu anh hoàn thành nó, Đại phù thủy Phần Lan sẽ không còn bán bất kỳ ngọn
gió lành nào trên toàn cõi Nordland. Và cô cảnh báo anh nên cẩn
trọng, đừng bao giờ đi xen vào giữa ông già phù thủy và bầy ruồi
của ông ta.
Lúc đó, Jack cảm thấy con thuyền có thể là thứ sẽ
hủy diệt anh. Nhưng mọi việc càng có vẻ tồi tệ, anh càng cố gắng
thực hiện chúng sao cho tốt nhất.
Trong ánh bình minh xám nhạt, trước khi Gan Finn thức
giấc, anh đi xuống bờ biển.
Nhưng những ngọn đồi tuyết có điều gì đó thật lạ
lùng. Chúng nhiều và kéo dài đến vô tận, Jack cứ nặng nề giẫm lên
những lớp tuyết càng lúc càng sâu mà không bao giờ tới được bờ biển
cả. Anh chưa bao giờ trông thấy những đống lửa miền Bắc kéo dài đến thế vào
lúc ban ngày. Chúng sáng chói và
lấp lánh, những ngọn lưỡi dài của lửa liếm theo và rít lên ngay
phía sau anh. Anh không thể tìm thấy bờ biển hoặc con thuyền đâu cả,
mà cũng không thể biết mình thật sự đang ở chỗ nào trên trái đất.
Cuối cùng, anh phát hiện ra mình đã đi ngược sâu vào
đất liền thay vì đi xuống biển. Nhưng bấy giờ, khi quay lại, một làn
sương mù bao trùm lên anh, dày đặc và xám mờ đến mức anh không còn
có thể nhìn thấy một vật gì dù ngay trước mắt.
Tới chiều, anh đã mệt nhoài đến gần như kiệt sức,
và không còn biết phải làm gì.
Đêm xuống, và tuyết càng rơi dày đặc.
Trong lúc Jack đang ngồi trên một tảng đá, suy ngẫm
và cân nhắc để tìm cách thoát hiểm, từ trong màn sương mù, một đôi
giày đi tuyết lướt thật nhẹ tới và dừng lại ngay trước chân anh.
“Nếu ngươi đã tìm ra ta, ngươi cũng có thể tìm được
lối về.” Jack nói.
Thế là anh mang đôi giày vào, và để mặc cho chúng
tự lướt đi trên những sườn đồi và dốc đá. Anh không để cho đôi mắt
hướng dẫn, và cũng không để đôi chân của mình mang mình đi. Đôi giày
càng đi nhanh, những bông tuyết càng rơi dày, và hơi nước biển trùm
lên anh, và một luồng gió suýt chút đã thổi anh khỏi đôi giày đi
tuyết.
Lên đồi, xuống lũng, anh đi qua tất cả những nơi mà
anh từng đi suốt ngày hôm ấy, đôi khi dường như anh không còn đi trên
mặt đất mà đang bay giữa không trung.
Đôi giày đi tuyết đột nhiên dừng lại, và anh đã đứng
ngay trước cửa túp lều của Gan Finn.
Seimke đứng tại đó. Nàng đã tìm kiếm anh.
“Em đã cho đôi giày đi tìm anh.” Nàng nói. “Vì em
nhận thấy ông của em đã phù chú mặt đất khiến anh không thể tìm ra
con thuyền. Mạng sống của anh an toàn, vì ông đã cho anh ẩn náu trong
lều của ông. Nhưng sẽ bất lợi cho anh nếu gặp ông đêm nay.”
Thế rồi nàng lén đưa anh vào lều, để Gan Finn không
nhận ra trong đám khói dầy, rồi nàng cho anh ăn và thu xếp chỗ ngủ
cho anh.
Khi giật mình thức giấc giữa đêm, Jack nghe một âm
thanh kỳ lạ, và từ xa trong không trung có một tiếng hát rì rầm:
“Người Phần Lan không ưa con thuyền
Gã ngư phủ đàn ruồi vẫn tìm
Gió cuộn tròn thành xoáy liên miên.”
Lão phù thủy ngồi giữa đống tro và lầm rầm đọc
thần chú cho tới lúc mặt đất rung lên. Seimke nằm úp trán lên mặt
đất, hai bàn tay ôm chặt lấy gáy, cầu nguyện Thượng đế của người Phần
Lan chống lại ông ta. Jack hiểu rằng lão phù thủy vẫn đang tìm kiếm
anh giữa đám sương mù và bông tuyết, và mạng sống của anh đang bị
những câu thần chú đe dọa.
Vì vậy, anh mặc lại quần áo trước khi trời sáng, đi
ra ngoài, và quay trở về lều, cả người đầy tuyết phủ, và bảo rằng
anh đã đi theo những con gấu vào nơi trú đông của chúng. Nhưng anh chưa
bao giờ nhìn thấy một cơn sương mù kinh khủng như vậy, anh đã lần mò
đi thật xa trước khi có thể tìm ra đường quay lại túp lều.
Lão phù thủy ngồi đó, với những tấm áo choàng da
thú bám đầy những con ruồi hệt như một cái tổ ong. Ông ta đã sai
chúng đi tìm khắp hướng, nhưng chúng đã trở lại đông đủ, đang bay vo
ve quanh quẩn bên ông ta.
Khi nhìn thấy Jack ở cửa lều, nhận thấy rằng đám
ruồi đã báo cáo đúng, trông ông ta hơi dịu lại, và phá lên cười cho
tới lúc cả thân hình ông rung lên dưới tấm áo choàng da, rồi ông ta
lầm rầm nói: “Ta sẽ cột con gấu này ở gần chậu rửa bát, và ta đã
làm cho đôi mắt nó chệch đi, để nó không thể nhìn thấy con thuyền
của nó, và ta sẽ cắm một cái cọc ngay trước mặt nó cho tới mùa
xuân.”
Ngay trong hôm ấy, lão phù thủy đứng ở cửa lều, bận
rộn gửi những ám hiệu ma thuật và
những cử chỉ lạ lùng vào không trung.
Rồi ông ta thả ra hai bầy ruồi kinh khủng, lướt theo
mọi hướng, để lại những vết xám đen trên mặt tuyết ở mọi nơi chúng
bay qua. Chúng sẽ mang tới đau đớn và và bệnh tật xuống một ngôi nhà
mé dưới đầm lầy, làm lây lan chứng bệnh ho lao để giết chết một cô
dâu ở Bodo.
Suốt ngày đêm, Jack không nghĩ tới điều gì khác
ngoài việc làm sao anh có thể thoát khỏi Gan Finn.
Seimke dỗ dành, khóc lóc và van nài anh, rằng nếu
coi trọng mạng sống của mình thì đừng cố tìm cách đến chỗ con
thuyền nữa. Tuy nhiên, cuối cùng, nàng thấy rằng điều đó vô hiệu quả
– Jack đã quyết tâm bỏ trốn.
Nàng hôn đôi bàn tay của Jack và khóc nức nở. Cuối
cùng, Jack phải hứa sẽ chờ đợi cho đến khi Gan Finn đã tới núi Jokmok[3]
ở Thụy Điển.
Vào hôm lên đường, lão phù thủy già đi vòng quanh
túp lều với một ngọn đuốc. Ở thật xa nơi đó, có những đồng cỏ trên
núi, với những con tuần lộc và chó, còn những người dân của lão
thì sống gần bên cạnh. Lão ra lệnh cho cô cháu gái không được để cho
bầy tuần lộc đi quá xa khi lão vắng nhà, kẻo không thể bảo vệ chúng
khỏi những con sói và gấu. Thế
rồi lão uống một liều thuốc ma thuật rồi bắt đầu nhảy múa, xoay
vòng cho đến lúc tắt thở, và lão chìm sâu vào lòng đất. Những tấm
áo da thú của lão vẫn nằm lại đó. Linh hồn của lão đã bay đến núi
Jokmok.
Ở đó tất cả những tay phù thủy sẽ ngồi lại với
nhau trong màn sương u ám bên dưới đỉnh núi cao và thì thầm với nhau
về những điều bí ẩn và thổi những thần linh vào trong người những
phù thủy tập sự.
Bầy ruồi vẫn bay vo ve vòng quanh đống da thú trống
rỗng của Gan Finn như một chiếc vòng vàng choé để canh gác.
Đêm đó, Jack thức giấc
vì có một cái gì đó đang kéo lôi anh như thể từ rất xa. Đó
là một luồng không khí, và có cái gì đó đe dọa, kêu gọi anh từ
giữa những đám bông tuyết ngoài trời.
“Những con vịt trời,
khi mi chưa giỏi bằng chúng
Trứng chưa nở và Phù thủy Phần Lan
Không bao giờ để cho mi
đi thuyền về miền nam
Vì ông ta sẽ tắt gió và nhốt bão lại.”
Khi tiếng nói kết thúc, Gan Finn hiện ra, khom người
nhìn anh. Lớp da mặt của lão xệ xuống mềm nhão, đầy những nếp nhăn,
như da của một con tuần lộc già, và trong mắt lão như có một lớp
khói mờ làm anh hoa mắt. Jack run lên và tê cóng cả thân người, anh
biết rằng lão đã ếm phù chú lên người anh. Thế rồi anh ngẩng mặt
lên nhìn thẳng vào lão, để cho những câu phù chú không làm hại được
anh, họ kình nhau như thế cho tới khi mặt Gan Finn tái xanh đi, gần như
bị nghẹt thở.
Sau đó, những tay phù thủy ở Jokmok gửi những thứ ma
thuật đến Jack, che mờ trí thông minh của anh. Anh có cảm giác lạ
lùng và bất cứ khi nào anh bận rộn với chiếc thuyền, vừa sửa lại
một thứ gì đó, ngay lập tức một thứ khác sẽ hư hỏng. Cuối cùng,
anh có cảm giác như đầu anh chứa đầy những mũi kim.
Một nỗi buồn sâu thẳm đè nặng lên hồn anh. Anh có
cố gắng mấy vẫn không thể sửa lại con thuyền theo ý muốn, và có vẻ
như anh sẽ không bao giờ có thể vượt biển được nữa.
Vào mùa hè, Jack và Seimke ngồi bên nhau trên mỏm đất
trong những buổi chiều ấm áp, những con muỗi mắt vo ve và bọn cá
quẫy nước ở ven bờ trong sự yên tĩnh, còn những con vịt biển thì bơi
quanh quẩn nơi đó.
“Giá có ai đó đóng cho anh một chiếc thuyền nhanh lẹ
như cá và có thể lướt lên trên những ngọn sóng cồn như một con hải
âu nhỉ!” Jack thở dài than vãn. “Khi đó anh có thể lên đường ngay.”
“Mi có muốn ta chỉ
đường cho mi tới Thjoto không?” Một giọng nói cất lên từ bờ biển.
Một gã đàn ông đội mũ da vành rũ đứng ở đó, và
họ không thể nhìn thấy gương mặt hắn ta.
Và ngay ở bên ngoài những mõm đá, nơi họ nhìn thấy
những con vịt biển lúc nãy, nằm sừng sững một chiếc thuyền dài và
hẹp, mũi và lái cao vút, màu của lớp nhựa quét thuyền lấp lánh
phản chiếu xuống mặt nước trong xanh, và dường như không có một đường
ráp nối nào trên lớp gỗ.
“Tôi rất biết ơn vì bất kỳ một sự chỉ dẫn nào.”
Jack nói.
Khi Seimke nghe thấy câu này, nàng bắt đầu khóc lên
nức nở. Nàng vừa bám vào cổ Jack, không để cho anh ra đi, vừa kêu gào
kể lể. Nàng hứa sẽ cho anh đôi giày đi tuyết, chúng sẽ đưa anh vượt
qua mọi thứ, và bảo rằng nàng sẽ lấy trộm cho anh cái gậy bằng
xương của Gan Finn, nhờ nó, anh sẽ có những đồng tiền cổ may mắn đã
bị vùi chôn, sẽ dạy cho anh cách thắt những mắt lưới để đánh bắt
cá hồi trên đường tìm cá, cách dụ lũ tuần lộc từ xa. Anh sẽ trở
nên giàu có như Gan Finn, chỉ cần
anh đừng bỏ rơi nàng.
Nhưng Jack chỉ chăm chú nhìn con thuyền bên dưới. Thế
là nàng đứng dậy, rứt những lọn tóc của mình ra quấn vào chân Jack,
để trước khi rời khỏi nàng, trước hết anh phải gỡ được chúng khỏi
chân.
“Nếu anh ở đây với em và những con tuần lộc non, có
nhiều người nghèo vẫn không tài nào thoát khỏi những con thuyền tồi
tàn rách nát.” Jack nói. “Nếu em hiểu được điều này, hãy tặng cho
anh một nụ hôn và ôm chặt lấy anh trước lúc anh ra đi.”
Thế là nàng lao vào vòng tay anh như một con mèo
hoang, nhìn thẳng vào mắt anh với đôi mắt đẫm lệ của nàng, run lên
và chợt phá lên cười như điên dại.
Nhưng khi nhận ra nàng không thể làm gì được, nàng
bỏ chạy, giơ cánh tay khỏi đầu vẫy về hướng túp lều.
Khi đó, Jack biết nàng sẽ xin ý kiến của Gan Finn,
và tốt nhất là anh nên bỏ trốn trên chiếc thuyền trước khi quá muộn.
Trong lúc đó, con thuyền đã đến rất gần những mỏm đá, và anh có
thể nhảy xuống sàn thuyền. Chiếc bánh lái quay nhanh trong tay anh, và
nghiêng nghiêng phía sau cột buồm ở mũi tàu có một người đang ngồi,
đang giương buồm lên, nhưng Jack không thể nhìn thấy mặt hắn ta.
Họ lướt đi trên sóng nước.
Jack chưa hề trông thấy một chiếc thuyền chạy trước
gió như thế. Mặt biển vây quanh họ như
tuyết cuộn lên, dù nó đang yên tĩnh. Nhưng họ đi chưa được xa
lắm thì trên không trung chợt có tiếng kêu chim chíp lạ lùng. Những
con chim kêu thét lên và bay về hướng đất liền, và mặt biển dựng lên
như một bức tường ở sau lưng họ.
Gan Finn đã mở cái túi đựng gió của ông ta, và sai
khiến một cơn bão đuổi theo họ.
“Cần giương hết buồm trong cái vạc của người Phần
Lan này.” Một giọng nói cất lên từ phía sau cột buồm.
Người chủ thuyền chẳng quan tâm đến thời tiết mấy
vì hắn ta chỉ cuốn một cánh buồm duy nhất.
Thế là Gan Finn cử một cơn bão lớn gấp đôi đuổi theo
họ.
Họ lướt đi trong một điệu vũ hoang dại qua cái vịnh
nhỏ, còn mặt biển thì dựng lên thành một cột nước trắng xoá, vươn
tới tận những đám mây. Trừ phi con thuyền có thể bay nhanh như chim,
nó sẽ bị nhấn chìm. Chợt một giọng cười kinh khủng nổi lên từ mạn
trái con thuyền:
“Gan Finn đang há mồm
Thổi chúng ta về nam
Cơn bão to dị thường
Ta phải giương ba buồm”
Ngay lập tức, ba buồm phụ được giương lên, và gã
ngồi ở trước tàu dạng hai chân ngồi trên miếng ván giữa thuyền, đôi
ủng đi biển khổng lồ của hắn đong đưa trong sóng nước. Họ chạy thẳng
qua màn nước ra cửa biển, giữa tiếng rú gào gầm thét của cơn bão
dữ.
Những bức tường sóng rộng lớn và nặng nề đến nỗi
Jack không thể nhìn thấy ánh sáng ban ngày ở cách xa vài mét, anh
cũng thể nhận ra họ đang đi đâu trên
vùng biển trũng đó.
Con thuyền chẻ mặt biển một cách nhẹ nhàng và dễ
dàng như thể mũi thuyền là một bộ vây cá trơn trợt, còn mặt ván
thì phẳng mịn như vỏ trứng chim nhạn, nhưng trog phạm vi tầm nhìn,
Jack không thể thấy những miếng ván thuyền chấm dứt ở chỗ nào, như
thể nó chỉ là một nửa của con thuyền, không còn gì nữa. Cuối cùng,
dường như toàn bộ phần trước con thuyền đã vượt ra khỏi vùng sóng
cuộn, và họ đang lao đi bên dưới cánh buồm của một nửa con thuyền.
Khi đêm buông xuống, họ đi qua vùng biển lân tinh, đang
lấp lánh như những lớp than hồng,
và trong không trung có một tiếng hú kinh khủng kéo dài theo hướng
gió.
Những tiếng khóc than và gào rú vì đau khổ đáp lại
tiếng gió từ những con thuyền bị lật úp khi họ lướt qua, và nhiều
gương mặt xanh xao khủng khiếp của những người ngư phủ đang dán vào con
thuyền của họ. Ánh sáng của vùng biển lân tinh hắt lên mặt họ một
màu xanh thẫm. Họ ngồi, miệng há hốc, mắt trừng trừng và gào thét
trong cơn gió.
Đột nhiên anh tỉnh thức, và có ai đó kêu lên: “Giờ
thì mi đã về tới nhà ở Thjöttö rồi đó, Jack!”
Khi trấn tỉnh lại hơn, Jack nhận ra anh đang ở đâu. Anh
đang nằm trên một mõm đá gần căn nhà thuyền ở quê hương. Thủy triều
tiến vào đất liền khá xa nên một đợt sóng tràn qua bên trên cánh
đồng trồng khoai, và anh gần như
không đứng vững vì cơn gió mạnh. Anh ngồi xuống căn nhà thuyền,
bắt đầu lờ mờ nhớ lại và phác ra hình dáng của con thuyền thủy
quái trong bóng tối ảm đạm cho tới khi ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau, em gái của anh đến với một giỏ thịt.
Cô bé không chào hỏi anh như thể anh là một người xa lạ, nhưng cư xử
như việc tới đó vào mỗi buổi sáng là một điều bình thường. Khi anh
bắt đầu kể cho nó nghe mọi chuyện về chuyến hành trình tới Finnmark,
về Gan Finn và con thuyền thủy quái đã đưa anh về nhà đêm qua, anh
nhận ra rằng nó chỉ nhe răng cười và để cho anh kể lể. Suốt ngày hôm
ấy, anh kể lại câu chuyện cho các em trai, em gái và mẹ của anh nghe,
cho tới khi anh kết luận rằng họ nghĩ anh đã hơi mất trí. Khi anh nói
tới con thuyền thủy quái họ mỉm cười với nhau và thầm chế giễu anh.
Nhưng họ muốn tin gì thì mặc họ, chỉ cần anh có thể thực hiện được
điều mình muốn, và được ở yên một
mình trong căn nhà thuyền hiu quạnh.
“Cần phải làm theo ý mọi người.” Jack nghĩ, và nếu
họ nghĩ rằng anh điên khùng mất trí, anh phải xử sự sao cho họ không
chú ý tới anh, không can thiệp và quấy rầy khi anh làm việc.
Thế là anh mang xuống căn nhà thuyền một cái giường
bằng da thú, và ngủ đêm ở đó; vào ban ngày anh trèo lên một cái xà
nhà và la to rằng anh đang đi thuyền. Đôi khi, anh trượt theo mái nhà
và chọc sâu vỏ con dao những rui nhà, để mọi người nghĩ rằng anh đang
tưởng tượng anh đi trên biển, bám chặt vào lườn một con thuyền.
Khi có người đi qua, anh đứng ở lối ra vào, trợn
trắng đôi mắt một cách kinh dị, đến nỗi người nào trông thấy anh
cũng phải thất kinh hồn vía. Còn mọi người trong gia đình anh, họ
cũng chỉ dám mang giỏ thịt xuống căn nhà thuyền cho anh. Malfri, cô em
gái út bé nhỏ vui tính của anh được cử đi làm việc đó, và nó
thường ngồi trò chuyện với anh, thích thú khi anh làm cho nó những
món đồ chơi và kể cho nó nghe về con thuyền có thể đi nhanh như chim
bay, và lướt đi nhanh hơn tất cả những con thuyền khác.
Nếu tình cờ có ai đó bất ngờ đến chỗ anh, cố nhìn
trộm xem anh làm gì ở đó, anh trèo lên căn gác gỗ, gõ đập vào những
miếng ván để họ không biết đích xác anh đang làm gì và chán nản bỏ
đi. Không ai còn muốn trèo lên lại ngọn đồi khi nghe thấy những tràng
cười liên tiếp của anh đuổi sau lưng họ. Thế là Jack đã tìm được
cách để mọi người tránh xa anh.
Anh làm việc chăm chỉ vào ban đêm, khi cơn bão đập
mạnh vào những tảng đá và chiếc ca nô trên mái cỏ và những mảnh
rong biển bắn tung lên ngay trước cửa chiếc nhà thuyền.
Khi bão đang gào thét rên rỉ và những chùm hoa tuyết
bắn luồn qua những kẻ hỡ trên vách, hình dáng con thuyền thủy quái
hiện lên rõ ràng trước mắt anh. Những ngày mùa đông thật ngắn, đêm buông
sớm và bóng tối kéo dài cho tới sáng, khi đó anh chui vào nằm ngủ
trên chiếc giường da thú.
Anh không màng đến đau khổ hay khó khăn. Nếu có một
tấm ván không đúng khớp với những miếng khác, anh có thể tháo tất
cả ra và sắp xếp chúng lại nhiều lần.
Một đêm, ngay trước lễ Giáng sinh, anh đã hoàn tất
mọi thứ trừ miếng ván trên cùng và những cái lỗ mộng. Anh cố làm
việc hết sức cho xong đến nỗi quên cả thời gian.
Cái bào trên tay anh liên tục tung ra những lớp gỗ
bào bay lả tả cho đến khi anh phải ngưng tay khi có một cái gì đó đen
đen đang di chuyển dọc trên tấm ván.
Đó là một con ruồi to lớn và xấu xí. Nó bò vòng
vòng, đánh hơi và thọc vòi vào mọi tấm ván trên con thuyền. Khi tới
tấm ván thấp nhất nó đập mạnh đôi cánh và kêu vo ve. Rồi nó bay lên,
lượn một vòng trong không trung, sau đó biến mất trong bóng tối.
Trái tim Jack trĩu nặng lo âu. Không còn nghi ngờ gì
nữa, anh biết rất rõ con ruồi của Gan Finn không mang tới một cái gì
tốt lành cho anh cả.
Anh cầm lấy cây đèn dầu và một cây gậy gỗ, bắt đầu
kiểm tra mũi thuyền và soi sáng lớp ván thuyền, gõ mạnh vào nó, và
lần lượt làm thế với từng miếng ván thuyền, từ mũi tàu tới đuôi
tàu, từ trên xuống dưới. Lúc bấy giờ anh không còn thực sự tin vào
một cây đinh hoặc con tán nào hết.
Nhưng anh không còn thấy hài lòng với hình dáng hoặc
những tỷ lệ của con thuyền. Mũi thuyền quá lớn, và toàn bộ mặt
cắt của nó ở mép thuyền có cái gì đó không vừa mắt, như thể nó
được ráp lại từ hai nửa thuyền khác nhau, và nửa sau không khớp với
nửa trước. Khi anh sắp sửa chạm trán với một sự kiện khác (anh thấy
mồ hôi lạnh đang ứa ra từ từng chân tóc), ngọn đèn bão tắt ngúm và
anh chìm vào bóng tối mênh mang.
Anh không còn kềm chế mình được nữa. Anh vớ lấy cây
gậy và lao tới cửa căn nhà thuyền, và chụp một cái chuông đeo cổ bò
lớn, anh xoay tròn nó quanh người, rung chuông, rung mãi trong bóng đêm
đen.
“Rung chuông gọi ta hở Jack?” Có ai đó hỏi. Tiếng nói
ở phía sau lưng anh giống như tiếng
sóng vỗ vào bờ rì rào, và một cơn gió lạnh cuốn vào căn nhà
thuyền.
Ngồi trên sống thuyền là một người mặc tấm áo
choàng đi biển xám sũng nước, cái mũ vải hoa kéo xuống tận đôi tai,
làm cho đầu hắn ta trông giống
như một núm ren tua.
Jack giật bắn người lên. Đây chính là kẻ anh đã từng
nghĩ tới trong cơn điên giận. Anh cầm lấy cái xô nước lớn và ném nó
vào con thủy quái. Nhưng chiếc xô xuyên qua người con thủy quái, va vào
bức vách phía sau và dội lại, lướt vù qua bên tai Jack. Nếu nó va
phải Jack, có lẽ anh đã tiêu đời.
Con thủy quái chỉ nhấp nháy đôi mắt của nó một
cách dữ tợn.
“Thật xấu hổ cho mi!” Jack hét lên và nhổ vào con
vật kỳ quái.
“ Mi hãy nhận lại miếng giẻ ướt của mi!” Nó cười
the thé.
Ngay lúc đó, đôi mắt Jack mở ra và anh trông thấy một
con thuyền trên bờ biển. Đó là một con thuyền tám mái chèo, dài,
dáng đẹp và tuyệt vời đến nỗi Jack không thể rời mắt khỏi nó.
Con thủy quái nháy mắt với vẻ hài lòng. Đôi mắt nó
ngày càng sáng rực hơn.
“Nếu ta đưa mi quay lại Helgeland, ta còn có thể giúp
mi kiếm sống. Nhưng mi phải đóng thuế cho ta một ít. Ta sẽ là người
đặt cái sống thuyền vào mỗi con thuyền mà mi đóng.”
Jack có cảm giác như cổ đang bị nghẹn. Anh nhận ra
rằng con thuyền này đang cuốn anh
vào đôi hàm của một con vật kinh tởm.
“Hay là mi tưởng rằng mi có thể chơi khăm được ta mà
không mất gì?” Con thủy quái hỏi.
Rồi có một tiếng rít, như thể có vật gì rất nặng
đang bay liệng quanh căn nhà thuyền, rồi có tiếng cười to: “Nếu mi
muốn con thuyền của thủy thần thì mi phải nhận con thuyền của tử
thần cùng với nó. Đêm nay, nếu mi lấy cây gậy đập lên sống thuyền ba
lần, mi sẽ được giúp đóng những con thuyền chưa bao giờ có trong mọi
vùng ở miền bắc này.”
Đêm hôm đó, hai lần Jack đưa cây gậy lên rồi lại đặt
nó xuống. Nhưng con thuyền vẫn nằm giỡn sóng trên biển trước mắt anh,
như anh đã nhìn thấy nó, mới toanh
và sáng loáng với lớp nhựa quét tươi rói, với những sợi dây và các
thiết bị đánh cá đặt bên trong. Anh đạp và lắc con thuyền để xem nó có
thể vươn lên nhẹ nhàng và cao đến mức nào trên mặt sóng.
Và một, hai, ba lần, cây gậy gõ lên chiếc sống
thuyền. Con thuyền đầu tiên đã ra đời ở Sjöholm như thế đó.
Mùa thu ấy, vô số dân chúng tụ tập dày đặc như
những bầy chim trên mõm đất, theo dõi Jack và các anh em của anh đang
hạ thủy con thuyền mới.
Nó lướt qua dòng nước chảy mạnh, làm bọt nước nổi
lên cuồn cuộn xung quanh. Nó lướt đi, trồi lên như một con hải âu, băng
qua những đảo ngầm và những mũi đất như một mũi tên.
Ra tới những bãi đánh cá, những người ngư phủ dừng
chèo và thở hổn hển. Họ chưa bao giờ thấy một con thuyền như thế
này.
Nhưng nếu trong năm đầu nó là một con thuyền tám tay
chèo, năm sau đó nó là một con thuyền rộng mười tay chèo để đánh cá
mùa đông, làm cho những người ngư dân mở rộng tầm mắt của họ ra.
Và mỗi con thuyền mà Jack đóng đều nhẹ và nhanh hơn
con thuyền trước đó.
Nhưng con thuyền to và đẹp nhất, con thuyền cuối cùng
đang nằm trên bãi đậu ở bờ biển. Đó là con thuyền thứ bảy.
Jack đi đi lại lại, suy nghĩ về nó mãi; nhưng khi anh
tới thăm nó vào buổi sáng, kỳ lạ thay, dường như nó đã lớn lên trong đêm, và hơn thế,
cực kỳ đẹp đẽ, làm anh bàng hoàng sửng sốt. Cuối cùng nó nằm ở
đó, và mọi người nói chuyện về nó không biết mệt.
Bấy giờ, viên quan huyện cai trị Helgeland là một con
người bất công. Ông ta buộc dân phải đóng nhiều loại sưu thuế nặng
nề, với số cá và lông vịt gấp đôi, và cả thuế thập phân và thuế
lúa. Bọn lính của ông ta đi tới đâu cũng hung hăng phách lối. Chẳng
bao lâu, tiếng đồn về những con
thuyền mới đã tới tai ông ta. Ông ta sai người tới xem thực hư ra sao,
vì bản thân ông ta đã từng đi đánh cá với những thủy thủ đoàn đông
đảo. Khi bọn lính quay về và báo cho ông ta biết những gì chúng
thấy, viên quan nôn nóng đến nỗi ông ta ngay lập tức lên đường tới Sjöholm.
Một ngày đẹp trời nọ, ông ta xuất hiện trước Jack như một con chim
ưng. “Nhà ngươi chưa hề nộp sưu hay thuế gì cả, vì thế bây giờ ngươi
sẽ bị phạt phân nửa số bạc mà ngươi kiếm được với những con
thuyền.” Ông ta nói.
Sự giận dữ của ông ta còn hơn thế. Jack có thể bị
xiềng lại và bị đưa tới pháo đài Skraar ở phía bắc, và sẽ bị canh
giữ gắt gao để anh không còn nhìn thấy mặt trời hay mặt trăng được
nữa.
Nhưng khi viên quan huyện chèo thuyền quanh con thuyền
mười mái chèo, ngắm nghía xem xét và nhận ra vẻ đẹp thanh thoát của
nó, ông ta cho rằng nên tỏ chút lòng thương hại, và quyết định thu con
thuyền thay cho khoản tiền phạt.
Khi đó Jack ngã mũ ra và bảo rằng nếu có ai đó mà
anh muốn dâng tặng con thuyền, thì đó chính là ngài quan huyện khả
kính.
Và thế là viên quan huyện ra đi cùng với con thuyền.
Mẹ và các em của Jack khóc nức nở vì tiếc con
thuyền xinh đẹp, còn Jack thì đứng trên mái căn nhà thuyền cười như
nắc nẻ.
Vào mùa thu, có tin rằng viên quan huyện và tám tên
lính đã chết chìm cùng con thuyền ở vịnh biển phía tây.
Vào thời gian ấy, những con thuyền ở khắp vùng
Nordland có một thay đổi lớn. Và Jack không thể nào đóng kịp một
phần mười số thuyền mọi người yêu cầu. Cư dân gần xa kéo đến vây
quanh căn nhà thuyền của anh, và được anh nhận lời đặt hàng là một
ân huệ đối với họ. Chẳng bao lâu sau, một dải thuyền đã xuất hiện dưới
ven bờ biển.
Anh không còn suy nghĩ
về con thuyền thứ bảy, hoặc lưu tâm tới việc nó ra sao hoặc
việc gì xảy đến với nó. Nếu thỉnh thoảng có một con thuyền bị
đắm, thì có nhiều thuyền khác rất hữu dụng, nên nói chung là anh
thật sự đã làm công việc của mình rất thành công. Ngoài ra, chắc
chắn là mọi người có thể chọn lựa một con thuyền mà họ cho là tốt
nhất.
Jack trở nên giàu mạnh và không còn ai dám ngăn trở
hay xía vào công việc của anh. Những cọc tiền xu bằng bạc chất đầy
trong những cái thùng đặt trên căn gác, còn xưởng đóng thuyền thì
trải rộng ra khắp các hòn đảo ở Sjoholm.
Một Chủ nhật nọ, mẹ, các em trai của Jack và cô bé
con Malfri vui tính đi lễ nhà thờ trên con thuyền tám mái chèo. Khi
chiều xuống, và chưa thấy họ trở về nhà, một người thợ đóng
thuyền vào nhà và báo rằng nên cử ai đó lên đường để giúp đỡ họ,
vì một cơn bão lớn đang sắp đến.
Jack đang ngồi căng dây dọi để đo các bộ phận của
một con thuyền mới, to hơn và oai vệ hơn bất cứ con thuyền nào trước
đó, nên anh không muốn bị quấy rầy.
“Anh tưởng rằng họ đi trên một chiếc thuyền cũ mục
nát chăng?” Jack nói. Người thợ đóng thuyền vội vã đi ra.
Đêm hôm đó, Jack nằm thao thức và lắng nghe. Gió đang
gào thét bên ngoài và đập vào vách nhà, và ở xa xa ngoài biển có
những tiếng kêu la. Ngay lúc đó, có tiếng gõ cửa và ai đó gọi tên
anh.
“Hãy quay lại nơi mà mi đã đến.” Anh hét lớn và rúc
sâu vào chiếc giường ấm cúng.
Sau đó một lúc, có tiếng những ngón tay nhỏ bé sờ
soạng và cào cào lên cánh cửa.
“Mi không chịu để cho ta được yên suốt đêm nay sao?” Anh
nói lớn. “Hay là ta phải tìm một chỗ ngủ khác?”
Tiếng gõ cửa và tiếng sờ soạng tìm chốt cửa ở bên
ngoài vẫn tiếp tục, như thể của ai đó không thể mở được cửa. Rồi
tiếng những bàn tay đập vào chốt cửa ngày càng lớn.
Nhưng Jack vẫn nằm cười lớn. “Chiếc thuyền tám mái
chèo được đóng ở Sjöholm sẽ không bao giờ đắm trước khi cơn gió đầu
tiên thổi.” Anh chế giễu.
Rồi chốt cửa bị chặt cho tới khi cánh cửa mở rộng
ra, trên lối ra vào là Malfri, mẹ Jack và các em trai của anh. Ánh lân
tinh lấp lánh trên người họ, và toàn thân họ ướt sũng.
Nét mặt họ xanh dờn, nhăn nhó như thể vừa trải qua
một nỗi đau đớn chết người. Malfri choàng một cánh tay qua cái cổ
đầy vết thương và đẫm máu của bà mẹ. Nó khóc than và cầu xin anh
hãy trả lại cho nó cuộc sống.
Và anh biết chuyện gì đã xảy ra với họ.
Anh lao thẳng vào màn đêm đen và thời tiết còn tối
tăm ảm đạm hơn để tìm họ, với mọi con thuyền và thủy thủ mà anh có
thể tập hợp được. Họ ra khơi và tìm khắp các hướng, nhưng vô hiệu.
Vào rạng sáng, con thuyền lật úp dạt vào bờ biển
với một cái lỗ lớn trên sống thuyền. Và Jack biết ai đã làm điều
đó.
Nhưng kể từ cái đêm mà toàn gia đình Jack bị chết
chìm, mọi chuyện ở Sjöholm trở nên khác hẳn.
Vào ban ngày, lúc còn tiếng gõ búa, tiếng động các
thứ, mọi thứ đều êm xuôi, và những cái sườn thuyền dựng lên san sát
như những con chim non trong một sân chim.
Nhưng ngay khi màn đêm buông xuống, mẹ anh đi lại lăng
xăng ồn ào khắp nhà, mở ra đóng lại những ngăn kéo và tủ đứng, còn
cái thang lên xuống thì kêu thình thình dưới những bước chân nặng nề
của các em trai Jack.
Suốt đêm anh không thể ngủ, và dĩ nhiên, bé Malfri
tội nghiệp lại đến khóc than ngoài cửa. Anh nằm thao thức và suy
nghĩ, tự hỏi anh đã đóng bao nhiêu con thuyền bị sai sót ở sống
thuyền. Càng suy nghĩ anh càng nhận ra mình đã làm ra những con
thuyền- thủy quái.
Anh thường lao ra khỏi giường, lê mình trong bóng đêm
để xuống căn nhà thuyền. Ở đó, anh đốt một ngọn đèn cạnh những con
thuyền, gõ đập và kiểm tra mọi sống thuyền với một cây gậy để xem có tìm ra con thuyền xui xẻo không.
Nhưng anh không phát hiện hoặc cảm thấy con thuyền nào có vấn đề.
Chiếc nào cũng như chiếc nào. Tất cả đều chắc chắn, còn những lớp
ván, khi anh cạo tróc lớp nhựa quét thì vẫn trắng và mới nguyên.
Một đêm, anh thấy bứt rứt khó chịu về chiếc thuyền
sáu mái chèo mới đang nằm cạnh cầu để hạ thủy vào sáng hôm sau đến
nỗi anh lại đi xuống kiểm tra nó với cây gậy.
Khi anh ngồi trong chiếc thuyền, đang khom người bên
trên lớp ván ngang với một cây đèn thì có một tiếng động lạ lùng ở
ngoài biển và xuất hiện một mùi cực kỳ hôi thối. Ngay lúc đó, anh
nghe tiếng khoát nước, như thể có nhiều người đang bơi vào bờ, rồi
từ bên trên mũi đất, anh nhìn thấy một con thuyền đang đi tới.
Trông như tất cả bọn họ đều oằn người, duỗi dài tay
về phía trước. Bất cứ thứ gì hiện ra trên đường đi của họ, dù là
đá hay đảo ngầm, họ đều băng xuyên qua, không một tiếng động hay tiếng
kêu gì cả.
Ở sau lưng họ, lại xuất hiện một đoàn thủy thủ
khác, lớn có nhỏ có, đang chèo cót két.
Và hết con thuyền này đến con thuyền khác đang tiến
vào bờ theo con đường hướng tới mũi đất.
Khi trăng lên cao, Jack có thể nhìn thẳng vào những
bộ xương của các đoàn thủy thủ đó. Gương mặt họ giận dữ, những cái
mồm há hốc nhe ra những hàm răng, như thể họ đang uống nước. Họ lần
lượt tới, hết đoàn này tới đoàn khác, cho tới lúc cả một vùng đều
đông nghẹt những con thuyền.
Rồi Jack nhận ra
tất cả bọn họ là những người mà anh đã cố tính đếm và tự hỏi khi
nằm trên giường, và một cơn giận chợt bùng lên.
Anh đứng thẳng lên
và hét lớn: “Các người thậm chí còn bị tồi tệ hơn thế nếu
Jack không đóng những con thuyền!”
Bấy giờ, giống như một cơn lốc xoáy lạnh như băng
giá, tất cả hiện lên xung quanh anh, nhìn trừng trừng vào anh với
những hốc mắt trống trơn. Họ nhe răng ra, rồi từng người thở dài và
than khóc cho cuộc đời đã mất của mình.
Jack kinh hoàng rời khỏi Sjöholm.
Nhưng thuyền lạc hướng, và Jack lạc vào vùng nước
chết. Ở đó, giữa mặt nước tĩnh lặng như tờ, là một đống những tấm
ván mục nát nở phồng vì ngâm nước. Trước kia chúng đã được cưa bào
và ráp lại với nhau, nhưng nay thì bị tan tác thành từng mảnh, trên
bám đầy rêu xanh và rác rưởi.
Những bàn tay chết vẫn còn bíu chặt lấy chúng với
những khớp xương trắng hếu nhưng
không thể kéo dài hơn. Chúng lỏng dần rồi rơi xuống nước, chìm hẳn.
Khi ấy, Jack giương tất cả những cánh buồm phụ và
cho thuyền đi, đi mãi, vát theo hướng gió.
Anh ngoái lại nhìn đám ván gỗ xem những thứ đó có
đuổi theo anh không. Trong lòng biển sâu, tất cả những bàn tay chết
đang quằn quại, cố tấn công anh với những mũi lao ở phía sau.
Rồi một cơn gió lớn nổi lên, con thuyền lướt đi giữa
những cuộn sóng trắng xóa.
Tiết trời u ám, những bông tuyết bay đầy không trung,
và những rác rến quanh anh chuyển sang màu xanh thẫm.
Vào ban ngày, anh lấy những con chim cốc ở phía xa xa
trong làn sương xám làm tiêu điểm và khi đêm xuống, chúng kêu gào quanh
quẩn bên tai anh. Những con chim tiếp tục bay qua, còn Jack thì ngồi
ngẩng lên nhìn theo chúng.
Cuối cùng sương giá tan đi chút ít, không khí bắt
đầu sống động với những con ruồi đen óng ánh bay vo ve. Mặt trời
hiện ra, và xa xa trên đất liền những cánh đồng phủ tuyết sáng lấp
lánh trong ánh nắng.
Anh nhận ra rất rõ mũi đất và bờ biển nơi anh có
thể đưa thuyền tới. Làn khói bay lên từ túp lều Phần Lan nằm trên
ngọn đồi phủ tuyết. Gan Finn ngồi ở lối vào lều, đang nhấc lên hạ
xuống cái mũ chỏm nhọn của mình bằng một sợi dây gân xuyên thẳng qua
người ông, làm cho lớp da kêu lên kẽo kẹt.
Và tất nhiên ở đó cũng có mặt Seimke.
Trông nàng có vẻ già đi và gầy guộc khi khom người
trên tấm da tuần lộc để trải nó ra phơi nắng. Đôi tay nàng thoăn
thoắt, và ánh nắng rọi xuống người nàng, soi sáng gương mặt và mái
tóc đen óng ả.
Nàng nhanh nhẹn đứng lên, giơ tay lên che mắt và nhìn
xuống chỗ anh. Con chó của nàng sủa lên, nhưng nàng bắt nó im đi để
Gan Finn không phát hiện ra điều gì lạ.
Khi đó, lòng anh tràn ngập một ước ao kỳ lạ, và anh
bước lên bờ.
Anh đứng cạnh nàng, còn nàng thì vòng tay ôm lấy cổ
anh, cười, run rẩy và nép sát vào anh, rồi lại khóc và van nài,
không thể kiểm soát được bản thân. Nàng chúi vào ngực anh, ngửa đầu
ra hôn và vuốt ve anh, không để anh rời ra khỏi nàng.
Nhưng Gan Finn đã nhận ra có cái gì đó không ổn. Ông
ngồi suốt buổi trong tấm da lông thú, lầm bầm ra lệnh cho lũ ruồi ma
thuật, khiến Jack không dám đi vào.
Lão phù thủy già đã vô cùng giận dữ. Vì những con
thuyền trên toàn cõi Nordland đã có sự thay đổi, và không còn ai mua
gió lành của ông ta nữa. Ông ta than phiền rằng ông ta đã hoàn toàn
phá sản. Giờ đây ông ta nghèo đến nỗi chẳng bao lâu nữa sẽ phải đi
lang thang để xin ăn. Và tất cả những gì còn lại của bầy gia súc là
một con tuần lộc cái đang đi quanh quẩn gần lều.
Seimke thì thào bảo anh trả giá mua con hươu đó. Rồi
nàng quấn tấm da tuần lộc quanh người, đứng ngay ở cửa lều trong màn
khói để Gan Finn chỉ trông thấy tấm da xám, và tưởng rằng đó là con
tuần lộc mà họ mang về.
Jack đặt bàn tay lên cổ Seimke và bắt đầu trả giá.
Cái mủ chỏm nhọn đung đưa lên xuống, và lão phù
thủy già vỗ vào không khí, không đồng ý bán con tuần lộc.
Jack nâng giá lên.
Gan Finn rải tro khắp xung quanh ông ta, đe dọa và kêu
rít lên. Những con ruồi bay đến dày đặc như bông tuyết, bám vào tấm
áo choàng da của lão phù thủy già giận dữ.
Jack tiếp tục trả giá cho tới khi lên tới cái giá
một đấu bạc, và Gan Finn muốn chảy chồm ra khỏi tấm da của ông ta.
Rồi ông ta rúc đầu vào dưới tấm da trở lại, lầm
bầm từ chối cho tới khi tổng giá tiền lên tới mức bảy đấu bạc. Khi
đó ông ta phá lên cười cho tới lúc gần như hụt hơi. Ông ta nghĩ rằng
con tuần lộc chỉ đáng giá chừng một xu cho người khách hàng.
Jack nhấc Seimke lên, vác nàng chạy xuống thuyền, và
treo tấm da tuần lộc ra phía sau lưng, để che mắt Gann Finn.
Họ rời khỏi đất liền và tiến vào biển rộng.
Seimke rất sung sướng, nàng vỗ tay và cầm lấy mái
chèo. Ánh sáng phương bắc loé ra như một cái lược, rạng rỡ trên gương
mặt nàng. Nàng trò chuyện với nó, lấy tay che mặt, và đôi mắt nàng
lóng lánh. Nàng dùng cả lời nói và điệu bộ để trò chuyện với nó.
Trời tối dần, nàng ngồi vào lòng Jack, khiến anh có
thể cảm nhận được hơi ấm của nàng. Mái tóc đen của nàng phủ lên
người anh. Nàng mềm mại và ấm áp như
một con gà gô đang hoảng hốt khiến dòng máu của nó chảy rộn
ràng.
Jack trùm tấm da tuần lộc lên người Seimke, và con thuyền lắc
họ đu đưa tới lui trên mặt biển như một cái nôi.Họ đi mãi cho tới lúc
đêm buông xuống, đi mãi cho tới lúc họ không còn nhìn thấy một mũi
đất, một hòn đảo hay một con hải âu nào nữa giữa biển.
[1] Từ gốc
Celtic cổ có nghĩa là Đại phù thủy Phần Lan
[2] Tỉnh xa
nhất ở miền Bắc Na Uy, nằm trong Vòng Bắc Cực.
[3] Một
ngọn núi nằm giữa Na Uy và Thụy Điển
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét