Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2013

Những câu chuyện kỳ bí vùng biển bắc 2





JONAS LIE

Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
Dịch theo Bản tiếng Anh của R. Nisber Bain
Tranh Minh họa của Laurence Housman



JACK VÀ GAN-FINN


Vào thời của những tổ tiên chúng ta, ở Nordland chẳng có gì ngoài những con thuyền gỗ tồi tàn, và người dân buộc phải mua những cơn gió lành bị nhốt trong cái bao tải của lão Gan-Finn[1], vì đi thuyền vát theo hướng gió giữa biển trong mùa gió lớn là điều rất nguy hiểm. Hồi ấy, một ngư phủ không bao giờ chết già, và chỉ những người đàn bà, trẻ con và tàn tật mới được chôn cất ven bờ biển.
Một lần nọ, một con thuyền cùng thủy thủ đoàn đã xuất phát từ Thjöttö ở Helgeland, tiến về hướng đông quần đảo Lofotens để đánh bắt cá.
Nhưng mùa đông ấy cá không xuất hiện. Họ ở lại đó và chờ đợi hết tuần này sang tuần khác cho đến trọn tháng, và chẳng còn gì để làm ngoài việc quay trở về với những thứ dụng cụ đánh bắt và con thuyền trống rỗng.
Thế nhưng Jack ở Sjöholm, cùng đi với họ, phá ra cười và bảo rằng, nếu ở đó không có cá, họ có thể tìm thấy chúng ở xa hơn trên mạn bắc. Lẽ hẳn nhiên, mọi người đã vất vả chèo thuyền suốt quảng đường này không phải chỉ để ăn hết những thực phẩm dự trữ, anh ta nói thế.
Anh ta còn rất trẻ, và chưa từng ra khơi đánh cá lần nào. Nhưng lời anh ta nói xem chừng cũng có lý, viên thuyền trưởng nghĩ thầm.
Thế là họ giong buồm tiếp tục tiến về hướng bắc.
Ở bãi đánh cá tiếp theo, họ cũng chẳng đánh bắt được gì, nhưng họ vẫn cố gắng cho đến lúc thực phẩm dự trữ sắp cạn.
Lúc bấy giờ tất cả mọi người đều dứt khoát từ bỏ việc đánh cá và quay trở về.
“Nếu ở đây không có, chắc chắn là ở đâu đó xa hơn về hướng bắc phải có ít nhiều cá chứ,” Jack phát biểu, “và nếu chúng ta đã đi xa đến thế rồi, chúng ta hẳn có thể đi xa hơn chút nữa.”
Thế là họ thử vận may từ bãi đánh cá này sang bãi kia, cho tới khi họ đã lên tới địa phận tỉnh Finnmark[2]. Ở đó họ gặp một cơn bão, và dù đã cố tìm nơi ẩn náu dưới những mũi đất, cuối cùng họ cũng buộc phải quay ra khơi trở lại.
Lúc này họ lâm vào tình trạng tồi tệ hơn bao giờ hết. Mũi thuyền liên tục chìm dưới những cơn sóng mạnh, không thể ngoi lên khỏi chúng, và vào cuối ngày, con thuyền bị lật úp.
Tất cả ngồi tuyệt vọng trên sống thuyền, giữa mặt biển cuồng nộ, và cay đắng trách móc Jack, kẻ đã lôi kéo và đẩy họ vào đường chết. Rồi vợ con họ sẽ ra sao? Họ sắp chết đói ở đây rồi, và ai sẽ chăm lo cho vợ con họ?
Khi trời sụp tối, tay của họ bắt đầu cóng lại, và lần lượt, họ bị sóng biển cuốn đi.
“Mình phải cố bám chặt vào.” Jack tự nhủ. Vì ở trên con thuyền bị lật dù sao cũng tốt hơn là rơi xuống biển. Thế rồi anh cố kẹp chặt đầu gối vào sống thuyền và cố bám lấy nó cho tới khi anh không còn cảm giác gì với tay chân mình nữa.
Trong bóng đêm đen như mực, anh nghĩ rằng mình đã nghe thấy những tiếng kêu thét của người này hay người khác trong số thủy thủ đoàn còn sót lại.
Jack nghe và nhìn thấy hết mọi chuyện, cho đến khi người cuối cùng bị cuốn khỏi sống thuyền thét lên, và thời gian đó, họ vẫn không ngừng mắng nhiếc anh đã đưa họ tới thảm cảnh đó và khóc than cho nỗi niềm đau khổ.
 “Họ còn có vợ con nữa,” Anh nghĩ, “Không biết những người thân của họ có đổ lỗi trách móc mình chăng?”
Trong lúc nằm đó, tự nhủ rằng có lẽ mình sẽ bị sóng cuốn trôi giạt cho tới sáng, đột nhiên, anh cảm thấy con thuyền đang nằm trong dòng hút mạnh của một luồng nước ven bờ, và cuối cùng Jack đã tấp vào bờ biển. Nhưng nhìn về hướng nào, anh cũng chỉ nhìn thấy mặt biển đen ngòm và những lớp tuyết trắng xóa chập chùng.
Khi đang đứng đó, tự hỏi và tự kiểm tra lại thân thể, Jack trông thấy ở xa xa làn khói bốc lên từ một túp lều Phần Lan nằm nép bên dưới một vách đá, và anh cố lê tới đó.
Người đàn ông Phần Lan trong lều già đến nỗi ông ta gần như bất động. Ông ta ngồi giữa những lớp tro ấm, lầm bầm gì đó vào một cái bao tải lớn, không hề nói hoặc đáp một câu nào với Jack. Những con ruồi vàng to tướng bay vo vo khắp mặt tuyết, như thể đang vào giữa mùa hè, và chỉ có một một cô gái trẻ ở đó để trông chừng đống lửa và cho ông lão ăn. Hai ông cháu họ sống với đàn tuần lộc đang đi tìm thức ăn trên đồng tuyết.


Jack lo hơ khô quần áo dù đang thèm được nằm xuống nghỉ ngơi. Seimke, cô gái Phần Lan, không giúp được gì nhiều lắm cho anh. Cô ta cho anh uống sữa và ăn xương ống tuần lộc. Sau đó, anh nằm lên trên những bộ lông da cáo trắng. Thật là ấm cúng và thoải mái trong hơi khói ở đây. Nhưng khi nằm đó, nửa thức nửa ngủ, dường như có những vật gì đó lạ lùng đang lướt vòng quanh anh.
Ông lão Phần Lan đứng ở cửa lều nói chuyện với lũ tuần lộc, mặc dù chúng đang ở trên những ngọn núi cao cách đó rất xa. Ông ta chặn đường những bầy sói và đe dọa con gấu lớn bằng những câu thần chú, rồi ông ta mở cái bao da lớn ra, để cơn bão hú lên và kêu rít, rồi có một cơn lốc xoáy tro cuốn vào trong túp lều. Khi tất cả lặng trở lại, không khí dày dặc vì những con ruồi, đang đậu trên những tấm da thú của ông ta. Trong lúc đó, ông ta lắp bắp, lầm bầm và lắc lắc cái đầu trọc lóc xương xẩu hệt như một cái sọ người của mình.
Nhưng Jack còn nghĩ tới một điều khác ngoài nỗi kinh ngạc đối với lão phù thủy già.
Và ngay khi đi tới chỗ con thuyền, giấc ngủ nặng nề cứ như ụp xuống đôi mắt anh.
Nó nằm kẹt trên bãi cát và nghiêng sang bên phải như một cái máng lợn, trong lúc đó biển vỗ nhẹ  và gợn sóng lăn tăn quanh sóng thuyền. Anh kéo nó lên bờ đủ để ra khỏi tầm cuốn của thủy triều.
Nhưng càng kiểm tra nó, anh càng thấy dường như người ta đóng những con thuyền như thế để cho biển cả vùi dập nó hơn là để nó đối phó với biển cả. Mũi thuyền chỉ to hơn cái mũi lợn đôi chút, còn tấm ván ở sống thuyền thì bằng phẳng như  chuôi của một quân cờ. Anh nghĩ thầm rằng để những con thuyền thực sự xứng đáng với biển khơi, chúng phải được thiết kế hoàn toàn khác hẳn. Mũi thuyền ít nhất phải cao hơn hai tấm ván nữa, và phải được làm vừa sắc sảo vừa mềm dẻo, để nó có thể chúi về trước và chẻ đôi những lớp sóng, và người ta sẽ có dịp lái một con thuyền tuyệt diệu.
Anh nghĩ về điều này suốt ngày đêm. Sự thư giãn duy nhất của anh là trò chuyện với cô gái Phần Lan vào chập tối.
Anh không thể không nhận ra rằng Seimke đã đem lòng yêu thương mình. Cô lẽo đẽo đi theo anh đến bất cứ nơi nào, và đôi mắt cô trở nên buồn bã khi anh đi xuống chỗ mé bờ biển. Cô biết rất rõ rằng mọi ý nghĩ của anh đều hướng về việc ra đi.
Còn ông già thì vẫn ngồi đó lầm bầm giữa những lớp tro cho tới khi tấm áo khoác bằng da thú của ông bốc hơi và tỏa khói.
Seimke vỗ về và dỗ ngọt Jack với đôi mắt nâu của cô, trao cho anh những lời ngọt ngào như mật cho tới lúc cô lôi được anh vào giữa đám khói nơi ông già Phần Lan không thể nghe thấy họ nói gì.
Gan Finn quay đầu sang phải.
“Mắt ta kém rồi, và khói làm chúng mờ đi.” Ông ta nói. “Jack tới đó để làm gì?”
“Hãy nói anh tới để lấy con gà gô bị mắc bẫy.” Cô gái thì thầm.
Và Jack cảm thấy cô đang ngầm ra ám hiệu cho anh và đang run lẩy bẩy hết thân người.
Rồi cô nhẹ nhàng nói với anh rằng Gan Finn đã đọc được những ý nghĩ của anh, rằng ông nổi giận và đang thầm đọc thần chú và hát những bài ca huyền bí  để chống lại Jack và con thuyền mà anh muốn làm. Nếu anh hoàn thành nó, Đại phù thủy Phần Lan sẽ không còn bán bất kỳ ngọn gió lành nào trên toàn cõi Nordland. Và cô cảnh báo anh nên cẩn trọng, đừng bao giờ đi xen vào giữa ông già phù thủy và bầy ruồi của ông ta.
Lúc đó, Jack cảm thấy con thuyền có thể là thứ sẽ hủy diệt anh. Nhưng mọi việc càng có vẻ tồi tệ, anh càng cố gắng thực hiện chúng sao cho tốt nhất.
Trong ánh bình minh xám nhạt, trước khi Gan Finn thức giấc, anh đi xuống bờ biển.
Nhưng những ngọn đồi tuyết có điều gì đó thật lạ lùng. Chúng nhiều và kéo dài đến vô tận, Jack cứ nặng nề giẫm lên những lớp tuyết càng lúc càng sâu mà không bao giờ tới được bờ biển cả. Anh chưa bao giờ trông thấy những đống lửa miền Bắc kéo dài đến thế vào lúc ban  ngày. Chúng sáng chói và lấp lánh, những ngọn lưỡi dài của lửa liếm theo và rít lên ngay phía sau anh. Anh không thể tìm thấy bờ biển hoặc con thuyền đâu cả, mà cũng không thể biết mình thật sự đang ở chỗ nào trên trái đất.
Cuối cùng, anh phát hiện ra mình đã đi ngược sâu vào đất liền thay vì đi xuống biển. Nhưng bấy giờ, khi quay lại, một làn sương mù bao trùm lên anh, dày đặc và xám mờ đến mức anh không còn có thể nhìn thấy một vật gì dù ngay trước mắt.
Tới chiều, anh đã mệt nhoài đến gần như kiệt sức, và không còn biết phải làm gì.
Đêm xuống, và tuyết càng rơi dày đặc.
Trong lúc Jack đang ngồi trên một tảng đá, suy ngẫm và cân nhắc để tìm cách thoát hiểm, từ trong màn sương mù, một đôi giày đi tuyết lướt thật nhẹ tới và dừng lại ngay trước chân anh.
“Nếu ngươi đã tìm ra ta, ngươi cũng có thể tìm được lối về.” Jack nói.
Thế là anh mang đôi giày vào, và để mặc cho chúng tự lướt đi trên những sườn đồi và dốc đá. Anh không để cho đôi mắt hướng dẫn, và cũng không để đôi chân của mình mang mình đi. Đôi giày càng đi nhanh, những bông tuyết càng rơi dày, và hơi nước biển trùm lên anh, và một luồng gió suýt chút đã thổi anh khỏi đôi giày đi tuyết.
Lên đồi, xuống lũng, anh đi qua tất cả những nơi mà anh từng đi suốt ngày hôm ấy, đôi khi dường như anh không còn đi trên mặt đất mà đang bay giữa không trung.
Đôi giày đi tuyết đột nhiên dừng lại, và anh đã đứng ngay trước cửa túp lều của Gan Finn.
Seimke đứng tại đó. Nàng đã tìm kiếm anh.
“Em đã cho đôi giày đi tìm anh.” Nàng nói. “Vì em nhận thấy ông của em đã phù chú mặt đất khiến anh không thể tìm ra con thuyền. Mạng sống của anh an toàn, vì ông đã cho anh ẩn náu trong lều của ông. Nhưng sẽ bất lợi cho anh nếu gặp ông đêm nay.”
Thế rồi nàng lén đưa anh vào lều, để Gan Finn không nhận ra trong đám khói dầy, rồi nàng cho anh ăn và thu xếp chỗ ngủ cho anh.
Khi giật mình thức giấc giữa đêm, Jack nghe một âm thanh kỳ lạ, và từ xa trong không trung có một tiếng hát rì rầm:
“Người Phần Lan không ưa con thuyền
Gã ngư phủ đàn ruồi vẫn tìm
Gió cuộn tròn thành xoáy liên miên.”
Lão phù thủy ngồi giữa đống tro và lầm rầm đọc thần chú cho tới lúc mặt đất rung lên. Seimke nằm úp trán lên mặt đất, hai bàn tay ôm chặt lấy gáy, cầu nguyện Thượng đế của người Phần Lan chống lại ông ta. Jack hiểu rằng lão phù thủy vẫn đang tìm kiếm anh giữa đám sương mù và bông tuyết, và mạng sống của anh đang bị những câu thần chú đe dọa.
Vì vậy, anh mặc lại quần áo trước khi trời sáng, đi ra ngoài, và quay trở về lều, cả người đầy tuyết phủ, và bảo rằng anh đã đi theo những con gấu vào nơi trú đông của chúng. Nhưng anh chưa bao giờ nhìn thấy một cơn sương mù kinh khủng như vậy, anh đã lần mò đi thật xa trước khi có thể tìm ra đường quay lại túp lều.
Lão phù thủy ngồi đó, với những tấm áo choàng da thú bám đầy những con ruồi hệt như một cái tổ ong. Ông ta đã sai chúng đi tìm khắp hướng, nhưng chúng đã trở lại đông đủ, đang bay vo ve  quanh quẩn bên ông ta.
Khi nhìn thấy Jack ở cửa lều, nhận thấy rằng đám ruồi đã báo cáo đúng, trông ông ta hơi dịu lại, và phá lên cười cho tới lúc cả thân hình ông rung lên dưới tấm áo choàng da, rồi ông ta lầm rầm nói: “Ta sẽ cột con gấu này ở gần chậu rửa bát, và ta đã làm cho đôi mắt nó chệch đi, để nó không thể nhìn thấy con thuyền của nó, và ta sẽ cắm một cái cọc ngay trước mặt nó cho tới mùa xuân.”
Ngay trong hôm ấy, lão phù thủy đứng ở cửa lều, bận rộn gửi những ám hiệu ma thuật và  những cử chỉ lạ lùng vào không trung.
Rồi ông ta thả ra hai bầy ruồi kinh khủng, lướt theo mọi hướng, để lại những vết xám đen trên mặt tuyết ở mọi nơi chúng bay qua. Chúng sẽ mang tới đau đớn và và bệnh tật xuống một ngôi nhà mé dưới đầm lầy, làm lây lan chứng bệnh ho lao để giết chết một cô dâu ở Bodo.
Suốt ngày đêm, Jack không nghĩ tới điều gì khác ngoài việc làm sao anh có thể thoát khỏi Gan Finn.
Seimke dỗ dành, khóc lóc và van nài anh, rằng nếu coi trọng mạng sống của mình thì đừng cố tìm cách đến chỗ con thuyền nữa. Tuy nhiên, cuối cùng, nàng thấy rằng điều đó vô hiệu quả – Jack đã quyết tâm bỏ trốn.
Nàng hôn đôi bàn tay của Jack và khóc nức nở. Cuối cùng, Jack phải hứa sẽ chờ đợi cho đến khi Gan Finn đã tới núi Jokmok[3] ở Thụy Điển.
Vào hôm lên đường, lão phù thủy già đi vòng quanh túp lều với một ngọn đuốc. Ở thật xa nơi đó, có những đồng cỏ trên núi, với những con tuần lộc và chó, còn những người dân của lão thì sống gần bên cạnh. Lão ra lệnh cho cô cháu gái không được để cho bầy tuần lộc đi quá xa khi lão vắng nhà, kẻo không thể bảo vệ chúng khỏi những con sói và gấu.  Thế rồi lão uống một liều thuốc ma thuật rồi bắt đầu nhảy múa, xoay vòng cho đến lúc tắt thở, và lão chìm sâu vào lòng đất. Những tấm áo da thú của lão vẫn nằm lại đó. Linh hồn của lão đã bay đến núi Jokmok.
Ở đó tất cả những tay phù thủy sẽ ngồi lại với nhau trong màn sương u ám bên dưới đỉnh núi cao và thì thầm với nhau về những điều bí ẩn và thổi những thần linh vào trong người những phù thủy tập sự.
Bầy ruồi vẫn bay vo ve vòng quanh đống da thú trống rỗng của Gan Finn như một chiếc vòng vàng choé để canh gác.
Đêm đó, Jack thức giấc  vì có một cái gì đó đang kéo lôi anh như thể từ rất xa. Đó là một luồng không khí, và có cái gì đó đe dọa, kêu gọi anh từ giữa những đám bông tuyết ngoài trời.
“Những con vịt trời,  khi mi chưa giỏi bằng chúng
Trứng chưa nở và Phù thủy Phần Lan
Không bao giờ để cho mi  đi thuyền về miền nam
Vì ông ta sẽ tắt gió và nhốt bão lại.”
Khi tiếng nói kết thúc, Gan Finn hiện ra, khom người nhìn anh. Lớp da mặt của lão xệ xuống mềm nhão, đầy những nếp nhăn, như da của một con tuần lộc già, và trong mắt lão như có một lớp khói mờ làm anh hoa mắt. Jack run lên và tê cóng cả thân người, anh biết rằng lão đã ếm phù chú lên người anh. Thế rồi anh ngẩng mặt lên nhìn thẳng vào lão, để cho những câu phù chú không làm hại được anh, họ kình nhau như thế cho tới khi mặt Gan Finn tái xanh đi, gần như bị nghẹt thở.
Sau đó, những tay phù thủy ở Jokmok gửi những thứ ma thuật đến Jack, che mờ trí thông minh của anh. Anh có cảm giác lạ lùng và bất cứ khi nào anh bận rộn với chiếc thuyền, vừa sửa lại một thứ gì đó, ngay lập tức một thứ khác sẽ hư hỏng. Cuối cùng, anh có cảm giác như đầu anh chứa đầy những mũi kim.
Một nỗi buồn sâu thẳm đè nặng lên hồn anh. Anh có cố gắng mấy vẫn không thể sửa lại con thuyền theo ý muốn, và có vẻ như anh sẽ không bao giờ có thể vượt biển được nữa.
Vào mùa hè, Jack và Seimke ngồi bên nhau trên mỏm đất trong những buổi chiều ấm áp, những con muỗi mắt vo ve và bọn cá quẫy nước ở ven bờ trong sự yên tĩnh, còn những con vịt biển thì bơi quanh quẩn nơi đó.
“Giá có ai đó đóng cho anh một chiếc thuyền nhanh lẹ như cá và có thể lướt lên trên những ngọn sóng cồn như một con hải âu nhỉ!” Jack thở dài than vãn. “Khi đó anh có thể lên đường ngay.”
“Mi có muốn  ta chỉ đường cho mi tới Thjoto không?” Một giọng nói cất lên từ bờ biển.
Một gã đàn ông đội mũ da vành rũ đứng ở đó, và họ không thể nhìn thấy gương mặt hắn ta.
Và ngay ở bên ngoài những mõm đá, nơi họ nhìn thấy những con vịt biển lúc nãy, nằm sừng sững một chiếc thuyền dài và hẹp, mũi và lái cao vút, màu của lớp nhựa quét thuyền lấp lánh phản chiếu xuống mặt nước trong xanh, và dường như không có một đường ráp nối nào trên lớp gỗ.
“Tôi rất biết ơn vì bất kỳ một sự chỉ dẫn nào.” Jack nói.
Khi Seimke nghe thấy câu này, nàng bắt đầu khóc lên nức nở. Nàng vừa bám vào cổ Jack, không để cho anh ra đi, vừa kêu gào kể lể. Nàng hứa sẽ cho anh đôi giày đi tuyết, chúng sẽ đưa anh vượt qua mọi thứ, và bảo rằng nàng sẽ lấy trộm cho anh cái gậy bằng xương của Gan Finn, nhờ nó, anh sẽ có những đồng tiền cổ may mắn đã bị vùi chôn, sẽ dạy cho anh cách thắt những mắt lưới để đánh bắt cá hồi trên đường tìm cá, cách dụ lũ tuần lộc từ xa. Anh sẽ trở nên giàu có như Gan Finn, chỉ cần anh đừng bỏ rơi nàng.
Nhưng Jack chỉ chăm chú nhìn con thuyền bên dưới. Thế là nàng đứng dậy, rứt những lọn tóc của mình ra quấn vào chân Jack, để trước khi rời khỏi nàng, trước hết anh phải gỡ được chúng khỏi chân.
“Nếu anh ở đây với em và những con tuần lộc non, có nhiều người nghèo vẫn không tài nào thoát khỏi những con thuyền tồi tàn rách nát.” Jack nói. “Nếu em hiểu được điều này, hãy tặng cho anh một nụ hôn và ôm chặt lấy anh trước lúc anh ra đi.”
Thế là nàng lao vào vòng tay anh như một con mèo hoang, nhìn thẳng vào mắt anh với đôi mắt đẫm lệ của nàng, run lên và chợt phá lên cười như điên dại.
Nhưng khi nhận ra nàng không thể làm gì được, nàng bỏ chạy, giơ cánh tay khỏi đầu vẫy về hướng túp lều.
Khi đó, Jack biết nàng sẽ xin ý kiến của Gan Finn, và tốt nhất là anh nên bỏ trốn trên chiếc thuyền trước khi quá muộn. Trong lúc đó, con thuyền đã đến rất gần những mỏm đá, và anh có thể nhảy xuống sàn thuyền. Chiếc bánh lái quay nhanh trong tay anh, và nghiêng nghiêng phía sau cột buồm ở mũi tàu có một người đang ngồi, đang giương buồm lên, nhưng Jack không thể nhìn thấy mặt hắn ta.
Họ lướt đi trên sóng nước.
Jack chưa hề trông thấy một chiếc thuyền chạy trước gió như thế. Mặt biển vây quanh họ như  tuyết cuộn lên, dù nó đang yên tĩnh. Nhưng họ đi chưa được xa lắm thì trên không trung chợt có tiếng kêu chim chíp lạ lùng. Những con chim kêu thét lên và bay về hướng đất liền, và mặt biển dựng lên như một bức tường ở sau lưng họ.
Gan Finn đã mở cái túi đựng gió của ông ta, và sai khiến một cơn bão đuổi theo họ.
“Cần giương hết buồm trong cái vạc của người Phần Lan này.” Một giọng nói cất lên từ phía sau cột buồm.
Người chủ thuyền chẳng quan tâm đến thời tiết mấy vì hắn ta chỉ cuốn một cánh buồm duy nhất.
Thế là Gan Finn cử một cơn bão lớn gấp đôi đuổi theo họ.
Họ lướt đi trong một điệu vũ hoang dại qua cái vịnh nhỏ, còn mặt biển thì dựng lên thành một cột nước trắng xoá, vươn tới tận những đám mây. Trừ phi con thuyền có thể bay nhanh như chim, nó sẽ bị nhấn chìm. Chợt một giọng cười kinh khủng nổi lên từ mạn trái con thuyền:
“Gan Finn đang há mồm
Thổi chúng ta về nam
Cơn bão to dị thường
Ta phải giương ba buồm”
Ngay lập tức, ba buồm phụ được giương lên, và gã ngồi ở trước tàu dạng hai chân ngồi trên miếng ván giữa thuyền, đôi ủng đi biển khổng lồ của hắn đong đưa trong sóng nước. Họ chạy thẳng qua màn nước ra cửa biển, giữa tiếng rú gào gầm thét của cơn bão dữ.
Những bức tường sóng rộng lớn và nặng nề đến nỗi Jack không thể nhìn thấy ánh sáng ban ngày ở cách xa vài mét, anh cũng thể nhận ra họ đang đi đâu trên  vùng biển trũng đó.
Con thuyền chẻ mặt biển một cách nhẹ nhàng và dễ dàng như thể mũi thuyền là một bộ vây cá trơn trợt, còn mặt ván thì phẳng mịn như vỏ trứng chim nhạn, nhưng trog phạm vi tầm nhìn, Jack không thể thấy những miếng ván thuyền chấm dứt ở chỗ nào, như thể nó chỉ là một nửa của con thuyền, không còn gì nữa. Cuối cùng, dường như toàn bộ phần trước con thuyền đã vượt ra khỏi vùng sóng cuộn, và họ đang lao đi bên dưới cánh buồm của một nửa con thuyền.
Khi đêm buông xuống, họ đi qua vùng biển lân tinh, đang lấp lánh như  những lớp than hồng, và trong không trung có một tiếng hú kinh khủng kéo dài theo hướng gió.
Những tiếng khóc than và gào rú vì đau khổ đáp lại tiếng gió từ những con thuyền bị lật úp khi họ lướt qua, và nhiều gương mặt xanh xao khủng khiếp của những người ngư phủ đang dán vào con thuyền của họ. Ánh sáng của vùng biển lân tinh hắt lên mặt họ một màu xanh thẫm. Họ ngồi, miệng há hốc, mắt trừng trừng và gào thét trong cơn gió.
Đột nhiên anh tỉnh thức, và có ai đó kêu lên: “Giờ thì mi đã về tới nhà ở Thjöttö rồi đó, Jack!”
Khi trấn tỉnh lại hơn, Jack nhận ra anh đang ở đâu. Anh đang nằm trên một mõm đá gần căn nhà thuyền ở quê hương. Thủy triều tiến vào đất liền khá xa nên một đợt sóng tràn qua bên trên cánh đồng trồng khoai, và anh gần như  không đứng vững vì cơn gió mạnh. Anh ngồi xuống căn nhà thuyền, bắt đầu lờ mờ nhớ lại và phác ra hình dáng của con thuyền thủy quái trong bóng tối ảm đạm cho tới khi ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau, em gái của anh đến với một giỏ thịt. Cô bé không chào hỏi anh như thể anh là một người xa lạ, nhưng cư xử như việc tới đó vào mỗi buổi sáng là một điều bình thường. Khi anh bắt đầu kể cho nó nghe mọi chuyện về chuyến hành trình tới Finnmark, về Gan Finn và con thuyền thủy quái đã đưa anh về nhà đêm qua, anh nhận ra rằng nó chỉ nhe răng cười và để cho anh kể lể. Suốt ngày hôm ấy, anh kể lại câu chuyện cho các em trai, em gái và mẹ của anh nghe, cho tới khi anh kết luận rằng họ nghĩ anh đã hơi mất trí. Khi anh nói tới con thuyền thủy quái họ mỉm cười với nhau và thầm chế giễu anh. Nhưng họ muốn tin gì thì mặc họ, chỉ cần anh có thể thực hiện được điều mình muốn, và được ở yên  một mình trong căn nhà thuyền hiu quạnh.
“Cần phải làm theo ý mọi người.” Jack nghĩ, và nếu họ nghĩ rằng anh điên khùng mất trí, anh phải xử sự sao cho họ không chú ý tới anh, không can thiệp và quấy rầy khi anh làm việc.
Thế là anh mang xuống căn nhà thuyền một cái giường bằng da thú, và ngủ đêm ở đó; vào ban ngày anh trèo lên một cái xà nhà và la to rằng anh đang đi thuyền. Đôi khi, anh trượt theo mái nhà và chọc sâu vỏ con dao những rui nhà, để mọi người nghĩ rằng anh đang tưởng tượng anh đi trên biển, bám chặt vào lườn một con thuyền.
Khi có người đi qua, anh đứng ở lối ra vào, trợn trắng đôi mắt một cách kinh dị, đến nỗi người nào trông thấy anh cũng phải thất kinh hồn vía. Còn mọi người trong gia đình anh, họ cũng chỉ dám mang giỏ thịt xuống căn nhà thuyền cho anh. Malfri, cô em gái út bé nhỏ vui tính của anh được cử đi làm việc đó, và nó thường ngồi trò chuyện với anh, thích thú khi anh làm cho nó những món đồ chơi và kể cho nó nghe về con thuyền có thể đi nhanh như chim bay, và lướt đi nhanh hơn tất cả những con thuyền khác.
Nếu tình cờ có ai đó bất ngờ đến chỗ anh, cố nhìn trộm xem anh làm gì ở đó, anh trèo lên căn gác gỗ, gõ đập vào những miếng ván để họ không biết đích xác anh đang làm gì và chán nản bỏ đi. Không ai còn muốn trèo lên lại ngọn đồi khi nghe thấy những tràng cười liên tiếp của anh đuổi sau lưng họ. Thế là Jack đã tìm được cách để mọi người tránh xa anh.
Anh làm việc chăm chỉ vào ban đêm, khi cơn bão đập mạnh vào những tảng đá và chiếc ca nô trên mái cỏ và những mảnh rong biển bắn tung lên ngay trước cửa chiếc nhà thuyền.
Khi bão đang gào thét rên rỉ và những chùm hoa tuyết bắn luồn qua những kẻ hỡ trên vách, hình dáng con thuyền thủy quái hiện lên rõ ràng trước mắt anh. Những ngày mùa đông thật ngắn, đêm buông sớm và bóng tối kéo dài cho tới sáng, khi đó anh chui vào nằm ngủ trên chiếc giường da thú.
Anh không màng đến đau khổ hay khó khăn. Nếu có một tấm ván không đúng khớp với những miếng khác, anh có thể tháo tất cả ra và sắp xếp chúng lại nhiều lần.
Một đêm, ngay trước lễ Giáng sinh, anh đã hoàn tất mọi thứ trừ miếng ván trên cùng và những cái lỗ mộng. Anh cố làm việc hết sức cho xong đến nỗi quên cả thời gian.
Cái bào trên tay anh liên tục tung ra những lớp gỗ bào bay lả tả cho đến khi anh phải ngưng tay khi có một cái gì đó đen đen đang di chuyển dọc trên tấm ván.
Đó là một con ruồi to lớn và xấu xí. Nó bò vòng vòng, đánh hơi và thọc vòi vào mọi tấm ván trên con thuyền. Khi tới tấm ván thấp nhất nó đập mạnh đôi cánh và kêu vo ve. Rồi nó bay lên, lượn một vòng trong không trung, sau đó biến mất trong bóng tối.
Trái tim Jack trĩu nặng lo âu. Không còn nghi ngờ gì nữa, anh biết rất rõ con ruồi của Gan Finn không mang tới một cái gì tốt lành cho anh cả.
Anh cầm lấy cây đèn dầu và một cây gậy gỗ, bắt đầu kiểm tra mũi thuyền và soi sáng lớp ván thuyền, gõ mạnh vào nó, và lần lượt làm thế với từng miếng ván thuyền, từ mũi tàu tới đuôi tàu, từ trên xuống dưới. Lúc bấy giờ anh không còn thực sự tin vào một cây đinh hoặc con tán nào hết.
Nhưng anh không còn thấy hài lòng với hình dáng hoặc những tỷ lệ của con thuyền. Mũi thuyền quá lớn, và toàn bộ mặt cắt của nó ở mép thuyền có cái gì đó không vừa mắt, như thể nó được ráp lại từ hai nửa thuyền khác nhau, và nửa sau không khớp với nửa trước. Khi anh sắp sửa chạm trán với một sự kiện khác (anh thấy mồ hôi lạnh đang ứa ra từ từng chân tóc), ngọn đèn bão tắt ngúm và anh chìm vào bóng tối mênh mang.
Anh không còn kềm chế mình được nữa. Anh vớ lấy cây gậy và lao tới cửa căn nhà thuyền, và chụp một cái chuông đeo cổ bò lớn, anh xoay tròn nó quanh người, rung chuông, rung mãi trong bóng đêm đen.
“Rung chuông gọi ta hở Jack?” Có ai đó hỏi. Tiếng nói ở phía sau lưng anh giống như  tiếng sóng vỗ vào bờ rì rào, và một cơn gió lạnh cuốn vào căn nhà thuyền.
Ngồi trên sống thuyền là một người mặc tấm áo choàng đi biển xám sũng nước, cái mũ vải hoa kéo xuống tận đôi tai, làm cho  đầu hắn ta trông giống như  một núm ren tua.
Jack giật bắn người lên. Đây chính là kẻ anh đã từng nghĩ tới trong cơn điên giận. Anh cầm lấy cái xô nước lớn và ném nó vào con thủy quái. Nhưng chiếc xô xuyên qua người con thủy quái, va vào bức vách phía sau và dội lại, lướt vù qua bên tai Jack. Nếu nó va phải Jack, có lẽ anh đã tiêu đời.
Con thủy quái chỉ nhấp nháy đôi mắt của nó một cách dữ tợn.
“Thật xấu hổ cho mi!” Jack hét lên và nhổ vào con vật kỳ quái.
“ Mi hãy nhận lại miếng giẻ ướt của mi!” Nó cười the thé.
Ngay lúc đó, đôi mắt Jack mở ra và anh trông thấy một con thuyền trên bờ biển. Đó là một con thuyền tám mái chèo, dài, dáng đẹp và tuyệt vời đến nỗi Jack không thể rời mắt khỏi nó.
Con thủy quái nháy mắt với vẻ hài lòng. Đôi mắt nó ngày càng sáng rực hơn.
“Nếu ta đưa mi quay lại Helgeland, ta còn có thể giúp mi kiếm sống. Nhưng mi phải đóng thuế cho ta một ít. Ta sẽ là người đặt cái sống thuyền vào mỗi con thuyền mà mi đóng.”
Jack có cảm giác như cổ đang bị nghẹn. Anh nhận ra rằng con thuyền  này đang cuốn anh vào đôi hàm của một con vật kinh tởm.
“Hay là mi tưởng rằng mi có thể chơi khăm được ta mà không mất gì?” Con thủy quái hỏi.
Rồi có một tiếng rít, như thể có vật gì rất nặng đang bay liệng quanh căn nhà thuyền, rồi có tiếng cười to: “Nếu mi muốn con thuyền của thủy thần thì mi phải nhận con thuyền của tử thần cùng với nó. Đêm nay, nếu mi lấy cây gậy đập lên sống thuyền ba lần, mi sẽ được giúp đóng những con thuyền chưa bao giờ có trong mọi vùng ở miền bắc này.”
Đêm hôm đó, hai lần Jack đưa cây gậy lên rồi lại đặt nó xuống. Nhưng con thuyền vẫn nằm giỡn sóng trên biển trước mắt anh, như anh  đã nhìn thấy nó, mới toanh và sáng loáng với lớp nhựa quét tươi rói, với những sợi dây và các thiết bị đánh cá đặt bên trong. Anh đạp và lắc con thuyền để xem nó có thể vươn lên nhẹ nhàng và cao đến mức nào trên mặt sóng.
Và một, hai, ba lần, cây gậy gõ lên chiếc sống thuyền. Con thuyền đầu tiên đã ra đời ở Sjöholm như thế đó.
Mùa thu ấy, vô số dân chúng tụ tập dày đặc như những bầy chim trên mõm đất, theo dõi Jack và các anh em của anh đang hạ thủy con thuyền mới.
Nó lướt qua dòng nước chảy mạnh, làm bọt nước nổi lên cuồn cuộn xung quanh. Nó lướt đi, trồi lên như một con hải âu, băng qua những đảo ngầm và những mũi đất như một mũi tên.
Ra tới những bãi đánh cá, những người ngư phủ dừng chèo và thở hổn hển. Họ chưa bao giờ thấy một con thuyền như thế này.
Nhưng nếu trong năm đầu nó là một con thuyền tám tay chèo, năm sau đó nó là một con thuyền rộng mười tay chèo để đánh cá mùa đông, làm cho những người ngư dân mở rộng tầm mắt của họ ra.
Và mỗi con thuyền mà Jack đóng đều nhẹ và nhanh hơn con thuyền trước đó.
Nhưng con thuyền to và đẹp nhất, con thuyền cuối cùng đang nằm trên bãi đậu ở bờ biển. Đó là con thuyền thứ bảy.
Jack đi đi lại lại, suy nghĩ về nó mãi; nhưng khi anh tới thăm nó vào buổi sáng, kỳ lạ thay, dường như  nó đã lớn lên trong đêm, và hơn thế, cực kỳ đẹp đẽ, làm anh bàng hoàng sửng sốt. Cuối cùng nó nằm ở đó, và mọi người nói chuyện về nó không biết mệt.
Bấy giờ, viên quan huyện cai trị Helgeland là một con người bất công. Ông ta buộc dân phải đóng nhiều loại sưu thuế nặng nề, với số cá và lông vịt gấp đôi, và cả thuế thập phân và thuế lúa. Bọn lính của ông ta đi tới đâu cũng hung hăng phách lối. Chẳng bao lâu, tiếng đồn  về những con thuyền mới đã tới tai ông ta. Ông ta sai người tới xem thực hư ra sao, vì bản thân ông ta đã từng đi đánh cá với những thủy thủ đoàn đông đảo. Khi bọn lính quay về và báo cho ông ta biết những gì chúng thấy, viên quan nôn nóng đến nỗi ông ta ngay lập tức lên đường tới Sjöholm. Một ngày đẹp trời nọ, ông ta xuất hiện trước Jack như một con chim ưng. “Nhà ngươi chưa hề nộp sưu hay thuế gì cả, vì thế bây giờ ngươi sẽ bị phạt phân nửa số bạc mà ngươi kiếm được với những con thuyền.” Ông ta nói.
Sự giận dữ của ông ta còn hơn thế. Jack có thể bị xiềng lại và bị đưa tới pháo đài Skraar ở phía bắc, và sẽ bị canh giữ gắt gao để anh không còn nhìn thấy mặt trời hay mặt trăng được nữa.
Nhưng khi viên quan huyện chèo thuyền quanh con thuyền mười mái chèo, ngắm nghía xem xét và nhận ra vẻ đẹp thanh thoát của nó, ông ta cho rằng nên tỏ chút lòng thương hại, và quyết định thu con thuyền thay cho khoản tiền phạt.
Khi đó Jack ngã mũ ra và bảo rằng nếu có ai đó mà anh muốn dâng tặng con thuyền, thì đó chính là ngài quan huyện khả kính.
Và thế là viên quan huyện ra đi cùng với con thuyền.
Mẹ và các em của Jack khóc nức nở vì tiếc con thuyền xinh đẹp, còn Jack thì đứng trên mái căn nhà thuyền cười như nắc nẻ.
Vào mùa thu, có tin rằng viên quan huyện và tám tên lính đã chết chìm cùng con thuyền ở vịnh biển phía tây.
Vào thời gian ấy, những con thuyền ở khắp vùng Nordland có một thay đổi lớn. Và Jack không thể nào đóng kịp một phần mười số thuyền mọi người yêu cầu. Cư dân gần xa kéo đến vây quanh căn nhà thuyền của anh, và được anh nhận lời đặt hàng là một ân huệ đối với họ. Chẳng bao lâu sau, một dải thuyền đã xuất hiện dưới ven bờ biển.
Anh không còn suy nghĩ  về con thuyền thứ bảy, hoặc lưu tâm tới việc nó ra sao hoặc việc gì xảy đến với nó. Nếu thỉnh thoảng có một con thuyền bị đắm, thì có nhiều thuyền khác rất hữu dụng, nên nói chung là anh thật sự đã làm công việc của mình rất thành công. Ngoài ra, chắc chắn là mọi người có thể chọn lựa một con thuyền mà họ cho là tốt nhất.
Jack trở nên giàu mạnh và không còn ai dám ngăn trở hay xía vào công việc của anh. Những cọc tiền xu bằng bạc chất đầy trong những cái thùng đặt trên căn gác, còn xưởng đóng thuyền thì trải rộng ra khắp các hòn đảo ở Sjoholm.
Một Chủ nhật nọ, mẹ, các em trai của Jack và cô bé con Malfri vui tính đi lễ nhà thờ trên con thuyền tám mái chèo. Khi chiều xuống, và chưa thấy họ trở về nhà, một người thợ đóng thuyền vào nhà và báo rằng nên cử ai đó lên đường để giúp đỡ họ, vì một cơn bão lớn đang sắp đến.
Jack đang ngồi căng dây dọi để đo các bộ phận của một con thuyền mới, to hơn và oai vệ hơn bất cứ con thuyền nào trước đó, nên anh không muốn bị quấy rầy.
“Anh tưởng rằng họ đi trên một chiếc thuyền cũ mục nát chăng?” Jack nói. Người thợ đóng thuyền vội vã đi ra.
Đêm hôm đó, Jack nằm thao thức và lắng nghe. Gió đang gào thét bên ngoài và đập vào vách nhà, và ở xa xa ngoài biển có những tiếng kêu la. Ngay lúc đó, có tiếng gõ cửa và ai đó gọi tên anh.
“Hãy quay lại nơi mà mi đã đến.” Anh hét lớn và rúc sâu vào chiếc giường ấm cúng.
Sau đó một lúc, có tiếng những ngón tay nhỏ bé sờ soạng và cào cào lên cánh cửa.
“Mi không chịu để cho ta được yên suốt đêm nay sao?” Anh nói lớn. “Hay là ta phải tìm một chỗ ngủ khác?”
Tiếng gõ cửa và tiếng sờ soạng tìm chốt cửa ở bên ngoài vẫn tiếp tục, như thể của ai đó không thể mở được cửa. Rồi tiếng những bàn tay đập vào chốt cửa ngày càng lớn.
Nhưng Jack vẫn nằm cười lớn. “Chiếc thuyền tám mái chèo được đóng ở Sjöholm sẽ không bao giờ đắm trước khi cơn gió đầu tiên thổi.” Anh chế giễu.
Rồi chốt cửa bị chặt cho tới khi cánh cửa mở rộng ra, trên lối ra vào là Malfri, mẹ Jack và các em trai của anh. Ánh lân tinh lấp lánh trên người họ, và toàn thân họ ướt sũng.
Nét mặt họ xanh dờn, nhăn nhó như thể vừa trải qua một nỗi đau đớn chết người. Malfri choàng một cánh tay qua cái cổ đầy vết thương và đẫm máu của bà mẹ. Nó khóc than và cầu xin anh hãy trả lại cho nó cuộc sống.
Và anh biết chuyện gì đã xảy ra với họ.
Anh lao thẳng vào màn đêm đen và thời tiết còn tối tăm ảm đạm hơn để tìm họ, với mọi con thuyền và thủy thủ mà anh có thể tập hợp được. Họ ra khơi và tìm khắp các hướng, nhưng vô hiệu.
Vào rạng sáng, con thuyền lật úp dạt vào bờ biển với một cái lỗ lớn trên sống thuyền. Và Jack biết ai đã làm điều đó.
Nhưng kể từ cái đêm mà toàn gia đình Jack bị chết chìm, mọi chuyện ở Sjöholm trở nên khác hẳn.
Vào ban ngày, lúc còn tiếng gõ búa, tiếng động các thứ, mọi thứ đều êm xuôi, và những cái sườn thuyền dựng lên san sát như những con chim non trong một sân chim.
Nhưng ngay khi màn đêm buông xuống, mẹ anh đi lại lăng xăng ồn ào khắp nhà, mở ra đóng lại những ngăn kéo và tủ đứng, còn cái thang lên xuống thì kêu thình thình dưới những bước chân nặng nề của các em trai Jack.
Suốt đêm anh không thể ngủ, và dĩ nhiên, bé Malfri tội nghiệp lại đến khóc than ngoài cửa. Anh nằm thao thức và suy nghĩ, tự hỏi anh đã đóng bao nhiêu con thuyền bị sai sót ở sống thuyền. Càng suy nghĩ anh càng nhận ra mình đã làm ra những con thuyền- thủy quái.
Anh thường lao ra khỏi giường, lê mình trong bóng đêm để xuống căn nhà thuyền. Ở đó, anh đốt một ngọn đèn cạnh những con thuyền, gõ đập và kiểm tra mọi sống thuyền với một cây gậy để  xem có tìm ra con thuyền xui xẻo không. Nhưng anh không phát hiện hoặc cảm thấy con thuyền nào có vấn đề. Chiếc nào cũng như chiếc nào. Tất cả đều chắc chắn, còn những lớp ván, khi anh cạo tróc lớp nhựa quét thì vẫn trắng và mới nguyên.
Một đêm, anh thấy bứt rứt khó chịu về chiếc thuyền sáu mái chèo mới đang nằm cạnh cầu để hạ thủy vào sáng hôm sau đến nỗi anh lại đi xuống kiểm tra nó với cây gậy.
Khi anh ngồi trong chiếc thuyền, đang khom người bên trên lớp ván ngang với một cây đèn thì có một tiếng động lạ lùng ở ngoài biển và xuất hiện một mùi cực kỳ hôi thối. Ngay lúc đó, anh nghe tiếng khoát nước, như thể có nhiều người đang bơi vào bờ, rồi từ bên trên mũi đất, anh nhìn thấy một con thuyền đang đi tới.
Trông như tất cả bọn họ đều oằn người, duỗi dài tay về phía trước. Bất cứ thứ gì hiện ra trên đường đi của họ, dù là đá hay đảo ngầm, họ đều băng xuyên qua, không một tiếng động hay tiếng kêu gì cả.
Ở sau lưng họ, lại xuất hiện một đoàn thủy thủ khác, lớn có nhỏ có, đang chèo cót két.
Và hết con thuyền này đến con thuyền khác đang tiến vào bờ theo con đường hướng tới mũi đất.
Khi trăng lên cao, Jack có thể nhìn thẳng vào những bộ xương của các đoàn thủy thủ đó. Gương mặt họ giận dữ, những cái mồm há hốc nhe ra những hàm răng, như thể họ đang uống nước. Họ lần lượt tới, hết đoàn này tới đoàn khác, cho tới lúc cả một vùng đều đông nghẹt những con thuyền.
Rồi Jack  nhận ra tất cả bọn họ là những người mà anh đã cố tính đếm và tự hỏi khi nằm trên giường, và một cơn giận chợt bùng lên.
Anh đứng thẳng lên  và hét lớn: “Các người thậm chí còn bị tồi tệ hơn thế nếu Jack không đóng những con thuyền!”
Bấy giờ, giống như một cơn lốc xoáy lạnh như băng giá, tất cả hiện lên xung quanh anh, nhìn trừng trừng vào anh với những hốc mắt trống trơn. Họ nhe răng ra, rồi từng người thở dài và than khóc cho cuộc đời đã mất của mình.
Jack kinh hoàng rời khỏi Sjöholm.
Nhưng thuyền lạc hướng, và Jack lạc vào vùng nước chết. Ở đó, giữa mặt nước tĩnh lặng như tờ, là một đống những tấm ván mục nát nở phồng vì ngâm nước. Trước kia chúng đã được cưa bào và ráp lại với nhau, nhưng nay thì bị tan tác thành từng mảnh, trên bám đầy rêu xanh và rác rưởi.
Những bàn tay chết vẫn còn bíu chặt lấy chúng với những khớp xương trắng hếu  nhưng không thể kéo dài hơn. Chúng lỏng dần rồi rơi xuống nước, chìm hẳn.
Khi ấy, Jack giương tất cả những cánh buồm phụ và cho thuyền đi, đi mãi, vát theo hướng gió.
Anh ngoái lại nhìn đám ván gỗ xem những thứ đó có đuổi theo anh không. Trong lòng biển sâu, tất cả những bàn tay chết đang quằn quại, cố tấn công anh với những mũi lao ở phía sau.
Rồi một cơn gió lớn nổi lên, con thuyền lướt đi giữa những cuộn sóng trắng xóa.
Tiết trời u ám, những bông tuyết bay đầy không trung, và những rác rến quanh anh chuyển sang màu xanh thẫm.
Vào ban ngày, anh lấy những con chim cốc ở phía xa xa trong làn sương xám làm tiêu điểm và khi đêm xuống, chúng kêu gào quanh quẩn bên tai anh. Những con chim tiếp tục bay qua, còn Jack thì ngồi ngẩng lên nhìn theo chúng.
Cuối cùng sương giá tan đi chút ít, không khí bắt đầu sống động với những con ruồi đen óng ánh bay vo ve. Mặt trời hiện ra, và xa xa trên đất liền những cánh đồng phủ tuyết sáng lấp lánh trong ánh nắng.
Anh nhận ra rất rõ mũi đất và bờ biển nơi anh có thể đưa thuyền tới. Làn khói bay lên từ túp lều Phần Lan nằm trên ngọn đồi phủ tuyết. Gan Finn ngồi ở lối vào lều, đang nhấc lên hạ xuống cái mũ chỏm nhọn của mình bằng một sợi dây gân xuyên thẳng qua người ông, làm cho lớp da kêu lên kẽo kẹt.
Và tất nhiên ở đó cũng có mặt Seimke.
Trông nàng có vẻ già đi và gầy guộc khi khom người trên tấm da tuần lộc để trải nó ra phơi nắng. Đôi tay nàng thoăn thoắt, và ánh nắng rọi xuống người nàng, soi sáng gương mặt và mái tóc đen óng ả.
Nàng nhanh nhẹn đứng lên, giơ tay lên che mắt và nhìn xuống chỗ anh. Con chó của nàng sủa lên, nhưng nàng bắt nó im đi để Gan Finn không phát hiện ra điều gì lạ.
Khi đó, lòng anh tràn ngập một ước ao kỳ lạ, và anh bước lên bờ.
Anh đứng cạnh nàng, còn nàng thì vòng tay ôm lấy cổ anh, cười, run rẩy và nép sát vào anh, rồi lại khóc và van nài, không thể kiểm soát được bản thân. Nàng chúi vào ngực anh, ngửa đầu ra hôn và vuốt ve anh, không để anh rời ra khỏi nàng.
Nhưng Gan Finn đã nhận ra có cái gì đó không ổn. Ông ngồi suốt buổi trong tấm da lông thú, lầm bầm ra lệnh cho lũ ruồi ma thuật, khiến Jack không dám đi vào.
Lão phù thủy già đã vô cùng giận dữ. Vì những con thuyền trên toàn cõi Nordland đã có sự thay đổi, và không còn ai mua gió lành của ông ta nữa. Ông ta than phiền rằng ông ta đã hoàn toàn phá sản. Giờ đây ông ta nghèo đến nỗi chẳng bao lâu nữa sẽ phải đi lang thang để xin ăn. Và tất cả những gì còn lại của bầy gia súc là một con tuần lộc cái đang đi quanh quẩn gần lều.
Seimke thì thào bảo anh trả giá mua con hươu đó. Rồi nàng quấn tấm da tuần lộc quanh người, đứng ngay ở cửa lều trong màn khói để Gan Finn chỉ trông thấy tấm da xám, và tưởng rằng đó là con tuần lộc mà họ mang về.


Jack đặt bàn tay lên cổ Seimke và bắt đầu trả giá.
Cái mủ chỏm nhọn đung đưa lên xuống, và lão phù thủy già vỗ vào không khí, không đồng ý bán con tuần lộc.
Jack nâng giá lên.
Gan Finn rải tro khắp xung quanh ông ta, đe dọa và kêu rít lên. Những con ruồi bay đến dày đặc như bông tuyết, bám vào tấm áo choàng da của lão phù thủy già giận dữ.
Jack tiếp tục trả giá cho tới khi lên tới cái giá một đấu bạc, và Gan Finn muốn chảy chồm ra khỏi tấm da của ông ta.
Rồi ông ta rúc đầu vào dưới tấm da trở lại, lầm bầm từ chối cho tới khi tổng giá tiền lên tới mức bảy đấu bạc. Khi đó ông ta phá lên cười cho tới lúc gần như hụt hơi. Ông ta nghĩ rằng con tuần lộc chỉ đáng giá chừng một xu cho người khách hàng.
Jack nhấc Seimke lên, vác nàng chạy xuống thuyền, và treo tấm da tuần lộc ra phía sau lưng, để che mắt Gann Finn.
Họ rời khỏi đất liền và tiến vào biển rộng.
Seimke rất sung sướng, nàng vỗ tay và cầm lấy mái chèo. Ánh sáng phương bắc loé ra như một cái lược, rạng rỡ trên gương mặt nàng. Nàng trò chuyện với nó, lấy tay che mặt, và đôi mắt nàng lóng lánh. Nàng dùng cả lời nói và điệu bộ để trò chuyện với nó.
Trời tối dần, nàng ngồi vào lòng Jack, khiến anh có thể cảm nhận được hơi ấm của nàng. Mái tóc đen của nàng phủ lên người anh. Nàng mềm mại và ấm áp như  một con gà gô đang hoảng hốt khiến dòng máu của nó chảy rộn ràng.
Jack trùm tấm da tuần lộc lên người Seimke, và con thuyền lắc họ đu đưa tới lui trên mặt biển như một cái nôi.Họ đi mãi cho tới lúc đêm buông xuống, đi mãi cho tới lúc họ không còn nhìn thấy một mũi đất, một hòn đảo hay một con hải âu nào nữa giữa biển.


[1] Từ gốc Celtic cổ có nghĩa là Đại phù thủy Phần Lan
[2] Tỉnh xa nhất ở miền Bắc Na Uy, nằm trong Vòng Bắc Cực.
[3] Một ngọn núi nằm giữa Na Uy và Thụy Điển

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét