JONAS LIE
Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
Dịch theo
Bản tiếng Anh của R. Nisber Bain
Tranh Minh
họa của Laurence Housman
CON CÁ THẦN
Nó là một con cá hồi khác lạ
mà Nona đã kéo lên được ở đầu dây câu. To béo, lấm tấm những chấm đỏ
sáng chói, nó uốn éo thân mình với cái bụng màu vàng bên trên mặt
nước, cố vùng ra khỏi lưỡi câu. Khi anh kéo nó vào trong thuyền và
gỡ nó ra khỏi lưỡi câu, anh nhìn thấy ở chỗ lẽ ra là đôi mắt của
nó chỉ có hai đường kẽ nhỏ.
Nó hẳn phải là một con cá
thần, một trong những ngư dân trên thuyền nghĩ thầm, vì có tin đồn rằng
cái hồ đó là một trong những hồ nước có hai đáy.
Nhưng Nona không bận tâm mấy về
việc nó là loại cá gì, miễn nó to là tốt rồi. Anh đang đói cồn
cào, thế nên anh thúc hối mọi người chèo thật nhanh vào bờ để nướng
con cá.
Anh đã ngồi suốt buổi chiều
với những dây câu trống không trong cái hồ trên núi đó; còn con cá
hồi thì cách đó một giờ còn đang bơi lội tung tăng với cái đuôi làm
bánh lái, đã đớp phải con mồi ở lưỡi câu, và giờ đã được nướng
chín bày trên chiếc dĩa.
Lúc này Nona nhớ lại đôi mắt
kỳ lạ của con cá, và trích nó ra khỏi đầu cá bằng cái nĩa. Ở
phía ngoài chỉ là hai khe hở nhỏ, thế nhưng bên trong đó có những
nhãn cầu cứng. Cái đầu có hình dáng thật lạ thường, trông khác
biệt ở mọi khía cạnh so với những con cá khác.
Anh hơi bực mình vì đã không xem
xét kỹ lưỡng hơn trước khi nướng nó, giờ thì khó mà tìm ra thật sự
nó là loại cá gì. Tuy nhiên, thịt nó ngon tuyệt vời, và điều đó
cũng có chút gì an ủi.
Đêm đó, trước ánh sáng yếu ớt
của mặt nước long lanh, anh nằm mơ màng, suy nghĩ về con cá kỳ lạ đã
câu được.
Anh nghĩ anh lại đang ngồi trên
thuyền, và dường như bàn tay anh đang cảm thấy con cá đang quằn quại
vùng vẫy, lắc cái mõm qua lại để thoát khỏi lưỡi câu.
Rồi chợt nó trở nên to lớn và
mạnh mẽ đến nỗi nó kéo cả con thuyền đi theo sợi dây câu. Nó bơi đi
với một tốc độ kinh hoàng, trong lúc đó hồ nước dần dần nhỏ lại
và khô cạn.
Có một sức hút không thể cưỡng
kháng của nước theo hướng con cá đang bơi, về phía một cái lỗ giống
như cái phễu ở đáy hồ, và con thuyền lao thẳng vào cái lỗ đó.
Nó lướt một lúc lâu trong ánh
sáng mờ mờ dọc theo một con sông ngầm, đang cuộn sóng quanh anh. Không
khí xung quanh anh ban đầu hơi lạnh giống như dưới một cái hầm rượu,
nhưng dần dần nó trở nên dịu hơn và ấm áp hơn.
Dòng nước giờ đây chảy lặng lẽ
êm đềm, và tiếp tục mở rộng cho đến khi nó đổ vào một cái hồ lớn.
Ở mé bờ hồ, chỉ lờ mờ hiện
ra trong bóng tối, trải dài những đầm lầy và bãi lầy, anh nghe từ
đó có những âm thanh như thể có những con quái thú khổng lồ đang
quẫy đập. Chúng quằn quại, đập nước tung toé và thở phì phì như
những con rắn biển giữa lớp bùn lầy ấm áp.
Nhờ những ánh lửa lân tinh, anh
nhìn thấy nhiều loại cá khác nhau bơi gần con thuyền, nhưng tất cả
đều không có mắt.
Rồi anh trông thấy hình dáng
của những con rắn biển khổng lồ đang trườn mình ở phía bóng tối xa
xa. Lúc này anh hiểu rằng chính từ nơi đây chúng đã ló đầu lên mặt
biển vào những ngày oi bức khi mặt biển trở nên ấm áp.
Những con ba ba khổng lồ với
cái đầu bằng và cặp mỏ vịt, đuổi theo bầy cá, và bò lên mặt đất
theo những con đường nhỏ lầy lội.
Xuyên qua bóng tối ấm áp lờ
mờ, thỉnh thoảng xuất hiện một cơn gió lạnh lẽo từ những hơi thở
của những con thuồng luồng nhầy nhụa trơn láng đang trườn mình trong
lòng đất để nuốt những cổ quan tài mục nát trong những khu nghĩa
địa.
Những con quái vật kinh khủng
không hình dáng, với những sợi bờm dài, mà người ta bảo đôi khi xuất
hiện trên những cái hồ nhỏ trên núi, đang quằn quại trầm mình và
bắt mồi trong những đầm lầy.
Và anh cũng thoáng thấy mọi
kiểu sinh vật trông giống như con người, những loài mà các ngư dân và
thủy thủ từng nhìn thấy ở biển khơi, và những người trong đất liền
nhìn thấy ở những miền đồi núi của loài yêu quái.
Ngoài ra, có một tiếng kêu rít
nhỏ và tiếng lởn vởn bay lượn của những loài gì đó mà con người
chưa bao giờ nhìn thấy hình dáng.
Thế rồi con thuyền lướt vào
mặt nước mềm nhão lầy lội, từ đó nó chạy xuống dốc, nơi mà mái
vòm trái đất phủ lên trên bóng tối khi nó ngày càng chìm xuống
thấp.
Đúng lúc đó một dải sáng mờ
loé xuống từ một khe sáng màu xanh rất cao ở bên trên đầu anh.
Một bầu không khí ẩm ướt ngột
ngạt vây quanh anh. Mặt nước vàng khè và đục như chảy ra từ một cái nồi hơi.
Anh nhớ lại thứ nước ấm lạ
lùng không thể uống được nổi bọt sùng sục cạnh những cái giếng
phun. Nó rất nóng. Từ đó, con thuyền lao vào thế giới của những
tầng địa chất lỏng bên dưới lớp vỏ trái đất.
Hơi nóng như từ một cái lò bốc
lên từ những cái vực khổng lồ và những vách đá cao ngất, trong lúc
những thác nước nóng như sôi gầm lên làm rung chuyển cả lòng đất.
Ngay lúc đó, anh cảm thấy như
thể thân hình của mình bị bốc lên trên không trung. Anh có cảm giác
nhẹ nhàng không thể tả, một cảm giác kỳ diệu được trôi bềnh bồng
giữa bầu khí quyển cao và khôi phục lại trạng thái cân bằng.
Và trước khi anh biết sự thể ra
sao, anh nhận thấy mình đã lại nằm trên mặt đất.
DÒNG MÁU PHẦN LAN
Ở thôn Svartfjord, miền bắc
Senie, có một thiếu niên tên là Eilert. Láng giềng của nó là những
ngư dân Phần Lan, và trong số các con cháu của họ có một cô bé xinh
xắn trắng trẻo, nổi bật ở mái tóc đen dài và đôi mắt tròn to. Họ
sống ở phía sau vách đá ở mé bên kia mũi đất, làm nghề đánh bắt
cá, giống như cha mẹ của Eilert; giữa các gia đình không có gì thân
thiện với nhau mấy, vì bãi đánh cá gần nhất chỉ là một khu vực
nhỏ xíu, và họ thích chèo thuyền ra đó đánh cá một mình.
Tuy nhiên, dù cha mẹ của Eilert
không thích, thậm chí còn ngăn cấm, nó vẫn thường xuyên lẻn xuống khu
nhà của những người Phần Lan. Ở đó luôn luôn có những câu chuyện lạ
lùng, và nó nghe được nhiều giai thoại kỳ quái về những nơi thâm sơn
cùng cốc, nơi từng là quê hương nguồn cội của người Phần Lan. Ở đó,
vào thời xa xưa, những vị vua Phần Lan, những bậc thầy phù thủy, đã
từng cư ngụ. Cũng tại đó, nó nghe kể về những thứ bên dưới lòng
biển cả, nơi những người cá và bọn thủy quái cai trị. Bọn thủy
quái có những quyền lực ác ôn tăm tối, và nhiều lần khi đang ngồi
nghe kể chuyện, máu của nó như đông lại trong huyết quản. Họ kể cho
nó nghe rằng bọn thủy quái thường xuất hiện trên bờ biển dưới ánh
trăng ở những nơi phủ đầy rong rêu và tảo biển, rằng đầu của chúng
là một chùm rong có hình dạng lạ kỳ đến nỗi ai bắt gặp chúng đều
không dám nhìn thẳng vào gương mặt tái nhợt kinh khủng của chúng.
Bản thân họ đã gặp chúng nhiều lần, và có lần vào buổi sáng kia,
họ đã kéo một con thuỷy quái ra khỏi thuyền lúc nó đang ngồi lật
úp những chiếc mái chèo. Khi Eilert vội vã quay về nhà trong bóng
tối vây quanh mũi đất, dọc theo bờ biển, nó không dám nhìn xung quanh,
và nhiều lần mồ hôi chảy đầm đìa trên trán nó.
Theo mức độ thù ghét ngày càng
tăng giữa những người lớn tuổi, họ tìm ra khá nhiều lỗi lầm của
nhau, và Eilert nghe vô số những điều xấu xa nói về những người Phần
Lan ở nhà anh. Khi thì thế này, khi thì thế nọ. Họ thậm chí không
chèo thuyền như những ngư dân trung thực, mà theo cung cách của người
Phần Lan, họ có những cú chèo nhanh và đưa lên cao, như thể họ là
bọn đàn bà con gái, và tất cả bọn họ nói chuyện với nhau ầm ĩ khi
đang chèo thuyền, thay vì phải “im lặng ở trên thuyền.” Nhưng điều gây
ấn tượng nhất đối với Eilert là sự kiện, rằng ở gia đình người
Phần Lan, họ làm những phép ma thuật và thờ cúng các quỷ thần, mọi
người bảo thế. Nó cũng nghe kể về một việc khác thường, đó là nỗi
tủi nhục phải mang dòng máu Phần Lan, đó là lý do vì sao những
người Phần Lan không tốt như những ngư dân trung thực khác, khiến các
quan tòa phải chia cho họ phần đất chôn riêng biệt trong nghĩa địa, và
ấn định “khu vực người Phần Lan” riêng biệt trong nhà thờ. Eilert đã tận mắt chứng
kiến việc này trong nhà thờ ở Berg.
Tất cả những chuyện này làm
nó nổi giận, vì nó không thể không thích những người dân Phần Lan ở
khu dưới kia, đặc biệt là cô bé Zilla. Cả hai luôn chơi đùa bên nhau. Cô
bé biết nhiều điều về những người cá, thủy thần. Vì thế, lương tâm
của nó luôn cắn rứt khi nó chơi với cô bé, và mỗi khi cô bé nhìn nó
với đôi mắt to đen láy trong lúc đang kể những giai thoại cho nó nghe,
nó thường cảm thấy hơi e ngại, vì những lúc đó nó nhớ lại rằng cô
bé và những đồng bào của cô thuộc về một dân tộc bị nguyền rủa,
và đó cũng là lý do vì sao họ biết nhiều về những câu chuyện như
thế. Nhưng, mặt khác, ý nghĩ về điều đó làm nó nổi giận, nhất là
vì cô bé. Cả cô bé cũng thường ngỡ ngàng vì cử chỉ lạ lùng mà cô
không thể hiểu của nó đối với cô; và rồi theo thói quen, cô bắt đầu
phá ra cười và trêu nó bằng cách bỏ chạy trốn cho nó đi tìm.
Một hôm nó gặp cô bé đang ngồi
trên một mõm đá ven bờ biển. Cô ôm trong tay một con hải âu đã bị
bắn, và hầu như vừa mới chết, vì nó vẫn còn ấm, và khóc nức nở.
Cô tức tưởi kể rằng nó là con chim làm tổ bên dưới mái ngôi nhà của
họ hàng năm, và cô biết về nó rất rõ, rồi cô chỉ cho Eilert xem một
chiếc lông nhuộm đỏ máu trên lồng ngực trắng của nó. Nó đã bị bắn
chết bởi một viên đạn duy nhất, và chỉ có một giọt máu duy nhất ứa
ra. Nó cố bay về tổ, nhưng đã chết gục bên bờ biển trên đường về. Cô
khóc như thể trái tim cô đang tan nát, rồi lau nước mắt bằng mái tóc
theo tính cách mãnh liệt của người Phần Lan. Eilert chế nhạo cô như
những cậu bé khác thường làm, nhưng cậu đã phải cố gắng, và mặt
tái đi trong suốt thời gian đó. Nó không dám kể cho cô bé nghe rằng
chính ngay hôm đó nó đã lấy khẩu súng của cha nó ra sau mõm đất và
bắn hú họa vào một con chim đang bơi vào bờ.
Một mùa thu nọ cha của Eilert
làm ăn cực kỳ thất bát. Ngày này sang ngày kia trên các bãi đánh cá
những sợi dây câu của ông chẳng bắt được thứ gì, trong khi đó ông
nhìn quanh và trông thấy người Phần Lan cứ kéo hết lần này sang lần
khác những lưỡi câu đầy cá. Ông chắc chắn rằng ông đã nhận thấy
những cử chỉ hiểm độc trên con thuyền của người Phần Lan. Sau chuyện
đó cả nhà ông nuôi một niềm căm ghét gấp bội đối với họ; và khi
trò chuyện với nhau vào buổi tối, họ đồng ý rằng trò ma thuật của người
Phần lan đã góp một phần vào chuyện đó. Để chống lại điều đó chỉ
có một cách, đó là chà đất mùn nghĩa địa lên những sợi dây câu, nhưng
phải cẩn thận khi làm việc đó, nếu không sẽ xúc phạm tới những
người chết và trở thành mục tiêu báo thù của họ.
Eilert bận tâm suy nghĩ nhiều về
tất cả những điều này, với nó, dường như nó cũng phải gánh một
phần trách nhiệm, vì nó đã chơi thân với những người Phần Lan.
Vào Chủ nhật sau đó, cả nó và
những người Phần Lan đều tới nhà thờ, và nó lén lượm một mớ đất
mùn từ một ngôi mộ của người Phần Lan, cho vào túi. Ngay chiều hôm
đó, khi về tới nhà, nó lén rắc những đất mùn đó lên những sợi dây
câu của cha nó. Và lạ lùng thay, ngay lần kế tiếp ném câu, cha nó đã
bắt được rất nhiều cá như trong những ngày may mắn nhất trước đó.
Nhưng sau đó Eilert trở nên bồn chồn lo lắng. Nó đặc biệt cảnh giác
trong lúc họ đang làm việc buổi tối quanh lò sưởi, còn ở góc đằng
xa của căn phòng thì tối đen. Nó ngồi ở đó với một mảnh thép trong
túi.
Việc cầu xin sự tha thứ của
người đã chết là phương tiện hữu hiệu duy nhất để chống lại những
hậu quả tai hại của những hành vi như thế, nếu không người ta sẽ bị
lôi tới nghĩa địa vào ban đêm bởi một bàn tay vô hình, dù có được
cột chặt vào giường bằng dây cáp của một con tàu.
Vào ngày Chủ nhật thuyết giáo
kế tiếp, khi tới nhà thờ Eilert chăm sóc rất cẩn thận ngôi mộ đó,
và cầu xin người chết tha thứ.
Khi lớn hơn, Eilert hiểu rằng
những người Phần Lan nói cho cùng cũng giống như những loại người
của dòng giống cậu. Nhưng, mặt khác, một ý nghĩ khác giờ đây xâm
chiếm tâm trí cậu. Đó là những người Phần Lan phải là một dòng dõi
thấp hèn, do vết nhơ của sự ghét bỏ đối với họ. Tuy nhiên, cậu không
thể thoải mái nếu không có xã hội của Zilla, và họ vẫn rất gần
gũi với nhau như trước, đặc biệt vào thời gian làm lễ Kiên tín.
Nhưng khi Eilert trở thành một
người đàn ông, và hòa đồng nhiều hơn với mọi người trong giáo xứ,
anh bắt đầu cho rằng tình bạn cũ này đã hơi hạ thấp tư cách anh
trong mắt của những người láng giềng. Không có ai không tin rằng thật
sự có một điều đáng xấu hổ trong dòng máu của người Phần Lan, và
do đó, anh luôn cố tránh đi chung với Zilla.
Cô gái hiểu tất cả khá rõ, vì
sau đó cô cũng tránh chạm mặt với Eilert. Tuy nhiên, một hôm cô tìm
tới, như thói quen hồi thơ ấu, xin được đi nhờ thuyền của gia đình anh
để cùng tới nhà thờ vào hôm sau. Trong thôn có nhiều người lạ, và
Eilert, không muốn mọi người nghĩ rằng anh và cô gái có quan hệ mật
thiết, đã đáp lại một cách chế giễu, để mọi người đều có thể nghe thấy, rằng
“việc thanh tẩy ở nhà thờ có lẽ là một điều tốt đối với ma thuật
của người Phần Lan”, nhưng cô phải đi nhờ một ai khác mà thôi.
Sau đó cô không bao giờ nói
chuyện với Eilert nữa, nhưng Eilert chỉ thấy thoải mái hơn với kết
quả đó.
Một mùa đông, Eilert ra khơi một
mình để câu cá mập Greenland. Một con cá
mập cắn câu. Thuyền thì nhỏ, còn con cá thì rất to, nhưng Eilert không
bỏ cuộc, và kết cuộc là thuyền của anh bị lật úp.
Suốt đêm dài, anh ngồi trên mũi
thuyền giữa vùng biển cả dữ dội mù sương. Khi anh hầu như mệt lả và
sắp chết chìm, lờ mờ nhận thức rằng đời anh sắp chấm dứt, và mong
nó đến càng sớm càng tốt, anh chợt nhìn thấy một người mặc đồ
thủy thủ ngồi vắt chân ở đầu kia con thuyền, nhìn anh chòng chọc với
một đôi mắt đỏ lừ. Ông ta nặng đến nỗi đáy thuyền ở đầu ông ta ngồi
chậm chạp chìm xuống. Rồi đột nhiên ông ta biến mất, Eilert thấy
dường như sương mù tan bớt, và ngay
sau đó biển êm trở lại; và ngay trước mắt anh là một hòn đảo xám
nhỏ thấp và con thuyền đang chầm chậm trôi tới đó. Hòn đảo ngầm ẩm
ướt, như thể biển vừa mới tràn qua nó, và trên đó anh nhìn thấy một
cô gái có một gương mặt tái nhợt và đôi mắt rất đáng yêu. Cô mặc
một chiếc váy dài màu xanh lá, quanh eo cô là một chiếc thắt lưng to
bản bằng bạc trên có những hình vẽ theo kiểu những người Phần Lan
hay đeo. Vạt áo trên của cô quét nhựa nâu và bên dưới vạt áo viền
đăng ten, dường như làm bằng rêu biển là một chiếc áo sơ mi trắng
toát, như bộ lông ngực của một con chim biển.
Khi thuyền dạt lên đảo, cô tới
chỗ anh và nói, như thể biết anh rất rõ, “Thế là cuối cùng chàng
đã tới, Eilert, em đã chờ chàng lâu lắm rồi!”
Eilert cảm thấy như có một cơn
rùng mình lạnh buốt như băng xuyên qua thân thể mình khi anh nắm lấy
bàn tay giúp kéo anh lên bờ; nhưng cảm giác đó chỉ xảy ra trong
khoảnh khắc, và anh quên nó ngay.
Ở giữa đảo có một cánh cửa
với những bậc thang bằng đồng dẫn xuống một hang động kỳ diệu. Trong
khi đang đứng suy nghĩ về mọi chuyện, anh nhìn thấy hai con cá nhám
dài ít nhất từ một mét rưỡi tới hai mét đang bơi lượn gần đó.
Khi họ đi xuống, hai con cá cũng
lặn xuống, mỗi con ở một bên bậc thang đồng. Thật lạ kỳ, trông hòn
đảo dường như trong suốt. Khi cô gái nhận thấy anh đang sợ hãi, nàng
bảo anh rằng chúng chỉ là hai tên cận vệ của cha nàng, sau đó giây
lát chúng biến mất. Khi đó nàng bảo rằng nàng muốn đưa anh tới gặp
cha nàng, ông ta đang chờ họ. Nàng nói thêm rằng nếu anh không thấy
rằng ông đẹp đẽ như ông mong đợi, dù sao cũng đừng sợ sệt, mà cũng
đừng quá ngạc nhiên vì những gì anh nhìn thấy.
Bấy giờ anh nhận thấy mình đang
ở dưới nước, nhưng không có dấu hiệu gì của sự ẩm ướt. Anh đang
đứng trên lớp cát trắng ở đáy nước, phủ đầy bởi những vỏ sò màu
phấn trắng, đỏ, xanh dương và lấp lánh như bạc. Anh trông thấy những
cánh đồng rêu biển, những ngọn núi rậm rạp những thân rêu tảo, với
những đàn cá lượn lờ khắp phía như những con chim bay lượn quanh các
mỏm đá nơi các loài chim biển cư trú.
Khi hai người đi bên cạnh nhau,
nàng giảng giải cho anh nghe nhiều điều. Ở trên cao, anh nhìn thấy một
thứ gì đó trông như một đám mây đen với một lằn gạch trắng, và bên
dưới nó đi động tới lui một hình dáng giống như một trong hai con cá
nhám.
“Đó là một con thuyền,” cô gái
nói, “ở trên đấy tiết trời đang xấu, và trong thuyền là người đã
ngồi cùng chàng trên đáy thuyền lúc nãy. Nếu nó bị chìm, nó sẽ
thuộc về bọn thiếp, và khi đó chàng sẽ không được trò chuyện với
cha thiếp trong hôm nay.” Khi nói tới đó, đôi mắt nàng loé lên ánh tham
tàn, nhưng nó biến mất ngay lập tức.
Và, trên thực tế, khó mà xác
định ý nghĩa của đôi mắt ấy. Như một quy luật, chúng thăm thẳm một
cách khôn dò với vẻ rực rỡ của một đợt sóng cồn ban đêm, xuyên qua
đó những ánh lân tinh lấp lánh, nhưng, đôi lúc, khi nàng cười to,
chúng lấp lánh một màu xanh chói lọi, như khi ánh mặt trời chìm sâu
xuống biển.
Thỉnh thoảng họ lại đi ngang
một một con thuyền đã bị cát vùi lấp nửa phần, những đàn cá bơi
lượn ra vào những cánh cửa và cửa sổ của các khoang thuyền. Sát bên
những con tàu đắm đi lang thang những hình dáng con người, trông mơ hồ
thấp thoáng như những làn khói xanh lam. Người dẫn đường của anh giải
thích rằng đó là linh hồn của của những người chết đắm không được
chôn cất theo nghi thức Cơ Đốc giáo – người ta phải đề phòng họ, vì
những người chết kiểu này rất hiểm ác. Họ luôn biết được khi nào
một kẻ thuộc chủng loài của họ sắp sửa chết đắm, và khi đó họ hú
lên lời cảnh báo về cái chết của loài thủy quái suốt những đêm gió
bão.
Rồi họ đi xa hơn, băng qua một
thung lũng sâu tăm tối. Trên những vách đá bên trên, anh nhìn thấy một
hàng cửa vuông góc màu trắng, từ đó phát ra một thứ ánh sáng trông
như phát ra từ những ngọn đèn của miền bắc, xuyên xuống qua bóng
tối. Thung lũng này trải dài theo hướng đông bắc ngay ở bên dưới
Finnmark, cô gái nói, và bên trong những cánh cửa đó cư ngụ những vị
vua Phần Lan già đã bỏ mình trên biển cả. Rồi nàng đi tới và mở
cánh cửa gần nhất. Ở đó, dưới lòng biển mặn, là vị vua cuối cùng, kẻ đã bị
lật thuyền trong chính cơn bão mà ông đã dùng ma thuật tạo ra, nhưng
sau đó không thể dập tắt nó. Trên
một phiến đá, một ông già Phần Lan nhăn nheo vàng vọt đang ngồi, với
đôi mắt linh lợi và một chiếc vương miện lóng lánh màu đỏ sẫm. Cái
đầu to lớn của ông gật gù tới lui trên chiếc cổ quắt queo, như thể
nó đang nằm trong vòng xoáy của một dòng nước ngầm đại dương. Bên
cạnh ông, trên phiến đá đó, là một người phụ nữ bé nhỏ, thậm chí còn
vàng vọt nhăn nheo hơn, cũng đội một chiếc vương miện, và y trang của
bà bị phủ đầy bởi đủ loại đá nhiều màu sắc. Bà đang khuấy một ly
rượu với một chiếc que. Nếu bà có được lửa bên dưới cốc rượu, hai
vợ chồng họ chẳng bao lâu sẽ trở lại ngự trị biển cả, vì vật mà
bà đang khuấy là một thứ ma thuật.
Ở giữa đồng rêu, ở ngay một
chỗ ngoặt của con đường trước mặt họ, có vài căn nhà đứng cạnh nhau
như một thị trấn nhỏ, và, xa hơn chút nữa, Eilert nhìn thấy một ngôi
nhà thờ lộn ngược đầu xuống dưới, với cái tháp nhọn dài của nó,
trông như thể nó được phản chiếu lại trên mặt nước. Cô gái giải
thích rằng cha cô sống trong những căn nhà đó, và ngôi nhà thờ đó là
một trong bảy nhà thờ thuộc lãnh địa của ông, trải dài trên khắp
cõi Helgoland và Finmark. Hiện chúng không hoạt động, nhưng cần được
duy trì để khi những vị giám mục chết chìm, họ có thể xưng danh vị
Chúa tể duy nhất cần được phục vụ, và khi đó tất cả những loài
thủy quái sẽ đến dự lễ nhà thờ. Có một vị giám mục, nàng bảo,
đã ngồi ở đó trầm tư suốt tám trăm năm qua, vì thế không ngờ gì
chẳng bao lâu nữa ông ta sẽ lụi tàn. Cách đây một trăm năm, ông đã
khuyên họ cử một thủy thần tới nhà thờ Rodo để tìm hiểu mọi sự ở
đó, nhưng mỗi lần người ta nói tới cái tên mà ông ta muốn biết, ông
ta lại không thể nghe thấy được. Trên núi Kunman, đức vua Olaf đã treo
một cái chuông bằng vàng ròng, và người canh gác nó làvị linh mục
đầu tiên tới vùng Nordland. Ông ta đứng ở đó, trên người khoác một
chiếc áo lễ màu trắng. Vào ngày nào đó khi vị linh mục này kéo
chuông, Kunman sẽ trở thành một nhà thờ lớn bằng đá mà toàn dân cõi
Nordland, cả trên bờ cũng như dưới biển sâu đều lui tới. Nhưng thời
gian cứ trôi qua, và vị giám mục cứ hỏi mãi tất cả những người
chìm xuống đây xem họ có thể nói cho ông biết cái tên đó hay
không.
Eilert
cảm thấy thật khó chịu khi nghe chuyện này, và anh còn khó chịu hơn
khi anh bắt đầu hồi tưởng lại và phát hiện, trong cơn hoảng sợ, rằng
anh cũng đã quên cái tên đó.
Trong lúc anh đang suy nghĩ, cô
gái nhìn anh một cách náo nức. Gần như nàng cũng muốn giúp anh tìm
ra nó nhưng không thể, và vì thế ngay khi đó nàng trở nên nhợt nhạt
như một xác chết.
Căn nhà thủy thần mà họ tới
được xây dựng bằng những chiếc sống thuyền và những mảnh tàu đắm
lớn, giữa những kẻ hở của nó đủ loại rong rêu mọc xum xuê. Ba cái
cột khổng lồ màu xanh, phủ đầy sò hến, tạo thành một lối vào, và
cửa ra vào làm bằng những tấm ván ngang đã chìm xuống đáy biển,
đầy những vết móng tay bấu chặt. Ở giữa cửa, trông như một cái vòng
sắt gõ cửa, là một cái vòng sắt buộc neo thật lớn, với một mảnh
dây cáp tả tơi còn sót lại treo lủng lẳng. Khi họ tới cửa, một cánh
tay to lớn đen thui thò ra mở cửa.
Lúc này họ đứng trong một gian
phòng rộng hình vòm, với lớp cát mịn trải dưới chân. Ở các góc
phòng chất đầy những loại dây chão, thừng và những bánh lái thuyền,
ở giữa còn có những cái thùng tô nô và nhiều hàng hóa trên tàu
khác. Trên một đống dây thừng, phủ bởi một tấm buồm cũ mài đỏ rách
tả tơi, Eilert trông thấy vị thủy thần, một người đàn ông vạm vỡ, vai
rộng, đội một cái mũ da, có một mái tóc và bộ râu rậm đỏ hung. Ông
ta có một đôi mắt ti hí đẫm lệ của loài cá nhám, một cái mõm
rộng, tròn vừa nở một nụ cười theo kiểu một thủy thủ thân thiện.
Hình dáng đầu ông ta làm người ta nhớ tới cái đầu của một loài hải
cẩu khổng lồ gọi là Klakkedal. Lớp da gần cổ ông ta màu sậm và có
lông dài, và các đầu ngón tay dính lại như chân vịt. Ông ta ngồi đó, mang một đôi
ủng đi biển, đôi bít tất len dầy màu xám kéo dài tới tận bắp đùi.
Ngoài ra, ông ta còn khoác một chiếc áo vải da với những cái nút thủy tinh chói sáng
bên trên chiếc áo gi lê. Chiếc áo khoác da mở bung ra, và quanh cổ ông
ta là một cái khăn quàng len đỏ rẻ tiền.
Khi Eilert đến gần, ông ta làm ra
vẻ như muốn đứng lên, rồi nói một
cách thân mật: “Chào ngày lành, Eilert. Hôm nay đúng là ngươi đã trải qua một ngày vất
vả! Giờ thì ngươi có thể ngồi xuống, nếu muốn, và chén một chút
gì đó. Ngươi muốn, ta chắc là vậy mà.” Rồi ông ta phun ra một tia
nước đen hệt như một con cá voi đang
phun nước. Với một bàn tay, mà nếu cần có thể duỗi thật dài ngay
lập tức, ông ta lôi ra từ góc nhà, theo kiểu Nordland chính cống, cái
xương sọ của một con cá voi để Eilert dùng làm ghế, rồi đưa ra một
cái ngăn kéo dài chứa đầy những đồ ăn hảo hạng. Nào là cháo yến
mạch trộn mật đường, bánh yến mạch trộn bơ, một chồng bánh qui và
ngoài ra còn nhiều thứ thức ăn của một khách sạn tốt nhất khác.
Vị thủy thần mời anh và ăn
phần của ông ta, rồi ra lệnh cho con gái mang ra thùng rượu mạnh cuối
cùng ở Thronhjem. “Thứ này thì thùng cuối cùng bao giờ cũng là
thùng ngon nhất.” Ông ta nói. Khi cô gái mang nó ra, Eilert nghĩ rằng anh biết nó: nó là
của cha anh, và chính anh nữa, chỉ trước đó đôi ba ngày, đã mua rượu
từ cửa tiệm ở Kvaford, nhưng anh không nói gì về điều đó. Món nước
thuốc, mà vị thủy thần nôn nóng xoay thùng rượu quanh miệng trước khi
uống, dường như với anh cũng thật lạ lùng. Đầu tiên, như thể anh hoàn
toàn không biết xoay xở thế nào với cái thùng – miệng của anh quá
đau nhức, nhưng sau đó mọi thế đều qua đi êm xuôi.
Họ lặng lẽ ngồi như thế trong
một lúc, uống hết ngụm này tới ngụm khác, cho tới lúc Eilert cho rằng
họ đã uống khá nhiều rồi. Thế là, khi tới lượt mình, anh từ chối,
bảo rằng anh không uống nữa. Khi đó vị thủy thần đặt thùng rượu vào
miệng anh và trút rượu cho tới khi cạn. Rồi ông ta vươn cánh tay dài
lên kệ, lấy xuống một thùng khác. Lúc này, hình như ông ta có một
tâm trạng vui vẻ hơn, và bắt đầu nói đủ thứ chuyện trên đời. Nhưng
mỗi lần ông ta cất tiếng cười, Eilert cảm thấy khó chịu, vì cái
miệng của ông ta há rộng, đưa ra một hàm răng xanh nhớt rong rêu, với
những kẻ hở thật rộng giữa những cái răng, trông như một hàng cọc
buộc thuyền.
Thủy thần nốc hết thùng này
tới thùng khác, càng uống ông ta càng nói nhiều hơn. Với vẻ ngoài
như thể đang nghĩ tới một điều gì buồn cười, ông ta nhìn Eilert một
lúc rồi nhấp nháy đôi mắt. Eilert không thích biểu hiện đó tí nào,
vì dường như nó nói với anh rằng: “Giờ thì, nhóc con, kẻ ta đã cho
ăn uống no say, hãy tìm một cơ may đi!” Nhưng thay vì thế, ông ta nói:
“Eilert, đêm nay ngươi đã vất vả nhiều, nhưng lẽ ra ngươi không phải khổ
sở đến mức đó nếu ngươi không lấy đất mùn nghĩa địa tẩm lên dây câu,
và không từ chối đưa con gái ta tới nhà thờ.” Tới đó, ông ta đột
nhiên im lặng, như thể đã nói quá lời, và để tự ngăn mình không nói
hết câu, ông ta lại đưa thùng rượu lên miệng. Nhưng cùng lúc ấy, Eilert
thoáng nhìn thấy ánh mắt của ông ta, chứa đầy nỗi căm ghét chết
người làm anh rợn cả sống lưng.
Sau khi nốc một ngụm thật dài,
và nhấc thùng rượu khỏi miệng, thủy thần lại trở nên vui tính, kể
hết chuyện này tới chuyện khác. Ông ta duỗi dài người trên tấm buồm,
cười phá lên hay nhe răng một cách mãn nguyện với những câu chuyện
của mình, sự hóm hỉnh của chúng luôn luôn là một vụ đắm thuyền hay
chết đuối. Thỉnh thoảng Eilert lại cảm thấy hơi thở trong tiếng cười
của ông ta, như một luồng khí lạnh buốt. Nếu những ngư dân chịu từ
bỏ thuyền của họ, ông ta nói, ông ta không cần có những thủy thủ
đoàn cho lắm. Ông ta chỉ cần những mảnh gỗ trôi giạt và những mảnh
ván thuyền, vì ông ta thực sự không thể tiếp tục mà không cần tới
chúng. Khi vốn của ông ta hết, ông ta cần phải có những tàu thuyền,
và chắc chắn là không ai có thể trách móc ông ta được.
Nói xong, ông ta đặt cái thùng
rỗng xuống, và trở nên khá u buồn như lúc đầu. Ông ta bắt đầu nói
về những thời kỳ tồi tệ mà mình và con gái trải qua. Nó không như
trước, ông ta bảo. Ông ta nhìn đăm chiêu về phía trước một lúc, như
thể đang chìm sâu vào ý nghĩ. Rồi ông ta nằm dài ra, đôi chân duỗi
thẳng xuống sàn nhà, và thở hổn hển một cách đáng sợ đến nỗi hàm
trên và hàm dưới của ông ta trông như hai cái sống thuyền úp vào nhau.
Và ông ta lăn ra ngủ, ngửa cổ trên mặt tấm buồm.
Khi đó cô gái tới cạnh Eilert
và bảo anh đi theo nàng.
Lúc này họ đi theo con đường cũ
quay về, lại trèo lên hòn đảo. Rồi nàng thú nhận với Eilert rằng lý
do mà cha nàng đã cay đắng với anh là vì anh đã chế nhạo nàng về
việc thanh tẩy nhà thờ khi nàng muốn đi nhờ tới đó; cái tên mà
những người chết đắm muốn biết,
vị thủy thần nghĩ, có thể khơi lại trong ký ức của Eilert,
nhưng trong cuộc trò chuyện của họ khi họ cùng tới nhà cha nàng,
nàng đã nhận ra rằng anh cũng đã quên nó. Và giờ đây anh phải lo cho
cuộc sống của anh. Sẽ có một khoảng thời gian khá lâu trong ngày
trước khi ông cụ bắt đầu hỏi han về anh. Cho tới khi đó, Eilert cần
phải ngủ để có đủ sức cho cuộc tẩu thoát của anh, nàng sẽ trông
chừng cho anh.
Cô gái xõa mái tóc dài của
mình quanh người anh như một tấm màn che, và dường như anh biết đôi
mắt này rất rõ. Anh cảm thấy như thể má anh đang tựa vào ngực của
một con chim hải âu trắng, nó thật ấm áp và dễ đưa người ta vào
giấc ngủ. Một chiếc lông màu đỏ duy nhất ở giữa ngực nó gợi lại
một hồi ức đen tối. Dần dần, anh rơi vào giấc ngủ mơ màng, và nghe
thấy nàng đang hát một bài hát ru con, nhắc cho anh nhớ về những
cuộn sóng cồn trồi sụt dọc theo bờ biển trong một ngày nắng đẹp.
Nó nói về tất cả những ngày họ từng là bạn của nhau và sau đó anh
đã không còn nói chuyện với nàng. Nàng hát về tất cả những điều
đó, tuy nhiên, anh chỉ nhớ được những lời cuối như sau:
“Ôi, cả ngàn lần
chúng ta đã cùng đùa chơi trên
bãi biển
và bắt những con cá nhỏ,
còn nhớ hay chăng?
Mình chạy đua với sóng
lăn tăn dưới bàn chân
Và luôn trốn khỏi cụ Thủy
thần.
“Phải, chàng có nghĩ nhiều về
câu ru của em?
Khi những con sóng đong đưa
và cơn bão thở dài
Giờ đây,
ai đang ngồi khóc
nước mắt rơi trên đôi má của
chàng?
Đó là em, kẻ đã trao cho chàng
linh hồn
và hồn của em trong chàng sống
mãi.”
“Nhưng có lần kia quay về nhà
dưới lốt chim hải âu
Chàng cầm súng nấp sau tảng đá
Nhắm giữa ngực em chàng nổ
súng,
Máu em tuôn ướt ngực! Chàng ơi!”
Rồi dường như thể nàng ngồi
khóc và đôi lúc một giọt gì đó như là nước biển rơi xuống má anh.
Lúc bấy giờ, anh cảm thấy yêu nàng không thể tả.
Khoảnh khắc kế tiếp anh bắt
đầu cảm thấy khó chịu. Anh hình dung như có một con cá voi đang bơi
thẳng tới hòn đảo, nó bảo với anh rằng anh phải vội vàng lên, và
khi anh đứng lên trên lưng nó, anh gài một mũi chèo vào lỗ mũi của
nó, để ngăn không cho nó lặn xuống biển trở lại. Anh nhận thức rằng
theo cách đó anh có thể lái con cá voi theo ý muốn khi bẻ mái chèo
sang phải hay sang trái, và bấy giờ cả hai lướt khắp vùng Finmark với
một tốc độ nhanh tới mức những hòn núi đảo lướt qua họ như những
tảng đá nhỏ. Ở phía sau lưng, anh nhìn thấy thủy thần trong chiếc
thuyền của ông ta, ông ta cũng lướt nhanh đến nỗi bọt nước sôi lên
cuồn cuộn.
Ngay sau đó, anh thấy mình lại
nằm trên hòn đảo nhỏ, và người thiếu nữ đang mỉm cười nhìn anh thật
dịu dàng. Nàng cúi xuống bảo rằng: “Em đây, Eilert!”
Anh tỉnh giấc, và thấy rằng
ánh nắng đang trải lan trên hòn đảo ẩm ướt, và thủy thần vẫn còn
ngồi bên cạnh anh. Nhưng ngay khi ấy toàn bộ cảnh vật chợt đổi thay
trước mắt anh. Ánh nắng đang rọi qua những khung cửa sổ, còn anh đang
nằm trên chiếc giường trong một căn lều Phần Lan, bên cạnh là cô gái
Phần Lan. Họ nghĩ rằng anh sắp chết. Anh đã nằm đó mê man suốt sáu
tuần, ngay cả sau khi người Phần Lan đã cứu anh lên lúc bị đắm
thuyền, và đây là giây phút đầu tiên anh hoàn toàn tỉnh táo lại.
Sau đó, anh không bao giờ thèm
nghe bất cứ một câu chuyện nhảm nhí nào về người Phần Lan nữa.
Chúng chứa đầy những điều vô lý và đầy định kiến đến nỗi chúng in
một dấu ấn lên nỗi ô nhục hoặc sự khinh thị dòng máu Phần Lan. Mùa
xuân năm ấy, anh và Zilla, cô gái Phần Lan đính hôn nhau, và vào mùa
thu họ làm lễ kết hôn.
Có nhiều người Phần Lan đến dự
lễ cưới, và có lẽ nhiều người khác đã bình luận về việc đó nhiều
hơn mức cần thiết, nhưng mọi người đến dự lễ đều đồng ý rằng tay
kéo đàn, cũng là một người Phần Lan, là tay đàn giỏi nhất trong
toàn giáo xứ, và cô dâu là cô gái xinh đẹp đáng yêu nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét