JONAS LIE
Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
Dịch theo
Bản tiếng Anh của R. Nisber Bain
Tranh Minh
họa của Laurence Housman
EM ĐÂY!
Có lần, con gái của nữ thần
Gygra[1]
bị ốm và thấy khó ở, nàng bắt đầu quăng những tảng đá vào sườn
núi. Nàng muốn trở thành người giúp việc trong thung lũng bên dưới,
nàng bảo thế.
“Vậy hãy đi xuống gặp Thần Đất
trước, và hãy sửa sang gọn gàng chút ít, hãy cài một cái lược vào
mái tóc của con thay vì một cái cào cỏ bằng sắt.” Kẻ trị vì những
ngọn núi bảo.
Thế là con gái của Gygra xuôi
theo dòng sông, cho tới khi nước toả hơi ngùn ngụt và cơn bão rít lên
quanh nàng. Nàng đi xuống chỗ Thần Đất, đã cọ rửa tắm táp và chải
chuốt gọn gàng.
Một buổi chiều nọ, có một cô
gái to lớn thô kệch bước vào gian nhà bếp của một người thương gia
lớn và hỏi rằng cô ta có thể giúp việc ở đó không.
“Cô phải nấu ăn.” Bà chủ đáp.
Bà cảm thấy dường như cô gái đó là người sẽ khuấy món cháo yến
mạch rất tuyệt, và sẽ không do dự với việc chẻ thêm ít củi hay chùi
rửa bát đĩa.
Cô gái là một kẻ thiếu kinh
nghiệm thô lỗ, và cách thức làm việc của cô cũng thô lỗ. Lần đầu
tiên cô vác một khúc củi vào bếp, cô va nó vào cửa bếp thật mạnh
đến nỗi làm vỡ bản lề cửa. Và dù nhiều lần người thợ mộc đã
chữa lại cánh cửa, nó vẫn luôn không có bản lề, vì cô gái cứ đá
tung nó ra mỗi lần cô mang củi vào bếp.
Khi cô rửa bát, cũng vậy. Những
đống lọ và nồi chất cao ngất đến nỗi những ngăn kệ và bàn không
thể chứa hết, và dù cô có vẻ lăng xăng rối rít, dường như chúng chưa
bao giờ giảm đi.
Bà chủ của cô cũng chẳng có
một ý kiến nào tốt hơn về sự sạch sẽ của cô.
Khi Toad, người ta gọi cô như
vậy, dùng cát để chà rửa những cái chậu gỗ, thiếc hay đồng thau,
chắc chắn là trông chúng sẽ rất sạch sẽ nếu chúng không vỡ thành
từng mảnh dưới bàn tay của cô. Và khi bà chủ của cô cố chỉ cho cô
cách làm cho đúng, cô chỉ biết há hốc miệng kinh ngạc.
Người ta chưa bao giờ nhìn thấy
những bộ ly tách nứt nẻ, những dãy bình trà bị sứt tay cầm và
những chồng dĩa vỡ như thế trong gian bếp đó.
Và cô nàng còn ăn thật khoẻ,
bằng tất cả những người giúp việc khác cộng lại.
Thế là bà chủ than phiền với
chồng mình, bảo rằng tốt hơn họ nên sớm cho cô ta thôi việc.
Người thương gia bước thẳng vào
bếp. Mặt ông ta đỏ gay. Phải cho cô ta biết rằng, ông ta bảo, cô ta ở
đó không phải chỉ để đứng quay lưng vào bếp và sưởi ấm cho bản thân
bẩn thỉu của cô ta.
Lúc này, khi nhìn thấy cô gái
nhếch nhác biếng lười đang nằm ườn trên chiếc ghế băng trong bếp và
chẳng làm gì ngoài việc há mồm nhìn qua khung cửa sổ những con
thuyền của ông ta, bấy giờ đang đậu ở gần chiếc cầu và trĩu nặng
với những thùng dầu, ông ta nổi cơn giận dữ. “Hãy cuốn xéo ngay bây
giờ!” Ông ta nói.
Nhưng Toad chỉ nhe răng ra cười
và nháy mắt nhìn ông, và bảo rằng khi bản thân ông chủ đã bước vào nhà bếp, ông phải
thấy rằng cô không ăn bánh mì của ông mà không được việc gì.
Rồi cô lững thững đi xuống chỗ
mấy con thuyền, rồi quay lại khịt mũi nhìn ông với cánh tay giơ ra
trước mặt. Trước khi có ai đoán được cô muốn làm gì, cô đã vác một
trong những thùng dầu nặng nhất lên vai.
Rồi cô quay về qua cánh cửa
bếp, luôn mỉm cười và yêu cầu xin cho cô biết cô nên đặt nó vào đâu.
Ông chủ chỉ biết đứng há hốc
miệng nhìn cô ta. Ông ta chưa từng gặp chuyện như thế này bao giờ.
Thế rồi hết thùng này tới
thùng khác, cô vác chúng từ thuyền vào cửa tiệm.
Người thương gia phá lên cười cho
đến lúc ông phải thở hào hển để lấy hơi, và vỗ tay vào đùi một
cách vui vẻ.
Ông không cần phí lời khen ngợi.
Và ông đi vào phòng ngủ của
mình cũng nhanh như lúc rời khỏi đó.
“Mẹ bọn trẻ không biết là cô ta
đáng tiền thế nào đâu.” Ông bảo.
Nhưng, kể từ đó, cô gái không
mó tay vào việc gì cả, kể cả móc cái then gỗ vào tường, và thỉnh
thoảng, nếu ai đó không nấu một hai thứ thức ăn gì đó, trong bếp hầu
như chẳng có gì để ăn. Điều tốt nhất họ có thể làm là đuổi cô ta
khỏi bếp vào những buổi ăn.
Khi bà chủ than phiền về điều
đó, ông chủ bảo rằng bà không nên kỳ vọng nhiều quá. Cô gái chắc
chắn cần phải nghỉ ngơi chút đỉnh sau khi đã vác một số hàng nhiều
như thế.
Nhưng Toad luôn nhìn hau háu và
mỉm cười mỗi khi người thương gia bước ra khỏi cửa tiệm. Khi đó, cô trở
nên nhanh nhẹn và linh hoạt, và làm đủ mọi loại việc linh tinh, từ
việc ra suối múc nước hay tới kho để lấy bánh. Và khi cô nhìn thấy
bà chủ đã đi khỏi, cô tự tiện làm theo những điều mà mình thích.
Ngay khi nồi đã được treo vào
móc, cô lẫn đi với một cái đĩa lớn mật đường ra khỏi cửa tiệm. Và
cô có thể hối hả múc món cháo yến mạch và ngấu nghiến ăn. Nếu có
ai đó trong những người giúp việc đòi phải chia đều, cô chỉ trả lời
đơn giản: “Em đây!”
Họ không dám phản đối. Từ hôm
cô vác những thùng dầu, họ biết rằng cô đã được lòng ông chủ.
Nhưng bà chủ của cô sớm nhận ra
việc mất mát cả những lọ mật đường lẫn đường cát, và bà cũng
nhận ra những cái bánh gừng, bơ và thịt xông khói đã biến đi đường
nào.
Và cô gái ngày càng tròn trịa
mập mạp như thể muốn nổ tung ra.
Khi bà chủ đi khỏi và giữ chìa
khoá, Toad thường ló đầu vào cửa phòng khách, liếc mắt đưa tình với
ông chủ và hỏi có cần mang gì đến cửa tiệm hay không. Khi đó, người
thương gia thường bước tới cửa sổ và nhìn cô ta khi cô nhấc lên và
mang đi những thùng cá, đường hay những giỏ thịt.
Ông ta cười to cho tới khi bật ho
rồi lau mồ hơi trên trán, la to khắp căn phòng: “Có người làm nào của
ta có thể vác những kiện hàng nặng như Toad không?”
Và khi ông chủ về tới nhà,
người ướt sũng và run rẩy vì giá lạnh sau chuyến hành trình mùa
thu, chính Toad là người đầu tiên và trước nhất tới gặp ông, cởi khuy
chiếc áo khoác da của ông, tháo cái mũ vải dầu và giúp ông cởi đôi
ủng đi biển dài ra.
Ông run rẩy vì lạnh, nhưng cô
nhanh chóng tháo đôi vớ dài ẩm ướt cho ông và đốt lò sưởi lên, rồi
đặt ông ngồi bên góc ống khói lò sưởi ấm cúng.
Bà chủ đến và mang cho ông một
ly sữa pha rượu và hương liệu nóng để giải cảm, nhưng bà bực mình
khi thấy cô gái lăng xăng rối rít bên ông đến nỗi bà đi thẳng sang
phòng khách và gào lên giận dữ.
Vào sáng sớm, người thương gia
hét toáng lên đòi mang tới cho ông đôi vớ dài dệt bằng len. Mọi người
biết rằng ông đang cáu kỉnh vì buộc phải mặc vào chiếc áo khoác đi
biển và mang đôi ủng đi biển chật
cứng, và lại phải lên đường trong tiết trời lạnh giá.
Ông mở tung cửa bếp, và giận
dữ hỏi họ rằng họ còn bắt ông phải chờ đợi bao lâu nữa.
Nhưng rồi miệng ông há rộng như
lối vào bếp mà ông đang dứng và nét mặt ông sáng lên với sự hài
lòng.
Quanh các vách tường, trong hơi
ấm của lò sưởi, cái mũ da rộng vành, cái áo khoác da, cái quần
dài và mọi thứ trang phục mà ông phải mặc vào đều đã khô ráo gọn
gàng. Và ông nhìn thấy đôi ủng của mình đang nằm trên cái ghế dài
giữa bếp, sạch sẽ, được nhúng mỡ thật đẹp, đến nỗi mỡ tràn lên cả
dây ủng.
Ông không tài nào tin được một
người hầu chăm sóc và quan tâm tới ông chủ như thế có thể tìm ra nhờ
tình yêu hay tiền bạc, ông la lớn như thế.
Nhưng đến lúc này vợ ông không
thể dằn lòng được nữa. Bà chỉ cho ông thấy rằng quần áo đều bị
cháy sém, và toàn bộ một bên của cái áo khoác bị co lại vì sức
nóng, chỉ cần kéo nhẹ nó sẽ nứt nẻ ra. Và bà kéo cái thùng bơ
lớn tới để ông có thể tự nhìn thấy cô hầu đã nhúng đôi ủng của ông
vào đó ra sao.
Người thương gia đứng đó, hoàn
toàn rối trí, lúc nhìn đôi ủng, lúc nhìn vào thùng bơ. Ông bẻ ngón
tay, nét mặt co rúm lại, rồi ông bắt đầu chùi nước mắt, rồi vội vã
bỏ đi để mọi người không nhìn thấy ông khóc.
“Mẹ bọn trẻ không biết rằng cô
gái tốt như thế nào với tất cả những ý định của cô ta.” Ông nức
nở. Lạy Chúa! Nếu cô dùng bơ để đánh ủng cho ông, thì đó chỉ là do
ý tốt của cô thôi. Không bao giờ ông đuổi một cô gái như vậy khỏi
nhà.
Thế là bà chủ chấp nhận bỏ
cuộc, để mặc cho cô hầu bếp to lớn tung hoành mặc ý. Sau đó không lâu
Toad đã để chiếc chìa khoá phòng chứa hàng nằm trên cửa từ sáng
tới tận chiều tối. Khi có ai cất tiếng gọi to: “Có ai trong đó
không?” Cô chỉ đáp một cách đơn giản: “Em đây!”
Và cô không hề rời khỏi hộp
bánh gừng nếu đã ngồi ăn, dù cho bà chủ có cho gọi. Nhưng cô luôn để
mắt tới ông chủ của mình.
Ông ta chỉ chế nhạo cô chút ít,
hỏi rằng cô đã đủ no chưa, và bảo rằng ông e là một ngày nào đó ông
sẽ phát hiện ra cô chết vì đói.
Sắp tới mùa Giáng sinh, ngư dân
sửa soạn để ra khơi đánh cá, bà chủ vô cùng bận bịu như thường lệ
và ra lệnh mang cái vạc to vào phòng làm việc để rửa và đóng nhãn
len.
Một số đầu bếp được thuê trong
dịp này để làm bánh lefser (một thứ bánh mỏng có thể gập đôi
lại ăn chung với mật đường), nướng và rán bánh trên những bếp lò.
Họ mang tới từ cửa hàng những thùng cá trích, thức ăn và thịt, đã
chế biến hay còn tươi sống, cân đo rồi đặt vào những ngăn dự trữ.
Dường như lúc ấy Toad không có
một giây phút bình an vì những thứ nồi niêu xoong chảo. Bà chủ của
cô cứ đi lại liên tục giữa phòng chứa hàng và phòng để thức ăn, để
lấy thịt, đường mật, bơ cho món bánh lefser. Cánh cửa phòng
chứa hàng cứ khép hờ vì bà đi ra đi vào suốt cả ngày.
Cuối cùng Toad thực sự nổi
khùng. Cô quyết định chấm dứt mọi chuyện huyên náo ầm ĩ này. Thế
là cô tự bôi trơn bậc cửa phòng chứa hàng bằng xà phòng xanh.
Sáng hôm sau, bà chủ là người
đầu tiên bước vào, tay cầm một bát bơ và một cái muỗng gỗ. Bà bị
trượt ngã ngay giữa cửa và nằm ở đó cho tới khi Toad đỡ bà đứng
lên.
Cô bế bà vào phòng ông chủ với
tiếng khóc gào lớn đến nỗi cả nhà đều nghe thấy. Bà chủ thường lo
lắng đến chết với mọi thứ lăng xăng này, cô bảo, và giờ thì linh
hồn đáng thương này đã bị ngã gẫy chân.
Người khóc nhiều nhất và không
biết phải làm gì khi nghe thấy tiếng khóc và rên rĩ về vợ của mình
chính là người lái buôn.
Không ai biết giá trị thực sự
của cô hầu bếp này cả, ông bảo. Và thế là giờ đây Toad trở thành
người trông nom mọi việc, cả phân phối kho hàng và cung cấp cho ăn
uống trong nhà.
Cô đuổi tất cả những đầu bếp
và những người thợ làm bánh đã được thuê ra khỏi nhà, họ chỉ ăn tàn
phá mạt gia sản nhà chủ của cô mà thôi, cô bảo thế.
Món bánh lefser được đặt cạnh
nhau mà chẳng có mật đường ở giữa, và cô gái dùng mỡ thay vì bơ. Cô
tự chia phần bánh, và gói chúng vào những hộp đựng thức ăn.
Chưa bao giờ người lái buôn thấy
công việc nội trợ nặng nề được sắp xếp một cách chóng váng đến
thế. Ông hoàn toàn kinh ngạc. Và ông thực sự bối rối khi Toad đưa ông
vào phòng chứa hàng, chỉ cho ông
thấy đã tiêu tốn ít như thế nào, và những bộ vai cừu xông
khói, những chiếc đùi lợn muối đã được treo thành từng hàng trên rui
nhà ra sao.
“Miễn là mọi việc cứ tiếp tục
giống như thế này,” ông bảo, “cô ta sẽ có quyền điều hành công việc
nội trợ như mẹ bọn trẻ,” vì bà vợ ông lúc này đang nằm ốm trên
giường.
Vào kỳ lễ Giáng sinh, Toad
nướng và quay, và xẻ mọi thứ thật đẹp mắt đến nỗi những người
giúp việc hầu như muốn nhai cả thìa gỗ và gặm luôn cả xương.
Người lái buôn chưa bao giờ nhìn
thấy những tảng thịt bê mập mạp, những miếng thịt heo, những cái
bánh lefser đầy mật đường và bơ, những cái bánh molje và
khẩu phần ăn tuyệt diệu đến thế cho những thực khách đến dự lễ
Giáng sinh tại nhà ông năm đó.
Rồi ông choàng tay cô, và họ
cùng đi xuống cửa hàng.
Cô có thể lấy bất cứ thứ gì,
cả những chiếc váy, khăn choàng cổ và các thứ trang phục khác, để
cô ăn vận và đi lại như thể chính cô là bà chủ, và cô có thể dùng
bao nhiêu chuỗi hạt và tơ lụa tùy ý thích. Muốn thứ gì cô sẽ có
thứ đó.
Nhưng khi viên quản gia và người
từ giữ nhà thờ ngồi đánh bài, và Toad vào để trải khăn bàn, họ như
muốn bật ngửa khỏi ghế. Họ chưa bao giờ trông thấy một cảnh tượng
như thế. Toad đã khoác vào người mọi kiểu khăn choàng màu mè, và
đính vào đầu tóc mình đủ các ruy băng xanh dương, vàng và xanh lá
đến nỗi trông nó như đuôi của một
con ngựa kéo xe đỏm dáng. Nhưng họ không nói gì cả, vì thể diện của
người lái buôn, kẻ cho rằng cô ta thông minh và cứ cho gọi cô ta liên
tục.
Và họ buộc phải thú nhận rằng
cô ta không chừa cả thịt, bia hay rượu mạnh. Vào buổi chiều thứ ba,
khi họ nằm say mèm như những khúc gỗ, cô bế bổng họ đến giường như
thể họ là những em bé còn đang bú tí.
Mọi việc cứ thế tiếp diễn,
với tiệc tùng và vui chơi, cho tới ngày thứ hai mươi sau lễ Giáng
sinh, và cả sau đó.
Cô nàng Toad thường cười ngớ
ngẩn và nhìn chòng chọc quanh phòng, và bất cứ khi nào mọi người
không cười hay đùa cợt vui vẻ với cô, cô sẽ đứng ngay giữa sàn nhà,
xoay người vòng vòng với mọi thứ nữ trang của mình để thu hút sự
chú ý, và bảo rằng: “Em đây!”
Khi thực khách rời khỏi căn
nhà, họ phải thừa nhận rằng người lái buôn đúng khi bảo là một
người hầu như thế không phải bất cứ ngày nào cũng có thể vớ được.
Nhưng những ngư dân đi đánh cá
cho người lái buôn, và được nhận trước phần thực phẩm dự trữ đã
sớm nhận ra rằng Toad cũng kiểm soát cả cửa tiệm và những kho hàng.
Mọi việc diễn ra đúng như mong
đợi. Thực phẩm dự trữ của họ ít đi, và họ phải quay về nhà ngay
khi cá tuyết đang cắn câu nhiều nhất, trong khi những ngư dân khác giong
buồm đi xa hơn và kiếm được những mẻ cá hàng đầu.
Người lái buôn có lẽ đã bị
tăng huyết áp vào ngày ông nhìn thấy những con thuyền của mình nằm
trống không gần chiếc cầu khi đang vào mùa đánh cá cao điểm. Nhân công
của ông đang xếp thành một hàng đi vào cửa tiệm, dẫn đầu bởi người
ngư dân cao tuổi nhất, người đốc công. Họ đến để than phiền với ông.
Thực phẩm được gói vào hộp và
giỏ của họ, họ bảo, không thể gọi là thức ăn của con người được.
Món bánh lefser cứng đến nỗi họ phải nhai trệu trạo cả ngày, trong
bánh chỉ có mỡ ôi, hiếm hoi mới có một mẫu thịt lợn muối, còn vai
cừu xông khói thì mỗi người chỉ cắn một lát mỏng đã chạm tới
xương.
Người lái buôn lao như tên bắn
vào phòng chứa hàng.
Nhưng về phần Toad, cô đập tay
lên đầu và bảo rằng chính ông, phải lo liệu để đối mặt với những
phí tổn nặng nề để mua lưỡi câu và giỏ đựng cá, lưới và dây câu,
không cần phải đưa bơ tươi thịt muối, bánh lefser và cà phê vào việc
thương lượng. Họ không nhất thiết phải chết đói khi họ có cả khối
cá trên biển ngay bên dưới mũi của họ, cô bảo.
Và rồi cô trao cho ông, để làm
mẩu, một cá bánh lefse mà cô đã tẩm bơ và mật, để ông nếm thử. Ông
ăn ngấu nghiến, tới nỗi mật trào ra hai khoé miệng của ông. Thứ bánh
lefser ngon lành như thế ông chưa từng ăn bao giờ trước đó.
Thế là người lái buôn thay đổi
ý định.
Ông đỏ mặt như một con gà tây
trống; Thế là mọi người rời khỏi cửa hàng. Và già Thore, người cầm
lái con thuyền lớn, bị sa thải.
Thế nhưng Kjel, người chăn gia
súc, đã nấp ở cửa ra vào khi cuộc đình công diễn ra, khi người lái buôn
đang la lối chửi rủa dưới sân. Kjel đứng đó và nhìn vào cái cửa sổ
nhỏ. Ông ta trông thấy bà chủ, người chưa rời khỏi giường trong suốt
chín tuần qua, đang bước tập tễnh và nhìn chằm chằm ra cửa sổ.
Bà ta có vẻ khủng khiếp, la
hét và vẫy đôi bàn tay gầy khi nhìn thấy người đốc công già của họ
bị đuổi việc, đang kéo rê cái mũ trong đôi tay như thể ông ta loạn
trí.
Nhưng bà không dám la lên lời
nào để an ủi ông ta, vì Toad đã đứng đó, to lớn vạm vỡ, ở cửa
phòng chứa hàng với một đĩa bánh molje trong tay, và đang giơ
nắm đấm về phía ông ta.
Lúc đó Kjel cũng muốn khóc...
Cái con nhỏ Toad đó sẽ không thể vỗ béo với bánh molje lâu hơn trong
nhà của họ, nếu ông biết lý do vì sao, ông ta nghĩ thầm.
Từ đó trở đi, Kjel theo dõi Toad
thật sát sao. Có nhiều chuyện xảy ra mà ông không thể hiểu được ra
sao cả.
Gần tới mùa xuân, khi mọi người
dựng cột buồm lên chiếc du thuyền to mới sẽ thực hiện chuyến thương
vụ đầu tiên tới Bergen, người lái buôn vui mừng đến nỗi ông cứ chạy
lên chạy xuống, từ chiếc cầu tới nhà, suốt cả ngày. Ông chưa bao giờ
hình dung được rằng con thuyền hóa ra lại đẹp đẽ và oai vệ đến thế.
Khi họ đã chuẩn bị xong hệ
thống ròng rọc kéo buồm và các dây chằng, và đang căng buồm trên
thuyền lên, người lái buôn xoay quanh gót chân và bẻ tay. “Cô nàng Toad
đó sẽ đi cùng mình tới Bergen.”
Ông ta nói...”Cô ta chưa bao giờ nhìn thấy thị trấn, thật tội! Trong
khi đó mẹ bọn trẻ đã tới đó ba lần.”
Nhưng với Kjel, dường như ông
nhìn thấy trong đó nhiều điều hơn những người khác thấy.
Còn với Toad, khi nghe thấy cô
sẽ được đi Bergen.
Cô thuờng xuyên quậy tung cả ngôi nhà lên. Trong cả cửa tiệm không có
thứ gì đủ tốt cho cô cả; không có ngăn kệ nào mà cô không lục tung để tìm các
thứ trang phục lấp lánh nhất.
Vào buổi tối, khi mọi người đã
lên giường nghỉ ngơi, cô lùng khắp của tiệm với một ngọn đèn.
Kjel, người rất ít ngủ, thức
giấc và theo dõi cô một lúc, nhìn cô qua khe hở của cánh cửa.
Ông trông thấy cô cắt nhỏ những
thứ thức ăn và đặt hết miếng này lên miếng nọ, bánh lefser và bánh
ngọt, thịt heo muối và thịt bê cuộn chả, vào một cái rương lớn mà
cô giấu ở phía sau những thùng cá trích. Và cứ thế, buổi tối cuối
cùng trước khi họ khởi hành đến Bergen, cô đã nhét đầy thức ăn vào
rương đến nỗi cô phải ngồi lên nó, với cả sức nặng của cô, để đè
nó xuống.
Cái khoá không móc vào được,
vì cô nhét quá đầy, thế là cô đứng lên và đạp mạnh vào nắp rương
cho tới lúc nó kêu ầm lên, và chắc chắn là cuối cùng cô đã đè được
nó xuống.
Nhưng gót chân mà cô đạp lên nắp
rương trông giống móng của một con ngựa hơn là bàn chân của con người,
Kjel nghĩ thầm.
Thế rồi cô mang cái rương tới cỗ
xe ngựa để lén chở nó tới con thuyền mà không ai trông thấy. Sau đó,
cô đi vào chuồng ngựa và cỡi dây cột ngựa. Nhưng khi đó trong chuồng
ngựa thật là náo nhiệt!
Con ngựa cảm nhận được yêu khí
của Toad, và không cho phép bản thân nó bị buộc vào xe. Toad kéo, kéo
mãi, còn con ngựa thì nhảy ngang và tung vó đá hậu. Cuối cùng, cô
gái cũng sử dụng cú đá hậu của mình, cứ hệt như một con lừa cái.
Kiểu thể thao như thế chưa có
người nào từng chứng kiến.
Và Rjel chạy thẳng về phòng
người lái buôn, đề nghị ông ta đến đó cùng mình.
Dưới ánh trăng, Toad, cô gái đó
và con ngựa xám đang tung cước vào nhau, như đang thi đá, khiến cặp
móng của hai bên va mạnh vào cánh cửa chuồng ngựa. Cặp chân dài của
hai bên sượt vào vách, và những tia lửa toé ra như pháo hoa.
Khi đó, người lái buôn rùng
mình và lảo đảo. Máu vọt ra mũi cũa ông, và Kjel giúp ông đi vào
nhà bếp, nhúng đầu vào bồn nước. Đêm hôm đó người lái buôn không ngủ
được chút nào; ông đi quanh quẩn và nện gót chân cho tới khi cả sàn
nhà kêu ầm lên. Hôm sau, khi trời vừa tờ mờ sáng, ông cử Kjel cầm theo
một đồng vàng đi tìm già Thore, người đốc công. Và ông cũng cử người
theo cách đó tới mọi thủy thủ ở gần đấy.
Người ta bảo Thore mặc áo ngày
lễ vào và chèo chiếc thuyền nhỏ đưa bà chủ tới chiếc du thuyền
trong chuyến cất hàng cuối cùng. Bà sẽ đi cùng ông tới Bergen. Ở đó bà có
thể mua một chiếc váy lụa và một cái khăn choàng, một cái đồng hồ
vàng và dây đeo, và tìm thuê một hầu gái người Bergen.
Trời vẫn còn sáng tinh mơ khi
chiếc du thuyền nằm trong vịnh với dãy cờ phấp phới, sẵn sàng xuất
phát.
Khi họ kéo buồm, cô nàng Toad
nặng nề cục mịch chạy tới, hào hễn băng chiếc cầu với mọi thứ
trang sức, nhẫn trên mọi ngón tay thô kệch, thân hình phủ đầy những
sợi ruy băng xanh, vàng, đỏ.
Cô ta đứng đó, chờ họ quay lại
trên chiếc thuyền nhỏ để đưa cô lên chiếc du thuyền.
Khi họ bắt đầu nhổ neo, và
người lái buôn xuất hiện trên boong với cái ống tẩu to lớn và chiếc
kính viễn vọng, cô mỉm cười, uốn éo nhún nhảy và gọi to: “Em đây!”
Cô tưởng rằng ông ta muốn nhìn
rõ cô hơn qua chiếc ống dòm.
Ngay lúc đó, cô trông thấy bà
chủ đang đứng cạnh ông, trong trang phục du lịch, và hiểu rằng họ ra
đi mà không có cô.
Khi đó, cô dậm chân mạnh đến
nỗi những tấm ván cầu nứt ra bên dưới chân cô. Cô lao người xuống
biển và nắm lấy cái mỏ neo, lôi giật con thuyền lại cho tới khi sợi
dây cáp đứt tung.
Thân hình cô văng lên không trung,
với cặp chân móng ngựa duỗi dài. Nhưng con thuyền đã lướt xa theo
gió, và người lái buôn đứng đó, cười lớn cho tới khi ông ta gần như
sắp rơi ra khỏi thuyền.
[1] Nữ
thần vợ của Thần Núi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét