Thứ Ba, 5 tháng 3, 2013

Những câu chuyện kỳ bí vùng biển bắc 6



JONAS LIE
Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
Dịch theo Bản tiếng Anh của R. Nisber Bain
Tranh Minh họa của Laurence Housman


 



ISAAC VÀ VỊ LINH MỤC
Ở BRÖNÖ


Thuở trước, ở Helgeland có một ngư dân tên là Isaac. Một hôm khi đang trên biển đánh cá bơn, anh cảm thấy có cái gì đó nằng nặng vướng trong lưới. Anh kéo lên và lạ thay, đó là một chiếc ủng đi biển. “Kỳ cục thật!” Anh ta nói, và ngồi nhìn chiếc ủng một lúc lâu. Trông nó giống như chiếc ủng của người em trai anh đã bị chết đắm vào mùa đông trước khi đang trên đường về nhà trong cơn bão lớn.
Ở bên trong chiếc ủng còn có cái gì đó, nhưng anh không dám nhìn vào xem đó là gì, và cũng chẳng biết phải làm gì với chiếc ủng này.
Anh không muốn mang nó về nhà vì sẽ làm mẹ anh hoảng sợ, và cũng không hoàn toàn dứt khoát quăng nó xuống biển trở lại. Thế là anh quyết định sẽ mang nó tới vị linh mục ở Brönö, nhờ ông ta chôn nó theo nghi thức Cơ Đốc Giáo.
“Nhưng ta không thể chôn một chiếc ủng đi biển!” Vị linh mục nói.
Isaac gãi đầu. “Chà, chà!” Rồi anh hỏi cần phải có bao nhiêu phần trong thân thể một người để có thể tiến hành nghi thức chôn theo giáo quy.
“Ta không thể nói chính xác, một cái răng, một ngón tay hay những lọn tóc không đủ để tiến hành tang lễ. Dù sao thì cũng cần có một cái gì còn lại đủ để người ta thấy rằng trong đó đã từng có một linh hồn. Nhưng theo Thánh kinh thì phải có trên hai ngón chân trong chiếc ủng! Chà, điều này không thể xảy ra!”
Thế là Isaac tìm cách lén lút mang chiếc ủng vào chôn tại nghĩa trang nhà thờ. Rồi anh ta trở về nhà.
Anh nghĩ dường như mình đã làm được điều tốt nhất có thể làm. Nói cho cùng,  một phần cơ thể nào đó của người em trai của anh nên được nằm gần ngôi nhà của Chúa hơn là bị quăng xuống biển trở lại.
Nhưng vào mùa thu, khi đang nằm giữa những tảng đá ngầm để săn hải cẩu, nước triều xuống cuốn một đám rong biển to về phía anh, và bằng chiếc mái chèo, anh vớt được trong đó một sợi thắt lưng để đeo dao và một cái vỏ dao trống rỗng.
Anh nhận ra ngay lập tức đó là của người em trai.
Lớp dây tẩm nhựa bao phủ bên ngoài cái vỏ dao đã bị nước biển làm lỏng ra và tẩy trắng, và anh nhớ rất rõ cái hôm người em ngồi làm cái vỏ dao này, anh đã trò chuyện và tranh luận với nó về miếng da để làm thắt lưng mà anh cắt ra từ da một con ngựa già bị giết trước đó ít lâu.
Họ đã cùng mua móc khoá ở cửa tiệm vào ngày Thứ bảy, còn mẹ anh đã bán những quả việt quất, mấy con gà rừng và ba cân len. Họ đã uống ngà ngà tí chút và đã trêu đùa bà hàng cá già ở mũi đất.
Anh mang chiếc thắt lưng về, và không nói gì về nó. Không nên gây ra nỗi đau một cách vô mục đích, anh nghĩ.


Nhưng mùa đông càng kéo dài, anh càng phiền muộn với những nhận thức lạ lùng về những gì vị linh mục đã nói. Anh không biết mình phải làm gì nếu bắt gặp một thứ gì khác, chẳng hạn một chiếc ủng khác, hoặc một vật gì đó mà một con mực ống, một con cá, cua hay cá mập đã cắn nát. Anh bắt đầu thực sự e sợ việc chèo thuyền ra chỗ những tảng đá ngầm.
Thế nhưng, dù là e sợ như thế, anh vẫn thường xuyên bị lôi cuốn tới đó bởi niềm hy vọng sẽ tìm thấy khá nhiều phần còn sót lại để chứng minh với vị linh mục rằng có một linh hồn từng ngụ trong đó, và thuyết phục được ông ta thực hiện việc chôn chúng theo nghi thức.
Anh thường đi lang thang một mình và trầm ngâm suy nghĩ. Và rồi anh có những giấc mơ thật kinh khủng.
Cửa nhà anh bị mở tung ra vào lúc nửa đêm và một cơn gió lạnh cuốn vào, và dường như người em trai của anh đang bò lê quanh phòng, kêu rên  rằng nó muốn có chân trở lại, và những con thủy quái đang hành hạ nó.
Suốt nhiều giờ anh đứng trầm ngâm trên biển, không chú ý tới việc đánh cá mà chỉ nhìn đăm đăm vào một điểm vô hình nào đó.
Cuối cùng, anh có cảm giác như anh đã thật sự mất trí, bởi trách nhiệm lớn lao mà anh tự  nhận lãnh trong việc chôn cái ủng ở sân nhà thờ.
Anh không muốn đem nó quăng trở lại xuống biển, nhưng nó cũng không thể nằm ở sân nhà thờ được.
Trong ý nghĩ của anh, rõ ràng là người em trai của anh không thể nằm giữa những người được ban phép lành. Rồi anh tiếp tục suy nghĩ về tất cả những thứ có khả năng nằm kẹt hoặc trôi nổi đâu đó giữa những tảng đá ngầm.
Thế là anh tới đó, kéo lưới vét tìm. Nhưng tất cả những gì anh kéo lên chỉ là những mớ rong tảo, rêu, những con sao biển  và rác rến.
Một buổi chiều khi anh ngồi gần những tảng đá, cố thử vận may trong việc đánh cá, chợt sợi dây câu có treo hòn đá và những lưỡi câu bị văng lên mạn thuyền, và lưỡi câu cuối cùng móc vào một con mắt của anh. Và anh chèo thuyền về với con mắt còn lại.
Đêm đó, anh nằm với một cuộn băng trên mắt, thao thức vì đau đớn, nghĩ mãi, nghĩ mãi cho tới khi mọi vật đều trở nên đen tối. Có ai trên thế gian này nằm trong cảnh ngộ nan giải như anh không?
Ngay lúc ấy, một việc lạ lùng xảy ra.
Anh nghĩ rằng anh đang nhìn thấy mình chìm sâu dưới lòng biển, những con cá đang nhởn nhơ bơi lội và đớp những sợi rong biển xung quanh dây câu. Chúng đớp mồi, vặn vẹo và cố vùng ra khỏi lưỡi câu, đầu tiên là một con cá tuyết, rồi một con cá tuyết khác, và một con cá bơn. Cuối cùng, một con cá êfin đến, dừng lại một lát và tợp nước như thể nó nếm thử trước khi cắn câu.
Rồi anh nhìn thấy một thứ mà anh không thể rời mắt khỏi nó. Trông nó giống như cái lưng của một người đàn ông mặc áo da, với một ống tay áo dính vào bên dưới cái neo của một con thuyền.
Rồi một con cá lưỡi ngựa bơi đến cắn câu, và mọi thứ trở nên tối đen như mực.
“Anh phải thả con cá lưỡi ngựa ra khi anh kéo câu vào ngày mai.” Có ai đó nói. “Việc tìm kiếm không có tác dụng gì ngoại trừ vào lúc chiều tối, khi thủy triều đang xuống.”
Ngày hôm sau anh ra khơi, nhặt một mảnh đá bia mộ ở khu nghĩa địa để cột vào dây câu, và vào lúc chiều tối, khi thủy triều xuống, anh bắt đầu tìm kiếm.
Ngay lập tức, anh kéo lên một chiếc mỏ neo của một con thuyền, những cái móc của nó móc vào một cái áo khoác da của dân đánh cá, với một cánh tay còn sót lại.
Những con cá đã ăn hết những phần thò ra khỏi tấm áo da.
Anh chèo thuyền thẳng tới nhà thờ gặp vị linh mục.
“Sao! Chôn cất một chiếc áo khoác da cũ đã rách tả tơi à!” Vị linh mục ở Brönö nói.
“Cả chiếc ủng nữa.” Isaac nói.
“Những thứ đồ trôi giạt trên biển nên được trưng bày ở cổng nhà thờ.” Vị linh mục hét to.
Khi đó Isaac nhìn thẳng vào mắt ông ta.
“Chiếc ủng đi biển đã đè nặng lên lương tâm tôi khá đủ rồi.” Anh nói. “Và tôi chắc rằng tôi không muốn phải gánh vác thêm cái áo khoác này nữa.”
“Ta bảo anh rằng ta không muốn làm chuyện phí công vô ích.” Vị linh mục giận dữ nói.
Isaac lại gãi đầu và lẩm bẩm: “Chà, chà!”
Và  anh đành phải ra về. Nhưng Isaac không thể yên tĩnh nghỉ ngơi được, một khối nặng trĩu xuống lòng anh.
Đêm đó, anh lại trông thấy con cá lưỡi ngựa trắng to lớn. Nó bơi vòng vòng một cách chậm chạp và buồn rầu dưới đáy biển. Như thể có một loại lưới vô hình nào đó đang vây quanh nó.  Và nó đang tìm cách để thoát ra khỏi đó.
Isaac nằm, nhìn và nhìn mãi cho tới lúc con mắt mù của anh lại trở nên đau nhức.
Sáng hôm sau, vừa khi anh lại vét tìm và buông những sợi dây câu xuống, một con mực ống khổng lồ kỳ lạ nhô lên và phun một luồng mực đen vào mặt anh.
Một chiều nọ anh để mặc cho con thuyền trôi theo dòng nước ở mé ngoài những tảng đá ngầm nhưng vẫn còn trong phạm vi những hòn đảo. Cuối cùng, nó dừng sựng lại ở một chỗ, như vừa bị buông neo đột ngột, rồi nó nằm im một cách lạ lùng ở đó; trên biển không có một dấu hiệu gì của sự sống, và trên bầu trời không có một bóng chim.
Ngay lập tức một cái bong bóng nước to lớn nổi lên ở trước lá buồm tam giác, và khi nó vỡ ra, anh nghe thấy một tiếng thở dài sâu lắng.
Nhưng Isaac có quan điểm riêng về những gì anh đã nhìn thấy.
“Vị linh mục ở Brönö phải tổ chức lễ tang, hoặc là ta phải biết lý do vì sao.” Anh tự nhủ.
Từ đó trở đi, có tin đồn rằng anh ta có một con mắt thần, có thể nhìn thấy nhiều điều quanh anh mà những người khác không thể thấy.
Anh ta có thể nói đích xác có thể tìm thấy nhiều cá ở đâu giữa những dãi bờ, còn ở đâu không có, và khi mọi người hỏi anh những chuyện như vậy, anh sẽ đáp:
“Nếu tôi không biết, thì em trai tôi biết.”
Một hôm, vị linh mục ở Brönö có việc phải đi dọc theo bờ biển vì việc đạo, và Isaac là một trong những người chèo thuyền đưa ông ta đi.
Họ ra khơi trong một cơn gió mạnh.
Vị linh mục nhanh chóng tới nơi, và không ở lại đó lâu lắm để hoàn tất công việc của ông, vì ngày hôm sau ông phải làm lễ thánh ở ngôi nhà thờ giáo xứ của mình.
“Xem ra cái vịnh hơi bị động.” Ông ta nói. “Và gió sẽ lớn cho tới chiều tối, nhưng vì chúng ta tới đó được, tôi cho là chúng ta cũng có thể quay về được.”
Họ không còn cách xa lắm trên đường quay về thì một cơn gió mạnh nổi lên, nên họ phải giương thêm bốn cánh buồm phụ.
Họ tiếp tục đi, với cơn bão và những bông tuyết lướt qua tai họ, còn những lượn sóng cồn thì dựng cao lên như  những ngôi nhà.
Vị linh mục chưa bao giờ ra ngoài trong một thời tiết như thế. Họ lao thuyền thẳng vào những lượn sóng, rồi lại thoát ra khỏi chúng.
Chẳng bao lâu sau trời tối đen.
Bờ biển trông như  những cánh đồng tuyết trên núi, và những lớp tuyết rơi ngày càng dày đặc.
Isaac vừa giương thêm cánh buồm phụ thứ năm thì một trong những tấm ván ngang ở giữa thuyền bị vỡ, nước biển tràn vào, vị linh mục và đoàn thủy thủ nhảy lên lớp ván phía trên và la hét ầm ĩ khi con thuyền hạ xuống.
“Tôi không nghĩ là biển sẽ nhấn chìm con thuyền này.” Isaac nói, và anh vẫn ngồi yên ở chỗ bánh lái.
Khi mặt trăng ló ra sau màn mưa bụi, họ nhìn thấy một thủy thủ lạ lùng đang đứng giữa những lỗ thông nước bên mạn tàu, và tát nước ra ngoài cũng nhanh như khi nó ập vào thuyền.
“Tôi không biết là tôi đã thuê cái anh chàng ở đàng kia.” Vị linh mục nói. “Tôi thấy hình như anh ta đang tát nước bằng một cái ủng đi biển, hình như anh ta chẳng có quần hay da gì bên trên đôi chân, và phần trên của anh ta hình như chả có gì ngoài một cái áo khoác da trống rỗng.”
“Tôi nghĩ là linh mục đã từng nhìn thấy anh ta rồi.” Isaac nói.
Vị linh mục nổi giận.
“Bởi đạo hạnh của nơi làm việc linh thiêng của tôi, tôi cầu xin anh ta hãy rời khỏi con thuyền.”
“Chà chà!” Isaac đáp. “Và linh mục có thể nói gì về tấm ván đã bị vỡ?”
Vị linh mục chợt nhớ ra hoàn cảnh tai hại mà ông ta đang lâm vào.
“Người này có vẻ rất khoẻ mạnh, và chúng ta rất cần tới anh ta.” Ông ta nói. “Và việc giúp đỡ cho một người phục vụ cho Thượng đế ở giữa biển cả không có gì là tội lỗi. Nhưng tôi muốn biết anh ta muốn được đền bồi lại điều gì.”
Những lượn sóng cồn nổi lên, và cơn bão gầm rú xung quanh ông ta.
“Chỉ cần hai ba xẻng đất lấp lên một cái ủng rách nát và một cái áo khoác da cũ mà thôi!” Isaac đáp.
“Nếu anh có thể lại đi lang thang ở mé dưới này, tôi nghĩ rằng không có gì cản trở anh có thể hưởng hạnh phúc trở lại, với những gì tôi biết, và anh sẽ nhận được đầy đủ những xẻng đất.” Vị linh mục nói với bóng ma thủy thủ.
Ngay khi ông ta nói thế, mặt nước giữa những tảng đá ngầm hoàn toàn tĩnh lặng trở lại, và con thuyền chở vị linh mục nhô lên, cao và khô ráo bên trên bãi cát.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét