PHẦN HAI
LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC
HIỆN ĐẠI:
CÁC TRƯỜNG PHÁI CHÍNH
CHƯƠNG 3
THUYẾT CHỨC NĂNG CẤU
TRÚC,
THUYẾT TÂN CHỨC
NĂNG VÀ THUYẾT XUNG ĐỘT
THUYẾT CHỨC NĂNG CẤU
TRÚC
Lý thuyết chức năng
về sự phân tầng và các Phê phán
Thuyết chức năng cấu
trúc của Talcott Parsons
Thuyết chức năng cấu
trúc của Robert Merton
Các Phê phán chủ yếu
THUYẾT TÂN CHỨC NĂNG
THUYẾT XUNG ĐỘT
Tác phẩm của Ralf
Dahrendorf
Các Phê phán chính
Một thuyết xung đột
hòa hợp hơn
Thuyết chức năng cấu trúc, đặc biệt ở tác phẩm của
Talcott Parsons, Robert Merton và những sinh viên và người kế thừa của họ,
trong nhiều năm là lý thuyết xã hội học thống trị. Tuy nhiên, trong ba thập kỷ
cuối, nó đã bị loại bỏ sâu sắc về tầm quan trọng và, ít nhất ở một số mặt, đã
lùi lại vào lịch sử cận đại của lý thuyết xã hội học. Sự từ bỏ này được phản
ánh trong mô tả của Colomy về thuyết chức năng cấu trúc như là một lý thuyết
truyền thống. Thuyết này bây giờ chủ yếu là có ý nghĩa về mặt lịch sử, dù nó
vẫn còn được chú ý ở vai trò nó đã giữ trong sự nảy sinh của thuyết tân chức
năng trong những năm 1980. Sau khi đưa ra một cái nhìn tổng quát về thuyết chức
năng cấu trúc, chúng ta sẽ thảo luận về thuyết tân chức năng như là một thuyết
kế thừa của nó, cũng như là một ví dụ về phong trào gần đây đang hướng tới một
sự tổng hợp trong phạm vi lý thuyết xã hội học. Tuy nhiên, tương lai của thuyết
tân chức năng cũng nằm trong nghi vấn bởi sự thật là người sáng lập ra nó,
Jeffrey Alexander (Giao tiếp cá nhân) đã đi tới kết luận rằng thuyết tân chức
năng “không còn thỏa đáng đối với tôi nữa”, ông nói, “Giờ đây tôi cách ly mình
khỏi phong trào mà tôi đã khởi đầu.”
Trong nhiều năm, sự
thay thế chủ yếu cho thuyết chức năng cấu trúc là thuyết xung đột. Chúng ta sẽ
thảo luận về phiên bản truyền thống - thuyết xung đột của Ralf Dahrendorf, cũng
như một nỗ lực tổng hợp và hòa hợp gần đây hơn của Randall Collins.
Trước khi quay sang các
đặc điểm của thuyết chức năng cấu trúc và thuyết xung đột, chúng ta cần, theo
Thomas Bernard, đặt các lý thuyết này trong một bối cảnh rộng hơn của sự tranh
chấp giữa các lý thuyết liên ứng (một trong đó là thuyết chức năng cấu trúc) và
các lý thuyết xung đột (một trong số đó là thuyết xung đột sẽ được thảo luận ở
chương này). Các lý thuyết liên ứng (consensus theories) cùng có chung các quy chuẩn
và giá trị có tính chất chủ yếu đối với xã hội, tập trung vào trật tự xã hội
dựa trên cơ sở các thỏa thuận ngầm, và xem các biến đổi xã hội như đang diễn ra
theo một cung cách chậm và có trật tự. Trái lại, các lý thuyết xung đột nhấn
mạnh sự thống trị của một số nhóm xã hội đối với các nhóm khác, xem trật tự xã
hội dựa trên cơ sở sự lôi kéo và kiểm soát của nhóm thống trị, và xem biến đổi
xã hội như đang diễn ra một cách nhanh chóng và hỗn loạn khi mà các nhóm cấp
dưới lật đổ các nhóm thống trị.
Mặc dù các tiêu chí này
đã định nghĩa một cách rộng rãi các khác biệt chủ yếu giữa các lý thuyết xã hội
học chức năng cấu trúc và thuyết xung đột, quan điểm của Bernard là sự bất
tương thích rộng lớn hơn nhiều và đã “là một tranh chấp định kỳ đã tạo ra nhiều
hình thức khác biệt nhau xuyên suốt trong lịch sử tư duy Phương Tây.” Bernard
truy nguyên cuộc tranh chấp tới thời Cổ Hy Lạp (và các khác biệt giữa Platon
(liên ứng) và Aristote (xung đột) và xuyên suốt qua lịch sử của triết học. Sau
đó, trong xã hội học, mối tranh chấp được nối kết (các lý thuyết gia xung đột
được liệt kê trước) với Marx và Comte, Simmel và Durkheim, Dahrendorf và
Parsons. Chúng ta đã xem xét sơ lược các tư tưởng của hai cặp nhà xã hội học
đầu tiên (dù, như đã thấy, tác phẩm của họ rộng hơn là chỉ bao hàm trong cái
nhãn hiệu các lý thuyết gia “xung đột” hay “liên ứng”); trong chương này chúng
ta khảo sát thuyết xung đột của Dahrendoft và thuyết liên ứng của Parsons,
trong số những người khác.
Dù chúng ta đã nhấn
mạnh các khác biệt giữa thuyết chức năng cấu trúc và thuyết xung đột, chúng ta
không nên quên rằng chúng có những điểm tương tự quan trọng. Trong thực tế,
Bernard lý luận rằng “các lĩnh vực có sự tương thích giữa chúng ở mức độ cao
hơn các lĩnh vực không tương thích”. Ví dụ, cả hai đều ở cấp độ các lý thuyết
vĩ mô, quan tâm đến các cấu trúc và thiết chế xã hội vĩ mô. Kết quả là, theo
cách nói của George Ritzer, cả hai lý thuyết đều tồn tại trong cùng một mô hình
(“sự kiện xã hội”) xã hội học.
THUYẾT CHỨC NĂNG CẤU
TRÚC
Robert Nisbet lý luận rằng thuyết chức năng cấu trúc,
“không nghi ngờ gì nữa, là thể lý thuyết quan trọng nhất trong các môn khoa học
xã hội trong thế kỷ hiện nay”. Kingsley David đưa ra lập trường rằng thuyết
chức năng cấu trúc, ở mọi dữ liệu và mục tiêu, đồng nghĩa với xã hội học. Alvin
Gouldner có quan điểm hoàn toàn giống khi ông ta tấn công xã hội học Phương Tây
thông qua phân tích phê phán các lý thuyết chức năng cấu trúc của Talcott
Parsons.
Bất chấp vị trí lãnh đạo không còn ngờ gì của nó trong
hai thập kỷ sau Thế chiến II, thuyết chức năng cấu trúc đã bị từ bỏ ý nghĩa
quan trọng như là một lý thuyết xã hội học. Ngay cả Wilbert Moore, một người
lúc đầu gắn bó với thuyết này, đã lý luận rằng nó “đã trở nên một thứ lúng túng
rối ren trong lý thuyết xã hội học đương đại”. Hai nhà quan sát thậm chí còn
phát biểu: “Như vậy, thuyết chức năng với ý nghĩa một lý thuyết diễn giải,
chúng tôi cảm thấy, ‘đã chết’, và các nỗ lực tiếp theo nhằm sử dụng thuyết chức
năng như một sự diễn giải lý thuyết cần bị từ bỏ để ủng hộ cho các viễn cảnh lý
thuyết hứa hẹn hơn”. Nicholas Demerath và Richard Peterson, có một quan điểm
thực chứng hơn, lý luận rằng thuyết chức năng cấu trúc không phải là một cái
mốt đã qua. Tuy nhiên, họ thừa nhận rằng nó có vẻ như tiến hoá thành một lý
thuyết xã hội học khác, cũng như chính bản thân nó đã tiến hoá từ một thể có
sớm hơn (xem phần kế tiếp). Sự ra đời của thuyết tân chức năng (sẽ thảo luận
sau ở chương này) dường như hỗ trợ cho quan điểm của Demerath và Peterson hơn
là các viễn cảnh tiêu cực của Turner và Maryansky.
Trong thuyết chức năng cấu trúc, các thuật ngữ cấu
trúc và chức năng không cần sử dụng trong
một liên kết, dù về hình thức, chúng có sự kết nối. Chúng ta có thể nghiên cứu
các cấu trúc của xã hội mà không cần quan tâm đến các chức năng (hay hệ quả)
của chúng hoặc của các cấu trúc khác. Tương tự, chúng ta có thể khảo sát các
chức năng của một loạt các quá trình xã hội mà không cần khoác một hình thức
cấu trúc. Tuy vậy, mối quan tâm đến cả hai đã định tính cho thuyết chức năng
cấu trúc. Dù nó có nhiều hình thức khác nhau, chức năng xã hội luận (societal
Functionalism) là cách tiếp cận thống trị trong số các lý thuyết gia chức năng
cấu trúc và do đó là tiêu điểm của chương này. Mối quan tâm cơ bản về thuyết chức
năng xã hội là các cấu trúc và thể chế vĩ mô của xã hội, các tương quan của
chúng và các ảnh hưởng kềm hãm của chúng đối với tác nhân hành động (actor).
Lý thuyết chức năng
về sự phân tầng và các Phê phán
Lý thuyết chức năng về sự phân tầng như nối ráp bởi
Kingsley Davis và Wibert Moore có lẽ là tác phẩm được biết nhiều nhất về lý
thuyết chức năng cấu trúc. David và Moore làm rõ rằng họ xem sự phân tầng xã
hội vừa có tính chung nhất, vừa có tính tất yếu. Họ lý luận rằng chưa hề có xã
hội không phân tầng, hoặc là hoàn toàn phi giai cấp. Theo quan điểm của họ, sự
phân tầng là tất yếu mang tính chức năng. Mọi xã hội đều cần một hệ thống như
thế, và nhu cầu này đưa tới sự tồn tại một hệ thống phân tầng. Họ cũng xem một
hệ thống phân tầng là một cấu trúc, chỉ ra rằng sự phân tầng không chỉ nói tới
các cá thể trong hệ thống phân tầng mà đúng hơn là nói tới một hệ thống của các
vị trí. Họ tập trung vào việc các vị trí xác định đã đưa tới cùng với chúng các
mức độ uy tín khác nhau như thế nào, chứ không phải vào việc các cá thể đã
chiếm lĩnh các vị trí xác định như thế nào.
Đưa ra tiêu điểm này, vấn đề chức năng chủ yếu là một
xã hội thúc đẩy và xếp đặt mọi người vào vị trí “thích hợp” của họ trong một hệ
thống phân tầng ra sao. Điều này được giảm thiểu xuống thành hai vấn đề. Đầu
tiên, một xã hội đã thâm nhập vào các cá thể “thích hợp” niềm mong ước được giữ
các vị trí xác định như thế nào? Thứ hai, một khi mọi người đã ở vị trí đúng,
xã hội thâm nhập vào họ mong ước được thoả mản mọi đòi hỏi của các vị trí đó
như thế nào?
Sự
xếp đặt vị trí xã hội thích hợp là một vấn đề cơ bản vì ba lý do cơ bản. Đầu
tiên, có một số vị trí dễ chịu khi chiếm giữ hơn một số khác. Thứ hai, có một
số vị trí quan trọng cho sự tồn tại của xã hội hơn một số khác. Thứ ba, các vị
trí xã hội khác nhau đòi hỏi các tài năng và năng lực khác nhau.
Dù
những vấn đề này áp dụng đối với mọi vị trí xã hội, Davis và Moore quan tâm tới
các vị trí có chức năng quan trọng hơn trong xã hội. Các vị trí có thứ hạng cao
trong hệ thống phân tầng được cho là ít dễ chịu hơn khi chiếm giữ nhưng quan
trọng hơn cho sự tồn tại xã hội và đòi
hỏi những tài năng và khả năng lớn nhất. Ngoài ra, xã hội phải đáp ứng sự đền
bù thỏa đáng cho các vị trí này để có đủ người tìm cách chiếm giữ chúng, và các
cá nhân đã thực hiện việc chiếm giữ chúng sẽ làm việc một cách cần mẫn. Sự
nghịch đảo bao hàm trong ý của Davis và Moore nhưng không được đưa ra thảo
luận. Nghĩa là, các vị trí có thứ hạng thấp trong hệ thống phân tầng được giả
sử là nhiều dễ chịu hơn và ít quan trọng hơn, ít đòi hỏi các phẩm chất về khả
năng và tài trí. Xã hội cũng ít cần phải chắc chắn rằng các cá thể chiếm giữ
các vị trí này và thực hiện chúng với sự mẫn cán.
Davis
và Moore không lý luận rằng một xã hội phát triển một cách có ý thức một hệ
thống phân tầng nhằm chắc chắn rằng các vị trí có thứ hạng cao đã được phủ kín,
và phủ kín một cách tương xứng. Đúng hơn, họ làm sáng tỏ rằng sự phân tầng là
một “công cụ tiến hóa vô ý thức”. Tuy nhiên, nó là một công cụ mà mọi xã hội
đều cần, và phải phát triển để tồn tại.
Để
chắc rằng mọi người chiếm giữ các vị trí thứ hạng cao, xã hội phải, theo quan
điểm của Davis và Moore, cung cấp các cá thể này các đền bù khác nhau, bao gồm
các ưu thế lớn, lương cao, và sự tiện nghi thỏa đáng. Ví dụ, để bảo đảm có đủ
bác sĩ cho xã hội chúng ta, chúng ta cần trao cho họ các đền bù trên và khác
nữa. Davis và Moore hàm ý rằng chúng ta không thể mong chờ mọi người thực hiện
quá trình học tập y khoa “nhọc nhằn” và “mắc mỏ” nếu chúng ta không trao cho họ
các đền bù như thế. Ẩn ý này dường như là những người ở vị trí hàng đầu phải
nhận được các đền bù cho công việc họ thực hiện. Nếu không, các vị trí này có
thể không đủ người hoặc không được phủ kín và xã hội sẽ sụp đổ.
Thuyết
chức năng cấu trúc về sự phân tầng đã chịu nhiều sự phê phán từ khi nó được
xuất bản năm 1945 (xem Tumin, 1953, người phê phán quan trọng đầu tiên; Huaco,
1966, một tóm tắt tốt các phê phán ở thời bấy giờ ).
Một
phê phán cơ bản là thuyết chức năng về sự phân tầng đơn giản chỉ duy trì vị trí
đặc quyền của những người đã có sẵn quyền lực, ưu thế và tiền của. Nó làm điều
này bằng cách lý luận rằng những người này xứng đáng với các đền bù của họ;
thật ra họ cần được trao cho những đền bù như thế là vì ích lợi của xã hội.
Thuyết
chức năng cũng có thể bị phê phán vì đã giả đoán rằng chỉ đơn giản bởi vì một
cấu trúc xã hội phân tầng đã tồn tại trong quá khứ, nó phải tiếp tục tồn tại
trong tương lai. Rất có thể là các xã hội tương lai sẽ được tổ chức theo những
cách khác, không có phân tầng.
Ngoài
ra, nó đã lý luận rằng ý tưởng về các vị trí chức năng trong xã hội có tầm quan
trọng khác nhau là khó mà tán thành được. Có thật những người thu lượm rác ít
quan trọng đối với sự tồn tại xã hội hơn những người hành nghề quảng cáo? Dù
những người thu lượm rác có ưu thế thấp kém và lương thấp, họ thật sự quan
trọng hơn nhiều cho sự tồn vong của xã hội. Ngay cả trong những trường hợp có
thể nói rằng một vị trí mang lại nhiều chức năng quan trọng hơn cho xã hội, sự
đền bù lớn hơn không nhất thiết phải dồn cho vị trí quan trọng hơn. Các cô hộ
lý có thể quan trọng đối với xã hội hơn các diễn viên điện ảnh, nhưng họ ít
quyền lực, ưu thế và thu nhập hơn các diễn viên nhiều lần.
Có
thật là khan hiếm những người có khả năng chiếm giữ các vị trí ở cấp độ cao?
Trong thực tế, nhiều người bị ngăn trở không có được sự đào tạo cần thiết để
chiếm giữ các vị trí ưu thế, ngay cả khi họ có khả năng. Ở nghề y, ví dụ, có
một nỗ lực bền bĩ để giới hạn các bác sĩ thực hành. Nói chung, nhiều người có
khả năng không bao giờ có được cơ hội để chứng tỏ rằng họ có thể nắm giữ các vị
trí có thứ hạng cao, ngay cả khi có một nhu cầu hiển nhiên đối với họ và sự
cống hiến của họ. Những người đang nắm giữ vị trí cao thường có xu hướng tư lợi
trong việc giữ con số của họ ở mức thấp và quyền lực, thu nhập ở mức cao.
Cuối
cùng, có thể lý luận rằng chúng ta không cần trao cho mọi người quyền lực, ưu
thế và thu nhập để thúc đẩy họ muốn nắm giữ các vị trí cao. Mọi người có thể
được động viên một cách bình đẳng bằng sự hài lòng trong việc làm một công việc
hoặc bởi cơ hội được giúp ích người khác.
Thuyết
chức năng cấu trúc của Talcott Parsons
Trong
đời mình, Talcott Parsons viết một số lượng lớn tác phẩm. Có những khác biệt
quan trọng giữa tác phẩm đầu và về sau của ông. Trong phần này, chúng ta khảo
sát lý thuyết chức năng cấu trúc về sau này của ông. Chúng ta bắt đầu thảo luận
về thuyết này từ bốn yêu cầu bắt buộc đối với mọi hệ thống “hành động”, lược đồ
AGIL nổi tiếng của ông. Sau thảo luận này về bốn chức năng, chúng ta sẽ quay
trở lại phân tích các tư tưởng của Parsons về các cấu trúc và các hệ thống.
AGIL: Một chức năng là “một phức hợp các hoạt động
trực tiếp hướng tới sự gặp gỡ một nhu cầu hay những nhu cầu của hệ thống”. Dùng
định nghĩa này, Parsons tin rằng có bốn yêu cầu tất yếu đối với (đặc điểm của) mọi
hệ thống - sự thích nghi (A), sự đạt được mục tiêu (G), sự hoà hợp (I), và sự
tiềm tàng (L) hoặc sự duy trì khuôn mẫu. Tất cả bốn yếu tố này kết hợp, được
biết với cái tên lược đồ AGIL. Để tồn tại, một hệ thống phải thực hiện bốn chức
năng:
1. Thích nghi (Adaption): Một hệ thống phải đương đầu với
các nhu cầu khẩn thiết của hoàn cảnh bên ngoài. Nó phải thích nghi với môi
trường của nó và làm cho môi trường thích nghi
với các nhu cầu của nó.
2. Đạt được mục tiêu (Goal attainment): Một hệ thống phải xác định và đạt được các
mục tiêu cơ bản của nó.
3. Hòa hợp (Integration): Một hệ thống phải điều hoà mối
tương quan của các thành tố bộ phận. Nó cũng phải điều hành mối quan hệ trong
ba yếu tố chức năng tất yếu còn lại (A, G, L).
4. Sự tiềm tàng (Sự duy trì khuôn mẫu) (Latency): Một hệ
thống phải cung cấp, duy trì và tân tạo
cả động lực thúc đẩy của các cá thể cũng như các khuôn mẫu văn hóa đã
sáng tạo và duy trì động cơ thúc đẩy.
Parsons
thiết kế lược đồ AGIL để sử dụng ở mọi cấp độ trong hệ thống lý thuyết của ông.
Trong phần thảo luận sau đây về bốn hệ thống hành động, chúng tôi sẽ minh họa
cách Parson vận dụng AGIL ra sao.
Thực thể hành vi
(behavioral organism) là hệ thống hành động xử lý chức năng thích nghi bằng
cách điều chỉnh và chuyển hóa thế giới ngoại vi. Hệ thống cá tính (personality
system) thực hiện chức năng đạt tới mục tiêu bằng cách xác định các mục tiêu hệ
thống và huy động các nguồn lực để đạt được chúng. Hệ thống xã hội đối đầu với
chức năng hòa hợp bằng cách kiểm soát
các bộ phận thành tố của nó. Cuối cùng, hệ thống văn hoá thực hiện chức
năng tiềm tàng bằng cách cung cấp cho các tác nhân hành động (actor) các tiêu
chí và các giá trị để thúc đẩy họ hành động. Sơ đồ 3.1 tóm tắt hệ thống hành
động trong phạm vi lược đồ AGIL.
Sơ
đồ 3.1 : Cấu trúc tổng quát của Hệ thống hành động
Hệ thống hành động. Chúng
ta đã sẵn sàng để thảo luận tổng hình của hệ thống hành động Parsons, đó là,
theo nhiều đường lối, một hệ thống các cấp độ của phân tích xã hội (xem phần
Phụ lục). Sơ đồ 3.2 là một phác họa các cấp độ chủ yếu trong lược đồ Parsons.
Sơ
đồ 3.2: Lược đồ Hành động của Parsons
Rõ
ràng là Parsons đã có một lưu ý rành mạch đến “các cấp độ” của phân tích xã hội
cũng như các quan hệ của chúng. Sự xếp đặt thứ bậc rõ ràng, và các cấp độ được
hoà hợp trong hệ thống của Parsons theo hai cách. Đầu tiên, từng cấp độ thấp
cung cấp các điều kiện, năng lượng cần thiết cho các cấp độ cao hơn. Thứ hai,
các cấp độ cao hơn kiểm soát những cấp độ dưới chúng trong hệ thống.
Trong
phạm vi các môi trường của hệ thống hành động, cấp độ thấp nhất, môi trường vật
lý và cơ quan, bao gồm các khía cạnh phi biểu tượng của thực thể con người,
giải phẫu và sinh lý của nó. Cấp độ cao nhất, thực thể cuối cùng, có, như đề
xuất của Jackson Toby, một “ mùi vị siêu hình học”, nhưng Toby cũng lý luận
rằng Parsons “không chỉ tới các xu hướng siêu nhiên nhiều cho bằng tới các xu
hướng phổ quát đối với các xã hội để gọi tên một cách biểu tượng các thể không
xác định, các quan tâm, các thảm kịch của tồn tại loài người đã thách thức cái
ý nghĩa toàn vẹn của tổ chức xã hội”.
Trung
tâm của tác phẩm Parsons được tìm thấy trong bốn hệ thống hành động của ông.
Giả định rằng Parsons làm cho chúng ta thấy liên quan đến các hệ thống hành
động của ông lộ ra một vấn đề về trật tự, vốn là mối quan tâm hàng đầu của ông
và cũng đã trở thành một nguồn cho các phê phán đối với tác phẩm của ông. Vấn
đề Hobbesian về trật tự - cái đã ngăn trở một cuộc chiến tranh xã hội mọi người
chống lại mọi người - mà các nhà triết học trước đã chưa trả lời thỏa đáng cho
Parsons. Parsons tìm ra câu trả lời đối với vấn đề trật tự trong thuyết chức
năng cấu trúc, vận hành theo quan điểm của ông với các tập hợp giả thiết sau
đây:
1. Các hệ thống có trật tự chính xác và sự phụ thuộc liên
đới lẫn nhau giữa các bộ phận.
2. Các hệ thống có xu hướng đi tới một trật tự tự thân duy trì, hoặc tự cân bằng.
3. Hệ thống có thể ở trạng thái tĩnh hoặc có liên quan
tới một tiến trình biến đổi có trật tự.
4. Bản chất của một bộ phận của hệ thống có một tác động
tới hình thức của các bộ phận khác.
5. Các hệ thống duy trì những ranh giới với những môi
trường của chúng.
6. Sự định vị và sự hòa hợp là hai quá trình cơ bản cần
thiết cho một trạng thái cân bằng ấn định của một hệ thống.
7. Các hệ thống có xu hướng đi tới sự tự thân duy trì,
bao gồm sự duy trì các ranh giới và các tương quan của các bộ phận ở ý nghĩa
một tổng thể, kiểm soát các khác biệt đa dạng của môi trường và kiểm soát các
xu hướng biến đổi hệ thống từ bên trong lòng nó.
Các
giả thiết này đưa Parsons tới việc xem phân tích về cấu trúc có trật tự của xã
hội là ưu tiên hàng đầu của ông. Khi thực hiện nó, ông ít quan tâm tới vấn đề
biến đổi xã hội, ít nhất là cho tới cuối sự nghiệp của ông:
Chúng
ta cảm thấy rằng thật là không có tính kinh tế học khi diễn tả các biến đổi
trong các hệ thống khác biệt nhau trước khi các khác biệt tự chúng phân ly và
diễn tả; do đó, chúng ta chọn cách bắt đầu bằng việc nghiên cứu các kết hợp đặc thù của các khác biệt và tiến tới
sự diễn tả tại sao những kết hợp này chỉ biến đổi khi một nền tảng vững chắc
cho điều đó đã được đặt ra.
Parsons
bị phê phán nặng nề vì định hướng tĩnh của ông đến nỗi ông dành ngày càng nhiều
quan tâm để thay đổi; trong thực tế, như chúng ta sẽ thấy, cuối cùng ông tập
trung vào sự tiến hóa của các xã hội. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhiều nhà
quan sát, ngay cả tác phẩm của ông về biến đổi xã hội cũng có xu hướng mang tính chất tĩnh tại và cấu trúc khá cao.
Khi đọc tới hệ thống bốn hành động trên, độc giả cần
ghi nhớ rằng chúng không tồn tại trong thế giới thực tiễn, mà chỉ là những công
cụ để phân tích thế giới thực tiễn.
Hệ thống xã hội. Khái niệm của Parsons
về hệ thống xã hội bắt đầu ở cấp độ vi mô với sự tương tác giữa cái tôi/bản ngã
(ego) và cái thay thế cho cái tôi (alter ego), được xác định là hình thức nguyên
sơ nhất của hệ thống xã hội. Ông dành ít thời gian cho việc phân tích ở cấp độ
này, dù ông lý luận rằng các đặc tính của hệ thống tương tác này hiện diện
trong các hình thái phức tạp hơn của hệ thống xã hội. Parsons định nghĩa một hệ
thống xã hội như thế này:
Một hệ thống xã hội chứa đựng một
đa số những tác nhân hành động cá biệt có sự tương tác với nhau trong một trạng
huống mà ít nhất cũng có một khía cạnh vật lý hoặc môi trường, các tác nhân
hành động bị thúc đẩy trong phạm vi một xu hướng đi tới “tính lạc quan của sự
ban thưởng” và mối quan hệ của họ với môi trường, bao gồm từng mỗi một cá thể,
được xác định và dàn xếp trong phạm vi của một hệ thống có cấu trúc văn hóa và
có chung các biểu tượng.
Định nghĩa này tìm cách xác
định một hệ thống xã hội trong phạm vi các khái niệm chủ yếu trong tác phẩm của
Parsons - tác nhân hành động (actor), sự tương tác (interaction), môi trường
(environment), tính lạc quan của sự ban thưởng (optimization of gratification)
và văn hóa (culture).
Dù tận tâm trong việc nhìn
nhận hệ thống xã hội như là một hệ thống tương tác, Parsons không coi tương tác
là đơn vị cơ bản trong nghiên cứu hệ thống xã hội của ông. Đúng hơn, ông dùng
phức hợp địa vị-vai trò (status-role) như là đơn vị cơ bản của hệ thống. Đây
không phải là một khía cạnh của các actors, mà cũng không phải là một khía cạnh
của sự tương tác, mà đúng hơn là một
thành tố mang tính cấu trúc của hệ thống xã hội. Địa vị chỉ một vị trí cấu trúc
trong lòng hệ thống xã hội, và vai trò là cái mà actor thực hiện ở một vị
trí như thế, nhìn trong ngữ cảnh về tầm quan trọng chức năng của nó đối với hệ
thống lớn hơn. Actor được nhìn nhận không phải trong phạm vi các ý nghĩ và hành
động mà thay vì thế (ít nhất trong phạm vi của vị trí trong hệ thống xã hội)
không là cái gì cả ngoài một tập hợp các địa vị và các vai trò.
Trong
phân tích về hệ thống xã hội, Parsons cơ bản chú ý tới các thành tố cấu trúc
của nó. Ngoài mối quan tâm đến địa vị-vai trò, Parsons chú ý tới các thành tố
vĩ mô của các hệ thống xã hội như các tập thể, các tiêu chí và các giá trị. Tuy
nhiên, trong phân tích hệ thống xã hội của ông, Parsons không chỉ đơn giản là một nhà cấu trúc luận
mà còn là một nhà chức năng luận. Do vậy ông gạt bỏ đi một số điều kiện tiên quyết về chức năng của hệ
thống xã hội. Thứ nhất, các hệ thống xã hội phải được cơ cấu để cho chúng có
thể vận hành tương thích với các hệ thống khác. Thứ hai, để tồn tại, hệ thống
xã hội phải có sự hỗ trợ cần thiết từ các hệ thống khác. Thứ ba, hệ thống phải
gặp gỡ một tỷ lệ quan trọng các nhu cầu của tác nhân hành động của nó. Thứ tư,
hệ thống phải gợi ra được sự tham gia tương xứng của các thành viên của nó. Thứ
năm, nó phải có ít nhất một sự kiểm soát tối thiểu đối với hành vi phá hủy chủ
yếu. Thứ sáu, nếu xung đột trở nên mang tính phá hủy thật sự, nó phải được kiểm
soát. Cuối cùng, một hệ thống xã hội đòi hỏi một ngôn ngữ để tồn tại.
Hiển nhiên trong thảo luận
của Parsons về các điều kiện tiên quyết mang tính chức năng của hệ thống xã
hội, tiêu điểm của ông là các hệ thống vĩ mô và mối tương quan giữa chúng với
nhau. Ngay cả khi ông nói về tác nhân hành động, nó cũng đến từ quan điểm của
hệ thống. Thảo luận cũng đã phản ánh mối quan tâm của Parsons tới sự duy trì
trật tự trong hệ thống xã hội.
Tuy
nhiên, Parsons không hoàn toàn bỏ qua vấn đề mối tương quan giữa các tác nhân
hành động và các cấu trúc xã hội trong thảo luận về hệ thống xã hội của ông.
Thực sự, ông gọi sự hòa hợp các khuôn mẫu giá trị và các xu hướng nhu cầu là
“định lý động lực cơ bản của xã hội học”. Mối quan tâm trung tâm của ông với hệ
thống xã hội mang tính chủ chốt trong sự hòa hợp này là các quá trình chủ quan
hóa và xã hội hóa. Nghĩa là Parsons chú ý tới các cách thức mà các tiêu chí và
giá trị của một hệ thống được chuyển giao cho các tác nhân hành động trong lòng
hệ thống. Trong một tiến trình xã hội hóa thành công, các tiêu chí và giá trị
này được chủ quan hóa; nghĩa là chúng trở thành một phần của “lương tri” của
các tác nhân hành động. Kết quả là, khi theo đuổi các quan tâm riêng của họ,
các tác nhân hành động trong thực tế đã phục vụ cho các quan tâm của toàn thể
hệ thống. Parsons viết: “Sự kết hợp các
khuôn mẫu định hướng giá trị đạt được (bởi tác nhân hành động trong sự xã hội
hóa) phải ở một mức độ vô cùng quan trọng là một chức năng của vai trò cấu trúc
cơ bản và là các giá trị hàng đầu của hệ thống xã hội.”
Nói chung, Parsons giả
thiết rằng các tác nhân hành động thường là các người hưởng thụ thụ động trong
tiến trình xã hội hóa. Trẻ con học không chỉ để hành động ra sao mà cả các tiêu
chí và giá trị, luân lý của xã hội. Sự xã hội hóa được khái niệm hóa như là một
tiến trình bảo thủ trong đó các xu hướng nhu cầu (tự bản thân chúng được đúc
nắn bởi xã hội) đưa trẻ con tới với hệ thống xã hội, và nó cung cấp các phương
tiện nhờ đó các xu hướng nhu cầu có thể được đáp ứng. Không có hoặc có rất ít
chỗ cho sự sáng tạo; nhu cầu đối với sự ban thưởng trói buộc trẻ con vào hệ
thống như nó vẫn tồn tại. Parsons xem sự xã hội hóa như là một kinh nghiệm suốt
đời. Bởi vì các tiêu chí và giá trị in sâu trong thời thơ ấu có xu hướng trở
nên rất phổ biến, chúng không chuẩn bị trẻ em cho một loạt các hoàn cảnh cụ thể
mà chúng sẽ đối mặt lúc trưởng thành. Như vậy, xã hội hóa phải được bổ sung
trong suốt vòng đời với một loạt các kinh nghiệm xã hội hóa cụ thể hơn. Dù nhu
cầu này đến về sau trong đời, các tiêu chí và các giá trị học hỏi được trong
thời thơ ấu có xu hướng bền vững và, với một chút động viên nâng đỡ nhẹ nhàng,
có xu hướng tồn tại mạnh mẽ suốt đời.
Dù sự tuân thủ được gây ra
bởi sự xã hội hóa kéo dài cả một đời, có một sự khác biệt cá thể rất rộng lớn
đa dạng trong hệ thống. Vấn đề là: Tại sao điều này không chỉ bình thường là
vấn đề chủ yếu đối với hệ thống xã hội, hy sinh nhu cầu của nó cho trật
tự? Một mặt, một số cơ cấu kiểm soát xã
hội có thể được sử dụng để kéo dài sự
tuân thủ. Tuy nhiên, ở mức độ quan tâm của Parsons, sự kiểm soát xã hội hoàn
toàn là một đường vạch tự vệ thứ hai. Một hệ thống vận hành tốt nhất khi kiểm
soát xã hội chỉ được sử dụng một cách dè sẻn. Mặt khác, hệ thống phải có khả năng chịu một số dao dộng biến đổi, một số lệch lạc. Một hệ
thống xã hội linh hoạt mạnh hơn là một xã hội dễ tan vỡ do không chấp nhận sự lệch lạc. Cuối cùng, hệ
thống xã hội cần cung cấp một loạt các cơ hội vai trò cho phép các tính cách
khác nhau thể hiện chúng mà không đe dọa đến sự hòa hợp của hệ thống.
Sự xã hội hóa và kiểm soát
xã hội là các cơ cấu chủ yếu cho phép hệ thống xã hội duy trì sự cân bằng của
nó. Các tính cách khuôn mẫu và lệch lạc nhất có tính thích nghi, nhưng nhiều
hình thái cực đoan hơn phải cần đến các cơ cấu cân bằng. Do vậy, trật tự xã hội
được xây dựng nên trong hệ thống xã hội của Parsons:
Không cần đến kế hoạch tự
chủ của bất kỳ ai, kiểu hệ thống xã hội của chúng tôi đã được phát triển, và
tương ứng với những hệ thống khác, các cơ cấu trong vòng giới hạn, có khả năng
dự báo và tái lập các xu hướng lệch lạc nằm khuất sâu để đi vào vòng chu kỳ
khắc nghiệt đã đặt nó ra ngoài sự kiểm soát của sự chấp nhận-không chấp nhận
bình thường và các tưởng thưởng-trừng phạt.
Một
lần nữa, quan tâm chính của Parsons là tổng thể hệ thống hơn là tác nhân hành
động trong hệ thống- hệ thống kiểm soát actor ra sao, chứ không phải actor đã
sáng tạo và duy trì hệ thống ra sao. Điều này phản ánh sự tận tâm của Parsons
về vấn đề này theo một định hướng chức năng cấu trúc.
Dù ý tưởng về một hệ thống
xã hội (social system) bao gồm tất cả mọi kiểu hình các tập thể, một hệ thống
xã hội đặc thù và vô cùng quan trọng là xã hội (society), “một tập hợp tương
đối tự chủ mà các thành viên của nó có khả năng đáp ứng tất cả các nhu cầu cá
nhân và tập thể của họ, và sống hoàn toàn trong phạm vi cơ cấu của nó”. Là một
nhà chức năng cấu trúc, Parsons phân biệt trong bốn cấu trúc, hoặc tiểu hệ
thống, trong xã hội trong phạm vi các chức năng (AGIL) chúng thực hiện (xem Sơ
đồ 3.3). Kinh tế là tiểu hệ thống thực hiện chức năng đối với xã hội về việc
thích nghi với môi trường thông qua lao động, sự sản xuất và phân phối. Qua các
công việc này, nền kinh tế thích nghi môi trường với các nhu cầu của xã hội, và nó giúp xã hội thích nghi với
các thực tại ngoại vi này. Chính trị (hoặc hệ chính trị) thực hiện chức năng
đạt được mục tiêu bằng cách theo đuổi các đối tượng thuộc về xã hội, các tác
nhân hành động và các nguồn tài nguyên để tới mục đích đó. Hệ thống úy thác (ví
dụ, trong các trường học, gia đình) xử lý chức năng tiềm tàng bằng cách chuyển
giao văn hoá (các tiêu chí và các giá trị) cho các tác nhân hành động và cho
phép họ chủ quan hoá nó. Cuối cùng, chức năng hoà hợp được thực hiện bởi các
thể chế cộng đồng (ví dụ, pháp luật), liên kết các thành tố khác nhau của xã hội.
Sơ đồ
3.3: Xã hội, các tiểu hệ thống của nó và
các chức năng khẩn yếu
Theo Parsons, các cấu trúc
của hệ thống xã hội là quan trọng, nhưng hệ thống văn hoá quan trọng hơn. Thực
tế, như chúng ta đã thấy, hệ thống văn hoá đứng ở đỉnh của hệ thống hành động
của ông, và Parsons tự cho mình là một
“nhà văn hoá quyết định luận”.
Hệ thống văn hóa. Parsons xem văn hoá
là lực lượng chính liên kết các nguyên tố khác nhau của thế giới xã hội, hoặc,
theo từ ngữ của ông, hệ thống hành động. Văn hóa dàn xếp các tương tác giữa các
actors và hoà hợp cá tính với các hệ thống xã hội. Văn hoá có khả năng đặc biệt
để trở thành, ít nhất là phần nào, một thành tố của các hệ thống khác. Do vậy,
trong hệ thống xã hội, văn hóa được bao hàm trong các tiêu chí và giá trị, và
trong hệ thống cá tính nó được chủ quan hoá bởi actor. Nhưng hệ thống văn hóa
không chỉ đơn giản là một phần của các hệ thống khác; nó cũng là một tồn tại
riêng biệt dưới hình thức nguồn dự trữ
xã hội về kiến thức, các biểu tượng và các ý tưởng. Các khía cạnh này
của hệ thống là sẵn có đối với các hệ thống xã hội và cá tính, nhưng chúng
không trở thành một bộ phận các các hệ thống đó.
Parsons xác định hệ thống văn hóa, như đã làm
với các hệ thống khác của ông, trong phạm vi các tương quan của nó đối với các
hệ thống hành động khác. Do vậy, văn hoá được xem là một hệ thống định khuôn,
có trật tự về các biểu tượng là các đối tượng của sự định hướng đối với các
actors, các khía cạnh chủ quan hoá của hệ thống cá tính, và các khuôn mẫu được
thể chế hoá trong hệ thống xã hội. Vì nó có tính biểu tượng và chủ quan rất
cao, văn hoá dễ dàng được chuyển giao từ một hệ thống này sang hệ thống khác.
Văn hoá có thể di chuyển từ hệ thống xã hội này sang hệ thống xã hội khác thông
qua sự truyền bá, và từ hệ thống cá tính này sang hệ thống cá tính khác thông
qua sự học hỏi và xã hội hoá. Tuy nhiên, đặc tính biểu tượng (chủ quan) của văn
hoá cũng tạo cho nó một đặc điểm khác, khả năng kiểm soát các hệ thống hành
động khác của Parsons. Đây là một trong những lý do Parsons đi đến chỗ cho bản
thân ông là một nhà văn hoá quyết định luận.
Tuy
nhiên, nếu hệ thống văn hóa được đề cao nhất trong lý thuyết của Parsons,
chuùng ta phải hỏi như thế ông có đưa ra một lý thuyết thật sự hòa hợp hay
không. Như được chỉ rõ ở phần Phụ lục, một lý thuyết thật sự hòa hợp tạo ra một
sự tương đương dứt khoát đối với tất cả các cấp độ phân tích chủ yếu. Văn hoá
quyết định luận, thật ra là tất cả các loại quyết định luận, rất đáng nghi ngờ
từ quan điểm của một xã hội học có tính hoà hợp. (Xem Camic để biết một khái
niệm hòa hợp hơn về tác phẩm của Parsons).
Vấn đề này trầm trọng thêm khi ta nhìn vào hệ thống cá tính và thấy nó
phát triển yếu ớt như thế nào trong tác phẩm của Parsons.
Hệ thống cá tính. Hệ thống cá tính được
kiểm soát không chỉ bởi hệ văn hoá mà cả hệ thống xã hội. Điều này không có
nghĩa là là nói rằng Parsons đã không chấp nhận một số tính độc lập đối với hệ
thống cá tính:
Quan
điểm của tôi là, trong khi nội dung chính của cấu trúc của cá tính phát sinh từ
các hệ thống xã hội và hệ thống văn hoá thông qua sự xã hội hoá, hệ thống cá
tính trở nên một hệ thống độc lập thông qua các quan hệ của nó với các cơ quan
của chính nó và thông qua tính độc nhất của kinh nghiệm sống của chính nó; nó
không chỉ đơn giản là một hiện tượng phụ.
Chúng
ta có cảm giác là ở đây Parsons quả quyết hơi nhiều. Nếu hệ thống cá tính không
phải là một hiện tượng phụ, hẳn nó đã bị giảm trừ xuống địa vị thứ hai hay phụ
thuộc trong hệ thống lý thuyết của ông.
Cá
tính được định nghĩa là hệ thống có tổ chức của sự định hướng và động cơ hành
động của cá thể tác nhân hành động. Thành tố cơ bản của cá tính là “xu hướng-nhu
cầu”. Parsons và Shils xác định các xu hướng-nhu cầu là các “đơn vị quan trọng
nhất của động cơ hành động”. Họ phân biệt các xu hướng-nhu cầu
(need-disposition) với các động năng (drive), vốn là các xu hướng bẩm sinh”. Nói cách khác, các động năng tốt hơn nên được
xem là một phần của thực thể sinh học. Các xu hướng-nhu cầu khi này được xác
định là “những xu hướng tương tự khi chúng không phải là bẩm sinh mà có được
thông qua tiến trình của tự thân hành động”. Nói cách khác, các xu hướng-nhu
cầu là các động năng được định hình bởi hệ thống xã hội.
Các
xu hướng-nhu cầu thúc đẩy các actor chấp nhận hay phản đối các đối tượng hiện
diện trong môi trường hay tìm ra các đối tượng mới nếu những đối tượng có sẵn
không đáp ứng thỏa đáng cho chúng. Parsons phân biệt ba kiểu xu hướng-nhu cầu
cơ bản. Kiểu thứ nhất thúc đẩy các actor tìm kiếm tình yêu, sự chấp nhận,
vv...từ các quan hệ xã hội của họ. Kiểu thứ hai bao gồm các giá trị đã chủ quan
hoá dẫn dắt các actor nhìn nhận các chuẩn mực văn hoá khác nhau. Cuối cùng là
các ước vọng vai trò dẫn các actor tới chỗ cho hoặc nhận cán phản ứng tương ứng.
Điều này tạo ra một hình
ảnh rất thụ động về các actor. Dường như họ hoặc bị thúc đẩy bởi các động năng,
bị thống trị bởi văn hoá, hoặc thông thường hơn, định hình bởi một kết hợp giữa
các động năng và văn hoá (tức các xu hướng-nhu cầu). Một hệ thống cá tính thụ
động rõ ràng là một sự nối kết yếu ớt trong một lý thuyết hòa hợp, và Parsons
dường như nhận ra điều này. Nhiều lần khác nhau, ông cố gắng phú cho cá tính
một số tính chất sáng tạo. Ví dụ, ông nói: “Chúng tôi không có ẩn ý... rằng các
giá trị của một cá nhân hoàn toàn là “văn hoá được chủ quan hóa” hoặc kết đính
một cách đơn giản với các nguyên tắc và quy luật. Cá nhân tạo ra những biến cải
khi anh ta chủ quan hóa văn hóa; nhưng khía cạnh mới lạ không phải là khía cạnh
văn hóa”. Dù có những chỉ trích như thế, ấn tượng nổi bật nảy sinh từ tác phẩm
của Parsons là ấn tượng về một hệ thống có tính chất thụ động.
Sự nhấn mạnh của Parsons
vào các xu hướng-nhu cầu tạo ra các vấn đề khác. Vì nó bỏ qua rất nhiều khía
cạnh quan trọng khác của cá tính, hệ thống của ông trở nên rất nghèo nàn.
Alfred Baldwin, một nhà tâm lý học, đã đưa ra một quan điểm chính xác:
Khá công bằng khi nói rằng
Parsons đã thất bại trong lý thuyết của ông trong việc cung cấp cho cá tính một
tập hợp thuộc tính hoặc cơ cấu hợp lý ngoài các xu hướng-nhu cầu, và đã tự gây
khó khăn cho mình bởi không phú cho cá tính đầy đủ các đặc điểm và đầy đủ các
loại cơ cấu khác nhau để nó có thể thực hiện chức năng.
Baldwin đưa ra một quan
điểm khác về hệ thống cá tính của Parsons, lý luận rằng ngay khi Parsons phân
tích hệ thống cá tính, ông cũng không thực sự tập trung chú ý vào nó: “Ngay cả
khi ông viết những chương về cấu trúc cá tính, Parsons dành nhiều trang để nói
về các hệ thống xã hội hơn là nói về cá tính”. Việc Parsons nối kết cá tính vào
hệ thống xã hội đã được phản ánh trong nhiều cách khác nhau. Trước hết, các
actor phải học để nhìn thấy bản thân theo một cách phù hợp với vị trí họ nắm
giữ trong xã hội. Thứ hai, các mong ước về vai trò được đính kèm theo mỗi vai
trò mà các cá thể actor nắm giữ. Vậy là có sự học hỏi tự giác, sự chủ quan hóa
của các định hướng giá trị, sự tương
đồng, vv... Tất cả các lực lượng này hướng sự hòa hợp của hệ thống cá tính tới
hệ thống xã hội, mà Parsons đã nhấn mạnh. Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra các bất hòa
hợp có thể có, là một vấn đề đối với hệ thống cần được khắc phục.
Một khía cạnh khác của tác
phẩm của Parsons - mối quan tâm của ông vào sự chủ quan hoá như là mặt thuộc về
hệ thống cá tính của tiến trình xã hội hoá - phản ánh tính thụ động của hệ
thống cá tính. Parsons có mối quan tâm này là bắt nguồn từ tác phẩm của
Durkheim về sự chủ quan hóa, cũng như từ tác phẩm của Freud, cơ bản là về siêu
bản ngã (superego), Parsons một lần nữa biểu lộ khái niệm của ông về một hệ
thống cá tính bị kiểm soát một cách thụ động và từ phía bên ngoài.
Dù Parsons sẵn sàng nói về
các khía cạnh chủ quan của cá tính trong tác phẩm đầu của ông, ông tiếp tục từ
bỏ viễn cảnh đó. Trong việc làm này, ông đã giới hạn các nhận thức khả dĩ của
mình vào hệ thống cá tính. Ở một điểm, Parsons nói rõ rằng ông đang chuyển mối
quan tâm của mình khỏi các ý nghĩa nội tại mà hành động của mọi người có thể
có: “Sự tổ chức của các dữ liệu quan sát trong phạm vi của lý thuyết hành động
hoàn toàn là có khả năng và chín mùi trong phạm vi thuyết hành vi đã được cải
biến, và một trình bày có hệ thống như thế tránh được nhiều vấn đề khó khăn về
sự nội quan (introspection) hoặc sự thấu cảm (empathy)”.
Thực thể hành vi. Dù Parsons
bao gồm thực thể hành vi như là một trong bốn hệ thống hành động, ông nói
rất ít về nó. Nó được bao gồm bởi vì nó
là nguồn năng lượng cho phần còn lại của các hệ thống. Dù nó dựa trên thiết chế
di truyền, tổ chức của nó chịu ảnh hưởng bởi các tiến trình của điều kiện và sự
học hỏi xảy ra trong cuộc đời cá thể. Thực thể sinh học hiển nhiên là một hệ
thống dư thừa trong tác phẩm của Parsons, nhưng tối thiểu Parsons cũng phải
được ca ngợi vì đã bao gồm nó như là một bộ phận của xã hội học của ông, nếu
như ông không mong chờ một lý do nào khác ở mối quan tâm tới nó của một số nhà
xã hội học.
Sự biến đổi và thuyết động lực trong lý thuyết Parsons
Lý thuyết tiến hóa:
Tác phẩm của Parsons với những công cụ khái niệm như bốn hệ thống hành động và
các nhu cầu chức năng dẫn tới một cáo buộc rằng ông đã đưa ra một lý
thuyết cấu trúc không có khả năng giải
quyết sự biến đổi xã hội. Parsons đã từ lâu nhạy cảm với sự cáo buộc này, lý
luận rằng dù một nghiên cứu về sự biến đổi là cần thiết, nó phải được đi trước
một bước bởi một nghiên cứu về cấu trúc. Nhưng trong thập niên 1960 ông không
thể chịu được các cuộc tấn công lâu hơn nữa, và đã thực hiện một chuyển biến
chủ yếu trong tác phẩm của mình sang hướng nghiên cứu sự biến đổi xã hội, đặc
biệt là nghiên cứu về tiến hóa xã hội.
Định hướng chung của Parsons đối với
việc nghiên cứu biến đổi xã hội định hình bởi bộ môn sinh học. Để xử lý tiến
trình này, Parsons phát triển cái mà ông gọi là “một mô hình của sự biến đổi
tiến hóa”
Thành tố đầu tiên của mô hình này là
tiến trình của sự phân biệt
(differentiation). Parsons giả thiết rằng bất kỳ xã hội nào cũng chứa đựng một
chuỗi các tiểu hệ thống khác nhau về tầm quan trọng của cả cấu trúc cũng như
chức năng đối với xã hội lớn. Khi xã hội tiến hóa, các tiểu hệ thống mới bị
tách biệt nhau. Tuy nhiên, điều này chưa đủ; chúng còn phải có tính thích nghi
hơn các tiểu hệ thống đã có trước. Do vậy, khía cạnh chủ yếu của mô hình tiến
hóa của Parsons là ý tưởng về sự nâng cấp
tính thích nghi (adaptive upgrading). Parsons diễn tả quá trình này:
Nếu sự phân biệt mang lại
một hệ thống tiến hóa, cân bằng hơn, mỗi tiểu cấu trúc tách biệt mới… phải gia
tăng khả năng thích ứng để thực hiện chức năng cơ bản của nó, khi đem so với
việc thực hiện chức năng này ở cấu trúc phổ biến hơn trước đó… Chúng ta có thể
gọi quá trình này là khía cạnh nâng cấp tính thích nghi của chu kỳ biến đổi
tiến hóa.
Đây là một kiểu mẫu mang tính chất
thực chứng cao độ của biến đổi xã hội (dù tất nhiên Parsons đã ý thức tới mặt u
tối hơn của nó). Nó giả thiết rằng khi xã hội tiến hóa, nhìn chung, nó trở nên có khả năng tốt hơn để đối
đầu với các vấn đề của nó. Trái lại, trong lý thuyết Marx, biến đổi xã hội dẫn
tới một sự sụp đổ chung cuộc của xã hội tư bản. Vì lý do này, trong số những
người khác, Parsons thường được cho là một lý thuyết gia xã hội học bảo thủ cao
độ. Ngoài ra, trong khi ông xử lý vấn đề biến đổi, ông có xu hướng tập trung
vào các khía cạnh tích cực của biến đổi xã hội trong thế giới hiện đại hơn là
khía cạnh tiêu cực của nó.
Kế đến, Parsons lý luận rằng tiến
trình phân biệt dẫn tới một tập hợp vấn đề mới về sự hòa hợp xã hội. Khi các
tiểu hệ thống sinh sôi nảy nở, xã hội đương đầu với các vấn đề mới gắn liền với
sự vận hành của các đơn vị này:
Một xã hội thực thi tiến
hóa phải di chuyển từ một hệ thống của sự gán ép tới một hệ thống của thành
tựu. Hàng loạt các kỹ năng và khả năng cần thiết phải có để giải quyết các tiểu
hệ thống phổ biến tràn lan hơn. Các khả năng phổ quát của mọi người phải được
giải phóng khỏi các mối ràng buộc gán ép để họ có thể trở nên có ích cho xã
hội. Nói chung, điều này có nghĩa là các nhóm đã từng bị loại trừ khỏi việc
đóng góp cho xã hội phải được giải phóng để được kể là các thành viên đúng
nghĩa của xã hội.
Cuối cùng, hệ thống giá trị của tổng thể xã hội phải thực
hiện biến đổi khi các cấu trúc và chức năng ngày càng trở nên phân biệt nhau
hơn. Tuy nhiên, vì hệ thống mới có tính đa dạng hơn, hệ thống giá trị khó mà
bao hàm nó. Như vậy, một xã hội mang tính phân biệt cao hơn đòi hỏi một hệ thống
giá trị “ẩn náu ở một cấp độ phổ quát cao hơn để chính thống hóa các mục tiêu
và chức năng đa dạng của những tiểu đơn vị của nó”. Tuy nhiên, quá trình phổ
quát hóa các giá trị này không tiến triển một cách êm xuôi khi nó gặp trở kháng
từ các nhóm gắn bó với các hệ thống giá trị nhỏ hẹp của riêng họ.
Sự tiến hóa tiến triển qua các chu
trình khác nhau, nhưng không có một tiến trình chung nào có ảnh hưởng đến mọi
xã hội một cách đồng đều. Một số xã hội có thể
thuận lợi cho sự tiến hóa, trong khi một số khác có thể “ bị ngáng trở
bởi các xung đột nội tại hay các điều bất lợi khác” nên chúng cản trở quá trình
tiến hóa hoặc thậm chí chúng trở nên sa đọa. Cái thu hút quan tâm của Parsons
nhất là những xã hội trong đó các “đột phá” xảy ra, vì ông tin rằng một khi
chúng xảy ra, quá trình tiến hóa sẽ đi theo kiểu mẫu tiến hóa chung của ông.
Dù Parsons cho tiến hóa xảy ra theo
từng giai đoạn, ông đã cẩn thận tránh khỏi một lý thuyết tiến hóa một chiều:
“Chúng ta không xem các tiến hóa xã hội là một tiến trình tiếp diễn hoặc một
tiến trình tuyến tính giản đơn, nhưng chúng ta không thể phân biệt giữa các cấp
độ tiến bộ rộng lớn mà không xem xét sự khác biệt đáng kể tìm thấy ở mỗi tiến
trình”. Nói rõ rằng ông đã đơn giản hóa vấn đề đi, Parsons phân biệt ba giai
đoạn tiến hóa lớn - nguyên thủy, trung cổ và hiện đại. Về đặc điểm, ông phân
biệt các giai đoạn này cơ bản dựa trên các chiều kích văn hóa. Sự phát triển
chủ yếu trong chuyển biến từ nguyên thủy sang trung cổ là sự phát triển ngôn
ngữ, cơ bản là ngôn ngữ viết. Phát triển chính yếu trong chuyển biến từ trung
cổ sang hiện đại là “các luật lệ được thể chế hóa của các quy phạm mệnh lệnh”,
hoặc luật pháp.
Kế đó, Parsons tiếp tục phân tích
một loạt xã hội cụ thể trong bối cảnh tiến hóa từ xã hội nguyên thủy tới xã hội
hiện đại. Một điểm đặc biệt đáng ghi nhận ở đây là: Parsons đã chuyển sang
thuyết tiến hóa, ít nhất là một phần, vì ông bị cáo buộc là không thể xử lý vấn
đề biến đổi xã hội. Tuy nhiên, phân tích tiến hóa của ông không nằm trong phạm
vi của quá trình; mà nó là một nỗ lực “sắp xếp trật tự các cấu trúc và liên kết
chúng theo chuỗi liên tục” Đây là phép
phân tích cấu trúc so sánh, chứ không thật sự là một nghiên cứu về các quá
trình biến đổi xã hội. Do vậy, ngay cả khi ông được cho là xem xét sự biến đổi,
Parsons vẫn còn bận tâm tới việc nghiên cứu các cấu trúc và các chức năng.
Vật trung gian phổ quát của sự trao đổi. Một trong những cách trong đó Parsons dẫn dắt
một số thuyết động lực và tính lưu động vào hệ thống lý thuyết của ông là thông
qua các ý tưởng của ông về vật trung gian
phổ quát của sự hoà hợp (generalized media of interchange) trong và giữa
các hệ thống bốn hành động (đặc biệt là trong hệ thống xã hội) đã thảo luận bên
trên. Kiểu mẫu cho vật trung gian phổ quát của sự trao đổi là tiền bạc, vận
hành như một sự trung gian trong phạm vi
nền kinh tế. Nhưng thay vì tập trung vào các hiện tượng vật chất như tiền bạc,
Parsons tập trung vào sự trung gian trao đổi mang tính biểu tượng. Ngay cả khi
Parsons thảo luận tiền bạc như là một vật trao đổi trung gian trong phạm vi hệ
thống xã hội, ông cũng tập trung vào tính biểu tượng của nó hơn là các phẩm
chất vật chất của nó. Ngoài tiền bạc ra, và có tính biểu tượng cao hơn, là các
vật trung gian phổ quát của sự trao đổi khác–
quyền lực chính trị, sự ảnh hưởng, và các ủy thác giá trị. Parsons làm
sáng tỏ tại sao ông tập trung vào vật hoà hợp trung gian mang tính biểu tượng:
“Sự dẫn nhập một lý thuyết về sự trung gian vào loại viễn cảnh cấu trúc tôi
chứa đựng trong đầu óc tiến khá xa, dường như với tôi là vậy, trong việc bác bẻ
lại các luận điệu thường xuyên rằng kiểu phân tích cấu trúc này là một căn bệnh
di truyền với một khuynh hướng tĩnh tại, điều làm cho việc phán xét các vấn đề
động lực trở nên bất khả”.
Vật hoà hợp trung gian mang tính
biểu tượng có khả năng, như tiền chẳng hạn, được sáng tạo và lưu thông trong xã
hội lớn. Như vậy, trong phạm vi hệ thống xã hội, các vật trung gian trao đổi
mang tính biểu tượng trong hệ thống chính trị có thể sáng tạo ra quyền lực
chính trị. Quan trọng hơn, chúng có thể mở rộng quyền lực đó, và do đó cho phép
nó lưu động một cách tự do trong, và gây ảnh hưởng lên, hệ thống xã hội. Thông
qua một sự mở rộng quyền lực như thế, các nhà lãnh tụ được giả đoán là đã củng
cố hệ thống xã hội cũng như tổng thể xã hội nói chung. Nói tổng quát hơn, chính
vật trung gian phổ quát đã lưu động giữa các hệ thống bốn hành động và trong
phạm vi các cấu trúc của mỗi một hệ thống trong đó. Chính sự tồn tại và vận
động của chúng đã cung cấp thuyết động lực cho phép phân tích cấu trúc lớn của
Parsons.
Như Alexander vạch ra, vật trung
gian phổ quát của sự trao đổi đã cho lý thuyết của Parsons vay mượn thuyết động
lực theo một ý thức khác. Chúng cho phép đối với sự tồn tại của các “ông chủ
hãng buôn trung gian” (ví dụ, các nhà chính trị), những người không đơn giản
chấp nhận hệ thống trao đổi như nó vốn có. Nghĩa là, họ có thể sáng tạo và củng
cố và bằng cách đó thay đổi không chỉ số lượng của vật trung gian phổ quát mà
cả phương thức và chiều hướng mà sự trung gian hướng đến.
Thuyết
chức năng cấu trúc của Robert Merton
Trong khi Talcott Parsons là nhà lý
thuyết gia chức năng cấu trúc quan trọng nhất, sinh viên của ông là Robert
Merton đã là tác giả của một số trình bày quan trọng nhất về thuyết chức năng
cấu trúc trong xã hội học. Merton phê phán một số khía cạnh cực đoan và không
có khả năng bảo vệ của thuyết chức năng cấu trúc. Nhưng quan trọng tương đương,
các nhận thức khái niệm mới của ông giúp cho thuyết chức năng cấu trúc tiếp tục
hữu dụng.
Dù cả Merton và Parsons đều gắn bó
với thuyết chức năng cấu trúc, có những khác biệt quan trọng giữa hai người.
Một mặt, trong khi Parsons ủng hộ sự sáng tạo các lý thuyết lớn, bao trùm,
Meron ủng hộ các lý thuyết giới hạn, trung cấp hơn. Mặt khác, Merton tán thành
thuyết Marx hơn Parsons. Thực sự, Merton và một số sinh viên của ông (đặc biệt
là Alvin Gouldner) có thể được coi là đã đẩy thuyết chức năng cấu trúc sang
hướng chính trị cánh tả.
Một
kiểu mẫu chức năng-cấu trúc. Merton
phê phán cái mà ông coi là ba định đề cơ bản của phép phân tích chức năng như
đã được phát triển bởi các nhà nhân loại học như Malinowski và Radcliffe Brown.
Đầu tiên là định đề về tính đơn nhất của
chức năng xã hội. Định đề này xác nhận rằng mọi niềm tin và thực hành xã
hội và văn hoá đã chuẩn mực hoá có tính chức năng đối với tổng thể xã hội cũng
như đối với các cá thể trong xã hội. Quan điểm này hàm ý rằng các bộ phận khác
nhau của một hệ thống xã hội phải biểu lộ một sự hoà hợp cao độ. Tuy nhiên,
Merton bảo lưu ý kiến rằng dù là nó có thể đúng đối với các xã hội nhỏ, nguyên
thủy, sự khái quát hoá không thể mở rộng
ra ở các xã hội lớn, phức tạp hơn.
Định đề thứ hai là chức năng phổ quát luận. Nghĩa là, nó lý
luận rằng mọi hình thái và cấu trúc xã hội và văn hoá đã được chuẩn mực hoá có
các chức năng tích cực. Merton lý luận rằng các mâu thuẫn này chính là cái mà
chúng ta tìm thấy trong thế giới thực tại. Hiển nhiên là không phải mọi cấu
trúc, phong tục, tư tưởng, niềm tin, vv... đều có các chức năng tích cực . Ví
dụ, chủ nghĩa quốc gia đang tăng nhanh có thể phản chức năng cao độ trong một
thế giới đầy rẫy các vũ khí hạt nhân.
Thứ ba là định đề về tính tất yếu. Lý luận ở đây là mọi khía
cạnh đã được chuẩn mực hoá của xã hội không chỉ phải mang những chức năng tích
cực mà còn tiêu biểu cho các bộ phận không thể thiếu được của hoạt động tổng
thể. Định đề này đưa tới ý tưởng rằng tất cả mọi cấu trúc và chức năng đều có
tính cần yếu về mặt chức năng đối với xã hội. Không có các cấu trúc và chức
năng nào khác có thể hoạt động tốt như các cái đang có hiện nay trong xã
hội. Sự phê phán của Merton, theo
Parsons, là chúng ta ít nhất phải sẵn sàng thừa nhận rằng có những thay đổi đa
dạng về cấu trúc và chức năng đã được tìm thấy trong xã hội.
Lập trường của Merton là mọi định đề
chức năng trên dựa vào các giả đoán phi thực nghiệm trên cơ sở các hệ thống lý
thuyết trừu tượng. Ở mức tối thiểu, trách nhiệm của nhà xã hội học là phải kiểm
chứng từng định đề đó bằng thực nghiệm. Niềm tin của Merton rằng các kiểm chứng
thực nghiệm, chứ không phải các giả định lý thuyết, là điều cốt yếu đối với
phân tích chức năng đã dẫn ông tới việc phát triển “mô hình” của mình về phân
tích chức năng như là một dẫn đạo tới sự hoà hợp giữa lý thuyết và khảo sát.
Merton làm rõ từ đầu rằng phép phân
tích chức năng cấu trúc tập trung vào các nhóm, các tổ chức, xã hội, và các nền
văn hoá. Ông phát biểu rằng bất kỳ một đối tượng nào có thể áp dụng phép phân
tích chức năng cấu trúc phải “thể hiện một hạng mục đã chuẩn mực hoá (nghĩa là,
đã định khuôn mẫu và có tính lặp lại nhiều lần)”. Ông chứa trong đầu những điều
như: “các vai trò xã hội, các khuôn mẫu
thể chế, các quá trình xã hội, các khuôn mẫu văn hoá, các tình cảm văn hoá
khuôn mẫu, các tiêu chí xã hội, sự tổ chức nhóm, cấu trúc xã hội, các công cụ
kiểm soát xã hội, vv...”
Các nhà chức năng cấu trúc thời kỳ
đầu có xu hướng hầu như hoàn toàn tập trung vào các chức năng của một cấu trúc
xã hội hoặc thể chế xã hội. Tiêu điểm của nhà chức năng cấu trúc phải là các
chức năng xã hội hơn là các động cơ cá thể. Các chức năng, theo Merton, được
xác định như là “những hệ quả quan sát được, được tạo ra cho sự thích nghi và
điều chỉnh của một hệ thống xét đến”. Tuy nhiên, có một xu hướng rõ ràng mang
tính duy tâm khi người ta chỉ tập trung vào sự thích nghi hoặc sự điều chỉnh,
vì chúng luôn luôn là các hệ quả tích cực. Điều quan trọng là chú ý rằng một sự
kiện xã hội có thể có các hệ quả tiêu cực đối với một sự kiện xã hội khác. Để
chỉnh lại sự bỏ sót nghiêm trọng này ở thuyết chức năng cấu trúc thời kỳ đầu,
Merton phát triển một ý tưởng gọi là một phản
chức năng (dysfunction). Ngay khi các cấu trúc hay thể chế có thể đóng góp
cho sự duy trì các bộ phận khác của hệ thống xã hội, chúng cũng có thể gây các
hệ quả tiêu cực đối với chúng. Chế độ nô lệ ở miền Nam Hoa Kỳ, ví dụ, rõ ràng
có những hệ quả tích cực đối với người da trắng miền Nam, như tạo ra nhân công
rẻ, hỗ trợ cho nền kinh tế vải sợi, và địa vị xã hội. Nó cũng có phản chức
năng, như làm cho người miền Nam quá phụ
thuộc vào một nền kinh tế trồng trọt và do đó không chuẩn bị cho sự công nghiệp
hoá. Sự chênh lệch kéo dài giữa miền Bắc và miền Nam về công nghiệp hoá có thể
truy nguyên, ít nhất là phần nào, từ các phản chức năng của thể chế nô lệ ở
miền Nam.
Merton cũng thừa nhận ý tưởng về các
phi chức năng, mà ông xác định như là các hệ quả đơn giản là không có tính
thích ứng với hệ thống được xem xét. Bao gồm ở đây có thể là các hình thái xã
hội, là những “cái còn sót lại” (survivals) từ những thời kỳ lịch sử sơ khai.
Dù chúng có thể có các hệ quả tích cực hay tiêu cực trong quá khứ, chúng không
còn ảnh hưởng quan trọng gì tới xã hội đương thời. Một ví dụ là, mặc dù có một
ít bất đồng ý kiến, Phong trào hạn chế rượu của phụ nữ Công giáo.
Nó giúp trả lời cho câu hỏi
rằng các chức năng tích cực có nhiều tác dụng hơn các phản chức năng hay không,
hoặc là ngược lại. Merton phát triển khái niệm sự cân bằng mạng lưới (net
balance). Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ có thể đơn giản cộng lại các chức
năng tích cực và các phản chức năng và
quyết định một cách chủ quan cái này có tác dụng hơn cái kia, vì các vấn đề rất
phức tạp và tùy thuộc rất lớn vào sự
phán xét chủ quan đến nổi chúng không thể tính toán và đo lường được một
cách dễ dàng. Sự hữu ích của khái niệm của Merton đến từ cách thức nó định
hướng nhà xã hội học theo vấn đề về tầm quan trọng tương đối. Quay lại ví dụ về
chế độ nô lệ, câu hỏi trở thành là, về tính cân bằng, nó có tính chức năng hay
phản chức năng hơn đối với miền Nam. Vẫn như thế, câu hỏi là quá rộng và làm
che khuất đi một số vấn đề (ví dụ, chế độ nô lệ đó là có tính chức năng đối với các nhóm nhỏ các
chủ nô lệ da trắng.)
Để đối phó với các vấn đề như thế,
Merton bổ sung ý tưởng rằng phải có các cấp độ phân tích chức năng. Nhà chức
năng học nói chung tự hạn chế họ ở phân tích xã hội theo nghĩa tổng thể, nhưng
Merton làm rõ rằng phân tích cũng có thể thực hiện đối với một tổ chức, thể
chế, hoặc một nhóm. Quay lại vấn đề các chức năng của chế độ nô lệ ở miền Nam,
cần thiết phải phân biệt nhiều cấp độ phân tích khác nhau và hỏi về các chức
năng và phản chức năng của chế độ nô lệ đối với các gia đình da đen, gia đình
da trắng, các tổ chức chính trị da đen hoặc tổ chức chính trị da trắng, vv....
Trong phạm vi tính cân bằng mạng lưới, chế độ nô lệ có lẽ có nhiều chức năng
hơn đối với các đơn vị xã hội cụ thể, và có nhiều phản chức năng hơn đối với các
đơn vị xã hội khác. Hướng vấn đề tới các cấp độ cụ thể hơn giúp ích cho việc
phân tích chức năng của tổng thể chế độ nô lệ ở miền Nam.
Merton cũng giới thiệu các khái niệm
về các chức năng biểu lộ (manifest)
và tiềm ẩn (latent). Hai thuật ngữ
này cũng là các bổ sung quan trọng cho phép phân tích chức năng. Nói một cách
đơn giản, các chức năng biểu lộ là các chức năng được dự tính, còn các chức
năng tiềm ẩn là các chức năng không được dự tính. Chức năng biểu lộ của chế độ
nô lệ, ví dụ, là gia tăng sản lượng kinh tế của miền Nam, nhưng nó có chức năng
tiềm ẩn là tạo ra một lớp giai cấp dưới
đã phuc vụ để gia tăng địa vị xã hội của người da trắng miền Nam, cả người
nghèo và người giàu. Ý tưởng này có quan hệ tới một số khái niệm khác của
Merton – các hệ quả ngoài dự kiến
(unanticipated consequences). Các hành động vừa có các hệ quả theo dự tính và
không theo dự tính. Dù mọi người đều nhận thức về các hệ quả có dự tính, phân
tích xã hội học đòi hỏi phải vén mở ra các hệ quả ngoài dự kiến; thực tế, đối với một số người điều này
là vấn đề rất cơ bản của xã hội học. Peter Berger đã gọi đây là “sự bóc trần”,
hoặc cái nhìn vượt khỏi các dự tính đối với các ảnh hưởng thực tế.
Merton làm rõ rằng các hệ quả ngoài
dự kiến này và các chức năng tiềm ẩn không phải là một. Một chức năng tiềm ẩn
là một dạng của hệ quả ngoài dự kiến, có tính chức năng đối với hệ thống chỉ
định. Nhưng có hai dạng khác của các hệ quả ngoài dự kiến: “những hệ quả là
phản chức năng đối với một hệ thống chỉ định”, và, “những hệ quả bất tương
thích với hệ thống mà chúng có ảnh hưởng hoặc là một cách chức năng hoặc là một
cách phản chức năng... các hệ quả phi chức năng”.
Để gạn lọc hơn nữa lý thuyết chức
năng, Merton chỉ ra rằng một cấu trúc có
thể phản chức năng đối với tổng thể hệ
thống, thế nhưng vẫn có thể tiếp tục tồn tại. Một trường hợp ví dụ tốt là sự
phân biệt đối xử đối với người da
đen,phụ nữ và các nhóm thứ yếu khác là phản chức năng đối với xã hội Mỹ, thế nhưng
nó vẫn tiếp tục tồn tại, vì nó có chức năng đối với một bộ phận của hệ thống xã
hội; ví dụ, sự phân biệt đối xử với phụ nữ hoàn toàn có chức năng đối với nam
giới. Tuy nhiên, các hình thức phân biệt đối xử này không phải là không có một
số phản chức năng, ngay cả đối với nhóm mà chúng có chức năng. Đàn ông phải
gánh chịu do sự phân biệt đối xử với phụ
nữ của họ; tương tự, người da trắng bị đã thương là do hành vi phân biệt của họ
đối với người da đen. Người ta có thể lý luận rằng các hình thức phân biệt này
ảnh hưởng bất lợi đến những người phân biệt bằng cách duy trì một số lớn
người sản xuất dưới mức và bằng cách gia
tăng khả năng xung đột xã hội.
Merton cho là không phải tất cả các
cấu trúc đều cần yếu đối với các hoạt động của hệ thống xã hội. Một số bộ phận
của hệ thống xã hội của chúng ta có thể bị loại bỏ. Điều này giúp cho lý thuyết
chức năng khắc phục các xu hướng bảo thủ khác của nó. Do nhận thức rằng một số
cấu trúc là cần yếu, thuyết chức năng mở ra con đường cho một biến đổi xã hội
đầy ý nghĩa. Xã hội chúng ta, ví dụ, có thể tiếp tục tồn tại (và thậm chí có
thể được cải thiện) bởi sự loại bỏ các phân biệt đối xử đối với nhóm thứ yếu
khác nhau.
Sự tinh lọc của Merton rất có ích
đối với nhiều nhà xã hội học (ví dụ, Gans) muốn thực hiện những phân tích chức
năng cấu trúc.
Cấu
trúc xã hội và tình trạng vô đạo đức. Trước
khi rời phần này, chúng ta phải dành một vài chú ý tới một trong những cống
hiến nổi tiếng nhất đối với thuyết chức năng cấu trúc, thật ra đối với cả môn
xã hội học- phân tích của Merton về tương quan giữa văn hoá, cấu trúc, và tình
trạng vô đạo đức. Merton xác định văn hoá là “tập hợp các giá trị chuẩn mực có
tổ chức điều hành hành vi, có tính chung nhất đối với mọi thành viên của một xã
hội chỉ định hay một nhóm chỉ định” và cấu trúc xã hội là “ tập hợp các quan hệ
xã hội có tổ chức, trong đó các thành viên của xã hội hay nhóm có mối liên quan
đa dạng”. Tình trạng vô đạo đức xảy ra “khi có một sự phân cách sâu sắc giữa
các tiêu chí văn hoá và các mục tiêu và các khả năng mang tính cấu trúc xã hội
của các thành viên của nhóm để hành động
phù hợp với chúng”. Nghĩa là, vì các vị trí của họ trong cấu trúc xã
hội, một số người không thể hành động phù hợp với các giá trị chuẩn mực. Nền
văn hoá cần có một số kiểu hành vi mà cấu trúc xã hội ngăn giữ không cho chúng xảy
ra. Ví dụ, ở xã hội Mỹ, văn hoá đặt sự nhấn mạnh đến các thành công vật chất.
Tuy nhiên, do vị trí của họ trong cấu trúc xã hội, nhiều người bị cản trở không đạt được các thành công như thế. Nếu
một người sinh ra trong các giai cấp xã hội-kinh tế thấp, và kết quả là chỉ có
thể đạt được, ở mức tốt nhất, một trình độ trung học, khi đó các cơ hội đạt
được các thành công kinh tế của người này theo cách thức nhìn chung có thể chấp
nhận được (ví dụ, qua thành công trong thế giới lao động truyền thống) là mỏng
manh và không tồn tại. Dưới các hoàn cảnh đó (và chúng rất phổ biến trong xã
hội Mỹ đương thời) tình trạng vô đạo đức có thể nói là tồn tại, và kết quả là
có một xu hướng hướng tới hành vi lầm lạc. Trong bối cảnh này, sự lầm lạc
thường mang hình thức của phương tiện có thể chọn lựa, không thể chấp nhận được
và đôi khi bất hợp pháp để đạt được thành tựu kinh tế. Do vậy, trở thành một
người buôn thuốc phiện hoặc một gái điếm để đạt được thành tựu kinh tế là một
ví dụ cho sự lầm lạc sinh ra bởi sự phân cách giữa các giá trị văn hoá và các
phương tiện xã hội-cấu trúc để đạt được các giá trị đó. Đây là một cách thức
trong đó lý thuyết gia chức năng tìm cách giải thích tội ác và sự lầm lạc.
Như vậy, trong ví dụ này về thuyết
chức năng cấu trúc, Merton nhìn vào các cấu trúc xã hội (và văn hoá), nhưng ông
không hoàn toàn tập trung quan tâm vào
các chức năng của các cấu trúc này. Khăng khăng với mô hình chức năng của mình,
chủ yếu ông tập trung tới các phản chức năng, ở trường hợp này là tình trạng vô
đạo đức. Nói cụ thể hơn, như đã thấy, Merton nối kết tình trạng vô đạo đức với
sự lầm lạc và từ đó lý luận rằng sự phân cách giữa văn hoá và cấu trúc có hệ
quả phản chức năng trong việc dẫn tới sự lầm lạc trong xã hội.
Đáng chú ý là hàm ẩn trong tác phẩm
của Merton về tình trạng vô đạo đức là một thái độ phê phán đối với sự phân
tầng xã hội (ví dụ, đối với việc ngăn giữ lại những phương tiện đạt tới các mục
tiêu xã hội ước ao của một số người). Như vậy, trong khi Davis và Moore viết
với thái độ tán đồng về một xã hội phân tầng, tác phẩm của Merton cho thấy các
nhà lý thuyết gia chức năng cấu trúc có thể bị phê phán về sự phân tầng xã hội.
Các phê phán chủ yếu. Không có một lý thuyết riêng
lẻ trong lịch sử của bộ môn nào lại được tập trung nhiều chú ý như thuyết chức
năng cấu trúc. Từ cuối những năm 1930 cho tới đầu những năm 1960, rõ ràng nó
không thể cạnh tranh, và là lý thuyết xã hội học thống trị ở Mỹ. Tới những năm
1960, tuy nhiên, các phê phán lý thuyết đã gia tăng đáng kể và cuối cùng trở
nên phổ biến hơn là những lời ca ngợi. Mark Abrahamson mô tả hoàn cảnh này hoàn
toàn sống động: “Vậy là, nói một cách ẩn dụ, thuyết chức năng đã thong thả đi
nước kiệu qua, như một con voi khổng lồ, phớt lờ những chiếc vòi đốt của các
con muỗi, ngay cả khi đám người tấn công đã chiếm đa số.”
Chúng
ta hãy nhìn vào một số phê phán chủ yếu. Chúng tôi xử lý trước tiên là các phê
phán chủ yếu về thuyết chức năng cấu trúc và rồi tập trung vào các vấn đề logic
và phương pháp luận gắn liền với lý thuyết này.
Các phê phán chính.
Một
phê phán chủ yếu là thuyết chức năng cấu trúc không xử lý lịch sử một cách
tương xứng - rằng nó phi lịch sử một
cách kế thừa. Trong thực tế, thuyết chức năng cấu trúc được phát triển, ít nhất
là phần nào, trong sự phản ứng lại cách tiếp cận tiến hoá lịch sử của một số
nhà nhân loại học. Nhiều nhà nhân loại học thời kỳ đầu được xem là diễn tả các
giai đoạn trong sự tiến hoá của một xã hội xét đến hoặc xã hội nói chung.
Thường xuyên hơn, các mô tả về các giai đoạn sơ khai có tính giả đoán rất cao.
Hơn nữa, các giai đoạn sau thường không là gì khác ngoài những sự lý tưởng hoá
cái xã hội mà nhà nhân loại học đã sống. Các lý thuyết gia chức năng cấu trúc
thời kỳ đầu đã tìm cách khắc phục đặc tính giả định và các xu hướng vị chủng
của các tác phẩm này. Trong những năm đầu nói riêng, thuyết chức năng cấu trúc
đi khá xa trong phê phán của nó đối với thuyết tiến hoá và đi đến chỗ tập trung
hoặc vào các xã hội đương thời, hoặc vào các xã hội trừu tượng. Tuy nhiên,
thuyết chức năng cấu trúc không cần thiết phải trừu tượng. Dù các nhà thực hành
gia có xu hướng vận dụng nó như thể nó là phi lịch sử, không có gì trong lý
thuyết ngăn cản họ giải quyết các vấn đề lịch sử. Thực tế, tác phẩm của Parsons
về biến đổi xã hội, như chúng ta đã
thấy, phản ánh khả năng của các lý thuyết gia chức năng cấu trúc trong xử lý
biến đổi xã hội nếu họ muốn.
Các
nhà chức năng cấu trúc cũng bị tấn công vì không thể giải quyết một cách hiệu
quả các quá trình biến đổi xã hội. Trong khi các phê phán có trước nói về tính
chất dường như bất lực của thuyết chức năng cấu trúc trong xử lý quá khứ, phê
phán này quan tâm đến sự bất lực song song của cách tiếp cận để xử lý tiến
trình biến đổi xã hội đương thời. Thuyết chức năng cấu trúc có vẻ như xử lý các
cấu trúc tĩnh hơn là các quá trình biến đổi. Percy Cohen xem vấn đề là nằm
trong lý thuyết chức năng cấu trúc, trong đó mọi nguyên tố của một xã hội được
xem là tác động lên nhau cũng như lên
tổng thể xã hội. Điều này gây khó khăn cho việc nhìn xem các nguyên tố này cũng
có thể đóng góp cho biến đổi xã hội như thế nào. Trong khi Cohen xem các vấn đề
là có tính kế thừa trong lý thuyết, Turner và Maryanski tin rằng vấn đề nằm ở
các nhà thực hành chứ không phải ở lý thuyết.
Theo
quan diểm của Turner và Maryanski, lý thuyết gia chức năng cấu trúc thường không
nói tới vấn đề biến đổi, và ngay cả khi họ làm điều này, nó nằm trong phạm vi
phát triển hơn là tiến hoá. Tuy nhiên, theo họ, không có lý do gì các lý thuyết
gia CNCT không xử lý các biến đổi xã hội. Vấn đề có liên quan tới lý thuyết
hoặc các lý thuyết gia này hay không, thực tế vẫn tồn tại là các đóng góp chủ
yếu của các lý thuyết gia CNCT nằm ở sự nghiên cứu các cấu trúc xã hội ở trạng
thái tĩnh chứ không phải ở trạng thái biến đổi.
Có lẽ phê phán thường nghe
thấy nhất đối với thuyết CNCT là nó không thể xử lý một cách hiệu quả sự xung
đột. Sự phê phán này có nhiều hình thức khác nhau. Alvin Gouldner lý luận rằng
Parsons, với tư cách là đại diện chính của thuyết CNCT, có xu hướng đề cao quá đáng các tương quan hòa hợp. Irving Louis Horowitz
cho rằng có xu hướng coi xung đột như là sự phá hủy cần thiết và xảy ra bên
ngoài khuôn khổ xã hội. Tổng quát hơn, Abrahamson lý luận rằng thuyết CNCT đã
cường điệu sự liên ứng xã hội, tính bền vững, sự hòa hợp, và, ngược lại, có xu
hướng bỏ qua sự xung đột, hỗn loạn và biến đổi. Một lần nữa vấn đề là, đây có
phải là sự kế thừa trong lý thuyết, hay là sự kế thừa trong cách thức mà các
nhà thực hành đã diễn dịch và vận dụng nó. Dù ý kiến của người ta ra sao, rõ
ràng là thuyết CNCT tương đối ít đề cập đến vấn đề xung đột xã hội.
Các phê phán tổng quát là thuyết
CNCT không thể xử lý lịch sử, sự biến đổi và sự xung đột đã dẫn nhiều người tới
chỗ lý luận rằng thuyết CNCT có một xu hướng bảo thủ. Như Gouldner đã nêu một cách sống động trong phê
phán của ông đối với thuyết CNCT của Parsons: “ Parsons khăng khăng xem ly nước
được đổ đầy một phần là đầy phân nửa hơn là bị vơi đi phân nửa”. Một người xem
một ly nước là đầy phân nửa sẽ nhấn mạnh đến các khía cạnh tích cực của một
hoàn cảnh, trong khi một người thấy nó bị vơi đi phân nửa tập trung vào mặt
tiêu cực của nó. Đặt vào phạm vi xã hội, một lý thuyết gia CNCT sẽ đề cao các
thuận lợi của đời sống về mặt kinh tế trong xã hội của chúng ta hơn là các bất
tiện của nó.
Có thể đúng là có một xu hướng bảo thủ trong thuyết
CNCT có thể quy cho không chỉ cái mà nó phớt đi mà cả cái nó chọn để tập trung
vào. Một đơn cử là, các nhà CNCT có xu hướng tập trung vào văn hóa, các tiêu
chí, các giá trị. David Lockwood, ví dụ, phê phán Parsons vì sự ám ảnh của ông
đối với trật tự có tính chuẩn mực của xã hội. Tổng quát hơn, Percy Cohen lý
luận rằng các nhà CNCT tập trung vào các nguyên tố chuẩn mực, dù sự tập trung
này không có tính kế thừa trong lý thuyết. Cái cốt yếu đối với tiêu diểm của
thuyết CNCT vào các nhân tố văn hóa và xã hội và cái dẫn tới định hướng bảo thủ
của lý thuyết là một nhận thức thụ động về cá thể tác nhân hành động. Mọi người
được xem là bị kềm hãm bởi các lực lượng văn hóa và xã hội. Các nhà lý thuyết
CNCT (ví dụ, Parsons) thiếu một nhận thức năng động, sáng tạo về các actor. Như
Gouldner nói, để nhấn mạnh sự phê phán của ông đối với thuyết CNCT, “Con người
bị vướng bận trong việc sử dụng các hệ thống xã hội cũng nhiều như trong việc
sử dụng chính bản thân họ”.
Liên quan tới tiêu điểm văn hóa của
họ là xu hướng của các nhà CNCT để nhầm lẫn các thể chế hóa được sử dụng bởi
các phần tinh túy trong xã hội với thực tại xã hội. Hệ thống chuẩn mực được
diễn dịch như là sự phản ánh của tổng thể xã hội, khi có thể trong thực tế tốt hơn nên xem nó như một hệ thống duy tâm
được truyền bá bởi, và tồn tại vì, các thành viên tinh túy của xã hội. Horowitz
phát biểu lập trường sau hoàn toàn dứt khoát: “Lý thuyết liên ứng có xu hướng
trở thành một đại diện siêu hình của ma trận duy tâm thống trị”.
Các phê phán chính yếu này chỉ vào
hai hướng cơ bản. Đầu tiên, dường như rõ ràng là thuyết CNCT có một tiêu điểm
khá hẹp đã ngăn cản nó nói tới một số vấn đề và khía cạnh quan trọng của thế
giới xã hội. Thứ hai, tiêu điểm của nó có xu hướng tạo cho nó một hương vị khá
bảo thủ; trong thực tiễn quá khứ, và ở một mức độ tới nay, thuyết CNCT đã vận
hành trong sự hỗ trợ của hiện trạng và các tinh túy thống trị.
Phương
pháp luận và các phê phán logic. Một trong những phê phán thường được thể
hiện là thuyết CNCT về cơ bản là mơ hồ, không rõ ràng và khó hiểu. Ví dụ: Nói
cho chính xác cái gì là một cấu trúc? Một chức năng? Một hệ thống xã hội? Các
bộ phận của hệ thống xãhội liên quan với nhau cũng như với hệ thống xã hội lớn
ra sao? Phần khó hiểu có thể truy nguyên từ cấp độ mà các nhà CNCT chọn để làm
việc. Họ xử lý các hệ thống xã hội trừu tượng thay vì các xã hội thực tại.
Trong nhiều tác phẩm của Parsons, không có thảo luận nào về xã hội “có thực”.
Tương tự, thảo luận về các điều kiện chức năng tiên quyết bởi Aberle và các
cộng sự của ông không gắn bó chặt với một xã hội thực tế mà xảy ra ở một cấp độ
trừu tượng rất cao.
Một phê phán liên quan là, dù không
có một lược đồ riêng lẻ nào có thể sử dụng để phân tích mọi xã hội xuyên suốt
lịch sử, các nhà CNCT đã bị thúc đẩy bởi niềm tin rằng có một lý thuyết riêng
lẻ hay ít nhất một tập hợp các phạm trù khái niệm có thể được dùng để làm
chuyện này. Niềm tin vào sự tồn tại của một lý thuyết lớn như thế có nhiều cơ
sở từ tác phẩm của Parsons, các điều kiện chức năng tiên quyết của Aberle và
các cộng sự và lý thuyết của David Moore về sự phân tầng. Nhiều nhà phê phán
xem lý thuyết lớn này là một ảo tưởng, tin rằng một môn xã hội học tốt nhất có
thể mong đợi là các lý thuyết mang tính chất đặc thù lịch sử, “trung cấp” hơn.
Trong số các phê phán cụ thể về
phương pháp luận khác là vấn đề có tồn tại các phương pháp tương xứng để nghiên
cứu các vấn đề quan yếu đối với các nhà CNCT hay không. Percy Cohen, ví dụ, tự
hỏi rằng công cụ nào có thể được sử dụng để nghiên cứu sự đóng góp của một bộ
phận của một hệ thống đối với tổng thể hệ thống đó. Một phê phán phương pháp
luận khác là thuyết CNCT gây ra sự khó khăn trong so sánh phân tích. Nếu giả
đoán rằng bộ phận của một hệ thống được nhận thức chỉ trong bối cảnh của hệ
thống xã hội trong đó nó tồn tại, làm sao chúng ta so sánh nó với một bộ phận
tương tự trong một hệ thống khác? Cohen hỏi, ví dụ: Nếu gia đình người Anh nhận
thức chỉ trong bối cảnh của xã hội Anh, làm sao chúng ta so sánh nó với gia
đình người Pháp?
Mục đích luận (Teleology) và sự lặp thừa (Tautology). Percy Cohen và Turner và Maryanski xem mục đích
luận và phép lặp thừa là hai vấn đề logic quan trọng đối mặt với thuyết CNCT.
Một số có xu hướng xem mục đích luận là một vấn đề có tính kế thừa, nhưng tác
giả tin rằng Turner và Maryanski đúng khi họ lý luận rằng vấn đề đối với thuyết
CNCT không phải là bản thân mục đích luận, mà là sự lặp thừa không chính thống.
Trong ngữ cảnh này, mục đích luận được xác định như là quan điểm rằng xã hội
(hoặc các cấu trúc xã hội khác) có các mục đích hoặc mục tiêu. Để đạt được các
mục tiêu đó, xã hội sáng tạo, hoặc là tác nhân để sáng tạo ra các cấu trúc xã
hội và thể chế xã hội đặc thù. Turner và Maryanski không xem quan điểm này là
tất yếu không chính thống; thực tế, họ lý luận rằng lý thuyết xã hội cần quan tâm
đến mối quan hệ có tính mục đích giữa xã hội và các bộ phận thành tố của nó.
Với Turner và Maryanski, vấn
đề là sự mở rộng của mục đích luận tới các mức độ không thể chấp nhận được. Một
mục đích luận không chính thống là một cái có hàm ý “rằng các trạng thái mục
đích hoặc chung cuộc hướng dẫn các sự vụ của con người khi chúng không nằm
trong trường hợp”. Ví dụ, là điều không chính thống khi giả đoán rằng vì xã hội
cần nảy nở và xã hội hóa, nó sẽ sáng tạo ra thể chế gia đình. Một loạt các cấu
trúc có khả năng thế nhau có thể gặp được các nhu cầu này; xã hội không cần
thiết phải sáng tạo ra gia đình. Nhà CNCT phải xác định và ghi chép các cách
thức khác nhau trong đó các mục tiêu đã, trong thực tế, dẫn dắt tới sự sáng tạo
các tiểu cấu trúc cụ thể. Cũng có ích khi có thể chỉ ra tại sao các tiểu cấu
trúc khác không gặp cùng các nhu cầu đó. Một mục đích luận chính thống có thể
xác định và chứng minh về mặt thực nghiệm và lý thuyết các nối kết giữa các mục
tiêu của xã hội với các tiểu cấu trúc khác nhau tồn tại trong xã hội. Một mục
đích luận không chính thống có thể hài lòng với một giả định mù quáng rằng một
nối kết giữa mục đích xã hội và một tiểu cấu trúc cụ thể phải tồn tại. Turner
và Maryanski thừa nhận rằng thuyết chức năng thường vi phạm trong việc đưa ra
những mục đích luận không chính thống: “Chúng ta có thể kết luận rằng các giải
thích chức năng thường trở thành các mục đích luận không chính thống- một sự
thật cản trở nghiêm trọng sự ích lợi của thuyết chức năng để hiểu thấu các
khuôn mẫu tổ chức của loài người.”
Một phê phán chủ yếu khác về tính
logic của thuyết CNCT là sự lặp lại dư thừa của nó. Một luận lý lặp thừa là một
luận lý trong đó cái kết luận chỉ đơn thuần làm rõ cái tiềm ẩn trong tiền đề
hoặc chỉ đơn giản là một phát biểu lại của tiền đề.
Trong
thuyết CNCT, lập luận lòng vòng này thường có hình thức định nghĩa tổng thể
trong phạm vi của các bộ phận của nó, và rồi lại định nghĩa các bộ phận trong
phạm vi tổng thể. Do vậy, có thể lập luận rằng một hệ thống xã hội được xác
định bời mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của nó, và các bộ phận cấu
thành của một hệ thống được xác định bởi
vị trí của nó trong hệ thống xã hội lớn hơn. Bởi vì mỗi cái được xác
định trong phạm vi của cái kia, cả hệ thống xã hội cũng như các bộ phận của nó
thật sự chưa được xác định gì cả. Chúng ta thật sự không hiểu biết gì về hệ
thống hay các bộ phận của nó. Thuyết CNCT đặc biệt thiên về các lặp thừa, dù có
một số câu hỏi khuynh hướng này là thuộc tính cố hữu trong lý thuyết hay chỉ
đơn giản là đặc điểm về phương thức mà các nhà CNCT hay sử dụng, hoặc lạm dụng,
lý thuyết này.
THUYẾT TÂN CHỨC NĂNG
Dưới chướng ngại của các phê phán,
thuyết CNCT bị loại bỏ ý nghĩa quan trọng từ
giữa những năm 1960 cho đến nay. Tuy nhiên, khoảng giữa thập niên 1980,
có một nỗ lực tìm cách khôi phục lại lý thuyết dưới cái tên “thuyết tân chức
năng”. Thuật ngữ thuyết tân chức năng
(neofunctionism) được dùng để chỉ sự tiếp diễn của thuyết CNCT nhưng cũng chứng
tỏ rằng đã có một nỗ lực nhằm mở rộng thuyết CNCT và khắc phục các khó khăn chủ
yếu của nó. Jeffrey Alexnder và Paul Colomy định nghĩa thuyết tân chức năng là
“một dòng tự phê phán của lý thuyết chức năng tìm cách mở rộng phạm vi tri thức
của thuyết chức năng trong khi vẫn duy trì cốt lõi lý thuyết của nó”. Như vậy,
hầu như rõ ràng là Alexander và Colomy xem thuyết CNCT là quá mức hẹp và mục
tiêu của họ là sáng tạo ra một lý thuyết tổng hợp hơn, mà họ gán cho cái tên là
“thuyết tân chức năng”.
Trước khi chúng ta quay
sang một thảo luận vắn tắt về thuyết tân chức năng, cần chú ý rằng trong khi
thuyết CNCT nói chung, và lý thuyết Parsons nói riêng, đã trở nên cực đoan, có
một cốt lõi tổng hợp mạnh mẽ từ những khởi đầu của nó. Một mặt, thông qua cuộc
đời trí thức của ông, Parsons đã tìm cách hòa hợp một loạt các đầu vào đa dạng.
Mặt khác, ông quan tâm đến mối tương quan của các lĩnh vực chủ yếu của thế giới
xã hội, đáng chú ý nhất là các hệ thống văn hóa, xã hội, và cá tính. Tuy nhiên,
cuối cùng, Parsons đi theo một định hướng CNCT hẹp hòi và đi đến chỗ xem hệ
thống văn hóa là yếu tố quyết định các hệ thống khác. Do vậy, Parsons đã
từ bỏ định hướng tổng hợp của ông, và
thuyết tân chức năng có thể được xem là một nỗ lực nhằm lấy lại định hướng đó.
Alexander đã liệt kê các vấn đề gắn
liền với thuyết CNCT mà thuyết tân chức năng cần khắc phục, bao gồm, “sự chống
lại chủ nghĩa cá thể”, “sự đối lập với biến đổi” “chủ nghĩa bảo thủ”, “chủ
nghĩa duy tâm”, và một “xu hướng chống lại thực nghiệm”. Các nỗ lực được thực
hiện để khắc phục các vấn đề này một cách có kế hoạch và ở các cấp độ lý thuyết
cụ thể hơn, ví dụ cố gắng của Colomy để cải tạo lý thuyết phân biệt. Dù với mối
nhiệt tâm của ông với thuyết tân chức năng, giữa những năm 1980, Alexander buộc
phải kết luận rằng: “thuyết tân chức năng là một khuynh hướng hơn là một lý
thuyết được phát triển”. Chỉ 5 năm sau khi Alexander thú nhận sự yếu kém của
thuyết tân chức năng, Colomy tìm cách cổ súy cho quan điểm lý thuyết chung của
thuyết này và lý luận rằng nó đã có một bước tiến đáng kể:
Trong 5 năm kế tiếp khuynh hướng đó đã kết tinh thành
một phong trào tự ý thức về tri thức. Nó sản sinh nhiều thuận lợi quan trọng ở
cấp độ lý thuyết chung và đóng một vai trò dẫn đạo trong việc thúc đẩy siêu lý
thuyết xã hội học theo một chiều hướng tổng hợp...thuyết tân chức năng đang đưa
ra các lưu ýnhiều hưá hẹn của nó. Ngày nay, thuyết tân chức năng còn hơn là một
sự hưá hẹn; nó đã trở thành một lĩnh vực trình bày lý thuyết và sự điều tra
thực nghiệm đang lớn dần và căng thẳng.
Trong khi không có câu hỏi nào rằng
thuyết tân chức năng đã tạo ra những bước tiến dài hay không, người ta nghi ngờ
rằng nó có hoàn toàn có lợi như Colomy đã muốn chúng ta tin tưởng như thế hay
không.
Dù thuyết tân chức năng có
thể không phải là một lý thuyết phát triển, Alexander đã vạch ra một số định hướng cơ bản của nó. Đầu
tiên, thuyết tân chức năng vận hành với một kiểu mẫu xã hội mô tả xem xã hội
như là được tổng hợp từ các nguyên tố mà, trong mối tương tác với nhau, tạo
thành một khuôn mẫu. Khuôn mẫu này cho phép hệ thống có thể phân biệt được với
môi trường của nó. Các bộ phận của hệ thống
“được nối kết cộng sinh” và các tương tác của chúng không bị quyết định
bởi một lực lượng bên trên nào cả. Như vậy, thuyết tân chức năng phản đối bất
kỳ một thuyết quyết định luận đơn nguyên nhân nào và có tính đa nguyên, không
giới hạn.
Thứ hai, Alexander lý luận rằng
thuyết tân chức năng dành một quan tâm tương đượng đối với hành động và trật
tự. Do vậy nó tránh được xu hướng của thuyết CNCT hầu như chỉ tập
trung vào các nguồn trật tự ở cấp độ vĩ mô trong cấu trúc xã hội và văn
hoá và có nhiều quan tâm đến các khuôn mẫu hành động ở cấp độ vi mô hơn. Thuyết
tân chức năng cũng ủng hộ một nhận thức
rộng rải về hành động, không chỉ bao gồm các hành động lý trí mà cả các hành
động diễn cảm.
Thứ ba, thuyết tân chức năng phụ hồi
mối quan tâm của thuyết CNCT vào sự hoà hợp, không phải là một thực tế đã hoàn
thành mà là một khả năng xã hội! Nó nhận ra rằng sự lầm lạc và sự kiểm soát xã
hội là các thực thể trong các hệ thống xã hội. Có sự quan tâm tới tính cân bằng
trong thuyết tân chức năng, nhưng nó rộng hơn quan tâm của thuyết CNCT, bao gồm
cả các cân bằng động cân bằng cục bộ. Có một sự miễn cưỡng trong việc xem các
hệ thống xã hội như được định tính bởi
tính cân bằng tĩnh. Tính cân bằng, được xác định một cách rộng rãi, như là một điểm tham chiếu cho phân tích chức
năng chứ không phải miêu tả các cuộc
sống của các cá thể trong các hệ thống xã hội thật sự.
Thứ tư, thuyết tân chức năng chấp
nhận nhấn mạnh của thuyết Parsons truyền thống về cá tính, văn hoá, và hệ thống
xã hội. Ngoài việc là sự sống còn đối với cấu trúc xã hội, sự thâm nhập của các
hệ thống này cũng tạo ra sự căng thẳng là một nguồn hiện hữu của cả sự biến đổi
và sự kiểm soát.
Thứ năm, thuyết tân chức năng tập
trung vào biến đổi xã hội trong các quá trình phân biệt trong phạm vi các hệ
thống xã hội, văn hoá, và cá tính. Như vậy, sự biến đổi không sản sinh ra sự
tuân thủ và sự hoà hợp mà là “ các căng thẳng của sự cá tính hoá và thể chế
hoá”.
Cuối cùng, Alexander lý luận rằng
thuyết tân chức năng “hàm ý trách nhiệm đối với sự độc lập của khái niệm hoá và
lý thuyết hoá từ các cấp độ khác nhau của phân tích xã hội học”.
Trong khi Alexder cố gắng phác họa
thuyết tân chức năng trong phạm vi chung, mang tính chưong trình, Colomy xử lý
một cách cụ thể hơn với một lý thuyết CNCT cải biên về sự biến đổi. Ông lý luận
rằng thuyết CNCT về sự biến đổi (“lý thuyết phân biệt”) xuất phát từ lý thuyết
Parsons có ba yếu kém cơ bản. Trước hết, nó mang tính chất trừu tượng cao độ và
thiếu các đặc điểm cụ thể về thực nghiệm và lịch sử. Thứ hai, nó không dành đủ
quan tâm tới các nhóm và các tiến trình xã hội cụ thể hoặc tới quyền lực và
xung đột. Thứ ba, nó quá đề cao sự hòa hợp sản sinh bởi biến đổi xã hội.
Kết quả của các phê phán này là lý
thuyết CNCT về sự biến đổi đã thực hiện nhiều lần tu chỉnh. Đầu tiên, khuynh
hướng nguyên thủy chủ đạo (sự phân biệt tiếp diễn) đã được bổ sung với một phân
tích về các lầm lạc có tính khuôn mẫu từ xu hướng đó. Ví dụ, ngoài sự phân
biệt, các xã hội còn trải qua sự giảm thiểu
phân biệt (dedifferentiation), hoặc “một kiểu biến đổi cấu trúc loại bỏ sự
phức tạp của xã hội và đi tới các cấp độ ít phân biệt của cấu trúc xã hội”.
Những sự giảm thiểu phân biệt này dường như diễn ra như là kết quả của sự bất
mãn với sự hiện đại hóa. Cũng quan trọng là “sự phát triển không bình đẳng”
xuyên qua các phạm vi thể chế khác nhau cũng như “sự phân biệt không bình đẳng”
trong phạm vi một thể chế đơn lẻ. Sự phân
biệt không bình đẳng (uneven differentiation) “chỉ tỷ lệ và mức độ khác
nhau của sự phân biệt của một thể chế đơn lẻ… Khái niệm này cho thấy ra rằng xu
hướng chủ yếu của sự biến đổi tiến tới một tỷ lệ và mức độ chênh lệch nhau
xuyên qua các khu vực riêng biệt của một xã hội”.
Thứ hai, các nhà cải biên này đã đẩy
lý thuyết phân biệt tới một quan tâm hơn đối với việc các nhóm cụ thể có ảnh
hưởng tới sự biến đổi ra sao, cũng như
sự biến đổi bị ảnh hưởng ra sao bởi các nhân tố như quyền lực, xung đột,
và ngẫu nhiên. Các nhóm cụ thể khác nhau được nhận dạng là những kẻ chủ mưu của
biến đổi theo chiều hướng phân biệt lớn hơn, khi có những nhóm đứng ở vị trí
đối lập lại biến đổi đó. Quan điểm của nhà cải biên dẫn tới một tiêu điểm vào
xung đột giữa các nhóm xuyên qua tiến trình phân biệt và các hình thức mà một
giải pháp cho xung đột đó có thể khoác lấy. Chi tiết lớn về lịch sử và thực
nghiệm được đưa ra trong các nghiên cứu này về các nhóm cạnh tranh liên quan
đến quá trình của sự phân biệt. Tác phẩm
cũng từ bỏ một đề cao vào sự hòa hợp để hương tới, theo thuật ngữ của Parsons,
“một quan tâm được duy trì liên tục về các mâu thuẫn chủ yếu và các mối căng
thẳng gắn liền với sự phân biệt giữa và trong các hệ thống văn hóa, xã hội, cá
tính”. Các nỗ lực này, theo quan điểm của Colomy, dẫn tới một nền tảng giải
thích dễ hiểu hơn đối với việc phân tích sự phân biệt.
Thứ ba, lý thuyết phân biệt trước đó
tập trung vào tính hiệu quả và tính hồi phục như là các ảnh hưởng chủ yếu của
quá trình phân biệt, nhưng các tác phẩm gần đây hơn đã vạch ra một dãy rộng hơn
nhiều các hệ quả có thể có.
Có thể lý luận rằng dù lý thuyết
phân biệt đã được mở rộng, nó cũng đã mất đi hương vị riêng biệt của nó với
tiêu điểm mới tìm thấy tập trung vào xung đột và cạnh tranh của nó. Khá nhiều
cái đã bị vay mượn từ các truyền thống trí thức khác đến nỗi người ta tự hỏi loại
tiếp cận được mô tả có thể, hoặc nên được gán cho cái tên “thuyết CNCT” hoặc
thậm chí “tân chức năng” hay không.
Gần đây hơn, Colomy và Rhoades đã lý
luận rằng thuyết phân biệt cần đi tới một hướng hòa hợp khác. Nghĩa là, “xu
hướng vĩ mô” của thuyết phân biệt
cần được khắc phục bằng cách vạch ra một
“hiệu chỉnh vi mô” . Rút từ các tác phẩm trước của thuyết CNCT, Colomy và
Rhoades cho rằng thuyết phân biệt bắt đầu sự hiệu chỉnh này bởi, trong số các
điều khác, việc hòa hợp một sự chú ý tới các cá thể và các nhóm nhỏ có vai trò
dẫn tới sự biến đổi xã hội- “những ông
chủ hãng buôn thể chế”. Đây là những “movers
and shakers”, những kẻ ở các vị trí chiến lược, tạo ra những “lực thúc và
chiều hướng” cho quá trình phân biệt. Đặc biệt, “các ông chủ hãng buôn thể chế” được định tính bởi năng lực của họ
để “kết tinh các định hướng biểu tượng rộng lớn theo những cách thức mới, các
mục tiêu khớp nối cụ thể, và xây dựng các khuôn mẫu tổ chức và chuẩn mực mới để
theo đuổi những mục đích thiết chế của họ”. Người ta không nên chỉ tập trung
vào những nhà cải cách này, mà cả vào các quá trình vi mô ở sự liên kết mà họ
hình thành, cũng như các trao đổi trong và giữa họ các đồng minh và đối thủ của
họ. Với sự hiệu chỉnh này, Colomy và Rhoades nhận thức rằng sự phân biệt không
chỉ đơn giản phụ thuộc vào sự thích nghi của hệ thống đối với môi trường của nó
ở cấp độ vĩ mô, mà cũng còn tùy thuộc vào các hành động ở cấp độ vi mô do những
“ông chủ hãng buôn thể chế” thực hiện.
Quay lại thuyết tân chức năng nói
chung, Alexander và Colomy ấn định một yêu cầu đầy tham vọng cho nó. Họ không
xem thuyết tân chức năng, theo cách dùng từ của họ, là một sự phái sinh hay cải
biên giản dị vừa phải của thuyết CNCT, mà là một sự tái thiết lập sâu xa hơn
nhiều của thuyết này, trong đó những sự khác biệt với người sáng lập (tức
Parsons) là rõ ràng nhận biết và những cơ hội hiển hiện được tạo ra cho các lý
thuyết và lý thuyết gia khác.[1]
Có nhiều nỗ lực được thực hiện để hòa nhập các nhận thức của thuyết chức năng
với các tác phẩm của bậc thầy, ví dụ, tác phẩm của Marx về cấu trúc vật chất,
và của Durkheim về thuyết biểu tượng. Trong nỗ lực khắc phục xu hướng duy tâm
của thuyết CNCT Parsons, đặc biệt là sự nhấn mạnh của nó tới các hiện tượng vĩ
mô khách quan như văn hóa, nhiều cách tiếp cận duy vật đã được vận dụng. Xu
hướng chức năng-cấu trúc đề cao trật tự bị phản đối bởi một lời kêu gọi lập lại
mối quan hệ hữu nghị giữa các lý thuyết về biến đổi xã hội. Quan trọng hơn, để
bù cho các xu hướng cấp độ vĩ mô của thuyết CNCT truyền thống, nhiều nỗ lực đã
được thực hiện để hòa hợp các tư tưởng từ thuyết trao đổi, thuyết tương tác
biểu tượng, chủ nghĩa thực dụng, hiện tượng luận,vv… Nói cách khác, Alexander
và Colomy kêu gọi tán thành sự tổng hợp hóa thuyết CNCT với một số các truyền
thống lý thuyết khác. Một sự tái thiết như thế có thể vừa cải biên thuyết CNCT
vừa cung cấp cơ sở cho sự phát triển một truyền thống lý thuyết mới.
Alexander và Colomy nhận ra một khác
biệt quan trọng giữa thuyết tân chức năng và thuyết CNCT:
Khảo sát chức năng trước đây được dẫn dắt bởi… sự hình
dung một lược đồ riêng lẻ, bao quát mọi khái niệm ràng buộc các lĩnh vực của
khảo sát chuyên biệt vào một cái thùng hàng đóng chặt. Cái mà tác phẩm thực
nghiệm của nhà tân chức năng luận hướng tới, trái lại, là một thùng hàng có tổ
chức nới lỏng, một thùng hàng được tổ chức bao quanh một luận lý chung và chiếm
hữu một số những “sự nảy sinh” và “sự biến thiên” tự trị ở các cấp độ khác nhau
và trong các lĩnh vực thực nghiệm khác nhau.
Các suy nghĩ của Alexander và Colomy
thể hiện sự vận động ra khỏi xu hướng của Parsons để xem thuyết CNCT như là một
lý thuyết bao quát lớn. Thay vào đó, họ đưa ra một lý thuyết giới hạn, tổng hợp
hơn, nhưng vẫn là một lý thuyết chỉnh thể.
Tuy nhiên, như đã chỉ ra ở phần mở
đầu chương này, tương lai của thuyết tân chức năng đã rơi vào vòng nghi vấn bởi
sự thật là người sáng lập ra nó và phát ngôn viên hàng đầu của nó, Jeffrey
Alexander, đang làm sáng tỏ rằng ông đã đi ra khỏi định hướng tân chức năng. Sự
chuyển hướng tư duy này rất hiển nhiên trong cái tên của một tác phẩm sắp công
bố nay mai, Thuyết tân chức năng và Sau
đó, Alexander lý luận trong tác phẩm đó rằng một trong các mục tiêu chính
của ông là việc (tái) thiết lập tính chính thống và tầm quan trọng của lý
thuyết Parsons. Tới mức độ mà thuyết tân chức năng đã thành công trong nỗ lực
này, Alexander xem dự án về tân chức năng luận đã hoàn tất. Do vậy, ông sẵn
sàng để đi ra ngoài Parsons, ra ngoài thuyết tân chức năng, dù ông nói một cách
đơn giản rằng các hướng đi lý thuyết tương lai của ông sẽ chịu món nợ sâu nặng
từ cả hai lý thuyết này. Thuyết tân chức năng đã trở nên quá hạn chế đối với
Alexander, và giờ đây ông xem nó, cũng như tác phẩm của ông, là một phần của
cái ông từng gọi là “phong trào lý thuyết mới”. Một viễn cảnh lý thuyết như thế
thậm chí có thể còn tổng hợp hơn thuyết tân chức năng, và có tính chiết trung
hơn, rút ra từ các nguồn lý thuyết khác nhau, và nó sẽ sử dụng các nguồn tổng
hợp và chiết trung này theo nhiều cách thức có tính chất cơ hội hơn. Cụ thể,
Alexander tìm cách làm việc nhiều hơn nữa với các phát triển trong lý thuyết
văn hóa và vi- xã hội học.
Đáng lưu ý là Alexander ngày càng
quan tâm đến vấn đề “xã hội dân sự”
(civil society) ngay dù vấn đề này không rơi vào các hạn chế của thuyết tân
chức năng. Mối quan tâm của Alexander tự nó có ý nghĩa quan trọng, cũng như đối
với thực tế là vấn đề này đang trở nên được quan tâm trong xã hội học nói
chung. Đối với các mục đích của chúng tôi, chúng tôi có thể làm việc với định
nghĩa của Alexander về xã hội văn minh như là “lĩnh vực của sự tương tác, các
thể chế, và sự liên kết đã duy trì đời sống cộng đồng của các xã hội ở bên
ngoài các thế giới của kinh tế và nhà nước”.
Không như phần lớn các quan tâm của các nhà xã hội học, tiêu diểm ở đây
không phải là các thể chế xã hội, mà là cái đi ra bên ngoài các thể chế này. Xã
hội dân sự, đối với Alexander, bao gồm một sự quan tâm đến cả tính tự giác cá
nhân và sự liên kết cộng đồng. Bị đe dọa bởi cả hai trong phạm vi thế giới
đương thời, cũng như sự thất bại lan rộng của các thể chế khác nhau, tiêu điểm
của nhiều lý thuyết gia xã hội học đã chuyển sang mối quan tâm tới xã hội dân
sự.
Dù chỉ trong những giai đoạn đầu
tiên, tư duy của Alexander về xã hội dân sự thể hiện một tiêu điểm chủ yếu nằm
ngoài thuyết tân chức năng. Trong khi ông rõ ràng đang rút ra từ các truyền
thống của CNCT và tân chức năng, Alexander cũng đang đi tới một nền tảng lý
thuyết mới với tác phẩm của ông về xã hội dân sự. Dù số phận của tác phẩm ra
sao, sự chuyển hướng của ông đưa người ta đến chỗ đặt dấu hỏi về tương lai của
thuyết tân chức năng. Mọi sự vật vận động một cách nhanh chóng trong xã hội học
đương thời và có thể rằng cái là một phong trào mới sâu sắc chỉ 10 năm trước
đây ngày nay đã trở nên một bộ phận của lịch sử cận đại của chúng ta.
THUYẾT XUNG ĐỘT
Lý thuyết xung đột có thể
được xem là một bước phát triển đã diễn ra, phần nào đó, từ phản ứng đối với
thuyết CNCT, và là kết quả của nhiều phê phán đã thảo luận bên trên. Tuy nhiên,
cần chú ý rằng thuyết xung đột có nhiều nguồn gốc khác nhau, như thuyết Marx và
tác phẩm của Simmel về xung đột xã hội. Trong những năm 1950 và 1960, thuyết
xung đột cung cấp một sự thay thế cho thuyết CNCT, nhưng rồi đã bị loại bỏ
trong những năm gần đây bởi nhiều lý thuyết tân Marxist (xem chương 4). Thật
sự, một trong những cống hiến chủ yếu của thuyết xung đột là phương thức đặt
nền tảng cho các lý thuyết trung thành hơn với tác phẩm của Marx, các lý thuyết
trở nên thu hút đối với lượng độc giả rộng rãi trong xã hội học. Vấn đề cơ bản
với thuyết xung đột là nó chưa bao giờ thành công trong việc tự ly khai hoàn
toàn khỏi nguồn gốc chức năng-cấu trúc của nó. Nó là một loại thuyết CNCT bị
lộn ngược đầu xuống đất hơn là một lý thuyết phê phán xã hội thật sự.
Tác
phẩm của Ralf Dahrendorf
Như các nhà chức năng luận, các lý
thuyết gia xung đột có định hướng tới việc nghiên cứu về các cấu trúc và thể
chế xã hội. Chủ yếu, lý thuyết này không có gì ngoài những luận điểm thường
trái ngược hẳn với các quan điểm của chức năng luận. Tính phản chứng này được
minh họa rõ nét trong tác phẩm của Ralf Dahrendorf, trong đó các nguyên lý của
lý thuyết xung đột và chức năng là liền kề nhau. Đối với các nhà chức năng, xã
hội có trạng thái tĩnh, hoặc, khá nhất, là trong một trạng thái chuyển động
thăng bằng, nhưng đối với Dahrendorf và các lý thuyết gia xung đột, mọi xã hội
ở mọi thời điểm đều hướng tới các quá trình biến đổi. Khi các nhà chức năng
nhấn mạnh tính trật tự của xã hội, các lý thuyết gia xung đột thấy có sự bất
đồng và xung đột ở bất kỳ điểm nào trong hệ thống xã hội. Các nhà chức năng (hay
ít nhất là các nhà chức năng thời kỳ đầu) lý luận rằng mọi nguyên tố đều góp
phần vào sự bền vững; các nhà xung đột thấy có nhiều nguyên tố góp phần vào sự
bất đồng và biến đổi.
Các nhà chức năng có xu hướng coi xã
hội được duy trì nối kết nhau bởi các tiêu chí, các giá trị, và nền đạo đức
chung. Các nhà xung đột thấy dù có bất kỳ thứ trật tự nào trog xã hội, nó đều
nảy ra từ sự áp bức của một số người ở vị trí trên cùng. Trong khi các nhà chức
năng tập trung vào sự cố kết tạo ra bởi các giá trị xã hội chung, các nhà xung
đột nhấn mạnh vai trò của quyền lực trong việc duy trì trật tự xã hội.
Dahrendorf là người phát ngôn chính
của quan điểm rằng xã hội có hai mặt (xung đột và liên ứng), và rằng lý thuyết
xã hội học do đó phải bị chia thành hai bộ phận, lý thuyết xung đột và lý
thuyết liên ứng. Các lý thuyết gia liên ứng
kiểm chứng các giá trị hòa hợp trong xã hội, và các lý thuyết gia xung
đột kiểm chứng các xung đột về lợi nhuận và sự áp bức đã giữ xã hội lại với
nhau trong mặt trái của những dồn nén
này. Dahrendorf nhận ra rằng xã hội không thể tồn tại mà không có xung đột và
liên ứng, đó là những điều kiện tiên quyết đối với từng xã hội. Như vậy, chúng
ta không thể có xung đột trừ phi trước đó đã có một liên ứng nào đó. Ví dụ, các bà nội trợ Pháp hầu như
không bao giờ có thể có xung đột với những nhà đấu cờ Chi-lê, vì không có liên
hệ tiếp xúc gì giữa họ, không có một hòa hợp có trước để làm cơ sở cho một xung
đột. Đảo lại, xung đột có thể dẫn tới liên ứng và hòa hợp. Một ví dụ là sự liên
minh giữa Hoa Kỳ và Nhật phát triển sau Thế chiến II.
Dù có mối tương quan giữa liên ứng
và xung đột, Dahredorf không lạc quan về sự phát triển một lý thuyết xã hội học
đơn lẻ bao gồm cả hai quá trình này: “Dường như
ít nhất có thể cho rằng sự hợp nhất lý thuyết đó là bất khả thi ở một
điểm làm rối trí các nhà tư tưởng kể từ dạo khởi đầu của triết học Phương Tây”.
Tránh một lý thuyết đơn, Dahrendorf tìm cách xây dựng một lý thuyết xung đột xã
hội. (Ông gọi xung đột và áp bức là “mặt xấu xa của xã hội”).[2] Dahrendorf bắt đầu với, và bị ảnh hưởng
nặng nề bởi, thuyết CNCT. Ông lưu ý rằng đối với nhà chức năng luận, hệ thống
xã hội được nối giữ với nhau bởi sự cộng tác hăọc sự liên ứng chung hoặc cả
hai. Tuy nhiên, đối với lý thuyết gia xung đột (hoặc áp bức), xã hội được nối
giữ bởi “sự kềm hãm bắt buộc”; do vậy, một số vị trí trong xã hội áp chế quyền
lực và thẩm quyền lên những người khác. Thực tế này của đời sống xã hội dẫn
Dahrendorf tới luận đề trung tâm của ông là sự khác biệt trong phân bố thẩm
quyền “đã luôn luôn trở thành nhân tố quyết định của các xung đột có tính hệ
thống của xã hội”.
Thẩm quyền. Dahrendorf tập trung vào các cấu trúc xã hội
lớn. Trung tâm của luận đề của ông là ý tưởng rằng các vị trí khác nhau trong
xã hội có một số lượng quyền hạn khác nhau. Quyền hạn không tập trung vào các
cá thể mà vào các chức vụ. Dahrendorf chú ý không chỉ cấu trúc của các vị trí
này mà cả xung đột giữa chúng: “Nguồn gốc cấu trúc của các xung đột này phải
được tìm kiếm trong sự sắp xếp các vai trò xã hội được phú cho với những triển
vọng về sự thống trị hay bị khuất phục”. Công việc đầu tiên của phân tích xung
đột, theo Dahrendorf, là nhận dạng các vai trò quyền hạn khác nhau trong xã
hội. Ngoài việc tạo ra cơ sở cho sự nghiên cứu các cấu trúc vĩ mô như các vai
trò quyền hạn, Dahrendorf phản đối những ai tập trung vào cấp độ cá thể. Ví dụ,
ông phê phán những người tập trung vào các đặc điểm tâm lý hoặc hành vi của các
cá thể nắm giữ các vị trí đó. Ông đi quá xa khi nói rằng những người đi theo
cách tiếp cận như thế không phải là những nhà xã hội học.
Thẩm quyền gắn liền với các vị trí
là nguyên tố chủ chốt trong phép phân tích của Dahrendorf. Thẩm quyền luôn luôn
bao hàm ý nghĩa cả về cấp trên và cấp dưới. Những người chiếm giữ các vị trí có
thẩm quyền luôn được kỳ vọng để kiểm soát cấp dưới; nghĩa là, họ thống trị bởi
vì các kỳ vọng của những người xung quanh, chứ không phải bởi vì các đặc điểm
tâm lý của riêng họ. Giống như thẩm quyền, các kỳ vọng này gắn liền với các vị
trí, chứ không phải với con người. Thẩm quyền không phải là một hiện tượng xã
hội phổ biến; những người được cử ra kiểm soát, cũng như các địa hạt được phép
kiểm soát, là cụ thể trong xã hội. Cuối cùng, vì thẩm quyền có tính chính
thống, hình phạt có thể được đem ra áp dụng cho những ai không tuân phục nó.
Thẩm quyền không là bất biến, theo
quan tâm của Dharendorf, vì nó tập trung vào vị trí chứ không phải những con
người. Do vậy, một cá nhân có quyền hạn ở một hệ thống không cần nắm giữ một vị trí quyền hạn ở một hệ thống khác.
Tương tự, một cá nhân ở vị trí cấp dưới
trong một nhóm có thể ở vị trí cấp trên trong một nhóm khác. Điều này đến từ
lập luận của Dahrendrof rằng xã hội bao gồm một số đơn vị mà ông gọi là “các tổ chức cộng đồng cưỡng chế”
(imperative coordinated associations). Chúng có thể được coi là các tổ chức của
mọi người được kiểm soát bởi môt hệ thống thứ bậc về vị trí quyền hạn. Vì xã
hội chứa đựng nhiều tổ chức như thế, một cá thể có thể nắm giữ một vị trí thẩm
quyền ở tổ chức này và là một thuộc cấp ở tổ chức khác.
Thẩm quyền trong mỗi tổ chức có tính
lưỡng phân; như vậy hai, và chỉ có hai, nhóm xung đột có thể được hình thành
trong bất kỳ xã hội nào. Những nhóm trong các vị trí có quyền hạn và những nhóm
trong các vị trí thuộc cấp theo đuổi những mối quan tâm cụ thể, đó là “sự mâu
thuẫn về bản chất và chiều hướng”.
Ở
đây chúng ta chạm trán một thuật ngữ chủ chốt khác trong thuyết xung đột- các mối quan tâm (interests). Các nhóm ở
đỉnh và các nhóm ở đáy được xác định bởi các mối quan tâm chung. Dahrendorf
tiếp tục khẳng quyết trong tư tưởng của ông, rằng ngay cả các mối quan tâm này,
nghe có vẻ mang tính chất tâm lý, về cơ bản là các hiện tượng vĩ mô:
Vì các mục đích của phân tích xã hội học về các nhóm
xung đột, cần thiết phải giả thiết rằng các định hướng nảy sinh mang tính cấu
trúc của các hành động của những người có chức vụ ở những vị trí nhất định.
Bằng cách loại suy đối với các định hướng ý thức (“chủ quan”) của hành động, có
vẻ hợp lý khi diễn tả những định hướng này là những mối quan tâm… Giả thiết về
các quan tâm “khách quan” gắn với các vị trí xã hội không có các ngụ ý về mặt
tâm lý học hay sự phân nhánh; nó tùy thuộc vào cấp độ phân tích đúng đắn xã hội
học.
Trong mỗi tổ chức, những người ở các
vị trí thống trị tìm cách duy trì nguyên trạng trong khi những người ở các vị
trí phụ thuộc tìm cách thay đổi. Một xung đột về mối quan tâm trong bất kỳ tổ
chức nào tối thiểu cũng tiềm ẩn trong mọi lúc, có nghĩa là tính chính thống của
thẩm quyền luôn luôn ở tình trạng bấp bênh. Sự xung đột ở mối quan tâm này
không cần được ý thức để những người cấp trên hay những người cấp dưới hành
động. Các mối quan tâm của những người cấp trên và của những người cấp dưới có
tính chất khách quan trong nghĩa chúng được phản ánh trong các kỳ vọng (vai
trò) gắn liền với các vị trí. Các cá thể không cần chủ quan hóa các kỳ vọng này
hay thậm chí ý thức về chúng để hành động hòa hợp với chúng. Nếu họ nắm giữ các
vị trí được giao, họ sẽ phải cư xử theo cung cách được kỳ vọng. Các cá thể bị
“điều chỉnh” hoặc “thích ứng” với vai trò của họ khi họ góp phần vào mối xung
đột giữa những người cấp cao và nhũng người cấp dưới. Dahrendorf gọi những kỳ
vọng vai trò vô ý thức này là các quan tâm tiềm ẩn. Các quan tâm biểu lộ là
những quan tâm tiềm ẩn đã được ý thức. Dahrendorf thấy phân tích về mối liên
kết giữa các quan tâm tiềm ẩn và biểu lộ là một công việc chủ yếu của thuyết
xung đột. Dù sao, các actors không cần ý thức về những quan tâm của họ để hành
động phù hợp với chúng.
Kế tiếp, Dahrendorf phân biệt ba
kiểu nhóm rộng. Kiểu thứ nhất là nhóm gần
như nhóm (quasi-group), hoặc “tập hợp những người giữ chức vụ ở các vị trí
với các quan tâm vai trò đồng nhất”. Đây là những cơ sở bổ sung cho kiểu nhóm
thứ hai - nhóm quan tâm (interest
group). Dahrendorf diễn tả hai nhóm này:
Các kiểu mẫu chung của hành vi có đặc tính của các nhóm quan tâm được bổ sung từ các nhóm gần như nhóm lớn. Các nhóm quan tâm
là các nhóm theo nghĩa tuyệt đối của thuật ngữ xã hội học; và chúng là những
tác nhân thực sự của xung đột nhóm. Chúng có một cấu trúc, một hình thức tổ chức,
một chương trình hoặc mục tiêu, và một bộ phận tổ chức các thành viên.
Từ
tất cả những nhóm quan tâm đó nảy sinh các nhóm
xung đột, hoặc các nhóm thực sự có
liên quan tới sự xung đột nhóm.
Dahrendorf
cảm thấy rằng các khái niệm về các quan tâm tiểm ẩn và biểu lộ, các nhóm gần
như nhóm, các nhóm quan tâm, các nhóm xung đột, là cơ sở để giải thích xung đột
xã hội. Dưới các điều kiện lý tưởng, không cần có một biến cố nào khác. Tuy
nhiên, vì các điều kiện không bao giờ lý tưởng, nhiều yếu tố khác có sự can
thiệp đến quá trình. Dahrendorf lưu ý
đến các điều kiện kỹ thuật như nhân sự phù hợp, các điều kiện chính trị như
thời tiết chính trị tổng quát, và các điều kiện xã hội như sự tồn tại của các
nối kết thông tin. Cách thức mọi người được bổ sung vào các nhóm gần như nhóm
là một điều kiện xã hội quan trọng khác đối với Dahrendorf. Ông cảm thấy nếu sự
bổ sung ít xảy ra và bị quyết định bởi các cơ may, khi đó một nhóm quan tâm, và
cuối cùng là một nhóm xung đột, ít khi được nảy sinh. Trái với Marx, Dahrendorf
không cảm thấy giới vô sản lưu manh có thể cuối cùng tạo thành một nhóm xung
đột, vì mọi người bị bổ sung vào nó từ các cơ hội. Tuy nhiên, khi sự bổ sung
vào nhóm gần như nhóm được quyết định về mặt cấu trúc, các nhóm này cung cấp
những cơ sở bổ sung phong phú cho các nhóm quan tâm, và, trong một số trường
hợp, cho các nhóm xung đột.
Khía
cạnh cuối cùng của thuyết xung đột là quan hệ giữa xung đột và biến đổi. Ở đây
Dahrendorf nhận ra tầm quan trọng của tác phẩm của Lewis Coser (xem phần kế
tiếp), trong đó tập trung vào các chức năng của xung đột trong việc duy trì
hiện trạng. Dahrendorf cảm thấy, tuy nhiên, chức năng bảo thủ của xung đột chỉ
là một bộ phận của thực tại xã hội; xung đột cũng dẫn tới biến đổi và phát
triển.
Nói
tóm lại, Dahrendorf lý luận rằng một khi các nhóm xung đột nảy sinh, chúng thực
hiện các hành động dẫn tới các biến đổi trong cấu trúc xã hội. Khi xung đột trở
nên căng thẳng, các biến đổi diễn ra nhanh chóng. Khi nó gắn liền với bạo lực,
biến đổi cấu trúc sẽ xảy ra đột ngột. Dù bản chất của xung đột là gì đi nữa,
các nhà xã hội học phải hòa hợp giữa xung đột và biến đổi cũng như giữa xung
đột và hiện trạng.
Các phê phán chính
Thuyết
xung đột bị phê phán bởi nhiều lý lẽ khác nhau. Ví dụ, nó đã bị tấn công vì bỏ
qua trật tự và tính bền vững, trong khi thuyết CNCT bị phê phán vì đã bỏ qua
xung đột và thay đổi. Thuyết xung đột cũng bị phê phán vì tính chất duy tâm cấp
tiến, trong khi thuyết CNCT bị phê phán vì tính duy tâm bảo thủ của nó. So với
thuyết CNCT, thuyết xung đột chậm phát triển hơn một ít. Nó không phức tạp bằng
thuyết CNCT, có lẽ vì nó là một thuyết có tính phái sinh hơn.
Thuyết xung đột của Dahrendorf chịu
một số phân tích phê phán, bao gồm một số phản ánh phê phán của chính bản thân
ông. Đầu tiên, kiểu mẫu của Dahrendorf
là một phản ánh không rõ lắm của các ý tưởng Marx như ông xác nhận. Thực
tế, như chúng ta sẽ xem xét vắn tắt sau, nó tạo lập một bản chuyển dịch không
tương xứng lý thuyết Marx sang xã hội học. Thứ hai, như đã lưu ý, thuyết xung
đột có nhiều điểm chung với thuyết CNCT hơn là thuyết Marx. Nhấn mạnh của
Dahrendorf tới những thứ như các hệ
thống (các tổ chức cộng đồng cưỡng chế), các vị trí, và các vai trò trực tiếp
gắn liền ông với thuyết CNCT. Kết quả là lý thuyết của ông chịu nhiều sự bất
tương xứng giống như thuyết CNCT. Ví dụ, sự xung đột hình như nảy sinh một cách
bí ẩn từ các hệ thống chính thống (tương tự như ở thuyết CNCT). Hơn nữa, thuyết
xung đột hình như chịu phê phán từ nhiều vấn đề mang tính khái niệm và logic
(ví dụ, các khái niệm mơ hồ, các lặp thừa) giống như ở thuyết CNCT. Cuối cùng,
tương tự thuyết CNCT, thuyết xung đột gần như hoàn toàn có tầm vĩ mô, và kết
quả là chẳng mang lại gì nhiều cho nhận thức của chúng ta về tư duy và hành
động của cá thể.
Cả thuyết chức năng và thuyết xung
đột của Dahrendorf đều không tương xứng, vì mỗi thuyết có ích cho chính nó
trong việc giải thích chỉ một bộ phận cấu thành của đời sống xã hội. Xã hội học
phải có khả năng giải thích trật tự cũng như xung đột, cấu trúc cũng như biến
đổi. Thực tế cuối cùng này đã thúc đẩy nhiều nỗ lực để điều hòa thuyết chức
năng và thuyết xung đột. Dù không có nỗ lực nào hoàn toàn thỏa đáng, các nỗ lực
này ít nhất cũng đề xuất ra một số sự nhất trí giữa các nhà xã hội học rằng cái
cần thiết là một lý thuyết giải thích được cả hai mặt liên ứng và bất đồng. Tuy
nhiên, không phải tất cả các nhà xã hội học đều tìm cách điều hòa các viễn cảnh
xung đột này. Dahrendorf, ví dụ, nhìn thấy chúng như là những viễn cảnh có thể
thế nhau được vận dụng tùy theo hòan cảnh. Theo ông, khi chúng ta quan tâm tới
xung đột, chúng ta nên sử dụng thuyết xung đột; khi chúng ta muốn xem xét trật
tự, chúng ta nên theo một viễn cảnh chức năng. Lập trường này dường như không
thỏa đáng, vì có một nhu cầu mạnh mẽ đối với một viễn cảnh lý thuyết cho phép chúng
ta đồng thời xử lý cả xung đột và trật tự.
Các phê phán thuyết xung đột và
thuyết CNCT, cũng như các hạn chế vốn có của chúng, dẫn tới nhiều nỗ lực để đối
phó với các vấn đề bằng cách điều hòa hay hòa hợp hai lý thuyết này. Giả thiết
là một kết hợp nào đó giữa hai lý thuyết sẽ có hữu hiệu hơn chỉ là một đơn lẻ.
Nổi tiếng nhất trong các tác phẩm này là cuốn Các chức năng của xung đột xã hội của Lewis Coser.
Tác phẩm thời đầu có ảnh hưởng lớn
về các chức năng của xung đột xã hội được thực hiện bởi Georg Simmel, nhưng nó
đã được mở rộng bởi Coser, ông lý luận rằng xung đột có thể củng cố thêm một
nhóm có cấu trú lỏng lẻo. Trong một xã hội dường như không hòa hợp, xung đột
với một xã hội khác có thể khôi phục lại nền tảng hòa hợp. Sự cố kết của người Do
Thái Israel có thể quy cho, ít nhất là phần nào, mối xung đột kéo dài với dân
tộc Ả-rập ở vùng Trung Động. Kết thúc khả dĩ của cuộc xung đột là có thể làm
trầm trọng thêm tình trạng căng thẳng ẩn náu bên dưới xã hội Israel. Xung đột
như là một tác nhân đối với việc củng cố xã hội là một ý tưởng từ lâu đã được
những nhà tuyên truyền, những kẻ có thể xây dựng lên một kẻ thù ở nơi không hề
có kẻ thù nào cả hoặc kiếm cách cổ động cho sự tuyên truyền hướng tới một đối
thủ không hoạt động.
Sự xung đột với một nhóm có thể giúp
tạo ra sự cố kết bằng cách dẫn tới một loạt những liên minh với các xã hội
khác. Ví dụ, sự xung đột với người Ả –rập đã dẫn tới sự liên minh giữa Mỹ và
Israel. Sự tiếp tục giảm thiểu mối xung đột Israel-Ả rập có thể làm yếu đi mối
liên kết giữa Israel và Mỹ.
Trong một xã hội, xung đột có thể
đẩy một số cá thể bị cách ly vào vai trò tích cực. Sự phản đối chiến tranh Việt
Nam lần đầu tiên đã thúc đẩy nhiều người trẻ tuổi chiếm giữ những vai trò sôi
nổi trong đời sống chính trị Mỹ. Với sự kết thúc của xung đột đó, một tinh thần
lãnh đạm lại nảy sinh trong giới trẻ Mỹ.
Xung đột cũng phục vụ cho một chức
năng liên lạc. Trước xung đột, các nhóm có thể không bảo đảm về lập trường của
đối thủ, nhưng như là một kết quả của xung đột, các lập trường và ranh giới
giữa các nhóm thường trở nên rõ ràng. Các cá thể do đó có khả năng tốt hơn để
quyết định một hành động đúng đắn trong quan hệ đối với kẻ thù của họ. Xung đột
cũng cho phép các phe có một ý tưởng tốt hơn về sức mạnh tương đối của họ và có
thể tăng cường hơn khả năng nối lại tình hữu nghị hoặc hòa giải với nhau.
Từ một viễn cảnh lý thuyết, có thể
kết hợp thuyết chức năng và thuyết xung đột bằng cách nhìn vào các chức năng
của xung đột xã hội. Cũng vẫn phải nhận thấy rằng xung đột có những phản chức
năng.
Trong khi một số lý thuyết gia tìm
cách hòa hợp thuyết xung đột với thuyết CNCT, những người khác không muốn phần
nào của thuyết xung đột (hoặc thuyết CNCT). Ví dụ, nhà Marxist André Gunder
Frank chối bỏ thuyết xung đột vì nó thể hiện một hình thức không tương xứng của
lý thuyết Marx. Dù thuyết xung đột có một số nguyên tố của thuyết Marx, nó
không phải là kẻ kế thừa thực sự của thuyết Marx nguyên thủy. Trong chương kế
tiếp chúng ta sẽ xem xét một loạt lý thuyết là những kẻ kế thừa chính thống
hơn. Tuy nhiên, trước đó, chúng ta phải xử lý một kiểu hòa hợp thành công hơn
của thuyết xung đột.
Một thuyết xung đột có tính chất
hòa hợp hơn
Nhân vật chủ yếu trong nỗ lực phát
triển một thuyết xung đột có tính tổng hợp và hòa hợp hơn là Randall Collins.
Tác phẩm Xã hội học xung đột của
Collins có tính hòa hợp cao độ vì nó đi theo một định hướng vi mô nhiều hơn
thuyết xung đột vĩ mô của Dahrendorf và những người khác. Bản thân Collins nói
về tác phẩm đầu của ông, “Đóng góp chính của tôi đối với thuyết xung đột là bổ
sung một cấp độ vi mô vào các lý thuyết cấp độ vĩ mô này. Tôi đặc biệt cố gắng
chỉ ra rằng sự phân tầng và sự tổ chức được đặt nền tảng từ các tương tác trong
đời sống thường nhật”. Sau đó, “ Các đóng góp của tôi đối với thuyết xung đột
đến theo con đường xây dựng trên những đóng góp mang tính thực nghiệm của
Goffman, Gakinkel, Sack và Schegloff”. Các lý thuyết gia này, dĩ nhiên, gắn bó
với thuyết tương tác biểu tượng và dân tộc phương pháp luận ở cấp độ vi mô.
Collins làm rõ từ đầu rằng tiêu điểm
của ông về xung đột không có tính duy tâm; nghĩa là, ông không bắt đầu với quan
điểm chính trị rằng xung đột hoặc là tốt hoặc là xấu. Hơn thế, ông quả quyết,
ông chọn xung đột như là tiêu điểm trên một nền tảng thực tế rằng xung đột là
một - có lẽ như vậy - quá trình trung tâm của đời sống xã hội.
Không như những người khác khởi sự,
và ở lại, ở cấp độ xã hội, Collins tiếp cận xung đột từ một quan điểm mang tính cá thể, vì các nguồn
gốc lý thuyết của ông nằm trong hiện tượng luận và dân tộc phương pháp luận. Dù
với tham chiếu của ông đối với các lý thuyết cấp độ cá thể và vi mô, Collins
nhận thức rằng “ xã hội học không thể thành công chỉ với cấp độ vi mô”; thuyết
xung đột không thể thực hiện mà không có cấp độ phân tích xã hội. Tuy nhiên,
trong khi phần lớn lý thuyết gia xung đột tin rằng các cấu trúc xã hội là ở bên
ngoài, và áp chế, tác nhân hành động, Collins thấy các cấu trúc xã hội không
tách rời khỏi các tác nhân hành động- nhữn người đã xây dựng chúng và các khuôn
mẫu tương tác của họ là cốt lõi của chúng. Collins có xu hướng xem các cấu trúc xã hội như là
các khuôn mẫu tương tác hơn là các thực thể ngoại vi và áp chế. Ngoài ra, trong
khi phần lớn các lý thuyết gia xung đột xem actor như bị đè nén bởi các lực
lượng ngoại vi, Collins nhìn actor như
là người sáng tạo và tái tạo tổ chức xã hội một cách đều đặn.
Collins xem thuyết Marx là “điểm
khởi đầu” cho thuyết xung đột, nhưng theo ông, nó chất đầy các vấn đề. Ví như,
ông thấy nó (như thuyết CNCT) quá nặng tính duy tâm, một đặc tính ông cố tránh
đi. Thêm nữa, ông có xu hướng xem định hướng của Marx là có thể giảm thiểu
xuống một phân tích về phạm vi kinh tế, dù đây là một phê phán không có cơ sở
về thuyết Marx. Thực sự, dù Collins viện dẫn Marx thường xuyên, thuyết xung đột
của ông cho thấy tương đối ít chịu ảnh hưởng của Marx. Nó chịu nhiều ảnh hưởng
từ Weber, Durkheim hơn, và trên tất cả là hiện tượng luận và dân tộc phương
pháp luận.
Collins chọn tập trung vào sự phân
tầng xã hội vì nó là một thể chế đụng chạm đến rất nhiều các đặc tính của đời
sống, bao gồm “tài sản, các nền chính trị, các nghề nghiệp, các gia đình, các
câu lạc bộ, các cộng đồng, các kiểu sống” Theo quan điểm của Collins, các lý
thuyết lớn về sự phân tầng đã “thất bại”. Trong phạm trù này ông đặt vào cả
hai, thuyết Marx và thuyết CNCT. Ong phê phán thuyết Marx, ví dụ, như là “ một
sự diễn giải đơn nguyên đối với một thế giới đa nguyên”. Ông xem lý thuyết
Weber không là gì khác hơn một “phản hệ thống” từ đó xem xét các đặc tính của
hai lý thuyết lớn. Tác phẩm của Weber có một vài ích dụng đối với Collins,
nhưng “các nỗ lực của xã hội học hiện tượng để đặt tất cả mọi khái niệm vào
những gì có thể quan sát được của đời sống hàng ngày” là cái quan trọng nhất
đối với ông, vì tiêu điểm chính của ông trong việc nghiên cứu sự phân tầng xã
hội là ở cấp vi mô, chứ không phải vĩ mô. Theo ông, sự phân tầng xã hội, như
mọi cấu trúc xã hội khác, có thể giảm thiểu xuống những con người trong cuộc
sống đời thường chạm trán với nhau theo những cách thức mang tính khuôn mẫu.
Dù với sự tận tâm của ông đối với
một xã hội học vi mô về sự phân tầng, Collins bắt đầu (dù ông có một số hạn chế
về chúng) với các lý thuyết vĩ mô của Marx và Weber như là các nền móng cho tác
phẩm của ông. Ông khởi sự với các nguyên tắc của Marx, lý luận rằng chúng, “với
các bổ sung nhất định, cung cấp một cơ sở cho một thuyết xung đột về sự phân
tầng”.
Trước hết, ông cho rằng theo quan
điểm Marx, các điều kiện vật chất, kể cả việc kiếm sống trong xã hội hiện đại,
là các yếu tố quyết định của kiểu sống của một cá nhân. Cơ sở của việc kiếm
sống đối với Marx là quan hệ của cá nhân với tài sản tư hữu. Những người chiếm
hữu hoặc kiểm soát tài sản có thể kiếm sống một cách thỏa mãn hơn nhiều so với
những người khác và những người phải bán thời gian lao động của mình để tìm
đường tới các phương tiện sản xuất.
Thứ hai, từ viễn cảnh của
Marx, các điều kiện vật chất ảnh hưởng không chỉ đến cách thức các cá thể kiếm sống
ra sao mà cả bản chất của các nhóm xã hội trong các giai cấp xã hội khác nhau.
Giai cấp thống trị có khả năng tốt hơn các giai cấp phụ thuộc trong việc phát
triển các nhóm xã hội cố kết hơn, ràng buộc với nhau bởi các mạng lưới liên lạc
phức tạp.
Cuối cùng, Collins lý luận rằng Marx
cũng chỉ ra các khác biệt to lớn giữa các giai cấp xã hội trong sự thâm nhập
vào, và sự kiểm soát, hệ thống văn hóa. Nghĩa là, các giai cấp cao hơn có thể
phát triển cao độ các hệ thống biểu tượng và ý thức hệ, các hệ thống mà nhờ đó
họ thường có thể lợi dụng được các giai cấp thấp hơn. Các giai cấp thấp có ít
các hệ thống biểu tượng phát triển hơn, do đó bị lạm dụng bởi những giai cấp có
quyền lực.
Collins thấy Weber làm việc trong
phạm vi thuyết Marx về sự phân tầng và đã phát triển xa hơn nó. Ví như, Weber
từng nói đã nhận ra sự tồn tại của các hình thức khác nhau của sự xung đột dẫn
tới một hệ thống phân tầng đa phương diện (ví dụ, giai cấp, địa vị, quyền lực).
Ví dụ khác, Weber phát triển lý thuyết về các tổ chức tới một mức độ cao, mà
Collins xem như vẫn là một địa hạt xung đột khác về mối quan tâm. Weber cũng
quan trọng đối với Collins vì sự nhấn mạnh của ông đến nhà nước như là một cơ
quan kiểm soát các công cụ bạo lực, đã chuyển mối quan tâm từ xung đột ở nền kinh
tế (các phương tiện sản xuất) sang xung đột ở nhà nước. Cuối cùng, Collins nhận
ra sự thấu hiểu của Weber đối với đấu trường xã hội về các sản phẩm tình cảm,
đặc biệt là tôn giáo. Xung đột rõ ràng có thể xảy ra trong đấu trường này, và
các sản phẩm tình cảm này, cũng như các sản phẩm khác, có thể được sử dụng như
những thứ vũ khí trong xung đột xã hội.
Với nền tảng này, Collins quay sang
tiếp cận xung đột của chính ông đối với sự phân tầng, có nhiều điểm chung với
hiện tượng luận và dân tộc phương pháp luận hơn là với thuyết Marx và thuyết
Weber. Collins mở đầu với nhiều giả thiết. Mọi người đưọc xem là vốn có tính xã
hội nhưng cũng đặc biệt thiên về xu hướng xung đột trong các quan hệ xã hội của
họ. Xung đột dường như xảy ra trong các quan hệ xã hội bởi vì “sự áp bức bằng
bạo lực” có thể luôn luôn được sử dụng bởi một các nhân hay nhiều người trong
một tập hợp tương tác. Collins tin rằng người ta tìm cách tối đa hóa các “địa
vị chủ yếu” của họ và rằng khả năng làm điều này của họ tùy thuộc vào các nguồn
tiềm lực của họ cũng như tiềm lực của những người khác mà họ có liên quan. Ông
xem mọi người là có tính chất tự tư tự lợi; do vậy, các va chạm có thể xảy ra
vì các tập hợp những quan tâm vốn có tính đối kháng nhau.
Cách tiếp cận xung đột này đối với
sự phân tầng có thể giảm thiểu thành ba nguyên tắc cơ bản. Đầu tiên, Collins
tin rằng người ta sống trong thế giới chủ quan tự dựng lên. Thứ hai, những
người khác có thể có quyền lực để ảnh hưởng, hay thậm chí kiểm soát, kinh
nghiệm chủ quan của một cá thể. Thứ ba, những người khác có thể thường xuyên cố
kiểm soát cá thể, kẻ chống lại họ. Kết quả hầu như là sẽ có xung đột liên nhân
vị.
Trên cơ sở tiếp cận này, Collins
phát triển năm nguyên tắc phân tích xung đột mà ông áp dụng đối với phân tầng
xã hội, dù ông tin rằng chúng có thể áp dụng đối với bất kỳ lĩnh vực nào của
đời sống xã hội. Đầu tiên, Collins tin rằng lý thuyết xung đột phải tập trung
vào đời sống thực tế hơn là các hệ thống trừu tượng. Niềm tin này dường như
phản ánh một tham chiếu đối với phân tích vật chất theo phong cách Marx đối với
sự trừu tượng của thuyết CNCT. Collins thúc giục chúng ta nghĩ về con người như
những con thú mà các hành động, bị thúc đẩy bởi tính tư lợi, có thể xem như những thủ đoạn để đạt được những thuận lợi
khác nhau để họ có thể đạt được sự thỏa mãn và tránh đi sự bất mãn. Tuy nhiên,
không như các lý thuyết gia trao đổi và chọn lựa hợp lý, Collins không xem mọi
người là duy lý hoàn toàn. Ong nhận ra rằng họ dễ bị tổn thương đối với những
lôi cuốn tình cảm trong sự nỗ lực tìm sự thỏa mãn của họ.
Thứ hai, Collins tin rằng một lý
thuyết xung đột về phân tầng phải xem xét các sắp xếp vật chất ảnh hưởng tới sự
tương tác. Dù các tác nhân hành động dường như bị ảnh hưởng bởi các nhân tố vật
chất như “các nơi chốn vật lý, các kiểu liên hệ, các nguồn cung ứng vũ khí, các
công cụ công diễn gây ấn tượng công cộng, các công cụ, hàng hóa”, không phải
mọi actor đều bị ảnh hưởng theo cùng một lối. Một sự khác biệt chủ yếu là các
tiềm năng mà các actor khác nhau sở hữu. Các actor có các tiềm năng vật chất
đáng kể có thể cưỡng lại, thậm chí có thể biến đổi các giới hạn vật chất, trong
khi ở những actor có ít tiềm năng hơn, hầu như suy nghĩ và hành động của họ bị
quyết định bởi hệ thống vật chất của họ.
Thứ
ba, Collins lý luận rằng trong một hoàn cảnh bất bình đẳng, các nhóm kiểm soát
các tiềm năng dường như cố gắng bóc lột những nhóm thiếu tiềm năng. Ông cẩn
thận chỉ ra rằng sự bóc lột như thế không cần liên quan đến sự tính toán có ý
thức về phần của những người hưởng lợi từ hoàn cảnh đó; đúng hơn, những người
bóc lột chỉ đơn giản theo đuổi cái mà họ cho là các lợi ích tốt nhất của họ.
Trong quá trình này, họ có thể lợi dụng nhữn gngười thiếu các tiềm năng.
Thứ tư, Collins muốn nhà lý thuyết
xung đột nhìn vào các hiện tượng văn hóa như các niềm tin và các lý tưởng từ
quan điểm của lợi ích, quyền lực và tiềm năng. Có vẻ như các nhóm có tiềm năng,
và do đó, có quyền lực có thể áp đặt hệ tư tưởng của họ lên toàn xã hội; những
nhóm không có tiềm năng bị một hệ tư tưởng áp chế họ.
Cuối cùng, Collins thực hiện một
nghiên cứu tận lực về sự phân tầng và mọi khía cạnh của thế giới xã hội. Do
vậy, ông quy định nhiều thứ: các nhà xã hội học không nên thuyết lý giản đơn về
sự phân tầng mà nên nghiên cứu nó theo thực nghiệm, nếu có thể, theo một đường
lối có tính chất so sánh đối chiếu. Các giả thuyết nên được hình thành và kiểm
chứng thực nghiệm thông qua các nghiên cứu so sánh. Cuối cùng, nhà xã hội học
nên tìm ra các nguyên nhân của các hiện tượng xã hội, đặc biệt là các đa nguyên
nhân của bất kỳ một hình thái hành vi xã hội nào.
Sự tận tâm khoa học này dẫn Collins
tới việc phát triển một loạt các định đề về mối tương quan giữa xung đột và các
khía cạnh cụ thể khác nhau của đời sống xã hội. Ở đây, chúng tôi chỉ có thể đưa
ra một vài định đề, nhưng chúng sẽ cho phép bạn đọc có một cảm nhận về kiểu xã
hội học xung đột của Collins:
1.0 Các kinh nghiệm ra mệnh lệnh và thực hiện mệnh lệnh là
các yếu tố quyết định chính của quan điểm và hành vi cá thể.
1.1 Một người càng ra nhiều mệnh lệnh, anh ta càng hãnh diện,
tự tin, kiểu cách, và đồng nhất với các
lý tưởng của tổ chức mà dưới cái tên của nó anh ta ban bố các mệnh lệnh.
1.2 Càng thực hiện nhiều mệnh lệnh, người ta càng quỵ lụy,
tin vào mệnh số, và càng xa lạ với các lý tưởng của tổ chức, tuân thủ ở bề
ngoài, mất lòng tin vào người khác, quan tâm đến các tưởng thưởng đền bù ngoại
lai và phi luân lý.
Trong
nhiều điều khác, tất cả những định đề này phản ánh sự tận tâm của Collins đối với việc nghiên
cứu khoa học về các biểu thị xã hội vi mô của các xung đột xã hội.
Collins
không định tâm xử lý xung đột trong hệ thống phân tầng xã hội mà tìm cách mở rộng
nó ra nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau. Ví dụ, ông mở rộng phân tích của mình về
sự phân tầng tới các tương quan giữa các giới tính cũng như giữa các nhóm lứa
tuổi. Ông theo quan điểm rằng gia đình là một đấu trường của xung đột giới
tính, trong đó đàn ông đã là người chiến thắng, và kết quả là đàn bà bị đàn ông
thống trị và chịu nhiều đối xử bất bình đẳng. Tương tự, ông thấy mối tương quan
giữa các nhóm lứa tuổi –nói riêng là giữa người trẻ và người già - là một kiểu
xung đột. Ý tưởng này trái với quan điểm của các nhà CNCT, họ thấy có sự xã hội
hóa và chủ quan hóa mang tính chất hòa hợp trong mối tương quan này. Collins
nhìn vào các tiềm năng bị chiếm hữu bởi các nhóm lứa tuổi khác nhau. Người lớn
có nhiều tiềm năng, bao gồm kinh nghiệm, khổ người, sức khỏe, và khả năng thỏa
mãn các nhu cầu thể chất của tuổi trẻ. Trái lại, một trong số các tiềm năng ít
ỏi của trẻ con là sự hấp dẫn về thể chất. Nghĩa là trẻ con dường như bị người
lớn thống trị. Tuy nhiên, khi chúng trưởng thành, chúng có được nhiều tiềm năng
hơn và có khả năng cưỡng kháng tốt hơn, kết quả là sự gia tăng xung đột xã hội
giữa các thế hệ.
Collins
cũng nhìn vào các tổ chức từ một viễn cảnh xung đột. Ông xem chúng như là những
hệ thống của các ảnh hưởng liên nhân vị và như là các đấu trường trong đó xung
đột về lợi ích được đặt ra. Nói vắn tắt, “các tổ chức là những đấu trường để
chiến đấu”. Collins một lần nữa lại ẩn
dấu lập luận của mình dưới hình thức định đề. Ví dụ, ông lập luận rằng: “sự áp
bức dẫn tới các nỗ lực mạnh mẽ để tránh bị áp bức”. Trái lại, ông cảm thấy sự
đưa ra các đền bù là một chiến lược phù hợp hơn: “Kiểm soát bằng các phần
thưởng vật chất dẫn tới sự phục tùng ở mức độ mà các phần thưởng trực tiếp nối
liền với hành vi được kỳ vọng”. Các định đề này và khác nữa chỉ ra sự tận tâm
của Collins đối với một nghiên cứu khoa học có định hướng vi mô lớn về xung
đột.
Nói
tóm, Collins, giống như Dahrendorf, là một phát ngôn viên chân chính của thuyết
xung đột Marx, dù vì những lý do khác nhau. Mặc dù Collins sử dụng thuyết Marx
như là điểm khởi đầu, Weber, Durkheim và đặc biệt là dân tộc phương pháp luận
đã có ảnh hưởng hơn nhiều lên tác phẩm của ông. Định hướng vi mô của Collins là
một sự khởi đầu hữu ích đối với sự phát triển của một lý thuyết xung đột hòa
hợp hơn. Tuy nhiên, dù ông đã nói về những dự tính đối với lý thuyết hòa hợp vi
mô-vĩ mô, ông chưa hoàn tất công việc này.
Trong
tác phẩm sau cùng, Collins có một cái nhìn tổng quát rằng thuyết xung đột hợp
lý hơn so với phần lớn các lý thuyết khác vì nó sẵn sàng cho sự tổng hợp: “Thuyết
xung đột… thực hiện một cách tự do cái có thể gọi một cách văn hoa là sự sao
chép; nó hòan toàn sẵn sàng kết hợp… các nguyên tố của các xã hội học vi mô”.
Trong khi ít có các lý thuyết xung đột công khai giữa 1975 và 1990, Collins tin
rằng thuyết xung đột, dù nhiều hình nhiều vẻ, đã không suy tàn trong 15 năm mà
đang phát triển lặng lẽ dưới nhiều lớp vỏ khác nhau trong một số lĩnh vực của
xã hội học.
Collins
tin rằng thuyết xung đột đã trở thành
một viễn cảnh ngự trị trong một số lãnh vực phụ của xã hội học. Dù ông không đi
vào chi tiết, một ví dụ về điều đang xâm chiếm tâm trí ông là sự nảy sinh của
“cách tiếp cận quyền năng” như là một định hướng ngự trị trong nghiên cứu xã
hội học về các nghề nghiệp. Một nỗ lực mang tính chất hòa hợp đáng thực làm,
nhưng chỉ được gợi ý bởi Collins, sẽ là một cuộc xét lại dãy viễn cảnh xung đột
cụ thể đã phát triển trong nhiều lĩnh vực phụ của xã hội học, với đối tượng là
việc đặt những cách biệt này lại với nhau, kết hợp chúng thành một thuyết xung
đột mở rộng, và do đó nâng cao lý thuyết xung đột rộng của xã hội học.
Bản
thân Collins đã tìm cách hòa hợp theo hai chiều hướng. Đầu tiên, ông xem một
tiếp cận xung đột là nằm ở trung tâm của sự khảo sát mang nhiều tính đối chiếu
lịch sử, đặc biệt tác phẩm của Michael Mann. Như vậy, thuyết xung đột vẫn được
làm phong phú thêm bởi sự hòa hợp của một loạt nhận thức có thể xuất xứ từ khảo
sát đối chiếu lịch sử. Hơn nữa, Collins thấy Mann đang tận dụng một loại lý
thuyết hệ thống, và điều này dẫn tới một mối quan tâm tới sự tổng hợp hóa cách
tiếp cận của Mann với tác phẩm chính thống trong lý thuyết hệ thống. Thứ hai,
có một khả năng hòa hợp lý thuyết hệ thống và lý thuyết xung đột. Trong thực
tế, như chúng ta sẽ thấy, thuyết hệ thống đóng một vai trò nổi bật trong các nỗ
lực tổng hợp đương thời, vì có những người từ các viễn cảnh khác, đặc biệt là
thuyết trao đổi, đã nhìn thấy các khả năng để hòa hợp với nó. Lạ lùng là
Collins không nói tới khả năng của sự
hòa hợp với lý thuyết của chính ông về các chuỗi
tương tác theo trình tự (xem
chương 9). Điều này thật đáng ngạc nhiên vì các nhận thức cấp vi mô của lý
thuyết đó sẽ ăn khớp tốt với các quan
tâm cấp vĩ mô truyền thống của thuyết xung đột. Có lẽ Collins không đề xuất một
sự hòa hợp như thế vì lý thuyết xung đột đa dạng của chính ông bản thân nó mang
tính chất vi mô cao độ và đã bao gồm các chuỗi tương tác theo trình tự.
Tổng
quát hơn, Collins xác định thuyết xung đột theo một đường lối bao quát đến nỗi
nó dường như mở rộng tới những nhận thức của mọi lý thuyết và dường như có khả
năng bao trùm lên mọi cấp độ của thực tại xã hội. Cụ thể, Collins tìm cách phân
biệt giữa các lý thuyết xung đột hẹp (ví dụ, của Simmel và Coser) và lý thuyết
xung đột, mà ông xác định là “một lý thuyết về sự tổ chức của xã hội, hành vi
của mọi người và mọi nhóm, nó giải thích vì sao các cấu trúc mang hình thức
như nó có… và vì sao và loại biến đổi
nào đã diễn ra… lý thuyết xung đột là một tiếp cận chung đối với toàn bộ các
lĩnh vực của đời sống xã hội”. Như vậy, Collins đã theo một loạt các tổng hợp;
ông quan tâm tới việc đẩy thuyết xung đột theo hướng của một viễn cảnh chỉnh
thể hơn. Người ta phải cảnh giác về một đế quốc chủ nghĩa về lý thuyết bao hàm
trong cách tiếp cận này và giọng điệu tương tự lan tràn trong tiểu luận của
Collins.
TÓM TẮT
Cách
đây không nhiều năm lắm, thuyết Chức năng cấu trúc lý thuyết thống trị trong xã
hội học. Thuyết xung đột là đối thủ cạnh tranh chính của nó và có vẻ là kẻ thay
chỗ cho nó. Tuy nhiên, những biến đổi sân sắc đã xảy ra trong những năm gần
đây. Cả hai lý thuyết này đều là đối tượng của những phê phán căng thẳng, trong
khi một loạt các lý thuyết có khả năng lựa chọn khác (sẽ được thảo luận xuyên
suốt cuốn sách này) đã phát triển và đã thu hút sự quan tâm hơn bao giờ hết và
sự kế tục rộng lớn hơn bao giờ hết.
Dù
nhiều thể khác nhau của thuyết CNCT đã tồn tại, tiêu điểm của chúng ta ở đây là
thuyết chức năng về mặt xã hội và tiêu điểm vĩ
mô của nó, những quan tâm của nó đối với các tương quan ở cấp độ xã hội
và các ảnh hưởng kềm hãm của các cấu
trúc xã hội và thể chế lên tác nhân hành động. Các nhà CNCT phát triển một loạt
các quan tâm đến các hệ thống xã hội, các tiểu hệ thống, các quan hệ giữa các
tiểu hệ thống và các hệ thống, tính thăng bằng, và sự biến đổi có trật tự.
Chúng
ta khảo sát ba tác phẩm của các nhà CNCT (Davis và Moore, Parsons, và Merton).
Davis và Moore, trong một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất và bị chỉ trích
nhiều nhất trong lịch sử xã hội học, đãkhảo sát sự phân tầng xã hội như là một
hệ thống xã hội và các chức năng tích cực khác nhau mà nó thực hiện. Chúng ta
cũng đã thảo luận một số chi tiết vế lý thuyết CNCT của Talcott Parsons và tư
tưởng của ông về bốn chức năng khẩn thiết của mọi hệ thống hành động - sự thích
nghi, sự đạt được mục tiêu, sự hòa hợp và sự tiềm tàng (AGIL). Chúng ta cũng đã
phân tích cách tiếp cận CN-CT của ông đối với bốn hệ thống hành động – hệ thống
xã hội, hệ thống văn hóa, hệ thống cá tính và thực thể hành vi. Cuối cùng,
chúng ta xử lý tiếp cận CNCT của ông với thuyết động lực và biến đổi xã hội -
lý thuyết tiến hóa của ông và các tư tưởng của ông về vật trung gian phổ quát
của sự trao đổi.
Nỗ
lực của Merton để phát triển một “mô hình” cho phân tích chức năng là tác
phẩm riêng lẻ quan trọng nhất trong
thuyết CNCT hiện đại. Merton bắt đầu với sự phê phán một số lập trường ngây thơ
của các nhà CNCT. Rồi ông tìm cách phát triển một kiểu mẫu thích hợp hơn của
phép phân tích CNCT. Ở một điểm, Merton nhất trí với những người tiền bối của
ông- sự cần thiết phải tập trung vào các hiện tượng xã hội vĩ mô. Nhưng, Merton
lý luận, ngoài việc tập trung vào các chức năng tích cực, thuyết CNCT nên quan
tâm đến các phản chức năng và thậm chí các phi chức năng. Đưa ra các bổ sung
này, Merton quả quyết rằng bản thân các nhà phân tích nên quan tâm tới sự cân
bằng hệ thống giữa các chức năng và phản chức năng. Phần này kết luận bằng một
thảo luận về sự áp dụng mô hình chức năng của Merton vào vấn đề mối quan hệ của
cấu trúc xã hội và văn hóa với tình trạng vô đạo đức và sự lầm lạc.
Kế
đến, chúng ta thảo luận về vô số các phê phán đối với thuyết CNCT đã thành công
trong việc phá hoại uy tín và sự truyền bá của nó. Chúng ta thảo luận các phê
phán rằng thuyết CNCT là phi lịch sử, không có khả năng xử lý xung đột và biến
đổi, bảo thủ cao độ, bị xâm chiếm bởi các kềm hãm xã hội lên tác nhân hành
động, sự thừa nhận các tầng lớp ưu tú chính thống, mục đích luận và sự lặp
thừa.
Các
phê phán thuyết CNCT dẫn tới một nỗ lực để phản ứng lại chúng – sự phát triển
của một định hướng được biết như là thuyết tân chức năng. Thuyết tân chức năng
tìm cách củng cố thuyết CNCT bằng cách tổng hợp hóa nó với một dãy rộng các
viễn cảnh lý thuyết khác. Một số kha khá tác phẩm đã được thực hiện dưới chuyên
mục của thuyết tân chức năng ở cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 và nó
đã thu hút được một sự quan tâm đáng kể. Tuy nhiên, tương lai của nó là một dấu
hỏi, đặc biệt vì người sáng lập nó, Jeffrey Alexander, đã thông báo rằng ông
đang đi ra khỏi nó về mặt lý thuyết.
Phần
cuối cùng của chương này dành cho một thay thế chính của thuyết CNCT trong hai
thập niên 1950 và 1960 - thuyết xung đột. Tác phẩm nổi tiếng theo truyền thống
này là của Ralf Dahrendorf, người mà, dù cố đi theo truyền thống Marx một cách
có ý thức, được xem là đã đảo ngược lại thuyết CNCT. Dahrendorf nhìn vào các
biến đổi hơn là sự cân bằng, xung đột hơn là trật tự, các bộ phận của xã hội đã
đóng góp cho biến đổi hơn là cho sự bền vững ra sao, và xung đột và áp bức hơn
là kềm hãm theo chuẩn mực. Dahrendorf đề ra một lý thuyết xung đột vĩ mô song
song với lý thuyết CNCT trật tự vĩ mô của các nhà CNCT. Tiêu điểm của ông vào
thẩm quyền, các vị trí, các tổ chức cộng đồng cưỡng chế, các mối quan tâm, các
nhóm gần như nhóm, các nhóm quan tâm, các nhóm xung đột phản ánh định hướng
này. Lý thuyết Dahrendrof gánh chịu một số vấn đề giống như thuyết CNCT; ngoài
ra, nó thể hiện một nỗ lực có tính bần cùng hóa để hợp nhất với lý thuyết Marx.
Dahrendorf cũng có thể bị phê phán vì đã thỏa mãn với các lý thuyết lựa chọn
giữa trật tự và xung đột hơn là tìm kiếm một sự hòa hợp lý thuyết cho cả hai.
Chương
này kết thúc với một thảo luận về nỗ lực của Randall Collins để phát triển một
lý thuyết xung đột có tính chất hòa hợp hơn, đặc biệt là một lý thuyết hòa hợp
giữa các quan tâm vĩ mô và vi mô.
*********************
[1] Quan điểm này hình như gần
với, ít nhất là phần nào, than phiền của Turner và Maryanski rằng thuyết tân
chức năng ít có gì chung với thuyết
CNCT- chú thích của TG.
[2]
Chúng ta ngẫm xem một người cho hai phạm trù này là “xấu xa” có thể phát triển
một lý thuyết tương xứng về chúng hay không
- Chú thích của TG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét