Thứ Năm, 19 tháng 3, 2020

LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC - GEORGE RITZER - PART 2-1



PHẦN HAI
LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC HIỆN ĐẠI:
CÁC TRƯỜNG PHÁI CHÍNH

CHƯƠNG 3

THUYẾT CHỨC NĂNG CẤU TRÚC,
THUYẾT TÂN CHỨC NĂNG  VÀ THUYẾT XUNG ĐỘT


THUYẾT CHỨC NĂNG CẤU TRÚC
Lý thuyết chức năng về sự phân tầng và các Phê phán
Thuyết chức năng cấu trúc của Talcott Parsons
Thuyết chức năng cấu trúc của Robert Merton
Các Phê phán chủ yếu
THUYẾT TÂN CHỨC NĂNG
THUYẾT XUNG ĐỘT
Tác phẩm của Ralf Dahrendorf
Các Phê phán chính
Một thuyết xung đột hòa hợp hơn


Thuyết chức năng cấu trúc, đặc biệt ở tác phẩm của Talcott Parsons, Robert Merton và những sinh viên và người kế thừa của họ, trong nhiều năm là lý thuyết xã hội học thống trị. Tuy nhiên, trong ba thập kỷ cuối, nó đã bị loại bỏ sâu sắc về tầm quan trọng và, ít nhất ở một số mặt, đã lùi lại vào lịch sử cận đại của lý thuyết xã hội học. Sự từ bỏ này được phản ánh trong mô tả của Colomy về thuyết chức năng cấu trúc như là một lý thuyết truyền thống. Thuyết này bây giờ chủ yếu là có ý nghĩa về mặt lịch sử, dù nó vẫn còn được chú ý ở vai trò nó đã giữ trong sự nảy sinh của thuyết tân chức năng trong những năm 1980. Sau khi đưa ra một cái nhìn tổng quát về thuyết chức năng cấu trúc, chúng ta sẽ thảo luận về thuyết tân chức năng như là một thuyết kế thừa của nó, cũng như là một ví dụ về phong trào gần đây đang hướng tới một sự tổng hợp trong phạm vi lý thuyết xã hội học. Tuy nhiên, tương lai của thuyết tân chức năng cũng nằm trong nghi vấn bởi sự thật là người sáng lập ra nó, Jeffrey Alexander (Giao tiếp cá nhân) đã đi tới kết luận rằng thuyết tân chức năng “không còn thỏa đáng đối với tôi nữa”, ông nói, “Giờ đây tôi cách ly mình khỏi phong trào mà tôi đã khởi đầu.”

            Trong nhiều năm, sự thay thế chủ yếu cho thuyết chức năng cấu trúc là thuyết xung đột. Chúng ta sẽ thảo luận về phiên bản truyền thống - thuyết xung đột của Ralf Dahrendorf, cũng như một nỗ lực tổng hợp và hòa hợp gần đây hơn của Randall Collins.

            Trước khi quay sang các đặc điểm của thuyết chức năng cấu trúc và thuyết xung đột, chúng ta cần, theo Thomas Bernard, đặt các lý thuyết này trong một bối cảnh rộng hơn của sự tranh chấp giữa các lý thuyết liên ứng (một trong đó là thuyết chức năng cấu trúc) và các lý thuyết xung đột (một trong số đó là thuyết xung đột sẽ được thảo luận ở chương này). Các lý thuyết liên ứng (consensus theories) cùng có chung các quy chuẩn và giá trị có tính chất chủ yếu đối với xã hội, tập trung vào trật tự xã hội dựa trên cơ sở các thỏa thuận ngầm, và xem các biến đổi xã hội như đang diễn ra theo một cung cách chậm và có trật tự. Trái lại, các lý thuyết xung đột nhấn mạnh sự thống trị của một số nhóm xã hội đối với các nhóm khác, xem trật tự xã hội dựa trên cơ sở sự lôi kéo và kiểm soát của nhóm thống trị, và xem biến đổi xã hội như đang diễn ra một cách nhanh chóng và hỗn loạn khi mà các nhóm cấp dưới lật đổ các nhóm thống trị.

            Mặc dù các tiêu chí này đã định nghĩa một cách rộng rãi các khác biệt chủ yếu giữa các lý thuyết xã hội học chức năng cấu trúc và thuyết xung đột, quan điểm của Bernard là sự bất tương thích rộng lớn hơn nhiều và đã “là một tranh chấp định kỳ đã tạo ra nhiều hình thức khác biệt nhau xuyên suốt trong lịch sử tư duy Phương Tây.” Bernard truy nguyên cuộc tranh chấp tới thời Cổ Hy Lạp (và các khác biệt giữa Platon (liên ứng) và Aristote (xung đột) và xuyên suốt qua lịch sử của triết học. Sau đó, trong xã hội học, mối tranh chấp được nối kết (các lý thuyết gia xung đột được liệt kê trước) với Marx và Comte, Simmel và Durkheim, Dahrendorf và Parsons. Chúng ta đã xem xét sơ lược các tư tưởng của hai cặp nhà xã hội học đầu tiên (dù, như đã thấy, tác phẩm của họ rộng hơn là chỉ bao hàm trong cái nhãn hiệu các lý thuyết gia “xung đột” hay “liên ứng”); trong chương này chúng ta khảo sát thuyết xung đột của Dahrendoft và thuyết liên ứng của Parsons, trong số những người khác.

            Dù chúng ta đã nhấn mạnh các khác biệt giữa thuyết chức năng cấu trúc và thuyết xung đột, chúng ta không nên quên rằng chúng có những điểm tương tự quan trọng. Trong thực tế, Bernard lý luận rằng “các lĩnh vực có sự tương thích giữa chúng ở mức độ cao hơn các lĩnh vực không tương thích”. Ví dụ, cả hai đều ở cấp độ các lý thuyết vĩ mô, quan tâm đến các cấu trúc và thiết chế xã hội vĩ mô. Kết quả là, theo cách nói của George Ritzer, cả hai lý thuyết đều tồn tại trong cùng một mô hình (“sự kiện xã hội”) xã hội học.

THUYẾT CHỨC NĂNG CẤU TRÚC

Robert Nisbet lý luận rằng thuyết chức năng cấu trúc, “không nghi ngờ gì nữa, là thể lý thuyết quan trọng nhất trong các môn khoa học xã hội trong thế kỷ hiện nay”. Kingsley David đưa ra lập trường rằng thuyết chức năng cấu trúc, ở mọi dữ liệu và mục tiêu, đồng nghĩa với xã hội học. Alvin Gouldner có quan điểm hoàn toàn giống khi ông ta tấn công xã hội học Phương Tây thông qua phân tích phê phán các lý thuyết chức năng cấu trúc của Talcott Parsons.

Bất chấp vị trí lãnh đạo không còn ngờ gì của nó trong hai thập kỷ sau Thế chiến II, thuyết chức năng cấu trúc đã bị từ bỏ ý nghĩa quan trọng như là một lý thuyết xã hội học. Ngay cả Wilbert Moore, một người lúc đầu gắn bó với thuyết này, đã lý luận rằng nó “đã trở nên một thứ lúng túng rối ren trong lý thuyết xã hội học đương đại”. Hai nhà quan sát thậm chí còn phát biểu: “Như vậy, thuyết chức năng với ý nghĩa một lý thuyết diễn giải, chúng tôi cảm thấy, ‘đã chết’, và các nỗ lực tiếp theo nhằm sử dụng thuyết chức năng như một sự diễn giải lý thuyết cần bị từ bỏ để ủng hộ cho các viễn cảnh lý thuyết hứa hẹn hơn”. Nicholas Demerath và Richard Peterson, có một quan điểm thực chứng hơn, lý luận rằng thuyết chức năng cấu trúc không phải là một cái mốt đã qua. Tuy nhiên, họ thừa nhận rằng nó có vẻ như tiến hoá thành một lý thuyết xã hội học khác, cũng như chính bản thân nó đã tiến hoá từ một thể có sớm hơn (xem phần kế tiếp). Sự ra đời của thuyết tân chức năng (sẽ thảo luận sau ở chương này) dường như hỗ trợ cho quan điểm của Demerath và Peterson hơn là các viễn cảnh tiêu cực của Turner và Maryansky.

Trong thuyết chức năng cấu trúc, các thuật ngữ cấu trúc và chức năng không cần sử dụng trong một liên kết, dù về hình thức, chúng có sự kết nối. Chúng ta có thể nghiên cứu các cấu trúc của xã hội mà không cần quan tâm đến các chức năng (hay hệ quả) của chúng hoặc của các cấu trúc khác. Tương tự, chúng ta có thể khảo sát các chức năng của một loạt các quá trình xã hội mà không cần khoác một hình thức cấu trúc. Tuy vậy, mối quan tâm đến cả hai đã định tính cho thuyết chức năng cấu trúc. Dù nó có nhiều hình thức khác nhau, chức năng xã hội luận (societal Functionalism) là cách tiếp cận thống trị trong số các lý thuyết gia chức năng cấu trúc và do đó là tiêu điểm của chương này. Mối quan tâm cơ bản về thuyết chức năng xã hội là các cấu trúc và thể chế vĩ mô của xã hội, các tương quan của chúng và các ảnh hưởng kềm hãm của chúng đối với tác nhân hành động (actor).

Lý thuyết chức năng về sự phân tầng và các Phê phán

Lý thuyết chức năng về sự phân tầng như nối ráp bởi Kingsley Davis và Wibert Moore có lẽ là tác phẩm được biết nhiều nhất về lý thuyết chức năng cấu trúc. David và Moore làm rõ rằng họ xem sự phân tầng xã hội vừa có tính chung nhất, vừa có tính tất yếu. Họ lý luận rằng chưa hề có xã hội không phân tầng, hoặc là hoàn toàn phi giai cấp. Theo quan điểm của họ, sự phân tầng là tất yếu mang tính chức năng. Mọi xã hội đều cần một hệ thống như thế, và nhu cầu này đưa tới sự tồn tại một hệ thống phân tầng. Họ cũng xem một hệ thống phân tầng là một cấu trúc, chỉ ra rằng sự phân tầng không chỉ nói tới các cá thể trong hệ thống phân tầng mà đúng hơn là nói tới một hệ thống của các vị trí. Họ tập trung vào việc các vị trí xác định đã đưa tới cùng với chúng các mức độ uy tín khác nhau như thế nào, chứ không phải vào việc các cá thể đã chiếm lĩnh các vị trí xác định như thế nào.

Đưa ra tiêu điểm này, vấn đề chức năng chủ yếu là một xã hội thúc đẩy và xếp đặt mọi người vào vị trí “thích hợp” của họ trong một hệ thống phân tầng ra sao. Điều này được giảm thiểu xuống thành hai vấn đề. Đầu tiên, một xã hội đã thâm nhập vào các cá thể “thích hợp” niềm mong ước được giữ các vị trí xác định như thế nào? Thứ hai, một khi mọi người đã ở vị trí đúng, xã hội thâm nhập vào họ mong ước được thoả mản mọi đòi hỏi của các vị trí đó như thế nào?

Sự xếp đặt vị trí xã hội thích hợp là một vấn đề cơ bản vì ba lý do cơ bản. Đầu tiên, có một số vị trí dễ chịu khi chiếm giữ hơn một số khác. Thứ hai, có một số vị trí quan trọng cho sự tồn tại của xã hội hơn một số khác. Thứ ba, các vị trí xã hội khác nhau đòi hỏi các tài năng và năng lực khác nhau.

Dù những vấn đề này áp dụng đối với mọi vị trí xã hội, Davis và Moore quan tâm tới các vị trí có chức năng quan trọng hơn trong xã hội. Các vị trí có thứ hạng cao trong hệ thống phân tầng được cho là ít dễ chịu hơn khi chiếm giữ nhưng quan trọng hơn cho sự  tồn tại xã hội và đòi hỏi những tài năng và khả năng lớn nhất. Ngoài ra, xã hội phải đáp ứng sự đền bù thỏa đáng cho các vị trí này để có đủ người tìm cách chiếm giữ chúng, và các cá nhân đã thực hiện việc chiếm giữ chúng sẽ làm việc một cách cần mẫn. Sự nghịch đảo bao hàm trong ý của Davis và Moore nhưng không được đưa ra thảo luận. Nghĩa là, các vị trí có thứ hạng thấp trong hệ thống phân tầng được giả sử là nhiều dễ chịu hơn và ít quan trọng hơn, ít đòi hỏi các phẩm chất về khả năng và tài trí. Xã hội cũng ít cần phải chắc chắn rằng các cá thể chiếm giữ các vị trí này và thực hiện chúng với sự mẫn cán.

Davis và Moore không lý luận rằng một xã hội phát triển một cách có ý thức một hệ thống phân tầng nhằm chắc chắn rằng các vị trí có thứ hạng cao đã được phủ kín, và phủ kín một cách tương xứng. Đúng hơn, họ làm sáng tỏ rằng sự phân tầng là một “công cụ tiến hóa vô ý thức”. Tuy nhiên, nó là một công cụ mà mọi xã hội đều cần, và phải phát triển để tồn tại.
     
Để chắc rằng mọi người chiếm giữ các vị trí thứ hạng cao, xã hội phải, theo quan điểm của Davis và Moore, cung cấp các cá thể này các đền bù khác nhau, bao gồm các ưu thế lớn, lương cao, và sự tiện nghi thỏa đáng. Ví dụ, để bảo đảm có đủ bác sĩ cho xã hội chúng ta, chúng ta cần trao cho họ các đền bù trên và khác nữa. Davis và Moore hàm ý rằng chúng ta không thể mong chờ mọi người thực hiện quá trình học tập y khoa “nhọc nhằn” và “mắc mỏ” nếu chúng ta không trao cho họ các đền bù như thế. Ẩn ý này dường như là những người ở vị trí hàng đầu phải nhận được các đền bù cho công việc họ thực hiện. Nếu không, các vị trí này có thể không đủ người hoặc không được phủ kín và xã hội sẽ sụp đổ.

Thuyết chức năng cấu trúc về sự phân tầng đã chịu nhiều sự phê phán từ khi nó được xuất bản năm 1945 (xem Tumin, 1953, người phê phán quan trọng đầu tiên; Huaco, 1966, một tóm tắt tốt các phê phán ở thời bấy giờ ).

Một phê phán cơ bản là thuyết chức năng về sự phân tầng đơn giản chỉ duy trì vị trí đặc quyền của những người đã có sẵn quyền lực, ưu thế và tiền của. Nó làm điều này bằng cách lý luận rằng những người này xứng đáng với các đền bù của họ; thật ra họ cần được trao cho những đền bù như thế là vì ích lợi của xã hội.
     
Thuyết chức năng cũng có thể bị phê phán vì đã giả đoán rằng chỉ đơn giản bởi vì một cấu trúc xã hội phân tầng đã tồn tại trong quá khứ, nó phải tiếp tục tồn tại trong tương lai. Rất có thể là các xã hội tương lai sẽ được tổ chức theo những cách khác, không có phân tầng.

Ngoài ra, nó đã lý luận rằng ý tưởng về các vị trí chức năng trong xã hội có tầm quan trọng khác nhau là khó mà tán thành được. Có thật những người thu lượm rác ít quan trọng đối với sự tồn tại xã hội hơn những người hành nghề quảng cáo? Dù những người thu lượm rác có ưu thế thấp kém và lương thấp, họ thật sự quan trọng hơn nhiều cho sự tồn vong của xã hội. Ngay cả trong những trường hợp có thể nói rằng một vị trí mang lại nhiều chức năng quan trọng hơn cho xã hội, sự đền bù lớn hơn không nhất thiết phải dồn cho vị trí quan trọng hơn. Các cô hộ lý có thể quan trọng đối với xã hội hơn các diễn viên điện ảnh, nhưng họ ít quyền lực, ưu thế và thu nhập hơn các diễn viên nhiều lần.

Có thật là khan hiếm những người có khả năng chiếm giữ các vị trí ở cấp độ cao? Trong thực tế, nhiều người bị ngăn trở không có được sự đào tạo cần thiết để chiếm giữ các vị trí ưu thế, ngay cả khi họ có khả năng. Ở nghề y, ví dụ, có một nỗ lực bền bĩ để giới hạn các bác sĩ thực hành. Nói chung, nhiều người có khả năng không bao giờ có được cơ hội để chứng tỏ rằng họ có thể nắm giữ các vị trí có thứ hạng cao, ngay cả khi có một nhu cầu hiển nhiên đối với họ và sự cống hiến của họ. Những người đang nắm giữ vị trí cao thường có xu hướng tư lợi trong việc giữ con số của họ ở mức thấp và quyền lực, thu nhập ở mức cao.

Cuối cùng, có thể lý luận rằng chúng ta không cần trao cho mọi người quyền lực, ưu thế và thu nhập để thúc đẩy họ muốn nắm giữ các vị trí cao. Mọi người có thể được động viên một cách bình đẳng bằng sự hài lòng trong việc làm một công việc hoặc bởi cơ hội được giúp ích người khác.

Thuyết chức năng cấu trúc của Talcott Parsons

Trong đời mình, Talcott Parsons viết một số lượng lớn tác phẩm. Có những khác biệt quan trọng giữa tác phẩm đầu và về sau của ông. Trong phần này, chúng ta khảo sát lý thuyết chức năng cấu trúc về sau này của ông. Chúng ta bắt đầu thảo luận về thuyết này từ bốn yêu cầu bắt buộc đối với mọi hệ thống “hành động”, lược đồ AGIL nổi tiếng của ông. Sau thảo luận này về bốn chức năng, chúng ta sẽ quay trở lại phân tích các tư tưởng của Parsons về các cấu trúc và các hệ thống.

AGIL:  Một chức năng là “một phức hợp các hoạt động trực tiếp hướng tới sự gặp gỡ một nhu cầu hay những nhu cầu của hệ thống”. Dùng định nghĩa này, Parsons tin rằng có bốn yêu cầu tất yếu đối với (đặc điểm của) mọi hệ thống - sự thích nghi (A), sự đạt được mục tiêu (G), sự hoà hợp (I), và sự tiềm tàng (L) hoặc sự duy trì khuôn mẫu. Tất cả bốn yếu tố này kết hợp, được biết với cái tên lược đồ AGIL. Để tồn tại, một hệ thống phải thực hiện bốn chức năng:

1.      Thích nghi (Adaption): Một hệ thống phải đương đầu với các nhu cầu khẩn thiết của hoàn cảnh bên ngoài. Nó phải thích nghi với môi trường của nó và làm cho môi trường thích nghi  với các nhu cầu của nó.
2.      Đạt được mục tiêu (Goal attainment):  Một hệ thống phải xác định và đạt được các mục tiêu cơ bản của nó.
3.      Hòa hợp (Integration): Một hệ thống phải điều hoà mối tương quan của các thành tố bộ phận. Nó cũng phải điều hành mối quan hệ trong ba yếu tố chức năng tất yếu còn lại (A, G, L).
4.      Sự tiềm tàng (Sự duy trì khuôn mẫu) (Latency): Một hệ thống phải cung cấp, duy trì và tân tạo  cả động lực thúc đẩy của các cá thể cũng như các khuôn mẫu văn hóa đã sáng tạo và duy trì động cơ thúc đẩy.

Parsons thiết kế lược đồ AGIL để sử dụng ở mọi cấp độ trong hệ thống lý thuyết của ông. Trong phần thảo luận sau đây về bốn hệ thống hành động, chúng tôi sẽ minh họa cách Parson vận dụng AGIL ra sao.

Thực thể hành vi (behavioral organism) là hệ thống hành động xử lý chức năng thích nghi bằng cách điều chỉnh và chuyển hóa thế giới ngoại vi. Hệ thống cá tính (personality system) thực hiện chức năng đạt tới mục tiêu bằng cách xác định các mục tiêu hệ thống và huy động các nguồn lực để đạt được chúng. Hệ thống xã hội đối đầu với chức năng hòa hợp bằng cách kiểm soát  các bộ phận thành tố của nó. Cuối cùng, hệ thống văn hoá thực hiện chức năng tiềm tàng bằng cách cung cấp cho các tác nhân hành động (actor) các tiêu chí và các giá trị để thúc đẩy họ hành động. Sơ đồ 3.1 tóm tắt hệ thống hành động trong phạm vi lược đồ AGIL.


  
  
                           Sơ đồ 3.1 : Cấu trúc tổng quát của Hệ thống hành động


Hệ thống hành động. Chúng ta đã sẵn sàng để thảo luận tổng hình của hệ thống hành động Parsons, đó là, theo nhiều đường lối, một hệ thống các cấp độ của phân tích xã hội (xem phần Phụ lục). Sơ đồ 3.2 là một phác họa các cấp độ chủ yếu trong lược đồ Parsons.



Sơ đồ 3.2: Lược đồ Hành động của Parsons
     
Rõ ràng là Parsons đã có một lưu ý rành mạch đến “các cấp độ” của phân tích xã hội cũng như các quan hệ của chúng. Sự xếp đặt thứ bậc rõ ràng, và các cấp độ được hoà hợp trong hệ thống của Parsons theo hai cách. Đầu tiên, từng cấp độ thấp cung cấp các điều kiện, năng lượng cần thiết cho các cấp độ cao hơn. Thứ hai, các cấp độ cao hơn kiểm soát những cấp độ dưới chúng trong hệ thống.

Trong phạm vi các môi trường của hệ thống hành động, cấp độ thấp nhất, môi trường vật lý và cơ quan, bao gồm các khía cạnh phi biểu tượng của thực thể con người, giải phẫu và sinh lý của nó. Cấp độ cao nhất, thực thể cuối cùng, có, như đề xuất của Jackson Toby, một “ mùi vị siêu hình học”, nhưng Toby cũng lý luận rằng Parsons “không chỉ tới các xu hướng siêu nhiên nhiều cho bằng tới các xu hướng phổ quát đối với các xã hội để gọi tên một cách biểu tượng các thể không xác định, các quan tâm, các thảm kịch của tồn tại loài người đã thách thức cái ý nghĩa toàn vẹn của tổ chức xã hội”.

Trung tâm của tác phẩm Parsons được tìm thấy trong bốn hệ thống hành động của ông. Giả định rằng Parsons làm cho chúng ta thấy liên quan đến các hệ thống hành động của ông lộ ra một vấn đề về trật tự, vốn là mối quan tâm hàng đầu của ông và cũng đã trở thành một nguồn cho các phê phán đối với tác phẩm của ông. Vấn đề Hobbesian về trật tự - cái đã ngăn trở một cuộc chiến tranh xã hội mọi người chống lại mọi người - mà các nhà triết học trước đã chưa trả lời thỏa đáng cho Parsons. Parsons tìm ra câu trả lời đối với vấn đề trật tự trong thuyết chức năng cấu trúc, vận hành theo quan điểm của ông với các tập hợp giả thiết sau đây:

1.      Các hệ thống có trật tự chính xác và sự phụ thuộc liên đới lẫn nhau  giữa các bộ phận.
2.      Các hệ thống có xu hướng đi tới một trật tự  tự thân duy trì, hoặc tự cân bằng.
3.      Hệ thống có thể ở trạng thái tĩnh hoặc có liên quan tới một tiến trình biến đổi có trật tự.
4.      Bản chất của một bộ phận của hệ thống có một tác động tới hình thức của các bộ phận khác.
5.      Các hệ thống duy trì những ranh giới với những môi trường của chúng.
6.      Sự định vị và sự hòa hợp là hai quá trình cơ bản cần thiết cho một trạng thái cân bằng ấn định của một hệ thống.
7.      Các hệ thống có xu hướng đi tới sự tự thân duy trì, bao gồm sự duy trì các ranh giới và các tương quan của các bộ phận ở ý nghĩa một tổng thể, kiểm soát các khác biệt đa dạng của môi trường và kiểm soát các xu hướng biến đổi hệ thống từ bên trong lòng nó.

Các giả thiết này đưa Parsons tới việc xem phân tích về cấu trúc có trật tự của xã hội là ưu tiên hàng đầu của ông. Khi thực hiện nó, ông ít quan tâm tới vấn đề biến đổi xã hội, ít nhất là cho tới cuối sự nghiệp của ông:

Chúng ta cảm thấy rằng thật là không có tính kinh tế học khi diễn tả các biến đổi trong các hệ thống khác biệt nhau trước khi các khác biệt tự chúng phân ly và diễn tả; do đó, chúng ta chọn cách bắt đầu bằng việc nghiên cứu các  kết hợp đặc thù của các khác biệt và tiến tới sự diễn tả tại sao những kết hợp này chỉ biến đổi khi một nền tảng vững chắc cho điều đó đã được đặt ra.

Parsons bị phê phán nặng nề vì định hướng tĩnh của ông đến nỗi ông dành ngày càng nhiều quan tâm để thay đổi; trong thực tế, như chúng ta sẽ thấy, cuối cùng ông tập trung vào sự tiến hóa của các xã hội. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhiều nhà quan sát, ngay cả tác phẩm của ông về biến đổi xã hội cũng có xu hướng  mang tính chất tĩnh tại và cấu trúc khá cao.

Khi đọc tới hệ thống bốn hành động trên, độc giả cần ghi nhớ rằng chúng không tồn tại trong thế giới thực tiễn, mà chỉ là những công cụ để phân tích thế giới thực tiễn.

Hệ thống xã hội. Khái niệm của Parsons về hệ thống xã hội bắt đầu ở cấp độ vi mô với sự tương tác giữa cái tôi/bản ngã (ego) và cái thay thế cho cái tôi (alter ego), được xác định là hình thức nguyên sơ nhất của hệ thống xã hội. Ông dành ít thời gian cho việc phân tích ở cấp độ này, dù ông lý luận rằng các đặc tính của hệ thống tương tác này hiện diện trong các hình thái phức tạp hơn của hệ thống xã hội. Parsons định nghĩa một hệ thống xã hội như thế này:

Một hệ thống xã hội chứa đựng một đa số những tác nhân hành động cá biệt có sự tương tác với nhau trong một trạng huống mà ít nhất cũng có một khía cạnh vật lý hoặc môi trường, các tác nhân hành động bị thúc đẩy trong phạm vi một xu hướng đi tới “tính lạc quan của sự ban thưởng” và mối quan hệ của họ với môi trường, bao gồm từng mỗi một cá thể, được xác định và dàn xếp trong phạm vi của một hệ thống có cấu trúc văn hóa và có chung các biểu tượng.

Định nghĩa này tìm cách xác định một hệ thống xã hội trong phạm vi các khái niệm chủ yếu trong tác phẩm của Parsons - tác nhân hành động (actor), sự tương tác (interaction), môi trường (environment), tính lạc quan của sự ban thưởng (optimization of gratification) và văn hóa (culture).

Dù tận tâm trong việc nhìn nhận hệ thống xã hội như là một hệ thống tương tác, Parsons không coi tương tác là đơn vị cơ bản trong nghiên cứu hệ thống xã hội của ông. Đúng hơn, ông dùng phức hợp địa vị-vai trò (status-role) như là đơn vị cơ bản của hệ thống. Đây không phải là một khía cạnh của các actors, mà cũng không phải là một khía cạnh của sự tương tác, mà đúng  hơn là một thành tố mang tính cấu trúc của hệ thống xã hội. Địa vị chỉ một vị trí cấu trúc trong lòng hệ thống xã hội, và vai trò là cái mà actor thực hiện ở một vị trí như thế, nhìn trong ngữ cảnh về tầm quan trọng chức năng của nó đối với hệ thống lớn hơn. Actor được nhìn nhận không phải trong phạm vi các ý nghĩ và hành động mà thay vì thế (ít nhất trong phạm vi của vị trí trong hệ thống xã hội) không là cái gì cả ngoài một tập hợp các địa vị và các vai trò.

            Trong phân tích về hệ thống xã hội, Parsons cơ bản chú ý tới các thành tố cấu trúc của nó. Ngoài mối quan tâm đến địa vị-vai trò, Parsons chú ý tới các thành tố vĩ mô của các hệ thống xã hội như các tập thể, các tiêu chí và các giá trị. Tuy nhiên, trong phân tích hệ thống xã hội của ông, Parsons  không chỉ đơn giản là một nhà cấu trúc luận mà còn là một nhà chức năng luận. Do vậy ông gạt bỏ đi một số  điều kiện tiên quyết về chức năng của hệ thống xã hội. Thứ nhất, các hệ thống xã hội phải được cơ cấu để cho chúng có thể vận hành tương thích với các hệ thống khác. Thứ hai, để tồn tại, hệ thống xã hội phải có sự hỗ trợ cần thiết từ các hệ thống khác. Thứ ba, hệ thống phải gặp gỡ một tỷ lệ quan trọng các nhu cầu của tác nhân hành động của nó. Thứ tư, hệ thống phải gợi ra được sự tham gia tương xứng của các thành viên của nó. Thứ năm, nó phải có ít nhất một sự kiểm soát tối thiểu đối với hành vi phá hủy chủ yếu. Thứ sáu, nếu xung đột trở nên mang tính phá hủy thật sự, nó phải được kiểm soát. Cuối cùng, một hệ thống xã hội đòi hỏi một ngôn ngữ để tồn tại.

Hiển nhiên trong thảo luận của Parsons về các điều kiện tiên quyết mang tính chức năng của hệ thống xã hội, tiêu điểm của ông là các hệ thống vĩ mô và mối tương quan giữa chúng với nhau. Ngay cả khi ông nói về tác nhân hành động, nó cũng đến từ quan điểm của hệ thống. Thảo luận cũng đã phản ánh mối quan tâm của Parsons tới sự duy trì trật tự trong hệ thống xã hội.

            Tuy nhiên, Parsons không hoàn toàn bỏ qua vấn đề mối tương quan giữa các tác nhân hành động và các cấu trúc xã hội trong thảo luận về hệ thống xã hội của ông. Thực sự, ông gọi sự hòa hợp các khuôn mẫu giá trị và các xu hướng nhu cầu là “định lý động lực cơ bản của xã hội học”. Mối quan tâm trung tâm của ông với hệ thống xã hội mang tính chủ chốt trong sự hòa hợp này là các quá trình chủ quan hóa và xã hội hóa. Nghĩa là Parsons chú ý tới các cách thức mà các tiêu chí và giá trị của một hệ thống được chuyển giao cho các tác nhân hành động trong lòng hệ thống. Trong một tiến trình xã hội hóa thành công, các tiêu chí và giá trị này được chủ quan hóa; nghĩa là chúng trở thành một phần của “lương tri” của các tác nhân hành động. Kết quả là, khi theo đuổi các quan tâm riêng của họ, các tác nhân hành động trong thực tế đã phục vụ cho các quan tâm của toàn thể hệ thống.  Parsons viết: “Sự kết hợp các khuôn mẫu định hướng giá trị đạt được (bởi tác nhân hành động trong sự xã hội hóa) phải ở một mức độ vô cùng quan trọng là một chức năng của vai trò cấu trúc cơ bản và là các giá trị hàng đầu của hệ thống xã hội.”
           
Nói chung, Parsons giả thiết rằng các tác nhân hành động thường là các người hưởng thụ thụ động trong tiến trình xã hội hóa. Trẻ con học không chỉ để hành động ra sao mà cả các tiêu chí và giá trị, luân lý của xã hội. Sự xã hội hóa được khái niệm hóa như là một tiến trình bảo thủ trong đó các xu hướng nhu cầu (tự bản thân chúng được đúc nắn bởi xã hội) đưa trẻ con tới với hệ thống xã hội, và nó cung cấp các phương tiện nhờ đó các xu hướng nhu cầu có thể được đáp ứng. Không có hoặc có rất ít chỗ cho sự sáng tạo; nhu cầu đối với sự ban thưởng trói buộc trẻ con vào hệ thống như nó vẫn tồn tại. Parsons xem sự xã hội hóa như là một kinh nghiệm suốt đời. Bởi vì các tiêu chí và giá trị in sâu trong thời thơ ấu có xu hướng trở nên rất phổ biến, chúng không chuẩn bị trẻ em cho một loạt các hoàn cảnh cụ thể mà chúng sẽ đối mặt lúc trưởng thành. Như vậy, xã hội hóa phải được bổ sung trong suốt vòng đời với một loạt các kinh nghiệm xã hội hóa cụ thể hơn. Dù nhu cầu này đến về sau trong đời, các tiêu chí và các giá trị học hỏi được trong thời thơ ấu có xu hướng bền vững và, với một chút động viên nâng đỡ nhẹ nhàng, có xu hướng tồn tại  mạnh mẽ suốt đời.

Dù sự tuân thủ được gây ra bởi sự xã hội hóa kéo dài cả một đời, có một sự khác biệt cá thể rất rộng lớn đa dạng trong hệ thống. Vấn đề là: Tại sao điều này không chỉ bình thường là vấn đề chủ yếu đối với hệ thống xã hội, hy sinh nhu cầu của nó cho trật tự?  Một mặt, một số cơ cấu kiểm soát xã hội có thể được sử dụng để  kéo dài sự tuân thủ. Tuy nhiên, ở mức độ quan tâm của Parsons, sự kiểm soát xã hội hoàn toàn là một đường vạch tự vệ thứ hai. Một hệ thống vận hành tốt nhất khi kiểm soát xã hội chỉ được sử dụng một cách dè sẻn. Mặt khác,  hệ thống phải có khả năng chịu một số  dao dộng biến đổi, một số lệch lạc. Một hệ thống xã hội linh hoạt mạnh hơn là một xã hội dễ tan vỡ  do không chấp nhận sự lệch lạc. Cuối cùng, hệ thống xã hội cần cung cấp một loạt các cơ hội vai trò cho phép các tính cách khác nhau thể hiện chúng mà không đe dọa đến sự hòa hợp của hệ thống.

Sự xã hội hóa và kiểm soát xã hội là các cơ cấu chủ yếu cho phép hệ thống xã hội duy trì sự cân bằng của nó. Các tính cách khuôn mẫu và lệch lạc nhất có tính thích nghi, nhưng nhiều hình thái cực đoan hơn phải cần đến các cơ cấu cân bằng. Do vậy, trật tự xã hội được xây dựng nên trong hệ thống xã hội của Parsons:

Không cần đến kế hoạch tự chủ của bất kỳ ai, kiểu hệ thống xã hội của chúng tôi đã được phát triển, và tương ứng với những hệ thống khác, các cơ cấu trong vòng giới hạn, có khả năng dự báo và tái lập các xu hướng lệch lạc nằm khuất sâu để đi vào vòng chu kỳ khắc nghiệt đã đặt nó ra ngoài sự kiểm soát của sự chấp nhận-không chấp nhận bình thường và  các tưởng thưởng-trừng phạt.

            Một lần nữa, quan tâm chính của Parsons là tổng thể hệ thống hơn là tác nhân hành động trong hệ thống- hệ thống kiểm soát actor ra sao, chứ không phải actor đã sáng tạo và duy trì hệ thống ra sao. Điều này phản ánh sự tận tâm của Parsons về vấn đề này theo một định hướng chức năng cấu trúc.
           
Dù ý tưởng về một hệ thống xã hội (social system) bao gồm tất cả mọi kiểu hình các tập thể, một hệ thống xã hội đặc thù và vô cùng quan trọng là xã hội (society), “một tập hợp tương đối tự chủ mà các thành viên của nó có khả năng đáp ứng tất cả các nhu cầu cá nhân và tập thể của họ, và sống hoàn toàn trong phạm vi cơ cấu của nó”. Là một nhà chức năng cấu trúc, Parsons phân biệt trong bốn cấu trúc, hoặc tiểu hệ thống, trong xã hội trong phạm vi các chức năng (AGIL) chúng thực hiện (xem Sơ đồ 3.3). Kinh tế là tiểu hệ thống thực hiện chức năng đối với xã hội về việc thích nghi với môi trường thông qua lao động, sự sản xuất và phân phối. Qua các công việc này, nền kinh tế thích nghi môi trường với các nhu cầu  của xã hội, và nó giúp xã hội thích nghi với các thực tại ngoại vi này. Chính trị (hoặc hệ chính trị) thực hiện chức năng đạt được mục tiêu bằng cách theo đuổi các đối tượng thuộc về xã hội, các tác nhân hành động và các nguồn tài nguyên để tới mục đích đó. Hệ thống úy thác (ví dụ, trong các trường học, gia đình) xử lý chức năng tiềm tàng bằng cách chuyển giao văn hoá (các tiêu chí và các giá trị) cho các tác nhân hành động và cho phép họ chủ quan hoá nó. Cuối cùng, chức năng hoà hợp được thực hiện bởi các thể chế cộng đồng (ví dụ, pháp luật), liên kết các  thành tố khác nhau của xã hội.

           
Sơ đồ 3.3:  Xã hội, các tiểu hệ thống của nó và các chức năng khẩn yếu

Theo Parsons, các cấu trúc của hệ thống xã hội là quan trọng, nhưng hệ thống văn hoá quan trọng hơn. Thực tế, như chúng ta đã thấy, hệ thống văn hoá đứng ở đỉnh của hệ thống hành động của ông, và Parsons tự cho  mình là một “nhà văn hoá quyết định luận”.

            Hệ thống văn hóa. Parsons xem văn hoá là lực lượng chính liên kết các nguyên tố khác nhau của thế giới xã hội, hoặc, theo từ ngữ của ông, hệ thống hành động. Văn hóa dàn xếp các tương tác giữa các actors và hoà hợp cá tính với các hệ thống xã hội. Văn hoá có khả năng đặc biệt để trở thành, ít nhất là phần nào, một thành tố của các hệ thống khác. Do vậy, trong hệ thống xã hội, văn hóa được bao hàm trong các tiêu chí và giá trị, và trong hệ thống cá tính nó được chủ quan hoá bởi actor. Nhưng hệ thống văn hóa không chỉ đơn giản là một phần của các hệ thống khác; nó cũng là một tồn tại riêng biệt dưới hình thức nguồn dự trữ  xã hội về kiến thức, các biểu tượng và các ý tưởng. Các khía cạnh này của hệ thống là sẵn có đối với các hệ thống xã hội và cá tính, nhưng chúng không trở thành một bộ phận các các hệ thống đó.

             Parsons xác định hệ thống văn hóa, như đã làm với các hệ thống khác của ông, trong phạm vi các tương quan của nó đối với các hệ thống hành động khác. Do vậy, văn hoá được xem là một hệ thống định khuôn, có trật tự về các biểu tượng là các đối tượng của sự định hướng đối với các actors, các khía cạnh chủ quan hoá của hệ thống cá tính, và các khuôn mẫu được thể chế hoá trong hệ thống xã hội. Vì nó có tính biểu tượng và chủ quan rất cao, văn hoá dễ dàng được chuyển giao từ một hệ thống này sang hệ thống khác. Văn hoá có thể di chuyển từ hệ thống xã hội này sang hệ thống xã hội khác thông qua sự truyền bá, và từ hệ thống cá tính này sang hệ thống cá tính khác thông qua sự học hỏi và xã hội hoá. Tuy nhiên, đặc tính biểu tượng (chủ quan) của văn hoá cũng tạo cho nó một đặc điểm khác, khả năng kiểm soát các hệ thống hành động khác của Parsons. Đây là một trong những lý do Parsons đi đến chỗ cho bản thân ông là một nhà văn hoá quyết định luận.

            Tuy nhiên, nếu hệ thống văn hóa được đề cao nhất trong lý thuyết của Parsons, chuùng ta phải hỏi như thế ông có đưa ra một lý thuyết thật sự hòa hợp hay không. Như được chỉ rõ ở phần Phụ lục, một lý thuyết thật sự hòa hợp tạo ra một sự tương đương dứt khoát đối với tất cả các cấp độ phân tích chủ yếu. Văn hoá quyết định luận, thật ra là tất cả các loại quyết định luận, rất đáng nghi ngờ từ quan điểm của một xã hội học có tính hoà hợp. (Xem Camic để biết một khái niệm hòa hợp hơn về tác phẩm của Parsons).  Vấn đề này trầm trọng thêm khi ta nhìn vào hệ thống cá tính và thấy nó phát triển yếu ớt như thế nào trong tác phẩm của Parsons.

            Hệ thống cá tính. Hệ thống cá tính được kiểm soát không chỉ bởi hệ văn hoá mà cả hệ thống xã hội. Điều này không có nghĩa là là nói rằng Parsons đã không chấp nhận một số tính độc lập đối với hệ thống cá tính:

Quan điểm của tôi là, trong khi nội dung chính của cấu trúc của cá tính phát sinh từ các hệ thống xã hội và hệ thống văn hoá thông qua sự xã hội hoá, hệ thống cá tính trở nên một hệ thống độc lập thông qua các quan hệ của nó với các cơ quan của chính nó và thông qua tính độc nhất của kinh nghiệm sống của chính nó; nó không chỉ đơn giản là một hiện tượng phụ.

            Chúng ta có cảm giác là ở đây Parsons quả quyết hơi nhiều. Nếu hệ thống cá tính không phải là một hiện tượng phụ, hẳn nó đã bị giảm trừ xuống địa vị thứ hai hay phụ thuộc trong hệ thống lý thuyết của ông.

            Cá tính được định nghĩa là hệ thống có tổ chức của sự định hướng và động cơ hành động của cá thể tác nhân hành động. Thành tố cơ bản của cá tính là “xu hướng-nhu cầu”. Parsons và Shils xác định các xu hướng-nhu cầu là các “đơn vị quan trọng nhất của động cơ hành động”. Họ phân biệt các xu hướng-nhu cầu (need-disposition) với các động năng (drive), vốn là các xu hướng bẩm sinh”.  Nói cách khác, các động năng tốt hơn nên được xem là một phần của thực thể sinh học. Các xu hướng-nhu cầu khi này được xác định là “những xu hướng tương tự khi chúng không phải là bẩm sinh mà có được thông qua tiến trình của tự thân hành động”. Nói cách khác, các xu hướng-nhu cầu là các động năng được định hình bởi hệ thống xã hội.

            Các xu hướng-nhu cầu thúc đẩy các actor chấp nhận hay phản đối các đối tượng hiện diện trong môi trường hay tìm ra các đối tượng mới nếu những đối tượng có sẵn không đáp ứng thỏa đáng cho chúng. Parsons phân biệt ba kiểu xu hướng-nhu cầu cơ bản. Kiểu thứ nhất thúc đẩy các actor tìm kiếm tình yêu, sự chấp nhận, vv...từ các quan hệ xã hội của họ. Kiểu thứ hai bao gồm các giá trị đã chủ quan hoá dẫn dắt các actor nhìn nhận các chuẩn mực văn hoá khác nhau. Cuối cùng là các ước vọng vai trò dẫn các actor tới chỗ cho hoặc nhận cán phản ứng tương ứng.                                          
           
Điều này tạo ra một hình ảnh rất thụ động về các actor. Dường như họ hoặc bị thúc đẩy bởi các động năng, bị thống trị bởi văn hoá, hoặc thông thường hơn, định hình bởi một kết hợp giữa các động năng và văn hoá (tức các xu hướng-nhu cầu). Một hệ thống cá tính thụ động rõ ràng là một sự nối kết yếu ớt trong một lý thuyết hòa hợp, và Parsons dường như nhận ra điều này. Nhiều lần khác nhau, ông cố gắng phú cho cá tính một số tính chất sáng tạo. Ví dụ, ông nói: “Chúng tôi không có ẩn ý... rằng các giá trị của một cá nhân hoàn toàn là “văn hoá được chủ quan hóa” hoặc kết đính một cách đơn giản với các nguyên tắc và quy luật. Cá nhân tạo ra những biến cải khi anh ta chủ quan hóa văn hóa; nhưng khía cạnh mới lạ không phải là khía cạnh văn hóa”. Dù có những chỉ trích như thế, ấn tượng nổi bật nảy sinh từ tác phẩm của Parsons là ấn tượng về một hệ thống có tính chất thụ động.

Sự nhấn mạnh của Parsons vào các xu hướng-nhu cầu tạo ra các vấn đề khác. Vì nó bỏ qua rất nhiều khía cạnh quan trọng khác của cá tính, hệ thống của ông trở nên rất nghèo nàn. Alfred Baldwin, một nhà tâm lý học, đã đưa ra một quan điểm chính xác:

Khá công bằng khi nói rằng Parsons đã thất bại trong lý thuyết của ông trong việc cung cấp cho cá tính một tập hợp thuộc tính hoặc cơ cấu hợp lý ngoài các xu hướng-nhu cầu, và đã tự gây khó khăn cho mình bởi không phú cho cá tính đầy đủ các đặc điểm và đầy đủ các loại cơ cấu khác nhau để nó có thể thực hiện chức năng.

Baldwin đưa ra một quan điểm khác về hệ thống cá tính của Parsons, lý luận rằng ngay khi Parsons phân tích hệ thống cá tính, ông cũng không thực sự tập trung chú ý vào nó: “Ngay cả khi ông viết những chương về cấu trúc cá tính, Parsons dành nhiều trang để nói về các hệ thống xã hội hơn là nói về cá tính”. Việc Parsons nối kết cá tính vào hệ thống xã hội đã được phản ánh trong nhiều cách khác nhau. Trước hết, các actor phải học để nhìn thấy bản thân theo một cách phù hợp với vị trí họ nắm giữ trong xã hội. Thứ hai, các mong ước về vai trò được đính kèm theo mỗi vai trò mà các cá thể actor nắm giữ. Vậy là có sự học hỏi tự giác, sự chủ quan hóa của các định hướng giá trị, sự  tương đồng, vv... Tất cả các lực lượng này hướng sự hòa hợp của hệ thống cá tính tới hệ thống xã hội, mà Parsons đã nhấn mạnh. Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra các bất hòa hợp có thể có, là một vấn đề đối với hệ thống cần được khắc phục.

Một khía cạnh khác của tác phẩm của Parsons - mối quan tâm của ông vào sự chủ quan hoá như là mặt thuộc về hệ thống cá tính của tiến trình xã hội hoá - phản ánh tính thụ động của hệ thống cá tính. Parsons có mối quan tâm này là bắt nguồn từ tác phẩm của Durkheim về sự chủ quan hóa, cũng như từ tác phẩm của Freud, cơ bản là về siêu bản ngã (superego), Parsons một lần nữa biểu lộ khái niệm của ông về một hệ thống cá tính bị kiểm soát một cách thụ động và từ phía bên ngoài.                                                                                                                                                         

Dù Parsons sẵn sàng nói về các khía cạnh chủ quan của cá tính trong tác phẩm đầu của ông, ông tiếp tục từ bỏ viễn cảnh đó. Trong việc làm này, ông đã giới hạn các nhận thức khả dĩ của mình vào hệ thống cá tính. Ở một điểm, Parsons nói rõ rằng ông đang chuyển mối quan tâm của mình khỏi các ý nghĩa nội tại mà hành động của mọi người có thể có: “Sự tổ chức của các dữ liệu quan sát trong phạm vi của lý thuyết hành động hoàn toàn là có khả năng và chín mùi trong phạm vi thuyết hành vi đã được cải biến, và một trình bày có hệ thống như thế tránh được nhiều vấn đề khó khăn về sự nội quan (introspection) hoặc sự thấu cảm (empathy)”.

Thực thể  hành vi.  Dù Parsons bao gồm thực thể hành vi như là một trong bốn hệ thống hành động, ông nói rất  ít về nó. Nó được bao gồm bởi vì nó là nguồn năng lượng cho phần còn lại của các hệ thống. Dù nó dựa trên thiết chế di truyền, tổ chức của nó chịu ảnh hưởng bởi các tiến trình của điều kiện và sự học hỏi xảy ra trong cuộc đời cá thể. Thực thể sinh học hiển nhiên là một hệ thống dư thừa trong tác phẩm của Parsons, nhưng tối thiểu Parsons cũng phải được ca ngợi vì đã bao gồm nó như là một bộ phận của xã hội học của ông, nếu như ông không mong chờ một lý do nào khác ở mối quan tâm tới nó của một số nhà xã hội học.

Sự biến đổi và thuyết động lực trong lý thuyết Parsons

Lý thuyết tiến hóa: Tác phẩm của Parsons với những công cụ khái niệm như bốn hệ thống hành động và các nhu cầu chức năng dẫn tới một cáo buộc rằng ông đã đưa ra một lý thuyết  cấu trúc không có khả năng giải quyết sự biến đổi xã hội. Parsons đã từ lâu nhạy cảm với sự cáo buộc này, lý luận rằng dù một nghiên cứu về sự biến đổi là cần thiết, nó phải được đi trước một bước bởi một nghiên cứu về cấu trúc. Nhưng trong thập niên 1960 ông không thể chịu được các cuộc tấn công lâu hơn nữa, và đã thực hiện một chuyển biến chủ yếu trong tác phẩm của mình sang hướng nghiên cứu sự biến đổi xã hội, đặc biệt là nghiên cứu về tiến hóa xã hội.

            Định hướng chung của Parsons đối với việc nghiên cứu biến đổi xã hội định hình bởi bộ môn sinh học. Để xử lý tiến trình này, Parsons phát triển cái mà ông gọi là “một mô hình của sự biến đổi tiến hóa”

            Thành tố đầu tiên của mô hình này là tiến trình của sự phân biệt (differentiation). Parsons giả thiết rằng bất kỳ xã hội nào cũng chứa đựng một chuỗi các tiểu hệ thống khác nhau về tầm quan trọng của cả cấu trúc cũng như chức năng đối với xã hội lớn. Khi xã hội tiến hóa, các tiểu hệ thống mới bị tách biệt nhau. Tuy nhiên, điều này chưa đủ; chúng còn phải có tính thích nghi hơn các tiểu hệ thống đã có trước. Do vậy, khía cạnh chủ yếu của mô hình tiến hóa của Parsons là ý tưởng về sự nâng cấp tính thích nghi (adaptive upgrading). Parsons diễn tả quá trình này:

Nếu sự phân biệt mang lại một hệ thống tiến hóa, cân bằng hơn, mỗi tiểu cấu trúc tách biệt mới… phải gia tăng khả năng thích ứng để thực hiện chức năng cơ bản của nó, khi đem so với việc thực hiện chức năng này ở cấu trúc phổ biến hơn trước đó… Chúng ta có thể gọi quá trình này là khía cạnh nâng cấp tính thích nghi của chu kỳ biến đổi tiến hóa.

            Đây là một kiểu mẫu mang tính chất thực chứng cao độ của biến đổi xã hội (dù tất nhiên Parsons đã ý thức tới mặt u tối hơn của nó). Nó giả thiết rằng khi xã hội tiến hóa, nhìn  chung, nó trở nên có khả năng tốt hơn để đối đầu với các vấn đề của nó. Trái lại, trong lý thuyết Marx, biến đổi xã hội dẫn tới một sự sụp đổ chung cuộc của xã hội tư bản. Vì lý do này, trong số những người khác, Parsons thường được cho là một lý thuyết gia xã hội học bảo thủ cao độ. Ngoài ra, trong khi ông xử lý vấn đề biến đổi, ông có xu hướng tập trung vào các khía cạnh tích cực của biến đổi xã hội trong thế giới hiện đại hơn là khía cạnh tiêu cực của nó.

            Kế đến, Parsons lý luận rằng tiến trình phân biệt dẫn tới một tập hợp vấn đề mới về sự hòa hợp xã hội. Khi các tiểu hệ thống sinh sôi nảy nở, xã hội đương đầu với các vấn đề mới gắn liền với sự vận hành của các đơn vị này:

Một xã hội thực thi tiến hóa phải di chuyển từ một hệ thống của sự gán ép tới một hệ thống của thành tựu. Hàng loạt các kỹ năng và khả năng cần thiết phải có để giải quyết các tiểu hệ thống phổ biến tràn lan hơn. Các khả năng phổ quát của mọi người phải được giải phóng khỏi các mối ràng buộc gán ép để họ có thể trở nên có ích cho xã hội. Nói chung, điều này có nghĩa là các nhóm đã từng bị loại trừ khỏi việc đóng góp cho xã hội phải được giải phóng để được kể là các thành viên đúng nghĩa của xã hội.

            Cuối cùng, hệ thống giá trị của tổng thể xã hội phải thực hiện biến đổi khi các cấu trúc và chức năng ngày càng trở nên phân biệt nhau hơn. Tuy nhiên, vì hệ thống mới có tính đa dạng hơn, hệ thống giá trị khó mà bao hàm nó. Như vậy, một xã hội mang tính phân biệt cao hơn đòi hỏi một hệ thống giá trị “ẩn náu ở một cấp độ phổ quát cao hơn để chính thống hóa các mục tiêu và chức năng đa dạng của những tiểu đơn vị của nó”. Tuy nhiên, quá trình phổ quát hóa các giá trị này không tiến triển một cách êm xuôi khi nó gặp trở kháng từ các nhóm gắn bó với các hệ thống giá trị nhỏ hẹp của riêng họ.

            Sự tiến hóa tiến triển qua các chu trình khác nhau, nhưng không có một tiến trình chung nào có ảnh hưởng đến mọi xã hội một cách đồng đều. Một số xã hội có thể  thuận lợi cho sự tiến hóa, trong khi một số khác có thể “ bị ngáng trở bởi các xung đột nội tại hay các điều bất lợi khác” nên chúng cản trở quá trình tiến hóa hoặc thậm chí chúng trở nên sa đọa. Cái thu hút quan tâm của Parsons nhất là những xã hội trong đó các “đột phá” xảy ra, vì ông tin rằng một khi chúng xảy ra, quá trình tiến hóa sẽ đi theo kiểu mẫu tiến hóa chung của ông.

            Dù Parsons cho tiến hóa xảy ra theo từng giai đoạn, ông đã cẩn thận tránh khỏi một lý thuyết tiến hóa một chiều: “Chúng ta không xem các tiến hóa xã hội là một tiến trình tiếp diễn hoặc một tiến trình tuyến tính giản đơn, nhưng chúng ta không thể phân biệt giữa các cấp độ tiến bộ rộng lớn mà không xem xét sự khác biệt đáng kể tìm thấy ở mỗi tiến trình”. Nói rõ rằng ông đã đơn giản hóa vấn đề đi, Parsons phân biệt ba giai đoạn tiến hóa lớn - nguyên thủy, trung cổ và hiện đại. Về đặc điểm, ông phân biệt các giai đoạn này cơ bản dựa trên các chiều kích văn hóa. Sự phát triển chủ yếu trong chuyển biến từ nguyên thủy sang trung cổ là sự phát triển ngôn ngữ, cơ bản là ngôn ngữ viết. Phát triển chính yếu trong chuyển biến từ trung cổ sang hiện đại là “các luật lệ được thể chế hóa của các quy phạm mệnh lệnh”, hoặc luật pháp.

            Kế đó, Parsons tiếp tục phân tích một loạt xã hội cụ thể trong bối cảnh tiến hóa từ xã hội nguyên thủy tới xã hội hiện đại. Một điểm đặc biệt đáng ghi nhận ở đây là: Parsons đã chuyển sang thuyết tiến hóa, ít nhất là một phần, vì ông bị cáo buộc là không thể xử lý vấn đề biến đổi xã hội. Tuy nhiên, phân tích tiến hóa của ông không nằm trong phạm vi của quá trình; mà nó là một nỗ lực “sắp xếp trật tự các cấu trúc và liên kết chúng theo chuỗi liên tục” Đây là phép phân tích cấu trúc so sánh, chứ không thật sự là một nghiên cứu về các quá trình biến đổi xã hội. Do vậy, ngay cả khi ông được cho là xem xét sự biến đổi, Parsons vẫn còn bận tâm tới việc nghiên cứu các cấu trúc và các chức năng.

             Vật trung gian phổ quát của sự trao đổi.  Một trong những cách trong đó Parsons dẫn dắt một số thuyết động lực và tính lưu động vào hệ thống lý thuyết của ông là thông qua các ý tưởng của ông về vật trung gian phổ quát của sự hoà hợp (generalized media of interchange) trong và giữa các hệ thống bốn hành động (đặc biệt là trong hệ thống xã hội) đã thảo luận bên trên. Kiểu mẫu cho vật trung gian phổ quát của sự trao đổi là tiền bạc, vận hành như  một sự trung gian trong phạm vi nền kinh tế. Nhưng thay vì tập trung vào các hiện tượng vật chất như tiền bạc, Parsons tập trung vào sự trung gian trao đổi mang tính biểu tượng. Ngay cả khi Parsons thảo luận tiền bạc như là một vật trao đổi trung gian trong phạm vi hệ thống xã hội, ông cũng tập trung vào tính biểu tượng của nó hơn là các phẩm chất vật chất của nó. Ngoài tiền bạc ra, và có tính biểu tượng cao hơn, là các vật trung gian phổ quát của sự trao đổi khác–  quyền lực chính trị, sự ảnh hưởng, và các ủy thác giá trị. Parsons làm sáng tỏ tại sao ông tập trung vào vật hoà hợp trung gian mang tính biểu tượng: “Sự dẫn nhập một lý thuyết về sự trung gian vào loại viễn cảnh cấu trúc tôi chứa đựng trong đầu óc tiến khá xa, dường như với tôi là vậy, trong việc bác bẻ lại các luận điệu thường xuyên rằng kiểu phân tích cấu trúc này là một căn bệnh di truyền với một khuynh hướng tĩnh tại, điều làm cho việc phán xét các vấn đề động lực trở nên bất khả”.

            Vật hoà hợp trung gian mang tính biểu tượng có khả năng, như tiền chẳng hạn, được sáng tạo và lưu thông trong xã hội lớn. Như vậy, trong phạm vi hệ thống xã hội, các vật trung gian trao đổi mang tính biểu tượng trong hệ thống chính trị có thể sáng tạo ra quyền lực chính trị. Quan trọng hơn, chúng có thể mở rộng quyền lực đó, và do đó cho phép nó lưu động một cách tự do trong, và gây ảnh hưởng lên, hệ thống xã hội. Thông qua một sự mở rộng quyền lực như thế, các nhà lãnh tụ được giả đoán là đã củng cố hệ thống xã hội cũng như tổng thể xã hội nói chung. Nói tổng quát hơn, chính vật trung gian phổ quát đã lưu động giữa các hệ thống bốn hành động và trong phạm vi các cấu trúc của mỗi một hệ thống trong đó. Chính sự tồn tại và vận động của chúng đã cung cấp thuyết động lực cho phép phân tích cấu trúc lớn của Parsons.

            Như Alexander vạch ra, vật trung gian phổ quát của sự trao đổi đã cho lý thuyết của Parsons vay mượn thuyết động lực theo một ý thức khác. Chúng cho phép đối với sự tồn tại của các “ông chủ hãng buôn trung gian” (ví dụ, các nhà chính trị), những người không đơn giản chấp nhận hệ thống trao đổi như nó vốn có. Nghĩa là, họ có thể sáng tạo và củng cố và bằng cách đó thay đổi không chỉ số lượng của vật trung gian phổ quát mà cả phương thức và chiều hướng mà sự trung gian hướng đến.

            Thuyết chức năng cấu trúc của Robert Merton

            Trong khi Talcott Parsons là nhà lý thuyết gia chức năng cấu trúc quan trọng nhất, sinh viên của ông là Robert Merton đã là tác giả của một số trình bày quan trọng nhất về thuyết chức năng cấu trúc trong xã hội học. Merton phê phán một số khía cạnh cực đoan và không có khả năng bảo vệ của thuyết chức năng cấu trúc. Nhưng quan trọng tương đương, các nhận thức khái niệm mới của ông giúp cho thuyết chức năng cấu trúc tiếp tục hữu dụng.

            Dù cả Merton và Parsons đều gắn bó với thuyết chức năng cấu trúc, có những khác biệt quan trọng giữa hai người. Một mặt, trong khi Parsons ủng hộ sự sáng tạo các lý thuyết lớn, bao trùm, Meron ủng hộ các lý thuyết giới hạn, trung cấp hơn. Mặt khác, Merton tán thành thuyết Marx hơn Parsons. Thực sự, Merton và một số sinh viên của ông (đặc biệt là Alvin Gouldner) có thể được coi là đã đẩy thuyết chức năng cấu trúc sang hướng chính trị cánh tả.               

            Một kiểu mẫu chức năng-cấu trúc.  Merton phê phán cái mà ông coi là ba định đề cơ bản của phép phân tích chức năng như đã được phát triển bởi các nhà nhân loại học như Malinowski và Radcliffe Brown. Đầu tiên là định đề về tính đơn nhất của chức năng xã hội. Định đề này xác nhận rằng mọi niềm tin và thực hành xã hội và văn hoá đã chuẩn mực hoá có tính chức năng đối với tổng thể xã hội cũng như đối với các cá thể trong xã hội. Quan điểm này hàm ý rằng các bộ phận khác nhau của một hệ thống xã hội phải biểu lộ một sự hoà hợp cao độ. Tuy nhiên, Merton bảo lưu ý kiến rằng dù là nó có thể đúng đối với các xã hội nhỏ, nguyên thủy, sự  khái quát hoá không thể mở rộng ra ở các xã hội lớn, phức tạp hơn.

            Định đề thứ hai là chức năng phổ quát luận. Nghĩa là, nó lý luận rằng mọi hình thái và cấu trúc xã hội và văn hoá đã được chuẩn mực hoá có các chức năng tích cực. Merton lý luận rằng các mâu thuẫn này chính là cái mà chúng ta tìm thấy trong thế giới thực tại. Hiển nhiên là không phải mọi cấu trúc, phong tục, tư tưởng, niềm tin, vv... đều có các chức năng tích cực . Ví dụ, chủ nghĩa quốc gia đang tăng nhanh có thể phản chức năng cao độ trong một thế giới đầy rẫy các vũ khí hạt nhân.

            Thứ ba là định đề về tính tất yếu. Lý luận ở đây là mọi khía cạnh đã được chuẩn mực hoá của xã hội không chỉ phải mang những chức năng tích cực mà còn tiêu biểu cho các bộ phận không thể thiếu được của hoạt động tổng thể. Định đề này đưa tới ý tưởng rằng tất cả mọi cấu trúc và chức năng đều có tính cần yếu về mặt chức năng đối với xã hội. Không có các cấu trúc và chức năng nào khác có thể hoạt động tốt như các cái đang có hiện nay trong xã hội.  Sự phê phán của Merton, theo Parsons, là chúng ta ít nhất phải sẵn sàng thừa nhận rằng có những thay đổi đa dạng về cấu trúc và chức năng đã được tìm thấy trong xã hội.

            Lập trường của Merton là mọi định đề chức năng trên dựa vào các giả đoán phi thực nghiệm trên cơ sở các hệ thống lý thuyết trừu tượng. Ở mức tối thiểu, trách nhiệm của nhà xã hội học là phải kiểm chứng từng định đề đó bằng thực nghiệm. Niềm tin của Merton rằng các kiểm chứng thực nghiệm, chứ không phải các giả định lý thuyết, là điều cốt yếu đối với phân tích chức năng đã dẫn ông tới việc phát triển “mô hình” của mình về phân tích chức năng như là một dẫn đạo tới sự hoà hợp giữa lý thuyết và khảo sát.

            Merton làm rõ từ đầu rằng phép phân tích chức năng cấu trúc tập trung vào các nhóm, các tổ chức, xã hội, và các nền văn hoá. Ông phát biểu rằng bất kỳ một đối tượng nào có thể áp dụng phép phân tích chức năng cấu trúc phải “thể hiện một hạng mục đã chuẩn mực hoá (nghĩa là, đã định khuôn mẫu và có tính lặp lại nhiều lần)”. Ông chứa trong đầu những điều như:  “các vai trò xã hội, các khuôn mẫu thể chế, các quá trình xã hội, các khuôn mẫu văn hoá, các tình cảm văn hoá khuôn mẫu, các tiêu chí xã hội, sự tổ chức nhóm, cấu trúc xã hội, các công cụ kiểm soát xã hội, vv...”

            Các nhà chức năng cấu trúc thời kỳ đầu có xu hướng hầu như hoàn toàn tập trung vào các chức năng của một cấu trúc xã hội hoặc thể chế xã hội. Tiêu điểm của nhà chức năng cấu trúc phải là các chức năng xã hội hơn là các động cơ cá thể. Các chức năng, theo Merton, được xác định như là “những hệ quả quan sát được, được tạo ra cho sự thích nghi và điều chỉnh của một hệ thống xét đến”. Tuy nhiên, có một xu hướng rõ ràng mang tính duy tâm khi người ta chỉ tập trung vào sự thích nghi hoặc sự điều chỉnh, vì chúng luôn luôn là các hệ quả tích cực. Điều quan trọng là chú ý rằng một sự kiện xã hội có thể có các hệ quả tiêu cực đối với một sự kiện xã hội khác. Để chỉnh lại sự bỏ sót nghiêm trọng này ở thuyết chức năng cấu trúc thời kỳ đầu, Merton phát triển một ý tưởng gọi là một phản chức năng (dysfunction). Ngay khi các cấu trúc hay thể chế có thể đóng góp cho sự duy trì các bộ phận khác của hệ thống xã hội, chúng cũng có thể gây các hệ quả tiêu cực đối với chúng. Chế độ nô lệ ở miền Nam Hoa Kỳ, ví dụ, rõ ràng có những hệ quả tích cực đối với người da trắng miền Nam, như tạo ra nhân công rẻ, hỗ trợ cho nền kinh tế vải sợi, và địa vị xã hội. Nó cũng có phản chức năng, như  làm cho người miền Nam quá phụ thuộc vào một nền kinh tế trồng trọt và do đó không chuẩn bị cho sự công nghiệp hoá. Sự chênh lệch kéo dài giữa miền Bắc và miền Nam về công nghiệp hoá có thể truy nguyên, ít nhất là phần nào, từ các phản chức năng của thể chế nô lệ ở miền Nam.

            Merton cũng thừa nhận ý tưởng về các phi chức năng, mà ông xác định như là các hệ quả đơn giản là không có tính thích ứng với hệ thống được xem xét. Bao gồm ở đây có thể là các hình thái xã hội, là những “cái còn sót lại” (survivals) từ những thời kỳ lịch sử sơ khai. Dù chúng có thể có các hệ quả tích cực hay tiêu cực trong quá khứ, chúng không còn ảnh hưởng quan trọng gì tới xã hội đương thời. Một ví dụ là, mặc dù có một ít bất đồng ý kiến, Phong trào hạn chế rượu của phụ nữ Công giáo.

Nó giúp trả lời cho câu hỏi rằng các chức năng tích cực có nhiều tác dụng hơn các phản chức năng hay không, hoặc là ngược lại. Merton phát triển khái niệm sự cân bằng mạng lưới (net balance). Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ có thể đơn giản cộng lại các chức năng tích cực và các phản chức  năng và quyết định một cách chủ quan cái này có tác dụng hơn cái kia, vì các vấn đề rất phức tạp và tùy thuộc rất lớn vào sự  phán xét chủ quan đến nổi chúng không thể tính toán và đo lường được một cách dễ dàng. Sự hữu ích của khái niệm của Merton đến từ cách thức nó định hướng nhà xã hội học theo vấn đề về tầm quan trọng tương đối. Quay lại ví dụ về chế độ nô lệ, câu hỏi trở thành là, về tính cân bằng, nó có tính chức năng hay phản chức năng hơn đối với miền Nam. Vẫn như thế, câu hỏi là quá rộng và làm che khuất đi một số vấn đề (ví dụ, chế độ nô lệ đó  là có tính chức năng đối với các nhóm nhỏ các chủ nô lệ da trắng.)

            Để đối phó với các vấn đề như thế, Merton bổ sung ý tưởng rằng phải có các cấp độ phân tích chức năng. Nhà chức năng học nói chung tự hạn chế họ ở phân tích xã hội theo nghĩa tổng thể, nhưng Merton làm rõ rằng phân tích cũng có thể thực hiện đối với một tổ chức, thể chế, hoặc một nhóm. Quay lại vấn đề các chức năng của chế độ nô lệ ở miền Nam, cần thiết phải phân biệt nhiều cấp độ phân tích khác nhau và hỏi về các chức năng và phản chức năng của chế độ nô lệ đối với các gia đình da đen, gia đình da trắng, các tổ chức chính trị da đen hoặc tổ chức chính trị da trắng, vv.... Trong phạm vi tính cân bằng mạng lưới, chế độ nô lệ có lẽ có nhiều chức năng hơn đối với các đơn vị xã hội cụ thể, và có nhiều phản chức năng hơn đối với các đơn vị xã hội khác. Hướng vấn đề tới các cấp độ cụ thể hơn giúp ích cho việc phân tích chức năng của tổng thể chế độ nô lệ ở miền Nam.

            Merton cũng giới thiệu các khái niệm về các chức năng biểu lộ (manifest) và tiềm ẩn (latent). Hai thuật ngữ này cũng là các bổ sung quan trọng cho phép phân tích chức năng. Nói một cách đơn giản, các chức năng biểu lộ là các chức năng được dự tính, còn các chức năng tiềm ẩn là các chức năng không được dự tính. Chức năng biểu lộ của chế độ nô lệ, ví dụ, là gia tăng sản lượng kinh tế của miền Nam, nhưng nó có chức năng tiềm ẩn là tạo ra một lớp  giai cấp dưới đã phuc vụ để gia tăng địa vị xã hội của người da trắng miền Nam, cả người nghèo và người giàu. Ý tưởng này có quan hệ tới một số khái niệm khác của Merton – các hệ quả ngoài dự kiến (unanticipated consequences). Các hành động vừa có các hệ quả theo dự tính và không theo dự tính. Dù mọi người đều nhận thức về các hệ quả có dự tính, phân tích xã hội học đòi hỏi phải vén mở ra các hệ quả ngoài dự  kiến; thực tế, đối với một số người điều này là vấn đề rất cơ bản của xã hội học. Peter Berger đã gọi đây là “sự bóc trần”, hoặc cái nhìn vượt khỏi các dự tính đối với các ảnh hưởng thực tế.

            Merton làm rõ rằng các hệ quả ngoài dự kiến này và các chức năng tiềm ẩn không phải là một. Một chức năng tiềm ẩn là một dạng của hệ quả ngoài dự kiến, có tính chức năng đối với hệ thống chỉ định. Nhưng có hai dạng khác của các hệ quả ngoài dự kiến: “những hệ quả là phản chức năng đối với một hệ thống chỉ định”, và, “những hệ quả bất tương thích với hệ thống mà chúng có ảnh hưởng hoặc là một cách chức năng hoặc là một cách phản chức năng... các hệ quả phi chức năng”.

            Để gạn lọc hơn nữa lý thuyết chức năng, Merton chỉ ra rằng một cấu  trúc có thể  phản chức năng đối với tổng thể hệ thống, thế nhưng vẫn có thể tiếp tục tồn tại. Một trường hợp ví dụ tốt là sự phân biệt đối xử  đối với người da đen,phụ nữ và các nhóm thứ yếu khác là phản chức năng đối với xã hội Mỹ, thế nhưng nó vẫn tiếp tục tồn tại, vì nó có chức năng đối với một bộ phận của hệ thống xã hội; ví dụ, sự phân biệt đối xử với phụ nữ hoàn toàn có chức năng đối với nam giới. Tuy nhiên, các hình thức phân biệt đối xử này không phải là không có một số phản chức năng, ngay cả đối với nhóm mà chúng có chức năng. Đàn ông phải gánh chịu do sự phân biệt đối xử  với phụ nữ của họ; tương tự, người da trắng bị đã thương là do hành vi phân biệt của họ đối với người da đen. Người ta có thể lý luận rằng các hình thức phân biệt này ảnh hưởng bất lợi đến những người phân biệt bằng cách duy trì một số lớn người  sản xuất dưới mức và bằng cách gia tăng khả năng xung đột xã hội.

            Merton cho là không phải tất cả các cấu trúc đều cần yếu đối với các hoạt động của hệ thống xã hội. Một số bộ phận của hệ thống xã hội của chúng ta có thể bị loại bỏ. Điều này giúp cho lý thuyết chức năng khắc phục các xu hướng bảo thủ khác của nó. Do nhận thức rằng một số cấu trúc là cần yếu, thuyết chức năng mở ra con đường cho một biến đổi xã hội đầy ý nghĩa. Xã hội chúng ta, ví dụ, có thể tiếp tục tồn tại (và thậm chí có thể được cải thiện) bởi sự loại bỏ các phân biệt đối xử đối với nhóm thứ yếu khác nhau.

            Sự tinh lọc của Merton rất có ích đối với nhiều nhà xã hội học (ví dụ, Gans) muốn thực hiện những phân tích chức năng cấu trúc.

            Cấu trúc xã hội và tình trạng vô đạo đức.  Trước khi rời phần này, chúng ta phải dành một vài chú ý tới một trong những cống hiến nổi tiếng nhất đối với thuyết chức năng cấu trúc, thật ra đối với cả môn xã hội học- phân tích của Merton về tương quan giữa văn hoá, cấu trúc, và tình trạng vô đạo đức. Merton xác định văn hoá là “tập hợp các giá trị chuẩn mực có tổ chức điều hành hành vi, có tính chung nhất đối với mọi thành viên của một xã hội chỉ định hay một nhóm chỉ định” và cấu trúc xã hội là “ tập hợp các quan hệ xã hội có tổ chức, trong đó các thành viên của xã hội hay nhóm có mối liên quan đa dạng”. Tình trạng vô đạo đức xảy ra “khi có một sự phân cách sâu sắc giữa các tiêu chí văn hoá và các mục tiêu và các khả năng mang tính cấu trúc xã hội của các thành viên của nhóm để hành động  phù hợp với chúng”. Nghĩa là, vì các vị trí của họ trong cấu trúc xã hội, một số người không thể hành động phù hợp với các giá trị chuẩn mực. Nền văn hoá cần có một số kiểu hành vi mà cấu trúc xã hội ngăn giữ không cho chúng xảy ra. Ví dụ, ở xã hội Mỹ, văn hoá đặt sự nhấn mạnh đến các thành công vật chất. Tuy nhiên, do vị trí của họ trong cấu trúc xã hội, nhiều người bị cản trở  không đạt được các thành công như thế. Nếu một người sinh ra trong các giai cấp xã hội-kinh tế thấp, và kết quả là chỉ có thể đạt được, ở mức tốt nhất, một trình độ trung học, khi đó các cơ hội đạt được các thành công kinh tế của người này theo cách thức nhìn chung có thể chấp nhận được (ví dụ, qua thành công trong thế giới lao động truyền thống) là mỏng manh và không tồn tại. Dưới các hoàn cảnh đó (và chúng rất phổ biến trong xã hội Mỹ đương thời) tình trạng vô đạo đức có thể nói là tồn tại, và kết quả là có một xu hướng hướng tới hành vi lầm lạc. Trong bối cảnh này, sự lầm lạc thường mang hình thức của phương tiện có thể chọn lựa, không thể chấp nhận được và đôi khi bất hợp pháp để đạt được thành tựu kinh tế. Do vậy, trở thành một người buôn thuốc phiện hoặc một gái điếm để đạt được thành tựu kinh tế là một ví dụ cho sự lầm lạc sinh ra bởi sự phân cách giữa các giá trị văn hoá và các phương tiện xã hội-cấu trúc để đạt được các giá trị đó. Đây là một cách thức trong đó lý thuyết gia chức năng tìm cách giải thích tội ác và sự lầm lạc.

            Như vậy, trong ví dụ này về thuyết chức năng cấu trúc, Merton nhìn vào các cấu trúc xã hội (và văn hoá), nhưng ông không hoàn  toàn tập trung quan tâm vào các chức năng của các cấu trúc này. Khăng khăng với mô hình chức năng của mình, chủ yếu ông tập trung tới các phản chức năng, ở trường hợp này là tình trạng vô đạo đức. Nói cụ thể hơn, như đã thấy, Merton nối kết tình trạng vô đạo đức với sự lầm lạc và từ đó lý luận rằng sự phân cách giữa văn hoá và cấu trúc có hệ quả phản chức năng trong việc dẫn tới sự lầm lạc trong xã hội.

            Đáng chú ý là hàm ẩn trong tác phẩm của Merton về tình trạng vô đạo đức là một thái độ phê phán đối với sự phân tầng xã hội (ví dụ, đối với việc ngăn giữ lại những phương tiện đạt tới các mục tiêu xã hội ước ao của một số người). Như vậy, trong khi Davis và Moore viết với thái độ tán đồng về một xã hội phân tầng, tác phẩm của Merton cho thấy các nhà lý thuyết gia chức năng cấu trúc có thể bị phê phán về sự phân tầng xã hội.

Các phê phán chủ yếu. Không có một lý thuyết riêng lẻ trong lịch sử của bộ môn nào lại được tập trung nhiều chú ý như thuyết chức năng cấu trúc. Từ cuối những năm 1930 cho tới đầu những năm 1960, rõ ràng nó không thể cạnh tranh, và là lý thuyết xã hội học thống trị ở Mỹ. Tới những năm 1960, tuy nhiên, các phê phán lý thuyết đã gia tăng đáng kể và cuối cùng trở nên phổ biến hơn là những lời ca ngợi. Mark Abrahamson mô tả hoàn cảnh này hoàn toàn sống động: “Vậy là, nói một cách ẩn dụ, thuyết chức năng đã thong thả đi nước kiệu qua, như một con voi khổng lồ, phớt lờ những chiếc vòi đốt của các con muỗi, ngay cả khi đám người tấn công đã chiếm đa số.”

            Chúng ta hãy nhìn vào một số phê phán chủ yếu. Chúng tôi xử lý trước tiên là các phê phán chủ yếu về thuyết chức năng cấu trúc và rồi tập trung vào các vấn đề logic và phương pháp luận gắn liền với lý thuyết này.

Các phê phán chính.

Một phê phán chủ yếu là thuyết chức năng cấu trúc không xử lý lịch sử một cách tương xứng - rằng nó phi lịch sử một cách kế thừa. Trong thực tế, thuyết chức năng cấu trúc được phát triển, ít nhất là phần nào, trong sự phản ứng lại cách tiếp cận tiến hoá lịch sử của một số nhà nhân loại học. Nhiều nhà nhân loại học thời kỳ đầu được xem là diễn tả các giai đoạn trong sự tiến hoá của một xã hội xét đến hoặc xã hội nói chung. Thường xuyên hơn, các mô tả về các giai đoạn sơ khai có tính giả đoán rất cao. Hơn nữa, các giai đoạn sau thường không là gì khác ngoài những sự lý tưởng hoá cái xã hội mà nhà nhân loại học đã sống. Các lý thuyết gia chức năng cấu trúc thời kỳ đầu đã tìm cách khắc phục đặc tính giả định và các xu hướng vị chủng của các tác phẩm này. Trong những năm đầu nói riêng, thuyết chức năng cấu trúc đi khá xa trong phê phán của nó đối với thuyết tiến hoá và đi đến chỗ tập trung hoặc vào các xã hội đương thời, hoặc vào các xã hội trừu tượng. Tuy nhiên, thuyết chức năng cấu trúc không cần thiết phải trừu tượng. Dù các nhà thực hành gia có xu hướng vận dụng nó như thể nó là phi lịch sử, không có gì trong lý thuyết ngăn cản họ giải quyết các vấn đề lịch sử. Thực tế, tác phẩm của Parsons về biến đổi xã hội, như  chúng ta đã thấy, phản ánh khả năng của các lý thuyết gia chức năng cấu trúc trong xử lý biến đổi xã hội nếu họ muốn.

Các nhà chức năng cấu trúc cũng bị tấn công vì không thể giải quyết một cách hiệu quả các quá trình biến đổi xã hội. Trong khi các phê phán có trước nói về tính chất dường như bất lực của thuyết chức năng cấu trúc trong xử lý quá khứ, phê phán này quan tâm đến sự bất lực song song của cách tiếp cận để xử lý tiến trình biến đổi xã hội đương thời. Thuyết chức năng cấu trúc có vẻ như xử lý các cấu trúc tĩnh hơn là các quá trình biến đổi. Percy Cohen xem vấn đề là nằm trong lý thuyết chức năng cấu trúc, trong đó mọi nguyên tố của một xã hội được xem là tác động lên nhau cũng như  lên tổng thể xã hội. Điều này gây khó khăn cho việc nhìn xem các nguyên tố này cũng có thể đóng góp cho biến đổi xã hội như thế nào. Trong khi Cohen xem các vấn đề là có tính kế thừa trong lý thuyết, Turner và Maryanski tin rằng vấn đề nằm ở các nhà thực hành chứ không phải ở lý thuyết.

Theo quan diểm của Turner và Maryanski, lý thuyết gia chức năng cấu trúc thường không nói tới vấn đề biến đổi, và ngay cả khi họ làm điều này, nó nằm trong phạm vi phát triển hơn là tiến hoá. Tuy nhiên, theo họ, không có lý do gì các lý thuyết gia CNCT không xử lý các biến đổi xã hội. Vấn đề có liên quan tới lý thuyết hoặc các lý thuyết gia này hay không, thực tế vẫn tồn tại là các đóng góp chủ yếu của các lý thuyết gia CNCT nằm ở sự nghiên cứu các cấu trúc xã hội ở trạng thái tĩnh chứ không phải ở trạng thái biến đổi.

          Có lẽ phê phán thường nghe thấy nhất đối với thuyết CNCT là nó không thể xử lý một cách hiệu quả sự xung đột. Sự phê phán này có nhiều hình thức khác nhau. Alvin Gouldner lý luận rằng Parsons, với tư cách là đại diện chính của thuyết CNCT, có xu hướng  đề cao quá đáng  các tương quan hòa hợp. Irving Louis Horowitz cho rằng có xu hướng coi xung đột như là sự phá hủy cần thiết và xảy ra bên ngoài khuôn khổ xã hội. Tổng quát hơn, Abrahamson lý luận rằng thuyết CNCT đã cường điệu sự liên ứng xã hội, tính bền vững, sự hòa hợp, và, ngược lại, có xu hướng bỏ qua sự xung đột, hỗn loạn và biến đổi. Một lần nữa vấn đề là, đây có phải là sự kế thừa trong lý thuyết, hay là sự kế thừa trong cách thức mà các nhà thực hành đã diễn dịch và vận dụng nó. Dù ý kiến của người ta ra sao, rõ ràng là thuyết CNCT tương đối ít đề cập đến vấn đề xung đột xã hội.

            Các phê phán tổng quát là thuyết CNCT không thể xử lý lịch sử, sự biến đổi và sự xung đột đã dẫn nhiều người tới chỗ lý luận rằng thuyết CNCT có một xu hướng bảo thủ. Như  Gouldner đã nêu một cách sống động trong phê phán của ông đối với thuyết CNCT của Parsons: “ Parsons khăng khăng xem ly nước được đổ đầy một phần là đầy phân nửa hơn là bị vơi đi phân nửa”. Một người xem một ly nước là đầy phân nửa sẽ nhấn mạnh đến các khía cạnh tích cực của một hoàn cảnh, trong khi một người thấy nó bị vơi đi phân nửa tập trung vào mặt tiêu cực của nó. Đặt vào phạm vi xã hội, một lý thuyết gia CNCT sẽ đề cao các thuận lợi của đời sống về mặt kinh tế trong xã hội của chúng ta hơn là các bất tiện của nó.

            Có thể  đúng là có một xu hướng bảo thủ trong thuyết CNCT có thể quy cho không chỉ cái mà nó phớt đi mà cả cái nó chọn để tập trung vào. Một đơn cử là, các nhà CNCT có xu hướng tập trung vào văn hóa, các tiêu chí, các giá trị. David Lockwood, ví dụ, phê phán Parsons vì sự ám ảnh của ông đối với trật tự có tính chuẩn mực của xã hội. Tổng quát hơn, Percy Cohen lý luận rằng các nhà CNCT tập trung vào các nguyên tố chuẩn mực, dù sự tập trung này không có tính kế thừa trong lý thuyết. Cái cốt yếu đối với tiêu diểm của thuyết CNCT vào các nhân tố văn hóa và xã hội và cái dẫn tới định hướng bảo thủ của lý thuyết là một nhận thức thụ động về cá thể tác nhân hành động. Mọi người được xem là bị kềm hãm bởi các lực lượng văn hóa và xã hội. Các nhà lý thuyết CNCT (ví dụ, Parsons) thiếu một nhận thức năng động, sáng tạo về các actor. Như Gouldner nói, để nhấn mạnh sự phê phán của ông đối với thuyết CNCT, “Con người bị vướng bận trong việc sử dụng các hệ thống xã hội cũng nhiều như trong việc sử dụng chính bản thân họ”.

            Liên quan tới tiêu điểm văn hóa của họ là xu hướng của các nhà CNCT để nhầm lẫn các thể chế hóa được sử dụng bởi các phần tinh túy trong xã hội với thực tại xã hội. Hệ thống chuẩn mực được diễn dịch như là sự phản ánh của tổng thể xã hội, khi có thể trong thực tế  tốt hơn nên xem nó như một hệ thống duy tâm được truyền bá bởi, và tồn tại vì, các thành viên tinh túy của xã hội. Horowitz phát biểu lập trường sau hoàn toàn dứt khoát: “Lý thuyết liên ứng có xu hướng trở thành một đại diện siêu hình của ma trận duy tâm thống trị”.

            Các phê phán chính yếu này chỉ vào hai hướng cơ bản. Đầu tiên, dường như rõ ràng là thuyết CNCT có một tiêu điểm khá hẹp đã ngăn cản nó nói tới một số vấn đề và khía cạnh quan trọng của thế giới xã hội. Thứ hai, tiêu điểm của nó có xu hướng tạo cho nó một hương vị khá bảo thủ; trong thực tiễn quá khứ, và ở một mức độ tới nay, thuyết CNCT đã vận hành trong sự hỗ trợ của hiện trạng và các tinh túy thống trị.

            Phương pháp luận và các phê phán logic. Một trong những phê phán thường được thể hiện là thuyết CNCT về cơ bản là mơ hồ, không rõ ràng và khó hiểu. Ví dụ: Nói cho chính xác cái gì là một cấu trúc? Một chức năng? Một hệ thống xã hội? Các bộ phận của hệ thống xãhội liên quan với nhau cũng như với hệ thống xã hội lớn ra sao? Phần khó hiểu có thể truy nguyên từ cấp độ mà các nhà CNCT chọn để làm việc. Họ xử lý các hệ thống xã hội trừu tượng thay vì các xã hội thực tại. Trong nhiều tác phẩm của Parsons, không có thảo luận nào về xã hội “có thực”. Tương tự, thảo luận về các điều kiện chức năng tiên quyết bởi Aberle và các cộng sự của ông không gắn bó chặt với một xã hội thực tế mà xảy ra ở một cấp độ trừu tượng rất cao.

            Một phê phán liên quan là, dù không có một lược đồ riêng lẻ nào có thể sử dụng để phân tích mọi xã hội xuyên suốt lịch sử, các nhà CNCT đã bị thúc đẩy bởi niềm tin rằng có một lý thuyết riêng lẻ hay ít nhất một tập hợp các phạm trù khái niệm có thể được dùng để làm chuyện này. Niềm tin vào sự tồn tại của một lý thuyết lớn như thế có nhiều cơ sở từ tác phẩm của Parsons, các điều kiện chức năng tiên quyết của Aberle và các cộng sự và lý thuyết của David Moore về sự phân tầng. Nhiều nhà phê phán xem lý thuyết lớn này là một ảo tưởng, tin rằng một môn xã hội học tốt nhất có thể mong đợi là các lý thuyết mang tính chất đặc thù lịch sử,  “trung cấp” hơn.

            Trong số các phê phán cụ thể về phương pháp luận khác là vấn đề có tồn tại các phương pháp tương xứng để nghiên cứu các vấn đề quan yếu đối với các nhà CNCT hay không. Percy Cohen, ví dụ, tự hỏi rằng công cụ nào có thể được sử dụng để nghiên cứu sự đóng góp của một bộ phận của một hệ thống đối với tổng thể hệ thống đó. Một phê phán phương pháp luận khác là thuyết CNCT gây ra sự khó khăn trong so sánh phân tích. Nếu giả đoán rằng bộ phận của một hệ thống được nhận thức chỉ trong bối cảnh của hệ thống xã hội trong đó nó tồn tại, làm sao chúng ta so sánh nó với một bộ phận tương tự trong một hệ thống khác? Cohen hỏi, ví dụ: Nếu gia đình người Anh nhận thức chỉ trong bối cảnh của xã hội Anh, làm sao chúng ta so sánh nó với gia đình người Pháp?

Mục đích luận (Teleology) và sự lặp thừa (Tautology). Percy Cohen và Turner và Maryanski xem mục đích luận và phép lặp thừa là hai vấn đề logic quan trọng đối mặt với thuyết CNCT. Một số có xu hướng xem mục đích luận là một vấn đề có tính kế thừa, nhưng tác giả tin rằng Turner và Maryanski đúng khi họ lý luận rằng vấn đề đối với thuyết CNCT không phải là bản thân mục đích luận, mà là sự lặp thừa không chính thống. Trong ngữ cảnh này, mục đích luận được xác định như là quan điểm rằng xã hội (hoặc các cấu trúc xã hội khác) có các mục đích hoặc mục tiêu. Để đạt được các mục tiêu đó, xã hội sáng tạo, hoặc là tác nhân để sáng tạo ra các cấu trúc xã hội và thể chế xã hội đặc thù. Turner và Maryanski không xem quan điểm này là tất yếu không chính thống; thực tế, họ lý luận rằng lý thuyết xã hội cần quan tâm đến mối quan hệ có tính mục đích giữa xã hội và các bộ phận thành tố của nó.

          Với Turner và Maryanski, vấn đề là sự mở rộng của mục đích luận tới các mức độ không thể chấp nhận được. Một mục đích luận không chính thống là một cái có hàm ý “rằng các trạng thái mục đích hoặc chung cuộc hướng dẫn các sự vụ của con người khi chúng không nằm trong trường hợp”. Ví dụ, là điều không chính thống khi giả đoán rằng vì xã hội cần nảy nở và xã hội hóa, nó sẽ sáng tạo ra thể chế gia đình. Một loạt các cấu trúc có khả năng thế nhau có thể gặp được các nhu cầu này; xã hội không cần thiết phải sáng tạo ra gia đình. Nhà CNCT phải xác định và ghi chép các cách thức khác nhau trong đó các mục tiêu đã, trong thực tế, dẫn dắt tới sự sáng tạo các tiểu cấu trúc cụ thể. Cũng có ích khi có thể chỉ ra tại sao các tiểu cấu trúc khác không gặp cùng các nhu cầu đó. Một mục đích luận chính thống có thể xác định và chứng minh về mặt thực nghiệm và lý thuyết các nối kết giữa các mục tiêu của xã hội với các tiểu cấu trúc khác nhau tồn tại trong xã hội. Một mục đích luận không chính thống có thể hài lòng với một giả định mù quáng rằng một nối kết giữa mục đích xã hội và một tiểu cấu trúc cụ thể phải tồn tại. Turner và Maryanski thừa nhận rằng thuyết chức năng thường vi phạm trong việc đưa ra những mục đích luận không chính thống: “Chúng ta có thể kết luận rằng các giải thích chức năng thường trở thành các mục đích luận không chính thống- một sự thật cản trở nghiêm trọng sự ích lợi của thuyết chức năng để hiểu thấu các khuôn mẫu tổ chức của loài người.”

            Một phê phán chủ yếu khác về tính logic của thuyết CNCT là sự lặp lại dư thừa của nó. Một luận lý lặp thừa là một luận lý trong đó cái kết luận chỉ đơn thuần làm rõ cái tiềm ẩn trong tiền đề hoặc chỉ đơn giản là một phát biểu lại của tiền đề.

Trong thuyết CNCT, lập luận lòng vòng này thường có hình thức định nghĩa tổng thể trong phạm vi của các bộ phận của nó, và rồi lại định nghĩa các bộ phận trong phạm vi tổng thể. Do vậy, có thể lập luận rằng một hệ thống xã hội được xác định bời mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của nó, và các bộ phận cấu thành của một hệ thống được xác định bởi  vị trí của nó trong hệ thống xã hội lớn hơn. Bởi vì mỗi cái được xác định trong phạm vi của cái kia, cả hệ thống xã hội cũng như các bộ phận của nó thật sự chưa được xác định gì cả. Chúng ta thật sự không hiểu biết gì về hệ thống hay các bộ phận của nó. Thuyết CNCT đặc biệt thiên về các lặp thừa, dù có một số câu hỏi khuynh hướng này là thuộc tính cố hữu trong lý thuyết hay chỉ đơn giản là đặc điểm về phương thức mà các nhà CNCT hay sử dụng, hoặc lạm dụng, lý thuyết này.

THUYẾT TÂN CHỨC NĂNG

            Dưới chướng ngại của các phê phán, thuyết CNCT bị loại bỏ ý nghĩa quan trọng từ  giữa những năm 1960 cho đến nay. Tuy nhiên, khoảng giữa thập niên 1980, có một nỗ lực tìm cách khôi phục lại lý thuyết dưới cái tên “thuyết tân chức năng”. Thuật ngữ thuyết tân chức năng (neofunctionism) được dùng để chỉ sự tiếp diễn của thuyết CNCT nhưng cũng chứng tỏ rằng đã có một nỗ lực nhằm mở rộng thuyết CNCT và khắc phục các khó khăn chủ yếu của nó. Jeffrey Alexnder và Paul Colomy định nghĩa thuyết tân chức năng là “một dòng tự phê phán của lý thuyết chức năng tìm cách mở rộng phạm vi tri thức của thuyết chức năng trong khi vẫn duy trì cốt lõi lý thuyết của nó”. Như vậy, hầu như rõ ràng là Alexander và Colomy xem thuyết CNCT là quá mức hẹp và mục tiêu của họ là sáng tạo ra một lý thuyết tổng hợp hơn, mà họ gán cho cái tên là “thuyết tân chức năng”.

Trước khi chúng ta quay sang một thảo luận vắn tắt về thuyết tân chức năng, cần chú ý rằng trong khi thuyết CNCT nói chung, và lý thuyết Parsons nói riêng, đã trở nên cực đoan, có một cốt lõi tổng hợp mạnh mẽ từ những khởi đầu của nó. Một mặt, thông qua cuộc đời trí thức của ông, Parsons đã tìm cách hòa hợp một loạt các đầu vào đa dạng. Mặt khác, ông quan tâm đến mối tương quan của các lĩnh vực chủ yếu của thế giới xã hội, đáng chú ý nhất là các hệ thống văn hóa, xã hội, và cá tính. Tuy nhiên, cuối cùng, Parsons đi theo một định hướng CNCT hẹp hòi và đi đến chỗ xem hệ thống văn hóa là yếu tố quyết định các hệ thống khác. Do vậy, Parsons đã từ  bỏ định hướng tổng hợp của ông, và thuyết tân chức năng có thể được xem là một nỗ lực nhằm lấy lại định hướng đó.

            Alexander đã liệt kê các vấn đề gắn liền với thuyết CNCT mà thuyết tân chức năng cần khắc phục, bao gồm, “sự chống lại chủ nghĩa cá thể”, “sự đối lập với biến đổi” “chủ nghĩa bảo thủ”, “chủ nghĩa duy tâm”, và một “xu hướng chống lại thực nghiệm”. Các nỗ lực được thực hiện để khắc phục các vấn đề này một cách có kế hoạch và ở các cấp độ lý thuyết cụ thể hơn, ví dụ cố gắng của Colomy để cải tạo lý thuyết phân biệt. Dù với mối nhiệt tâm của ông với thuyết tân chức năng, giữa những năm 1980, Alexander buộc phải kết luận rằng: “thuyết tân chức năng là một khuynh hướng hơn là một lý thuyết được phát triển”. Chỉ 5 năm sau khi Alexander thú nhận sự yếu kém của thuyết tân chức năng, Colomy tìm cách cổ súy cho quan điểm lý thuyết chung của thuyết này và lý luận rằng nó đã có một bước tiến đáng kể:

Trong 5 năm kế tiếp khuynh hướng đó đã kết tinh thành một phong trào tự ý thức về tri thức. Nó sản sinh nhiều thuận lợi quan trọng ở cấp độ lý thuyết chung và đóng một vai trò dẫn đạo trong việc thúc đẩy siêu lý thuyết xã hội học theo một chiều hướng tổng hợp...thuyết tân chức năng đang đưa ra các lưu ýnhiều hưá hẹn của nó. Ngày nay, thuyết tân chức năng còn hơn là một sự hưá hẹn; nó đã trở thành một lĩnh vực trình bày lý thuyết và sự điều tra thực nghiệm đang lớn dần và căng thẳng.

            Trong khi không có câu hỏi nào rằng thuyết tân chức năng đã tạo ra những bước tiến dài hay không, người ta nghi ngờ rằng nó có hoàn toàn có lợi như Colomy đã muốn chúng ta tin tưởng như thế hay không.

Dù thuyết tân chức năng có thể không phải là một lý thuyết phát triển, Alexander đã  vạch ra một số định hướng cơ bản của nó. Đầu tiên, thuyết tân chức năng vận hành với một kiểu mẫu xã hội mô tả xem xã hội như là được tổng hợp từ các nguyên tố mà, trong mối tương tác với nhau, tạo thành một khuôn mẫu. Khuôn mẫu này cho phép hệ thống có thể phân biệt được với môi trường của nó. Các bộ phận của hệ thống  “được nối kết cộng sinh” và các tương tác của chúng không bị quyết định bởi một lực lượng bên trên nào cả. Như vậy, thuyết tân chức năng phản đối bất kỳ một thuyết quyết định luận đơn nguyên nhân nào và có tính đa nguyên, không giới hạn.

            Thứ hai, Alexander lý luận rằng thuyết tân chức năng dành một quan tâm tương đượng đối với hành động và trật tự. Do vậy nó tránh được xu hướng của thuyết CNCT hầu như  chỉ tập  trung vào các nguồn trật tự ở cấp độ vĩ mô trong cấu trúc xã hội và văn hoá và có nhiều quan tâm đến các khuôn mẫu hành động ở cấp độ vi mô hơn. Thuyết tân chức năng cũng ủng hộ một  nhận thức rộng rải về hành động, không chỉ bao gồm các hành động lý trí mà cả các hành động diễn cảm.

            Thứ ba, thuyết tân chức năng phụ hồi mối quan tâm của thuyết CNCT vào sự hoà hợp, không phải là một thực tế đã hoàn thành mà là một khả năng xã hội! Nó nhận ra rằng sự lầm lạc và sự kiểm soát xã hội là các thực thể trong các hệ thống xã hội. Có sự quan tâm tới tính cân bằng trong thuyết tân chức năng, nhưng nó rộng hơn quan tâm của thuyết CNCT, bao gồm cả các cân bằng động cân bằng cục bộ. Có một sự miễn cưỡng trong việc xem các hệ thống xã hội như  được định tính bởi tính cân bằng tĩnh. Tính cân bằng, được xác định một cách rộng rãi, như  là một điểm tham chiếu cho phân tích chức năng chứ  không phải miêu tả các cuộc sống của các cá thể trong các hệ thống xã hội thật sự.

            Thứ tư, thuyết tân chức năng chấp nhận nhấn mạnh của thuyết Parsons truyền thống về cá tính, văn hoá, và hệ thống xã hội. Ngoài việc là sự sống còn đối với cấu trúc xã hội, sự thâm nhập của các hệ thống này cũng tạo ra sự căng thẳng là một nguồn hiện hữu của cả sự biến đổi và sự kiểm soát.

            Thứ năm, thuyết tân chức năng tập trung vào biến đổi xã hội trong các quá trình phân biệt trong phạm vi các hệ thống xã hội, văn hoá, và cá tính. Như vậy, sự biến đổi không sản sinh ra sự tuân thủ và sự hoà hợp mà là “ các căng thẳng của sự cá tính hoá và thể chế hoá”.

            Cuối cùng, Alexander lý luận rằng thuyết tân chức năng “hàm ý trách nhiệm đối với sự độc lập của khái niệm hoá và lý thuyết hoá từ các cấp độ khác nhau của phân tích xã hội học”.

            Trong khi Alexder cố gắng phác họa thuyết tân chức năng trong phạm vi chung, mang tính chưong trình, Colomy xử lý một cách cụ thể hơn với một lý thuyết CNCT cải biên về sự biến đổi. Ông lý luận rằng thuyết CNCT về sự biến đổi (“lý thuyết phân biệt”) xuất phát từ lý thuyết Parsons có ba yếu kém cơ bản. Trước hết, nó mang tính chất trừu tượng cao độ và thiếu các đặc điểm cụ thể về thực nghiệm và lịch sử. Thứ hai, nó không dành đủ quan tâm tới các nhóm và các tiến trình xã hội cụ thể hoặc tới quyền lực và xung đột. Thứ ba, nó quá đề cao sự hòa hợp sản sinh bởi biến đổi xã hội.

            Kết quả của các phê phán này là lý thuyết CNCT về sự biến đổi đã thực hiện nhiều lần tu chỉnh. Đầu tiên, khuynh hướng nguyên thủy chủ đạo (sự phân biệt tiếp diễn) đã được bổ sung với một phân tích về các lầm lạc có tính khuôn mẫu từ xu hướng đó. Ví dụ, ngoài sự phân biệt, các xã hội còn trải qua sự giảm thiểu phân biệt (dedifferentiation), hoặc “một kiểu biến đổi cấu trúc loại bỏ sự phức tạp của xã hội và đi tới các cấp độ ít phân biệt của cấu trúc xã hội”. Những sự giảm thiểu phân biệt này dường như diễn ra như là kết quả của sự bất mãn với sự hiện đại hóa. Cũng quan trọng là “sự phát triển không bình đẳng” xuyên qua các phạm vi thể chế khác nhau cũng như “sự phân biệt không bình đẳng” trong phạm vi một thể chế đơn lẻ. Sự phân biệt không bình đẳng (uneven differentiation) “chỉ tỷ lệ và mức độ khác nhau của sự phân biệt của một thể chế đơn lẻ… Khái niệm này cho thấy ra rằng xu hướng chủ yếu của sự biến đổi tiến tới một tỷ lệ và mức độ chênh lệch nhau xuyên qua các khu vực riêng biệt của một xã hội”.

            Thứ hai, các nhà cải biên này đã đẩy lý thuyết phân biệt tới một quan tâm hơn đối với việc các nhóm cụ thể có ảnh hưởng tới sự biến đổi ra sao, cũng như  sự biến đổi bị ảnh hưởng ra sao bởi các nhân tố như quyền lực, xung đột, và ngẫu nhiên. Các nhóm cụ thể khác nhau được nhận dạng là những kẻ chủ mưu của biến đổi theo chiều hướng phân biệt lớn hơn, khi có những nhóm đứng ở vị trí đối lập lại biến đổi đó. Quan điểm của nhà cải biên dẫn tới một tiêu điểm vào xung đột giữa các nhóm xuyên qua tiến trình phân biệt và các hình thức mà một giải pháp cho xung đột đó có thể khoác lấy. Chi tiết lớn về lịch sử và thực nghiệm được đưa ra trong các nghiên cứu này về các nhóm cạnh tranh liên quan đến quá trình  của sự phân biệt. Tác phẩm cũng từ bỏ một đề cao vào sự hòa hợp để hương tới, theo thuật ngữ của Parsons, “một quan tâm được duy trì liên tục về các mâu thuẫn chủ yếu và các mối căng thẳng gắn liền với sự phân biệt giữa và trong các hệ thống văn hóa, xã hội, cá tính”. Các nỗ lực này, theo quan điểm của Colomy, dẫn tới một nền tảng giải thích dễ hiểu hơn đối với việc phân tích sự phân biệt.

            Thứ ba, lý thuyết phân biệt trước đó tập trung vào tính hiệu quả và tính hồi phục như là các ảnh hưởng chủ yếu của quá trình phân biệt, nhưng các tác phẩm gần đây hơn đã vạch ra một dãy rộng hơn nhiều các hệ quả có thể có.

            Có thể lý luận rằng dù lý thuyết phân biệt đã được mở rộng, nó cũng đã mất đi hương vị riêng biệt của nó với tiêu điểm mới tìm thấy tập trung vào xung đột và cạnh tranh của nó. Khá nhiều cái đã bị vay mượn từ các truyền thống trí thức khác đến nỗi người ta tự hỏi loại tiếp cận được mô tả có thể, hoặc nên được gán cho cái tên “thuyết CNCT” hoặc thậm chí “tân chức năng” hay không.

            Gần đây hơn, Colomy và Rhoades đã lý luận rằng thuyết phân biệt cần đi tới một hướng hòa hợp khác. Nghĩa là, “xu hướng vĩ mô”  của thuyết phân biệt cần  được khắc phục bằng cách vạch ra một “hiệu chỉnh vi mô” . Rút từ các tác phẩm trước của thuyết CNCT, Colomy và Rhoades cho rằng thuyết phân biệt bắt đầu sự hiệu chỉnh này bởi, trong số các điều khác, việc hòa hợp một sự chú ý tới các cá thể và các nhóm nhỏ có vai trò dẫn tới sự biến đổi xã hội- “những ông chủ hãng buôn thể chế”. Đây là những “movers and shakers”, những kẻ ở các vị trí chiến lược, tạo ra những “lực thúc và chiều hướng” cho quá trình phân biệt. Đặc biệt, “các ông chủ hãng buôn thể chế” được định tính bởi năng lực của họ để “kết tinh các định hướng biểu tượng rộng lớn theo những cách thức mới, các mục tiêu khớp nối cụ thể, và xây dựng các khuôn mẫu tổ chức và chuẩn mực mới để theo đuổi những mục đích thiết chế của họ”. Người ta không nên chỉ tập trung vào những nhà cải cách này, mà cả vào các quá trình vi mô ở sự liên kết mà họ hình thành, cũng như các trao đổi trong và giữa họ các đồng minh và đối thủ của họ. Với sự hiệu chỉnh này, Colomy và Rhoades nhận thức rằng sự phân biệt không chỉ đơn giản phụ thuộc vào sự thích nghi của hệ thống đối với môi trường của nó ở cấp độ vĩ mô, mà cũng còn tùy thuộc vào các hành động ở cấp độ vi mô do những “ông chủ hãng buôn thể chế” thực hiện.

            Quay lại thuyết tân chức năng nói chung, Alexander và Colomy ấn định một yêu cầu đầy tham vọng cho nó. Họ không xem thuyết tân chức năng, theo cách dùng từ của họ, là một sự phái sinh hay cải biên giản dị vừa phải của thuyết CNCT, mà là một sự tái thiết lập sâu xa hơn nhiều của thuyết này, trong đó những sự khác biệt với người sáng lập (tức Parsons) là rõ ràng nhận biết và những cơ hội hiển hiện được tạo ra cho các lý thuyết và lý thuyết gia khác.[1] Có nhiều nỗ lực được thực hiện để hòa nhập các nhận thức của thuyết chức năng với các tác phẩm của bậc thầy, ví dụ, tác phẩm của Marx về cấu trúc vật chất, và của Durkheim về thuyết biểu tượng. Trong nỗ lực khắc phục xu hướng duy tâm của thuyết CNCT Parsons, đặc biệt là sự nhấn mạnh của nó tới các hiện tượng vĩ mô khách quan như văn hóa, nhiều cách tiếp cận duy vật đã được vận dụng. Xu hướng chức năng-cấu trúc đề cao trật tự bị phản đối bởi một lời kêu gọi lập lại mối quan hệ hữu nghị giữa các lý thuyết về biến đổi xã hội. Quan trọng hơn, để bù cho các xu hướng cấp độ vĩ mô của thuyết CNCT truyền thống, nhiều nỗ lực đã được thực hiện để hòa hợp các tư tưởng từ thuyết trao đổi, thuyết tương tác biểu tượng, chủ nghĩa thực dụng, hiện tượng luận,vv… Nói cách khác, Alexander và Colomy kêu gọi tán thành sự tổng hợp hóa thuyết CNCT với một số các truyền thống lý thuyết khác. Một sự tái thiết như thế có thể vừa cải biên thuyết CNCT vừa cung cấp cơ sở cho sự phát triển một truyền thống lý thuyết mới.

            Alexander và Colomy nhận ra một khác biệt quan trọng giữa thuyết tân chức năng và thuyết CNCT:

Khảo sát chức năng trước đây được dẫn dắt bởi… sự hình dung một lược đồ riêng lẻ, bao quát mọi khái niệm ràng buộc các lĩnh vực của khảo sát chuyên biệt vào một cái thùng hàng đóng chặt. Cái mà tác phẩm thực nghiệm của nhà tân chức năng luận hướng tới, trái lại, là một thùng hàng có tổ chức nới lỏng, một thùng hàng được tổ chức bao quanh một luận lý chung và chiếm hữu một số những “sự nảy sinh” và “sự biến thiên” tự trị ở các cấp độ khác nhau và trong các lĩnh vực thực nghiệm khác nhau.

            Các suy nghĩ của Alexander và Colomy thể hiện sự vận động ra khỏi xu hướng của Parsons để xem thuyết CNCT như là một lý thuyết bao quát lớn. Thay vào đó, họ đưa ra một lý thuyết giới hạn, tổng hợp hơn, nhưng vẫn là một lý thuyết chỉnh thể.

            Tuy nhiên, như đã chỉ ra ở phần mở đầu chương này, tương lai của thuyết tân chức năng đã rơi vào vòng nghi vấn bởi sự thật là người sáng lập ra nó và phát ngôn viên hàng đầu của nó, Jeffrey Alexander, đang làm sáng tỏ rằng ông đã đi ra khỏi định hướng tân chức năng. Sự chuyển hướng tư duy này rất hiển nhiên trong cái tên của một tác phẩm sắp công bố nay mai, Thuyết tân chức năng và Sau đó, Alexander lý luận trong tác phẩm đó rằng một trong các mục tiêu chính của ông là việc (tái) thiết lập tính chính thống và tầm quan trọng của lý thuyết Parsons. Tới mức độ mà thuyết tân chức năng đã thành công trong nỗ lực này, Alexander xem dự án về tân chức năng luận đã hoàn tất. Do vậy, ông sẵn sàng để đi ra ngoài Parsons, ra ngoài thuyết tân chức năng, dù ông nói một cách đơn giản rằng các hướng đi lý thuyết tương lai của ông sẽ chịu món nợ sâu nặng từ cả hai lý thuyết này. Thuyết tân chức năng đã trở nên quá hạn chế đối với Alexander, và giờ đây ông xem nó, cũng như tác phẩm của ông, là một phần của cái ông từng gọi là “phong trào lý thuyết mới”. Một viễn cảnh lý thuyết như thế thậm chí có thể còn tổng hợp hơn thuyết tân chức năng, và có tính chiết trung hơn, rút ra từ các nguồn lý thuyết khác nhau, và nó sẽ sử dụng các nguồn tổng hợp và chiết trung này theo nhiều cách thức có tính chất cơ hội hơn. Cụ thể, Alexander tìm cách làm việc nhiều hơn nữa với các phát triển trong lý thuyết văn hóa và vi- xã hội học.

            Đáng lưu ý là Alexander ngày càng quan tâm đến vấn đề “xã hội dân sự” (civil society) ngay dù vấn đề này không rơi vào các hạn chế của thuyết tân chức năng. Mối quan tâm của Alexander tự nó có ý nghĩa quan trọng, cũng như đối với thực tế là vấn đề này đang trở nên được quan tâm trong xã hội học nói chung. Đối với các mục đích của chúng tôi, chúng tôi có thể làm việc với định nghĩa của Alexander về xã hội văn minh như là “lĩnh vực của sự tương tác, các thể chế, và sự liên kết đã duy trì đời sống cộng đồng của các xã hội ở bên ngoài các thế giới của kinh tế và nhà nước”.  Không như phần lớn các quan tâm của các nhà xã hội học, tiêu diểm ở đây không phải là các thể chế xã hội, mà là cái đi ra bên ngoài các thể chế này. Xã hội dân sự, đối với Alexander, bao gồm một sự quan tâm đến cả tính tự giác cá nhân và sự liên kết cộng đồng. Bị đe dọa bởi cả hai trong phạm vi thế giới đương thời, cũng như sự thất bại lan rộng của các thể chế khác nhau, tiêu điểm của nhiều lý thuyết gia xã hội học đã chuyển sang mối quan tâm tới xã hội dân sự.

            Dù chỉ trong những giai đoạn đầu tiên, tư duy của Alexander về xã hội dân sự thể hiện một tiêu điểm chủ yếu nằm ngoài thuyết tân chức năng. Trong khi ông rõ ràng đang rút ra từ các truyền thống của CNCT và tân chức năng, Alexander cũng đang đi tới một nền tảng lý thuyết mới với tác phẩm của ông về xã hội dân sự. Dù số phận của tác phẩm ra sao, sự chuyển hướng của ông đưa người ta đến chỗ đặt dấu hỏi về tương lai của thuyết tân chức năng. Mọi sự vật vận động một cách nhanh chóng trong xã hội học đương thời và có thể rằng cái là một phong trào mới sâu sắc chỉ 10 năm trước đây ngày nay đã trở nên một bộ phận của lịch sử cận đại của chúng ta.

THUYẾT XUNG ĐỘT

          Lý thuyết xung đột có thể được xem là một bước phát triển đã diễn ra, phần nào đó, từ phản ứng đối với thuyết CNCT, và là kết quả của nhiều phê phán đã thảo luận bên trên. Tuy nhiên, cần chú ý rằng thuyết xung đột có nhiều nguồn gốc khác nhau, như thuyết Marx và tác phẩm của Simmel về xung đột xã hội. Trong những năm 1950 và 1960, thuyết xung đột cung cấp một sự thay thế cho thuyết CNCT, nhưng rồi đã bị loại bỏ trong những năm gần đây bởi nhiều lý thuyết tân Marxist (xem chương 4). Thật sự, một trong những cống hiến chủ yếu của thuyết xung đột là phương thức đặt nền tảng cho các lý thuyết trung thành hơn với tác phẩm của Marx, các lý thuyết trở nên thu hút đối với lượng độc giả rộng rãi trong xã hội học. Vấn đề cơ bản với thuyết xung đột là nó chưa bao giờ thành công trong việc tự ly khai hoàn toàn khỏi nguồn gốc chức năng-cấu trúc của nó. Nó là một loại thuyết CNCT bị lộn ngược đầu xuống đất hơn là một lý thuyết phê phán xã hội thật sự.

Tác phẩm của Ralf Dahrendorf

            Như các nhà chức năng luận, các lý thuyết gia xung đột có định hướng tới việc nghiên cứu về các cấu trúc và thể chế xã hội. Chủ yếu, lý thuyết này không có gì ngoài những luận điểm thường trái ngược hẳn với các quan điểm của chức năng luận. Tính phản chứng này được minh họa rõ nét trong tác phẩm của Ralf Dahrendorf, trong đó các nguyên lý của lý thuyết xung đột và chức năng là liền kề nhau. Đối với các nhà chức năng, xã hội có trạng thái tĩnh, hoặc, khá nhất, là trong một trạng thái chuyển động thăng bằng, nhưng đối với Dahrendorf và các lý thuyết gia xung đột, mọi xã hội ở mọi thời điểm đều hướng tới các quá trình biến đổi. Khi các nhà chức năng nhấn mạnh tính trật tự của xã hội, các lý thuyết gia xung đột thấy có sự bất đồng và xung đột ở bất kỳ điểm nào trong hệ thống xã hội. Các nhà chức năng (hay ít nhất là các nhà chức năng thời kỳ đầu) lý luận rằng mọi nguyên tố đều góp phần vào sự bền vững; các nhà xung đột thấy có nhiều nguyên tố góp phần vào sự bất đồng và biến đổi.

            Các nhà chức năng có xu hướng coi xã hội được duy trì nối kết nhau bởi các tiêu chí, các giá trị, và nền đạo đức chung. Các nhà xung đột thấy dù có bất kỳ thứ trật tự nào trog xã hội, nó đều nảy ra từ sự áp bức của một số người ở vị trí trên cùng. Trong khi các nhà chức năng tập trung vào sự cố kết tạo ra bởi các giá trị xã hội chung, các nhà xung đột nhấn mạnh vai trò của quyền lực trong việc duy trì trật tự xã hội.

            Dahrendorf là người phát ngôn chính của quan điểm rằng xã hội có hai mặt (xung đột và liên ứng), và rằng lý thuyết xã hội học do đó phải bị chia thành hai bộ phận, lý thuyết xung đột và lý thuyết liên ứng. Các lý thuyết gia liên ứng  kiểm chứng các giá trị hòa hợp trong xã hội, và các lý thuyết gia xung đột kiểm chứng các xung đột về lợi nhuận và sự áp bức đã giữ xã hội lại với nhau trong mặt  trái của những dồn nén này. Dahrendorf nhận ra rằng xã hội không thể tồn tại mà không có xung đột và liên ứng, đó là những điều kiện tiên quyết đối với từng xã hội. Như vậy, chúng ta không thể có xung đột trừ phi trước đó đã có một liên ứng  nào đó. Ví dụ, các bà nội trợ Pháp hầu như không bao giờ có thể có xung đột với những nhà đấu cờ Chi-lê, vì không có liên hệ tiếp xúc gì giữa họ, không có một hòa hợp có trước để làm cơ sở cho một xung đột. Đảo lại, xung đột có thể dẫn tới liên ứng và hòa hợp. Một ví dụ là sự liên minh giữa Hoa Kỳ và Nhật phát triển sau Thế chiến II.

            Dù có mối tương quan giữa liên ứng và xung đột, Dahredorf không lạc quan về sự phát triển một lý thuyết xã hội học đơn lẻ bao gồm cả hai quá trình này: “Dường như  ít nhất có thể cho rằng sự hợp nhất lý thuyết đó là bất khả thi ở một điểm làm rối trí các nhà tư tưởng kể từ dạo khởi đầu của triết học Phương Tây”. Tránh một lý thuyết đơn, Dahrendorf tìm cách xây dựng một lý thuyết xung đột xã hội. (Ông gọi xung đột và áp bức là “mặt xấu xa của xã hội”).[2]         Dahrendorf bắt đầu với, và bị ảnh hưởng nặng nề bởi, thuyết CNCT. Ông lưu ý rằng đối với nhà chức năng luận, hệ thống xã hội được nối giữ với nhau bởi sự cộng tác hăọc sự liên ứng chung hoặc cả hai. Tuy nhiên, đối với lý thuyết gia xung đột (hoặc áp bức), xã hội được nối giữ bởi “sự kềm hãm bắt buộc”; do vậy, một số vị trí trong xã hội áp chế quyền lực và thẩm quyền lên những người khác. Thực tế này của đời sống xã hội dẫn Dahrendorf tới luận đề trung tâm của ông là sự khác biệt trong phân bố thẩm quyền “đã luôn luôn trở thành nhân tố quyết định của các xung đột có tính hệ thống của xã hội”.

Thẩm quyền.  Dahrendorf tập trung vào các cấu trúc xã hội lớn. Trung tâm của luận đề của ông là ý tưởng rằng các vị trí khác nhau trong xã hội có một số lượng quyền hạn khác nhau. Quyền hạn không tập trung vào các cá thể mà vào các chức vụ. Dahrendorf chú ý không chỉ cấu trúc của các vị trí này mà cả xung đột giữa chúng: “Nguồn gốc cấu trúc của các xung đột này phải được tìm kiếm trong sự sắp xếp các vai trò xã hội được phú cho với những triển vọng về sự thống trị hay bị khuất phục”. Công việc đầu tiên của phân tích xung đột, theo Dahrendorf, là nhận dạng các vai trò quyền hạn khác nhau trong xã hội. Ngoài việc tạo ra cơ sở cho sự nghiên cứu các cấu trúc vĩ mô như các vai trò quyền hạn, Dahrendorf phản đối những ai tập trung vào cấp độ cá thể. Ví dụ, ông phê phán những người tập trung vào các đặc điểm tâm lý hoặc hành vi của các cá thể nắm giữ các vị trí đó. Ông đi quá xa khi nói rằng những người đi theo cách tiếp cận như thế không phải là những nhà xã hội học.

            Thẩm quyền gắn liền với các vị trí là nguyên tố chủ chốt trong phép phân tích của Dahrendorf. Thẩm quyền luôn luôn bao hàm ý nghĩa cả về cấp trên và cấp dưới. Những người chiếm giữ các vị trí có thẩm quyền luôn được kỳ vọng để kiểm soát cấp dưới; nghĩa là, họ thống trị bởi vì các kỳ vọng của những người xung quanh, chứ không phải bởi vì các đặc điểm tâm lý của riêng họ. Giống như thẩm quyền, các kỳ vọng này gắn liền với các vị trí, chứ không phải với con người. Thẩm quyền không phải là một hiện tượng xã hội phổ biến; những người được cử ra kiểm soát, cũng như các địa hạt được phép kiểm soát, là cụ thể trong xã hội. Cuối cùng, vì thẩm quyền có tính chính thống, hình phạt có thể được đem ra áp dụng cho những ai không tuân phục nó.

            Thẩm quyền không là bất biến, theo quan tâm của Dharendorf, vì nó tập trung vào vị trí chứ không phải những con người. Do vậy, một cá nhân có quyền hạn ở một hệ thống không cần nắm giữ  một vị trí quyền hạn ở một hệ thống khác. Tương tự,  một cá nhân ở vị trí cấp dưới trong một nhóm có thể ở vị trí cấp trên trong một nhóm khác. Điều này đến từ lập luận của Dahrendrof rằng xã hội bao gồm một số đơn vị mà ông gọi là “các tổ chức cộng đồng cưỡng chế” (imperative coordinated associations). Chúng có thể được coi là các tổ chức của mọi người được kiểm soát bởi môt hệ thống thứ bậc về vị trí quyền hạn. Vì xã hội chứa đựng nhiều tổ chức như thế, một cá thể có thể nắm giữ một vị trí thẩm quyền ở tổ chức này và là một thuộc cấp ở tổ chức khác.

            Thẩm quyền trong mỗi tổ chức có tính lưỡng phân; như vậy hai, và chỉ có hai, nhóm xung đột có thể được hình thành trong bất kỳ xã hội nào. Những nhóm trong các vị trí có quyền hạn và những nhóm trong các vị trí thuộc cấp theo đuổi những mối quan tâm cụ thể, đó là “sự mâu thuẫn về bản chất và chiều hướng”.

Ở đây chúng ta chạm trán một thuật ngữ chủ chốt khác trong thuyết xung đột- các mối quan tâm (interests). Các nhóm ở đỉnh và các nhóm ở đáy được xác định bởi các mối quan tâm chung. Dahrendorf tiếp tục khẳng quyết trong tư tưởng của ông, rằng ngay cả các mối quan tâm này, nghe có vẻ mang tính chất tâm lý, về cơ bản là các hiện tượng vĩ mô:

Vì các mục đích của phân tích xã hội học về các nhóm xung đột, cần thiết phải giả thiết rằng các định hướng nảy sinh mang tính cấu trúc của các hành động của những người có chức vụ ở những vị trí nhất định. Bằng cách loại suy đối với các định hướng ý thức (“chủ quan”) của hành động, có vẻ hợp lý khi diễn tả những định hướng này là những mối quan tâm… Giả thiết về các quan tâm “khách quan” gắn với các vị trí xã hội không có các ngụ ý về mặt tâm lý học hay sự phân nhánh; nó tùy thuộc vào cấp độ phân tích đúng đắn xã hội học.

            Trong mỗi tổ chức, những người ở các vị trí thống trị tìm cách duy trì nguyên trạng trong khi những người ở các vị trí phụ thuộc tìm cách thay đổi. Một xung đột về mối quan tâm trong bất kỳ tổ chức nào tối thiểu cũng tiềm ẩn trong mọi lúc, có nghĩa là tính chính thống của thẩm quyền luôn luôn ở tình trạng bấp bênh. Sự xung đột ở mối quan tâm này không cần được ý thức để những người cấp trên hay những người cấp dưới hành động. Các mối quan tâm của những người cấp trên và của những người cấp dưới có tính chất khách quan trong nghĩa chúng được phản ánh trong các kỳ vọng (vai trò) gắn liền với các vị trí. Các cá thể không cần chủ quan hóa các kỳ vọng này hay thậm chí ý thức về chúng để hành động hòa hợp với chúng. Nếu họ nắm giữ các vị trí được giao, họ sẽ phải cư xử theo cung cách được kỳ vọng. Các cá thể bị “điều chỉnh” hoặc “thích ứng” với vai trò của họ khi họ góp phần vào mối xung đột giữa những người cấp cao và nhũng người cấp dưới. Dahrendorf gọi những kỳ vọng vai trò vô ý thức này là các quan tâm tiềm ẩn. Các quan tâm biểu lộ là những quan tâm tiềm ẩn đã được ý thức. Dahrendorf thấy phân tích về mối liên kết giữa các quan tâm tiềm ẩn và biểu lộ là một công việc chủ yếu của thuyết xung đột. Dù sao, các actors không cần ý thức về những quan tâm của họ để hành động phù hợp với chúng.

            Kế tiếp, Dahrendorf phân biệt ba kiểu nhóm rộng. Kiểu thứ nhất là nhóm gần như nhóm (quasi-group), hoặc “tập hợp những người giữ chức vụ ở các vị trí với các quan tâm vai trò đồng nhất”. Đây là những cơ sở bổ sung cho kiểu nhóm thứ hai - nhóm quan tâm (interest group). Dahrendorf diễn tả hai nhóm này:

Các kiểu mẫu chung của hành vi có đặc tính của các nhóm quan tâm được bổ sung từ các nhóm gần như nhóm lớn. Các nhóm quan tâm là các nhóm theo nghĩa tuyệt đối của thuật ngữ xã hội học; và chúng là những tác nhân thực sự của xung đột nhóm. Chúng có một cấu trúc, một hình thức tổ chức, một chương trình hoặc mục tiêu, và một bộ phận tổ chức các thành viên.

Từ tất cả những nhóm quan tâm đó nảy sinh các nhóm xung đột, hoặc các nhóm thực sự  có liên quan tới sự xung đột nhóm.

Dahrendorf cảm thấy rằng các khái niệm về các quan tâm tiểm ẩn và biểu lộ, các nhóm gần như nhóm, các nhóm quan tâm, các nhóm xung đột, là cơ sở để giải thích xung đột xã hội. Dưới các điều kiện lý tưởng, không cần có một biến cố nào khác. Tuy nhiên, vì các điều kiện không bao giờ lý tưởng, nhiều yếu tố khác có sự can thiệp đến quá trình. Dahrendorf  lưu ý đến các điều kiện kỹ thuật như nhân sự phù hợp, các điều kiện chính trị như thời tiết chính trị tổng quát, và các điều kiện xã hội như sự tồn tại của các nối kết thông tin. Cách thức mọi người được bổ sung vào các nhóm gần như nhóm là một điều kiện xã hội quan trọng khác đối với Dahrendorf. Ông cảm thấy nếu sự bổ sung ít xảy ra và bị quyết định bởi các cơ may, khi đó một nhóm quan tâm, và cuối cùng là một nhóm xung đột, ít khi được nảy sinh. Trái với Marx, Dahrendorf không cảm thấy giới vô sản lưu manh có thể cuối cùng tạo thành một nhóm xung đột, vì mọi người bị bổ sung vào nó từ các cơ hội. Tuy nhiên, khi sự bổ sung vào nhóm gần như nhóm được quyết định về mặt cấu trúc, các nhóm này cung cấp những cơ sở bổ sung phong phú cho các nhóm quan tâm, và, trong một số trường hợp, cho các nhóm xung đột.

Khía cạnh cuối cùng của thuyết xung đột là quan hệ giữa xung đột và biến đổi. Ở đây Dahrendorf nhận ra tầm quan trọng của tác phẩm của Lewis Coser (xem phần kế tiếp), trong đó tập trung vào các chức năng của xung đột trong việc duy trì hiện trạng. Dahrendorf cảm thấy, tuy nhiên, chức năng bảo thủ của xung đột chỉ là một bộ phận của thực tại xã hội; xung đột cũng dẫn tới biến đổi và phát triển.

Nói tóm lại, Dahrendorf lý luận rằng một khi các nhóm xung đột nảy sinh, chúng thực hiện các hành động dẫn tới các biến đổi trong cấu trúc xã hội. Khi xung đột trở nên căng thẳng, các biến đổi diễn ra nhanh chóng. Khi nó gắn liền với bạo lực, biến đổi cấu trúc sẽ xảy ra đột ngột. Dù bản chất của xung đột là gì đi nữa, các nhà xã hội học phải hòa hợp giữa xung đột và biến đổi cũng như giữa xung đột và hiện trạng.

Các phê phán chính

Thuyết xung đột bị phê phán bởi nhiều lý lẽ khác nhau. Ví dụ, nó đã bị tấn công vì bỏ qua trật tự và tính bền vững, trong khi thuyết CNCT bị phê phán vì đã bỏ qua xung đột và thay đổi. Thuyết xung đột cũng bị phê phán vì tính chất duy tâm cấp tiến, trong khi thuyết CNCT bị phê phán vì tính duy tâm bảo thủ của nó. So với thuyết CNCT, thuyết xung đột chậm phát triển hơn một ít. Nó không phức tạp bằng thuyết CNCT, có lẽ vì nó là một thuyết có tính phái sinh hơn.

            Thuyết xung đột của Dahrendorf chịu một số phân tích phê phán, bao gồm một số phản ánh phê phán của chính bản thân ông. Đầu tiên, kiểu mẫu của Dahrendorf  là một phản ánh không rõ lắm của các ý tưởng Marx như ông xác nhận. Thực tế, như chúng ta sẽ xem xét vắn tắt sau, nó tạo lập một bản chuyển dịch không tương xứng lý thuyết Marx sang xã hội học. Thứ hai, như đã lưu ý, thuyết xung đột có nhiều điểm chung với thuyết CNCT hơn là thuyết Marx. Nhấn mạnh của Dahrendorf tới những thứ như  các hệ thống (các tổ chức cộng đồng cưỡng chế), các vị trí, và các vai trò trực tiếp gắn liền ông với thuyết CNCT. Kết quả là lý thuyết của ông chịu nhiều sự bất tương xứng giống như thuyết CNCT. Ví dụ, sự xung đột hình như nảy sinh một cách bí ẩn từ các hệ thống chính thống (tương tự như ở thuyết CNCT). Hơn nữa, thuyết xung đột hình như chịu phê phán từ nhiều vấn đề mang tính khái niệm và logic (ví dụ, các khái niệm mơ hồ, các lặp thừa) giống như ở thuyết CNCT. Cuối cùng, tương tự thuyết CNCT, thuyết xung đột gần như hoàn toàn có tầm vĩ mô, và kết quả là chẳng mang lại gì nhiều cho nhận thức của chúng ta về tư duy và hành động của cá thể.

            Cả thuyết chức năng và thuyết xung đột của Dahrendorf đều không tương xứng, vì mỗi thuyết có ích cho chính nó trong việc giải thích chỉ một bộ phận cấu thành của đời sống xã hội. Xã hội học phải có khả năng giải thích trật tự cũng như xung đột, cấu trúc cũng như biến đổi. Thực tế cuối cùng này đã thúc đẩy nhiều nỗ lực để điều hòa thuyết chức năng và thuyết xung đột. Dù không có nỗ lực nào hoàn toàn thỏa đáng, các nỗ lực này ít nhất cũng đề xuất ra một số sự nhất trí giữa các nhà xã hội học rằng cái cần thiết là một lý thuyết giải thích được cả hai mặt liên ứng và bất đồng. Tuy nhiên, không phải tất cả các nhà xã hội học đều tìm cách điều hòa các viễn cảnh xung đột này. Dahrendorf, ví dụ, nhìn thấy chúng như là những viễn cảnh có thể thế nhau được vận dụng tùy theo hòan cảnh. Theo ông, khi chúng ta quan tâm tới xung đột, chúng ta nên sử dụng thuyết xung đột; khi chúng ta muốn xem xét trật tự, chúng ta nên theo một viễn cảnh chức năng. Lập trường này dường như không thỏa đáng, vì có một nhu cầu mạnh mẽ đối với một viễn cảnh lý thuyết cho phép chúng ta đồng thời xử lý cả xung đột và trật tự.

            Các phê phán thuyết xung đột và thuyết CNCT, cũng như các hạn chế vốn có của chúng, dẫn tới nhiều nỗ lực để đối phó với các vấn đề bằng cách điều hòa hay hòa hợp hai lý thuyết này. Giả thiết là một kết hợp nào đó giữa hai lý thuyết sẽ có hữu hiệu hơn chỉ là một đơn lẻ. Nổi tiếng nhất trong các tác phẩm này là cuốn Các chức năng của xung đột xã hội của Lewis Coser.

            Tác phẩm thời đầu có ảnh hưởng lớn về các chức năng của xung đột xã hội được thực hiện bởi Georg Simmel, nhưng nó đã được mở rộng bởi Coser, ông lý luận rằng xung đột có thể củng cố thêm một nhóm có cấu trú lỏng lẻo. Trong một xã hội dường như không hòa hợp, xung đột với một xã hội khác có thể khôi phục lại nền tảng hòa hợp. Sự cố kết của người Do Thái Israel có thể quy cho, ít nhất là phần nào, mối xung đột kéo dài với dân tộc Ả-rập ở vùng Trung Động. Kết thúc khả dĩ của cuộc xung đột là có thể làm trầm trọng thêm tình trạng căng thẳng ẩn náu bên dưới xã hội Israel. Xung đột như là một tác nhân đối với việc củng cố xã hội là một ý tưởng từ lâu đã được những nhà tuyên truyền, những kẻ có thể xây dựng lên một kẻ thù ở nơi không hề có kẻ thù nào cả hoặc kiếm cách cổ động cho sự tuyên truyền hướng tới một đối thủ không hoạt động.

            Sự xung đột với một nhóm có thể giúp tạo ra sự cố kết bằng cách dẫn tới một loạt những liên minh với các xã hội khác. Ví dụ, sự xung đột với người Ả –rập đã dẫn tới sự liên minh giữa Mỹ và Israel. Sự tiếp tục giảm thiểu mối xung đột Israel-Ả rập có thể làm yếu đi mối liên kết giữa Israel và Mỹ.

            Trong một xã hội, xung đột có thể đẩy một số cá thể bị cách ly vào vai trò tích cực. Sự phản đối chiến tranh Việt Nam lần đầu tiên đã thúc đẩy nhiều người trẻ tuổi chiếm giữ những vai trò sôi nổi trong đời sống chính trị Mỹ. Với sự kết thúc của xung đột đó, một tinh thần lãnh đạm lại nảy sinh trong giới trẻ Mỹ.

            Xung đột cũng phục vụ cho một chức năng liên lạc. Trước xung đột, các nhóm có thể không bảo đảm về lập trường của đối thủ, nhưng như là một kết quả của xung đột, các lập trường và ranh giới giữa các nhóm thường trở nên rõ ràng. Các cá thể do đó có khả năng tốt hơn để quyết định một hành động đúng đắn trong quan hệ đối với kẻ thù của họ. Xung đột cũng cho phép các phe có một ý tưởng tốt hơn về sức mạnh tương đối của họ và có thể tăng cường hơn khả năng nối lại tình hữu nghị hoặc hòa giải với nhau.

            Từ một viễn cảnh lý thuyết, có thể kết hợp thuyết chức năng và thuyết xung đột bằng cách nhìn vào các chức năng của xung đột xã hội. Cũng vẫn phải nhận thấy rằng xung đột có những phản chức năng.

            Trong khi một số lý thuyết gia tìm cách hòa hợp thuyết xung đột với thuyết CNCT, những người khác không muốn phần nào của thuyết xung đột (hoặc thuyết CNCT). Ví dụ, nhà Marxist André Gunder Frank chối bỏ thuyết xung đột vì nó thể hiện một hình thức không tương xứng của lý thuyết Marx. Dù thuyết xung đột có một số nguyên tố của thuyết Marx, nó không phải là kẻ kế thừa thực sự của thuyết Marx nguyên thủy. Trong chương kế tiếp chúng ta sẽ xem xét một loạt lý thuyết là những kẻ kế thừa chính thống hơn. Tuy nhiên, trước đó, chúng ta phải xử lý một kiểu hòa hợp thành công hơn của thuyết xung đột.

Một thuyết xung đột có tính chất hòa hợp hơn

            Nhân vật chủ yếu trong nỗ lực phát triển một thuyết xung đột có tính tổng hợp và hòa hợp hơn là Randall Collins. Tác phẩm Xã hội học xung đột của Collins có tính hòa hợp cao độ vì nó đi theo một định hướng vi mô nhiều hơn thuyết xung đột vĩ mô của Dahrendorf và những người khác. Bản thân Collins nói về tác phẩm đầu của ông, “Đóng góp chính của tôi đối với thuyết xung đột là bổ sung một cấp độ vi mô vào các lý thuyết cấp độ vĩ mô này. Tôi đặc biệt cố gắng chỉ ra rằng sự phân tầng và sự tổ chức được đặt nền tảng từ các tương tác trong đời sống thường nhật”. Sau đó, “ Các đóng góp của tôi đối với thuyết xung đột đến theo con đường xây dựng trên những đóng góp mang tính thực nghiệm của Goffman, Gakinkel, Sack và Schegloff”. Các lý thuyết gia này, dĩ nhiên, gắn bó với thuyết tương tác biểu tượng và dân tộc phương pháp luận ở cấp độ vi mô.

            Collins làm rõ từ đầu rằng tiêu điểm của ông về xung đột không có tính duy tâm; nghĩa là, ông không bắt đầu với quan điểm chính trị rằng xung đột hoặc là tốt hoặc là xấu. Hơn thế, ông quả quyết, ông chọn xung đột như là tiêu điểm trên một nền tảng thực tế rằng xung đột là một - có lẽ như vậy - quá trình trung tâm của đời sống xã hội.

            Không như những người khác khởi sự, và ở lại, ở cấp độ xã hội, Collins tiếp cận xung đột từ  một quan điểm mang tính cá thể, vì các nguồn gốc lý thuyết của ông nằm trong hiện tượng luận và dân tộc phương pháp luận. Dù với tham chiếu của ông đối với các lý thuyết cấp độ cá thể và vi mô, Collins nhận thức rằng “ xã hội học không thể thành công chỉ với cấp độ vi mô”; thuyết xung đột không thể thực hiện mà không có cấp độ phân tích xã hội. Tuy nhiên, trong khi phần lớn lý thuyết gia xung đột tin rằng các cấu trúc xã hội là ở bên ngoài, và áp chế, tác nhân hành động, Collins thấy các cấu trúc xã hội không tách rời khỏi các tác nhân hành động- nhữn người đã xây dựng chúng và các khuôn mẫu tương tác của họ là cốt lõi của chúng. Collins  có xu hướng xem các cấu trúc xã hội như là các khuôn mẫu tương tác hơn là các thực thể ngoại vi và áp chế. Ngoài ra, trong khi phần lớn các lý thuyết gia xung đột xem actor như bị đè nén bởi các lực lượng ngoại vi, Collins nhìn actor  như là người sáng tạo và tái tạo tổ chức xã hội một cách đều đặn.

            Collins xem thuyết Marx là “điểm khởi đầu” cho thuyết xung đột, nhưng theo ông, nó chất đầy các vấn đề. Ví như, ông thấy nó (như thuyết CNCT) quá nặng tính duy tâm, một đặc tính ông cố tránh đi. Thêm nữa, ông có xu hướng xem định hướng của Marx là có thể giảm thiểu xuống một phân tích về phạm vi kinh tế, dù đây là một phê phán không có cơ sở về thuyết Marx. Thực sự, dù Collins viện dẫn Marx thường xuyên, thuyết xung đột của ông cho thấy tương đối ít chịu ảnh hưởng của Marx. Nó chịu nhiều ảnh hưởng từ Weber, Durkheim hơn, và trên tất cả là hiện tượng luận và dân tộc phương pháp luận.

            Collins chọn tập trung vào sự phân tầng xã hội vì nó là một thể chế đụng chạm đến rất nhiều các đặc tính của đời sống, bao gồm “tài sản, các nền chính trị, các nghề nghiệp, các gia đình, các câu lạc bộ, các cộng đồng, các kiểu sống” Theo quan điểm của Collins, các lý thuyết lớn về sự phân tầng đã “thất bại”. Trong phạm trù này ông đặt vào cả hai, thuyết Marx và thuyết CNCT. Ong phê phán thuyết Marx, ví dụ, như là “ một sự diễn giải đơn nguyên đối với một thế giới đa nguyên”. Ông xem lý thuyết Weber không là gì khác hơn một “phản hệ thống” từ đó xem xét các đặc tính của hai lý thuyết lớn. Tác phẩm của Weber có một vài ích dụng đối với Collins, nhưng “các nỗ lực của xã hội học hiện tượng để đặt tất cả mọi khái niệm vào những gì có thể quan sát được của đời sống hàng ngày” là cái quan trọng nhất đối với ông, vì tiêu điểm chính của ông trong việc nghiên cứu sự phân tầng xã hội là ở cấp vi mô, chứ không phải vĩ mô. Theo ông, sự phân tầng xã hội, như mọi cấu trúc xã hội khác, có thể giảm thiểu xuống những con người trong cuộc sống đời thường chạm trán với nhau theo những cách thức mang tính khuôn mẫu.

            Dù với sự tận tâm của ông đối với một xã hội học vi mô về sự phân tầng, Collins bắt đầu (dù ông có một số hạn chế về chúng) với các lý thuyết vĩ mô của Marx và Weber như là các nền móng cho tác phẩm của ông. Ông khởi sự với các nguyên tắc của Marx, lý luận rằng chúng, “với các bổ sung nhất định, cung cấp một cơ sở cho một thuyết xung đột về sự phân tầng”.

            Trước hết, ông cho rằng theo quan điểm Marx, các điều kiện vật chất, kể cả việc kiếm sống trong xã hội hiện đại, là các yếu tố quyết định của kiểu sống của một cá nhân. Cơ sở của việc kiếm sống đối với Marx là quan hệ của cá nhân với tài sản tư hữu. Những người chiếm hữu hoặc kiểm soát tài sản có thể kiếm sống một cách thỏa mãn hơn nhiều so với những người khác và những người phải bán thời gian lao động của mình để tìm đường tới các phương tiện sản xuất.

          Thứ hai, từ viễn cảnh của Marx, các điều kiện vật chất ảnh hưởng không chỉ đến cách thức các cá thể kiếm sống ra sao mà cả bản chất của các nhóm xã hội trong các giai cấp xã hội khác nhau. Giai cấp thống trị có khả năng tốt hơn các giai cấp phụ thuộc trong việc phát triển các nhóm xã hội cố kết hơn, ràng buộc với nhau bởi các mạng lưới liên lạc phức tạp.

            Cuối cùng, Collins lý luận rằng Marx cũng chỉ ra các khác biệt to lớn giữa các giai cấp xã hội trong sự thâm nhập vào, và sự kiểm soát, hệ thống văn hóa. Nghĩa là, các giai cấp cao hơn có thể phát triển cao độ các hệ thống biểu tượng và ý thức hệ, các hệ thống mà nhờ đó họ thường có thể lợi dụng được các giai cấp thấp hơn. Các giai cấp thấp có ít các hệ thống biểu tượng phát triển hơn, do đó bị lạm dụng bởi những giai cấp có quyền lực.

            Collins thấy Weber làm việc trong phạm vi thuyết Marx về sự phân tầng và đã phát triển xa hơn nó. Ví như, Weber từng nói đã nhận ra sự tồn tại của các hình thức khác nhau của sự xung đột dẫn tới một hệ thống phân tầng đa phương diện (ví dụ, giai cấp, địa vị, quyền lực). Ví dụ khác, Weber phát triển lý thuyết về các tổ chức tới một mức độ cao, mà Collins xem như vẫn là một địa hạt xung đột khác về mối quan tâm. Weber cũng quan trọng đối với Collins vì sự nhấn mạnh của ông đến nhà nước như là một cơ quan kiểm soát các công cụ bạo lực, đã chuyển mối quan tâm từ xung đột ở nền kinh tế (các phương tiện sản xuất) sang xung đột ở nhà nước. Cuối cùng, Collins nhận ra sự thấu hiểu của Weber đối với đấu trường xã hội về các sản phẩm tình cảm, đặc biệt là tôn giáo. Xung đột rõ ràng có thể xảy ra trong đấu trường này, và các sản phẩm tình cảm này, cũng như các sản phẩm khác, có thể được sử dụng như những thứ vũ khí trong xung đột xã hội.

            Với nền tảng này, Collins quay sang tiếp cận xung đột của chính ông đối với sự phân tầng, có nhiều điểm chung với hiện tượng luận và dân tộc phương pháp luận hơn là với thuyết Marx và thuyết Weber. Collins mở đầu với nhiều giả thiết. Mọi người đưọc xem là vốn có tính xã hội nhưng cũng đặc biệt thiên về xu hướng xung đột trong các quan hệ xã hội của họ. Xung đột dường như xảy ra trong các quan hệ xã hội bởi vì “sự áp bức bằng bạo lực” có thể luôn luôn được sử dụng bởi một các nhân hay nhiều người trong một tập hợp tương tác. Collins tin rằng người ta tìm cách tối đa hóa các “địa vị chủ yếu” của họ và rằng khả năng làm điều này của họ tùy thuộc vào các nguồn tiềm lực của họ cũng như tiềm lực của những người khác mà họ có liên quan. Ông xem mọi người là có tính chất tự tư tự lợi; do vậy, các va chạm có thể xảy ra vì các tập hợp những quan tâm vốn có tính đối kháng nhau.

            Cách tiếp cận xung đột này đối với sự phân tầng có thể giảm thiểu thành ba nguyên tắc cơ bản. Đầu tiên, Collins tin rằng người ta sống trong thế giới chủ quan tự dựng lên. Thứ hai, những người khác có thể có quyền lực để ảnh hưởng, hay thậm chí kiểm soát, kinh nghiệm chủ quan của một cá thể. Thứ ba, những người khác có thể thường xuyên cố kiểm soát cá thể, kẻ chống lại họ. Kết quả hầu như là sẽ có xung đột liên nhân vị.

            Trên cơ sở tiếp cận này, Collins phát triển năm nguyên tắc phân tích xung đột mà ông áp dụng đối với phân tầng xã hội, dù ông tin rằng chúng có thể áp dụng đối với bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống xã hội. Đầu tiên, Collins tin rằng lý thuyết xung đột phải tập trung vào đời sống thực tế hơn là các hệ thống trừu tượng. Niềm tin này dường như phản ánh một tham chiếu đối với phân tích vật chất theo phong cách Marx đối với sự trừu tượng của thuyết CNCT. Collins thúc giục chúng ta nghĩ về con người như những con thú mà các hành động, bị thúc đẩy bởi tính tư  lợi, có thể xem như  những thủ đoạn để đạt được những thuận lợi khác nhau để họ có thể đạt được sự thỏa mãn và tránh đi sự bất mãn. Tuy nhiên, không như các lý thuyết gia trao đổi và chọn lựa hợp lý, Collins không xem mọi người là duy lý hoàn toàn. Ong nhận ra rằng họ dễ bị tổn thương đối với những lôi cuốn tình cảm trong sự nỗ lực tìm sự thỏa mãn của họ.

            Thứ hai, Collins tin rằng một lý thuyết xung đột về phân tầng phải xem xét các sắp xếp vật chất ảnh hưởng tới sự tương tác. Dù các tác nhân hành động dường như bị ảnh hưởng bởi các nhân tố vật chất như “các nơi chốn vật lý, các kiểu liên hệ, các nguồn cung ứng vũ khí, các công cụ công diễn gây ấn tượng công cộng, các công cụ, hàng hóa”, không phải mọi actor đều bị ảnh hưởng theo cùng một lối. Một sự khác biệt chủ yếu là các tiềm năng mà các actor khác nhau sở hữu. Các actor có các tiềm năng vật chất đáng kể có thể cưỡng lại, thậm chí có thể biến đổi các giới hạn vật chất, trong khi ở những actor có ít tiềm năng hơn, hầu như suy nghĩ và hành động của họ bị quyết định bởi hệ thống vật chất của họ.

            Thứ ba, Collins lý luận rằng trong một hoàn cảnh bất bình đẳng, các nhóm kiểm soát các tiềm năng dường như cố gắng bóc lột những nhóm thiếu tiềm năng. Ông cẩn thận chỉ ra rằng sự bóc lột như thế không cần liên quan đến sự tính toán có ý thức về phần của những người hưởng lợi từ hoàn cảnh đó; đúng hơn, những người bóc lột chỉ đơn giản theo đuổi cái mà họ cho là các lợi ích tốt nhất của họ. Trong quá trình này, họ có thể lợi dụng nhữn gngười thiếu các tiềm năng.

            Thứ tư, Collins muốn nhà lý thuyết xung đột nhìn vào các hiện tượng văn hóa như các niềm tin và các lý tưởng từ quan điểm của lợi ích, quyền lực và tiềm năng. Có vẻ như các nhóm có tiềm năng, và do đó, có quyền lực có thể áp đặt hệ tư tưởng của họ lên toàn xã hội; những nhóm không có tiềm năng bị một hệ tư tưởng áp chế họ.

            Cuối cùng, Collins thực hiện một nghiên cứu tận lực về sự phân tầng và mọi khía cạnh của thế giới xã hội. Do vậy, ông quy định nhiều thứ: các nhà xã hội học không nên thuyết lý giản đơn về sự phân tầng mà nên nghiên cứu nó theo thực nghiệm, nếu có thể, theo một đường lối có tính chất so sánh đối chiếu. Các giả thuyết nên được hình thành và kiểm chứng thực nghiệm thông qua các nghiên cứu so sánh. Cuối cùng, nhà xã hội học nên tìm ra các nguyên nhân của các hiện tượng xã hội, đặc biệt là các đa nguyên nhân của bất kỳ một hình thái hành vi xã hội nào.

            Sự tận tâm khoa học này dẫn Collins tới việc phát triển một loạt các định đề về mối tương quan giữa xung đột và các khía cạnh cụ thể khác nhau của đời sống xã hội. Ở đây, chúng tôi chỉ có thể đưa ra một vài định đề, nhưng chúng sẽ cho phép bạn đọc có một cảm nhận về kiểu xã hội học xung đột của Collins:

1.0   Các kinh nghiệm ra mệnh lệnh và thực hiện mệnh lệnh là các yếu tố quyết định chính của quan điểm và hành vi cá thể.
1.1   Một người càng ra nhiều mệnh lệnh, anh ta càng hãnh diện, tự tin, kiểu cách, và đồng  nhất với các lý tưởng của tổ chức mà dưới cái tên của nó anh ta ban bố các mệnh lệnh.
1.2   Càng thực hiện nhiều mệnh lệnh, người ta càng quỵ lụy, tin vào mệnh số, và càng xa lạ với các lý tưởng của tổ chức, tuân thủ ở bề ngoài, mất lòng tin vào người khác, quan tâm đến các tưởng thưởng đền bù ngoại lai và phi luân lý.

Trong nhiều điều khác, tất cả những định đề này phản ánh  sự tận tâm của Collins đối với việc nghiên cứu khoa học về các biểu thị xã hội vi mô của các xung đột xã hội.

Collins không định tâm xử lý xung đột trong hệ thống phân tầng xã hội mà tìm cách mở rộng nó ra nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau. Ví dụ, ông mở rộng phân tích của mình về sự phân tầng tới các tương quan giữa các giới tính cũng như giữa các nhóm lứa tuổi. Ông theo quan điểm rằng gia đình là một đấu trường của xung đột giới tính, trong đó đàn ông đã là người chiến thắng, và kết quả là đàn bà bị đàn ông thống trị và chịu nhiều đối xử bất bình đẳng. Tương tự, ông thấy mối tương quan giữa các nhóm lứa tuổi –nói riêng là giữa người trẻ và người già - là một kiểu xung đột. Ý tưởng này trái với quan điểm của các nhà CNCT, họ thấy có sự xã hội hóa và chủ quan hóa mang tính chất hòa hợp trong mối tương quan này. Collins nhìn vào các tiềm năng bị chiếm hữu bởi các nhóm lứa tuổi khác nhau. Người lớn có nhiều tiềm năng, bao gồm kinh nghiệm, khổ người, sức khỏe, và khả năng thỏa mãn các nhu cầu thể chất của tuổi trẻ. Trái lại, một trong số các tiềm năng ít ỏi của trẻ con là sự hấp dẫn về thể chất. Nghĩa là trẻ con dường như bị người lớn thống trị. Tuy nhiên, khi chúng trưởng thành, chúng có được nhiều tiềm năng hơn và có khả năng cưỡng kháng tốt hơn, kết quả là sự gia tăng xung đột xã hội giữa các thế hệ.

Collins cũng nhìn vào các tổ chức từ một viễn cảnh xung đột. Ông xem chúng như là những hệ thống của các ảnh hưởng liên nhân vị và như là các đấu trường trong đó xung đột về lợi ích được đặt ra. Nói vắn tắt, “các tổ chức là những đấu trường để chiến đấu”.  Collins một lần nữa lại ẩn dấu lập luận của mình dưới hình thức định đề. Ví dụ, ông lập luận rằng: “sự áp bức dẫn tới các nỗ lực mạnh mẽ để tránh bị áp bức”. Trái lại, ông cảm thấy sự đưa ra các đền bù là một chiến lược phù hợp hơn: “Kiểm soát bằng các phần thưởng vật chất dẫn tới sự phục tùng ở mức độ mà các phần thưởng trực tiếp nối liền với hành vi được kỳ vọng”. Các định đề này và khác nữa chỉ ra sự tận tâm của Collins đối với một nghiên cứu khoa học có định hướng vi mô lớn về xung đột.

Nói tóm, Collins, giống như Dahrendorf, là một phát ngôn viên chân chính của thuyết xung đột Marx, dù vì những lý do khác nhau. Mặc dù Collins sử dụng thuyết Marx như là điểm khởi đầu, Weber, Durkheim và đặc biệt là dân tộc phương pháp luận đã có ảnh hưởng hơn nhiều lên tác phẩm của ông. Định hướng vi mô của Collins là một sự khởi đầu hữu ích đối với sự phát triển của một lý thuyết xung đột hòa hợp hơn. Tuy nhiên, dù ông đã nói về những dự tính đối với lý thuyết hòa hợp vi mô-vĩ mô, ông chưa hoàn tất công việc này.

Trong tác phẩm sau cùng, Collins có một cái nhìn tổng quát rằng thuyết xung đột hợp lý hơn so với phần lớn các lý thuyết khác vì nó sẵn sàng cho sự tổng hợp: “Thuyết xung đột… thực hiện một cách tự do cái có thể gọi một cách văn hoa là sự sao chép; nó hòan toàn sẵn sàng kết hợp… các nguyên tố của các xã hội học vi mô”. Trong khi ít có các lý thuyết xung đột công khai giữa 1975 và 1990, Collins tin rằng thuyết xung đột, dù nhiều hình nhiều vẻ, đã không suy tàn trong 15 năm mà đang phát triển lặng lẽ dưới nhiều lớp vỏ khác nhau trong một số lĩnh vực của xã hội học.

Collins tin rằng thuyết xung đột  đã trở thành một viễn cảnh ngự trị trong một số lãnh vực phụ của xã hội học. Dù ông không đi vào chi tiết, một ví dụ về điều đang xâm chiếm tâm trí ông là sự nảy sinh của “cách tiếp cận quyền năng” như là một định hướng ngự trị trong nghiên cứu xã hội học về các nghề nghiệp. Một nỗ lực mang tính chất hòa hợp đáng thực làm, nhưng chỉ được gợi ý bởi Collins, sẽ là một cuộc xét lại dãy viễn cảnh xung đột cụ thể đã phát triển trong nhiều lĩnh vực phụ của xã hội học, với đối tượng là việc đặt những cách biệt này lại với nhau, kết hợp chúng thành một thuyết xung đột mở rộng, và do đó nâng cao lý thuyết xung đột rộng của xã hội học.

Bản thân Collins đã tìm cách hòa hợp theo hai chiều hướng. Đầu tiên, ông xem một tiếp cận xung đột là nằm ở trung tâm của sự khảo sát mang nhiều tính đối chiếu lịch sử, đặc biệt tác phẩm của Michael Mann. Như vậy, thuyết xung đột vẫn được làm phong phú thêm bởi sự hòa hợp của một loạt nhận thức có thể xuất xứ từ khảo sát đối chiếu lịch sử. Hơn nữa, Collins thấy Mann đang tận dụng một loại lý thuyết hệ thống, và điều này dẫn tới một mối quan tâm tới sự tổng hợp hóa cách tiếp cận của Mann với tác phẩm chính thống trong lý thuyết hệ thống. Thứ hai, có một khả năng hòa hợp lý thuyết hệ thống và lý thuyết xung đột. Trong thực tế, như chúng ta sẽ thấy, thuyết hệ thống đóng một vai trò nổi bật trong các nỗ lực tổng hợp đương thời, vì có những người từ các viễn cảnh khác, đặc biệt là thuyết trao đổi, đã nhìn thấy các khả năng để hòa hợp với nó. Lạ lùng là Collins không nói tới khả năng  của sự hòa hợp với lý thuyết của chính ông về các chuỗi tương tác theo trình tự (xem chương 9). Điều này thật đáng ngạc nhiên vì các nhận thức cấp vi mô của lý thuyết đó sẽ ăn khớp tốt với  các quan tâm cấp vĩ mô truyền thống của thuyết xung đột. Có lẽ Collins không đề xuất một sự hòa hợp như thế vì lý thuyết xung đột đa dạng của chính ông bản thân nó mang tính chất vi mô cao độ và đã bao gồm các chuỗi tương tác theo trình tự.

Tổng quát hơn, Collins xác định thuyết xung đột theo một đường lối bao quát đến nỗi nó dường như mở rộng tới những nhận thức của mọi lý thuyết và dường như có khả năng bao trùm lên mọi cấp độ của thực tại xã hội. Cụ thể, Collins tìm cách phân biệt giữa các lý thuyết xung đột hẹp (ví dụ, của Simmel và Coser) và lý thuyết xung đột, mà ông xác định là “một lý thuyết về sự tổ chức của xã hội, hành vi của mọi người và mọi nhóm, nó giải thích vì sao các cấu trúc mang hình thức như  nó có… và vì sao và loại biến đổi nào đã diễn ra… lý thuyết xung đột là một tiếp cận chung đối với toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội”. Như vậy, Collins đã theo một loạt các tổng hợp; ông quan tâm tới việc đẩy thuyết xung đột theo hướng của một viễn cảnh chỉnh thể hơn. Người ta phải cảnh giác về một đế quốc chủ nghĩa về lý thuyết bao hàm trong cách tiếp cận này và giọng điệu tương tự lan tràn trong tiểu luận của Collins.

TÓM TẮT

Cách đây không nhiều năm lắm, thuyết Chức năng cấu trúc lý thuyết thống trị trong xã hội học. Thuyết xung đột là đối thủ cạnh tranh chính của nó và có vẻ là kẻ thay chỗ cho nó. Tuy nhiên, những biến đổi sân sắc đã xảy ra trong những năm gần đây. Cả hai lý thuyết này đều là đối tượng của những phê phán căng thẳng, trong khi một loạt các lý thuyết có khả năng lựa chọn khác (sẽ được thảo luận xuyên suốt cuốn sách này) đã phát triển và đã thu hút sự quan tâm hơn bao giờ hết và sự kế tục rộng lớn hơn bao giờ hết.

Dù nhiều thể khác nhau của thuyết CNCT đã tồn tại, tiêu điểm của chúng ta ở đây là thuyết chức năng về mặt xã hội và tiêu điểm vĩ  mô của nó, những quan tâm của nó đối với các tương quan ở cấp độ xã hội và các ảnh hưởng kềm hãm của các  cấu trúc xã hội và thể chế lên tác nhân hành động. Các nhà CNCT phát triển một loạt các quan tâm đến các hệ thống xã hội, các tiểu hệ thống, các quan hệ giữa các tiểu hệ thống và các hệ thống, tính thăng bằng, và sự biến đổi có trật tự.

Chúng ta khảo sát ba tác phẩm của các nhà CNCT (Davis và Moore, Parsons, và Merton). Davis và Moore, trong một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất và bị chỉ trích nhiều nhất trong lịch sử xã hội học, đãkhảo sát sự phân tầng xã hội như là một hệ thống xã hội và các chức năng tích cực khác nhau mà nó thực hiện. Chúng ta cũng đã thảo luận một số chi tiết vế lý thuyết CNCT của Talcott Parsons và tư tưởng của ông về bốn chức năng khẩn thiết của mọi hệ thống hành động - sự thích nghi, sự đạt được mục tiêu, sự hòa hợp và sự tiềm tàng (AGIL). Chúng ta cũng đã phân tích cách tiếp cận CN-CT của ông đối với bốn hệ thống hành động – hệ thống xã hội, hệ thống văn hóa, hệ thống cá tính và thực thể hành vi. Cuối cùng, chúng ta xử lý tiếp cận CNCT của ông với thuyết động lực và biến đổi xã hội - lý thuyết tiến hóa của ông và các tư tưởng của ông về vật trung gian phổ quát của sự trao đổi.

Nỗ lực của Merton để phát triển một “mô hình” cho phân tích chức năng là tác phẩm  riêng lẻ quan trọng nhất trong thuyết CNCT hiện đại. Merton bắt đầu với sự phê phán một số lập trường ngây thơ của các nhà CNCT. Rồi ông tìm cách phát triển một kiểu mẫu thích hợp hơn của phép phân tích CNCT. Ở một điểm, Merton nhất trí với những người tiền bối của ông- sự cần thiết phải tập trung vào các hiện tượng xã hội vĩ mô. Nhưng, Merton lý luận, ngoài việc tập trung vào các chức năng tích cực, thuyết CNCT nên quan tâm đến các phản chức năng và thậm chí các phi chức năng. Đưa ra các bổ sung này, Merton quả quyết rằng bản thân các nhà phân tích nên quan tâm tới sự cân bằng hệ thống giữa các chức năng và phản chức năng. Phần này kết luận bằng một thảo luận về sự áp dụng mô hình chức năng của Merton vào vấn đề mối quan hệ của cấu trúc xã hội và văn hóa với tình trạng vô đạo đức và sự lầm lạc.

Kế đến, chúng ta thảo luận về vô số các phê phán đối với thuyết CNCT đã thành công trong việc phá hoại uy tín và sự truyền bá của nó. Chúng ta thảo luận các phê phán rằng thuyết CNCT là phi lịch sử, không có khả năng xử lý xung đột và biến đổi, bảo thủ cao độ, bị xâm chiếm bởi các kềm hãm xã hội lên tác nhân hành động, sự thừa nhận các tầng lớp ưu tú chính thống, mục đích luận và sự lặp thừa.

Các phê phán thuyết CNCT dẫn tới một nỗ lực để phản ứng lại chúng – sự phát triển của một định hướng được biết như là thuyết tân chức năng. Thuyết tân chức năng tìm cách củng cố thuyết CNCT bằng cách tổng hợp hóa nó với một dãy rộng các viễn cảnh lý thuyết khác. Một số kha khá tác phẩm đã được thực hiện dưới chuyên mục của thuyết tân chức năng ở cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 và nó đã thu hút được một sự quan tâm đáng kể. Tuy nhiên, tương lai của nó là một dấu hỏi, đặc biệt vì người sáng lập nó, Jeffrey Alexander, đã thông báo rằng ông đang đi ra khỏi nó về mặt lý thuyết.

Phần cuối cùng của chương này dành cho một thay thế chính của thuyết CNCT trong hai thập niên 1950 và 1960 - thuyết xung đột. Tác phẩm nổi tiếng theo truyền thống này là của Ralf Dahrendorf, người mà, dù cố đi theo truyền thống Marx một cách có ý thức, được xem là đã đảo ngược lại thuyết CNCT. Dahrendorf nhìn vào các biến đổi hơn là sự cân bằng, xung đột hơn là trật tự, các bộ phận của xã hội đã đóng góp cho biến đổi hơn là cho sự bền vững ra sao, và xung đột và áp bức hơn là kềm hãm theo chuẩn mực. Dahrendorf đề ra một lý thuyết xung đột vĩ mô song song với lý thuyết CNCT trật tự vĩ mô của các nhà CNCT. Tiêu điểm của ông vào thẩm quyền, các vị trí, các tổ chức cộng đồng cưỡng chế, các mối quan tâm, các nhóm gần như nhóm, các nhóm quan tâm, các nhóm xung đột phản ánh định hướng này. Lý thuyết Dahrendrof gánh chịu một số vấn đề giống như thuyết CNCT; ngoài ra, nó thể hiện một nỗ lực có tính bần cùng hóa để hợp nhất với lý thuyết Marx. Dahrendorf cũng có thể bị phê phán vì đã thỏa mãn với các lý thuyết lựa chọn giữa trật tự và xung đột hơn là tìm kiếm một sự hòa hợp lý thuyết cho cả hai.

Chương này kết thúc với một thảo luận về nỗ lực của Randall Collins để phát triển một lý thuyết xung đột có tính chất hòa hợp hơn, đặc biệt là một lý thuyết hòa hợp giữa các quan tâm vĩ  mô và vi mô.
                                    *********************





[1] Quan điểm này hình như  gần với, ít nhất là phần nào, than phiền của Turner và Maryanski rằng thuyết tân chức năng ít  có gì chung với thuyết CNCT- chú thích của TG.
[2] Chúng ta ngẫm xem một người cho hai phạm trù này là “xấu xa” có thể phát triển một lý thuyết tương xứng về chúng hay không  - Chú thích của TG



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét