PHẦN BA:
CÁC PHÁT
TRIỂN HÒA HỢP GẦN ĐÂY
TRONG LÝ
THUYẾT XÃ HỘI HỌC
CHƯƠNG 9:
SỰ HÒA HỢP
VI MÔ-VĨ MÔ
CHỦ NGHĨA VI
MÔ-VĨ MÔ CỰC ĐOAN
PHONG TRÀO HƯỚNG TỚI SỰ HÒA HỢP VI MÔ-VĨ MÔ
CÁC VÍ DỤ VỀ
SỰ HÒA HỢP VI MÔ-VĨ MÔ
George
Ritzer: Mô hình xã hội học hòa hợp
Jeffrey
Alexander: Xã hội học đa chiều kích
Norbert
Wiley: Các cấp độ phân tích
James
Coleman: Mô hình từ vi mô tới vĩ mô
Randall Collins:
Các nền tảng vi mô của xã hội học vĩ mô
MỘT VÀI
CHIỀU HƯỚNG HỨA HẸN
SỰ HÒA HỢP
VI MÔ-VĨ MÔ: CÔNG VIỆC PHẢI THỰC HIỆN
NGƯỢC TỚI
TƯƠNG LAI: XÃ HỘI HỌC TƯỢNG TRƯNG CỦA NORBERT ELIAS
Lịch sử của
các thái độ
Quyền lực và
phép lịch sự
Các trường
hợp nghiên cứu: Thời gian và thể thao
Trong
chương này, cũng như chương kế, chúng tôi xử lý hai trong số các phát triển
quan trọng nhất trong lý thuyết xã hội học gần đây. Quan tâm của chúng tôi
trong chương này là sự phát triển sâu sắc diễn ra một cách rầm rộ tại nước Mỹ
trong những năm 1980 (mặc dù, như chúng ta sẽ thấy, nó có các tiền thân quan
trọng) và còn tiếp diễn đến hôm nay. Sự phát triển này gắn liền với mối quan
tâm ngày càng tăng tới vấn đề về mối liên kết vi mô-vĩ mô. Trong chương sau,
chúng tôi sẽ xử lý một phát triển song hành diễn ra một cách rầm rộ trong lý
thuyết xã hội học Châu Âu – sự nảy sinh mối quan tâm đến quan hệ giữa cơ quan
và cấu trúc. Và như chúng ta sẽ thấy, có các điểm tương đồng quan trọng và các
khác biệt chủ yếu giữa nền trước tác vi mô-vĩ mô Mỹ và tác phẩm của Châu Âu về
cơ quan và cấu trúc. Các trước tác vi mô-vĩ mô và cơ quan-cấu trúc có thể, ở
bản thân chúng, được xem là các phát triển có tính chất tổng hợp và do vậy là
một bộ phận của phong trào rộng lớn hướng tới sự tổng hợp lý thuyết đã thảo
luận suốt Phần hai trước.
CHỦ NGHĨA VI MÔ-VĨ MÔ CỰC ĐOAN
(Micro-Macro Extremism)
Cho
tới gần đây, một trong những phân chia
chủ yếu trong lý thuyết xã hội học Mỹ ở thế kỷ 20 là sự xung đột giữa các lý
thuyết (và các lý thuyết gia) vi mô và vĩ mô có tính chất cực đoan, và, có lẽ
quan trọng hơn, là giữa những người đã diễn dịch các lý thuyết xã hội học theo
các chiều hướng này. (Archer). Các lý thuyết cực đoan và sự diễn dịch cực đoan
này có xu hướng đề cao hình ảnh của một cách biệt lớn lao giữa các lý thuyết vi
mô và vĩ mô, và nói chung hơn, của sự xung đột và sự hỗn loạn (Gouldner,
Wardell và Turner, Wiley) trong lý thuyết xã hội học.
Mặc
dù có thể diễn tả (và nhiều người đã làm điều này) các nhà lý thuyết xã hội học
cổ điển đã thảo luận trong Chương 1 (Marx, Durkheim, Weber, Simmel) như là
những nhà cực đoan chủ nghĩa vi mô hoặc vĩ mô, viễn cảnh có tính phòng vệ cao
nhất, hoặc ít nhất là viễn cảnh sẽ định hướng cho chương này, là nói chung họ
có quan hệ nhiều nhất tới sự liên kết vi mô-vĩ mô. Marx có thể được xem là có
quan tâm tới ảnh hưởng có tính chất
cưỡng kháng (coercive) và tha hóa (alienating) của xã hội tư bản chủ nghĩa lên
các cá thể công nhân (và các nhà tư bản). Weber có thể được xem là có tiêu điểm
tập trung vào cảnh ngộ khó khăn của cá thể trong chiếc lồng sắt của một xã hội
hợp lý hình thức. Simmel về cơ bản chú ý đến quan hệ giữa nền văn hóa khách
quan (vĩ mô) và nền văn hóa chủ quan (hay cá thể, vi mô). Ngay cả Durkheim cũng
quan tâm tới ảnh hưởng của các sự kiện xã hội cấp độ vĩ mô lên các cá thể và
hành vi cá thể (ví dụ, sự tự sát). Nếu chúng ta chấp nhận các đặc tính này của
các lý thuyết gia xã hội học cổ điển, thì có vẻ là phần lớn lý thuyết xã hội học cổ điển ở nửa
cuối thế kỷ trước của Mỹ đã đánh mất mối quan tâm tới sự liên kết này và tới sự
thống trị của các nhà cực đoan chủ nghĩa vi mô và vĩ mô, nghĩa là, tính chất ưu
việt của các lý thuyết và các lý thuyết gia nhất trí với quyền lực vượt trội và
tầm quan trọng của cấp độ vi mô hoặc cấp độ vĩ mô. Do vậy, các lý thuyết gia đã
thảo luận ở Phần hai có xu hướng hướng tới chủ nghĩa cực đoan vi mô hoặc vĩ mô.
Ở phía chủ nghĩa cực đoan vĩ mô là thuyết chức năng cấu trúc , thuyết xung đột,
và một số dạng khác nhau của thuyết tân Marxian (đặc biệt là kinh tế quyết định
luận và Chủ nghĩa Marx về cấu trúc). Ở
phía cực đoan vi mô là thuyết tương tác biểu tượng, phương pháp luận thực hành,
thuyết trao đổi, thuyết chọn lựa hợp lý.
Trong
số các lý thuyết cực đoan vĩ mô đáng chú ý nhất của thế kỷ 20 là “văn hóa quyết
định luận” của Talcott Parsons; thuyết xung đột của Dahrendoff, với tiêu điểm
của nó vào các liên kết có tính chất cộng tác qua mệnh lệnh; và thuyết cấu trúc
vĩ mô của Peter Blau, được cô đúc qua lời tự nhận định của ông, “Tôi là một nhà
cấu trúc quyết định luận”. Chủ nghĩa cấu trúc vĩ mô cực đoan cũng đến từ các
nguồn khác, bao gồm các lý thuyết gia mạng lưới như White, Boorman và Breiger, các nhà sinh thái
học như Duncan và Schore, và các nhà cấu
trúc như Mayhew. Một vài người có lập trường cực đoan hơn như Mayhew, đã nói
đại loại như: “Trong xã hội học cấu trúc, đơn vị phân tích luôn luôn là mạng
lưới xã hội, không bao giờ là cá thể.”
Ở phía cực đoan vi mô, chúng ta có
thể chỉ ra một bộ phận của thuyết tương tác biểu tượng và tác phẩm của Blumer,
người hình như luôn có một thuyết chức
năng cấu trúc trong đầu khi ông xếp thuyết tương tác biểu tượng vào loại lý
thuyết xã hội học có mối quan tâm một chiều với các hiện tượng cấp độ vi mô
(xem Chương 5). Một trường hợp thậm chí còn rõ hơn về chủ nghĩa cực đoan vi mô
là thuyết trao đổi và George Homans, người tìm kiếm một sự thay thế cho thuyết
chức năng cấu trúc và tìm ra nó trong định hướng vi mô cực đoan của chủ nghĩa
hành vi của Skinner. Rồi có phương pháp luận thực hành và mối quan tâm của nó
tới các thực hành hàng ngày của các actor. Garfinkel bị loại trừ bởi tiêu điểm
vĩ mô về thuyết chức năng cấu trúc và xu
hướng của nó để biến các actor thành những “ kẻ phán xét đần độn”.
SỰ VẬN ĐỘNG HƯỚNG TỚI SỰ HÒA HỢP VI MÔ-VĨ
MÔ
Trong
khi chủ nghĩa cực đoan vi mô-vĩ mô đã định tính nhiều lý thuyết xã hội học của thế kỷ 20, có thể
chủ yếu nó đã bắt đầu từ những năm 1980,
để nhận thức một sự vận động lớn lao trong xã hội học Mỹ ra khỏi chủ nghĩa cực
đoan vi mô-vĩ mô và hướng tới một sự liên ứng rộng lớn mà tiêu điểm của nó
hướng tới sự hòa hợp (hay sự tổng hợp, liên kết) của các lý thuyết vi mô và vĩ mô và các cấp
độ phân tích xã hội. Cách tiếp cận này thể hiện một sự thay đổi hoàn toàn
đối với lý thuyết của những năm 1970, khi Kemeny lý luận rằng: “Người ta ít chú
ý tới sự phân biệt này đến nỗi các thuật ngữ
‘vi mô’ và ‘vĩ mô’ nói chung, thậm chí không được đưa vào phần chú giải
của các tác phẩm xã hội học”. Có thể lập luận rằng ít nhất ở nhận thức này các
lý thuyết gia xã hội học đã tái phát hiện dự án lý thuyết của các bậc thầy
trước đó.
Trong
khi các phát triển trong những năm 1980 và 1990
đặc biệt bị phân ly một cách sâu sắc, các tác phẩm thời kỳ đầu trực tiếp
nói tới sự liên kết vi mô-vĩ mô. Ví dụ, trong những năm 1960, Helmut Wagner xử
lý mối quan hệ giữa các lý thuyết vi mô và vĩ mô. Vào cuối thập kỷ này, Walter
Wallace thẩm tra thể tiếp nối vi mô-vĩ mô, nhưng nó chỉ chiếm vai trò thứ yếu
trong phân tích của ông và được bao gồm một cách đơn giản như là một trong
những “sự phức tạp” của nguyên tắc phân loại lý thuyết xã hội học cơ bản của
ông. Vào giữa những năm 1970, Kemeny thể hiện sự chú ý lớn hơn tới sự phân biệt
vi mô-vĩ mô cũng như các cách thức trong đó vi mô và vĩ mô quan hệ với nhau.
Tuy
nhiên, chính vào những năm 1980 mà chúng ta chứng kiến một sự bùng nổ các tác phẩm về vấn đề liên kết vi mô-vĩ mô.
Collins lý luận rằng tác phẩm về đề tài này “hứa hẹn một lĩnh vực quan trọng
của sự tiến bộ về mặt lý thuyết một ngày nào đó sẽ tới”. Trong lời giới thiệu
của họ đối với hai bộ sách, một dành cho lý thuyết vĩ mô, và một dành cho lý
thuyết vi mô, Eisenstad và Helle kết luận rằng: “sự đối đầu giữa lý thuyết vi
mô và vĩ mô đã thuộc về quá khứ”. Tương tự, Munch và Smeler, trong kết luận của
họ đối với hợp tuyển Liên kết vi mô-vĩ mô,
đánh giá rằng: “Những người đã lập luận có tính cách bút chiến rằng cấp độ này
có tính cơ bản hơn cấp độ khác.. phải được xem là đã mắc sai lầm. Thật sự mỗi
người cống hiến cho bộ sách này đã quả quyết một cách đúng đắn về các quan hệ
qua lại giữa các cấp độ vi mô và vĩ mô”.
Mặt
khác, ngay cả khi họ tìm cách khắc phục nó, các nỗ lực hòa hợp trong những năm
1980 đã được định hình và bị bóp méo bởi lịch sử của chủ nghĩa cực đoan vi
mô-vĩ mô thế kỷ 20. Phần lớn các nhà xã hội học làm việc hướng tới sự tương tác từ các cơ sở hoặc là các lý
thuyết cực đoan vi mô, hoặc là các lý thuyết cực đoan vĩ mô, và các cơ sở này
thường là những sự ràng buộc làm hạn chế các nỗ lực hòa hợp. Dù sự kềm hãm này
là một vấn đề nghiêm trọng, hiện nay có những dấu hiệu cho thấy nó đang được
khắc phục. Các nỗ lực đã đến từ cả hai chiều hướng vi mô và vĩ mô và từ nhiều
lập trường lý thuyết nằm trong và giữa chúng. Nói chung, dù chúng bắt đầu từ
một nền tảng vi mô hay vĩ mô, hay với một định hướng hòa hợp, nhiều lý thuyết
gia xã hội học dường như cùng hội tụ lại
trong các nỗ lực của họ để phát triển một lý thuyết hòa hợp.
Từ ưu
thế của giữa cho tới cuối những năm 1990, hiện giờ đã có đủ tác phẩm về sự liên
kết vi mô-vĩ mô để bắt đầu đánh giá thể lý thuyết này. Trong quá trình, chúng
tôi sẽ giới thiệu cho bạn đọc một số ví dụ chủ yếu về loại tác phẩm lý thuyết
này.
Có
hai nhánh tác phẩm chính về sự hòa hợp vi mô-vĩ mô. Một số lý thuyết gia tập
trung vào sự hòa hợp các lý thuyết vi
mô và vĩ mô, trong khi những người khác quan tâm tới việc phát triển một lý thuyết
xử lý mối liên kết giữa các cấp độ vi
mô và vĩ mô của phân tích xã hội. Ở đầu chương này, ví dụ, chúng tôi đã trích
dẫn Eisenstadt và Helle, những người đã kết luận rằng sự đối đầu giữa các lý
thuyết vi mô và vĩ mô đã tụt lại phía sau chúng ta, trong khi Munch và Smelser
đi tới cùng một kết luận về nhu cầu chọn lựa giữa việc nhấn mạnh các cấp độ vi
mô hoặc các cấp độ vĩ mô. Có những khác biệt quan trọng giữa việc cố gắng hòa
hợp các lý thuyết vi mô (ví dụ, thuyết chức năng cấu trúc) và vĩ mô (ví dụ, thuyết
tương tác biểu tượng) và việc cố gắng phát triển một lý thuyết có thể xử lý
quan hệ giữa các cấp độ vĩ mô (ví dụ, cấu trúc xã hội) với các cấp độ vi mô (ví
dụ, cá tính) của phân tích xã hội.
Trong
số những người xác định công việc này, ít nhất là phần nào, như là một vấn đề
của các lý thuyết hòa hợp là bailey, Burt, Fararo và Skvoretz, Hechter, Hindess
và Smeller. Ở phía kia, những người định
nghĩa công việc về cơ bản trong phạm vi sự phát triển một lý thuyết tập trung
vào sự tương tác giữa các cấp độ vi mô và các cấp độ vĩ mô của phân tích bao
gồm Alexander, Coleman, Collins, Hage, Liska, Ritzer, và Wiley. Gerstein đưa ra
một ví dụ tốt về cách tiếp cận nói sau khi ông phân biệt giữa hai cấp độ phân
tích cơ bản và rồi lý luận cho nhu cầu “tạo ra các khái niệm lý thuyết diễn
dịch hoặc khái lược các biến số ở cấp độ cá thể thành các biến số định tính các
hệ thống xã hội, và ngược lại”.
Ngoài
ra, có những khác biệt quan trọng trong các nhóm làm việc hướng tới sự hòa hợp
lý thuyết và sự hòa hợp các cấp độ phân tích xã hội. Trong những người tìm cách
hòa hợp các lý thuyết vi mô và vĩ mô, cũng có những khác biệt quan trọng tùy
thuộc vào loại lý thuyết cụ thể nào được hòa hợp. Ví dụ, Hindess tìm cách tránh
né những cực đoan của “chủ nghĩa vị chủng về lý thuyết” và “cấu trúc luận”;
Hechter đưa thuyết chọn lựa hợp lý ra đọ
với các định hướng nguyên tử luận và chuẩn mực; Fararo và Skvoretz cố gắng hòa
hợp lý thuyết cấu trúc và lý thuyết sự kỳ vọng của các nhà nước; và Smeller tìm
cách tổng hợp các viễn cảnh phân tâm học và xã hội học.
Có
những điểm khác biệt như nhau giữa các lý thuyết gia tìm cách xử lý quan hệ
giữa các cấp độ vi mô và vĩ mô của phân tích xã hội. Ví dụ, có phải họ đang tìm
cách hoà hợp các cấu trúc vi mô và vĩ mô, các quá trình vi mô và vĩ mô, hay các
khíacạnh đặc thù của các cấp độ vi mô và vĩ mô trong phân tích xã hội hay
không? Cụ thể hơn, các khác biệt trong các cấp độ được phản ánh trong xã hội
học đa chiều kích (multidimensional soicology) của Alexander, bao gồm một “sự
thay đổi giữa tự do và sự kềm hãm” trong cả hành động và trật tự, và, đặc biệt
là trong mối quan hệ hỗ tương giữa các cấp độ cá thể mang tính phương tiện, cá
thể mang tính chuẩn mực, tập thể mang tính phương tiện, tập thể mang tính chuẩn
mực; trong mô hình hoà hợp của Ritzer,
tập trung vào mối tương quan biện chứng của tính khách quan và chủ quan vĩ mô,
và tính khách quan và chủ quan vi mô; trong mối quan tâm của Wiley về quan hệ
giữa bản ngã (hay cá thể), sự tương tác, cấu trúc xã hội và văn hoá; trong tiêu
điểm của Collins về “các chuỗi trình tự tương tác”; và trong quan tâm của
Coleman vào quan hệ vi mô-vĩ mô.
Công
việc của sự hoà hợp thực nghiệm thậm chí còn bị gây khó khăn hơn vì có những
khác biệt lớn giữa các nhà xã hội học ở phạm vi của cái mà ông ta định nghĩa là
các cấp độ vi mô và vĩ mô. Tùy thuộc vào người đưa ra định nghĩa, cấp độ vi mô
có thể trải dài từ các hiện tượng tâm lý tới cá thể, rồi tới các khuôn mẫu
tương tác giữa các cá thể. Còn cấp độ vĩ mô trải dài từ các vị trí, các cộng
đồng dân cư, cho tới xã hội và các cấu trúc của nó đối với các hệ thống xã hội.
Như vậy, dường như các quan điểm tương tự nhau về các cấp độ hoà hợp vi mô và
vĩ mô, trong thực tế, là hoàn toàn khác biệt vì chúng hoà hợp các hiện tượng xã
hội rất khác nhau. Điều kiện tất yếu cơ bản là các lý thuyết gia làm việc với
các thuật ngữ vi mô và vĩ mô cần xác định rõ ràng họ định nghĩa mỗi thuật ngữ
đó ra sao.
Hơn
nữa, ngay cả các thuật ngữ nghe có vẻ
giống nhau có thể được các nhà xã hội học sử dụng ở cấp độ vi mô (các đặc điểm
tâm lý học, hành động, hành vi, các thực hành, tác nhân có dự tính, tính khách
quan và chủ quan vi mô, tương tác, thế giới-đời sống. vv...) cũng như ở cấp độ
vĩ mô (bối cảnh cấu trúc, hệ thống, cộng đồng dân cư, các vị trí, tính khách
quan và chủ quan vĩ mô, các thuộc tính cấu trúc của các hệ thống xã hội, xã
hội, văn hoá, vv...), trong thực tế thường có các khác biệt quan trọng giữa các
hiện tượng này. Ví dụ, ở cấp độ vi mô, những người xem hành vi được sản sinh
bởi sự tưởng thưởng và sự trả giá có xu hướng nhận thức rất khác về thế giới xã
hội so với những người quan tâm tới hành động được sản sinh bởi các tác nhân có
dự tính. Tương tự, có những khác biệt quan trọng giữa những người làm việc ở
cấp độ vĩ mô với các cấu trúc dân cư và những ngườitập trung vào văn hoá. Như
vậy, các nhà xã hội học cần phải làm nhiều việc hơn là chỉ định nghĩa một cách
cẩn thận các thuật ngữ của họ: họ cũng cần phải nói rõ các ngụ ý về mặt lý
thuyết của loại thuật ngữ mà họ sử dụng ở cả hai cấp độ.
Các
vấn đề phức tạp hơn là sự tồn tại của một quan điểm khác trong những người sử
dụng các thuật ngữ vi mô và vĩ mô; đó là xác quyết rằng các thuật ngữ vi mô-vĩ
mô không phải là những diễn tả các thực tại thực nghiệm mà chỉ là các khái niệm
phân tích có thể sử dụng để phân tích bất kỳ một thực tại thực nghiệm nào.
Alexander (và các nhà tân Parsonsian nói chung) là một người ủng hộ nhiệt tình
cho quan điểm này: “Không thể có các ám chỉ thực nghiệm đối với vi mô hoặc vĩ
mô như thế. Chúng là những sự tương phản về mặt phân tích, đề ra các cấp độ rõ
nét trong phạm vi bản thân các đơn vị thực nghiệm...Các thuật ngữ vi mô và vĩ
mô hoàn toàn có tính chất tương đối. Cái là vĩ mô ở một cấp độ sẽ là vi mô ở một cấp độ khác”.
Trong khi tất nhiên là hữu ích khi sử dụng các thuật ngữ vi mô và vĩ mô trong phân tích, phần lớn các
nhà xã hội học lại dùng các thuật nữ này trong thực nghiệm. Do đó, mặc dù vi mô
và vĩ mô có thể được sử dụng cho cả phân tích hay thực nghiệm, các nhà xã hội
học phải xác định rõ ràng họ sử dụng các thuật ngữ này như thế nào.
Đưa
ra lời giới thiệu chung này, bây giờ chúng tôi chuyển sang một số ví dụ về sự
hoà hợp vi mô-vĩ mô. Ở một số đoạn trong Phần hai, chúng tôi đã xử lý các nỗ
lực hoà hợp các lý thuyết vi mô và vĩ mô. Tất cả các ví dụ sau đây tập trung
vào sự hoà hợp các cấp độ phân tích xã hội vi mô và vĩ mô.
CÁC VÍ DỤ VỀ SỰ HOÀ HỢP VI MÔ-VĨ MÔ
George Ritzer: Mô hình xã hội học hoà hợp
Phần
này bắt đầu với nỗ lực của riêng tôi (Ritzer), vì nó lùi lại sau các tác phẩm
khác sẽ được thảo luận trong phần này, và nó dự đoán sự phát triển trên diện
rộng mối quan tâm vào sự hoà hợp vi mô-vĩ mô diễn ra từ những năm 1980. Thảo
luận ở đây sẽ tương đối vắn tắt, vì mô hình xã hội học hoà hợp cũng sẽ được
thảo luận ở phần Phụ lục. Nó được tóm tắt ở đó bởi vì nó thể hiện một lược đồ
siêu lý thuyết giúp cho việc định hướng và tổ chức cuốn sách này. Trong phần
này, tiêu điểm là nhằm vào cái mà mô
hình hoà hợp phải nói về vấn đề liên kết vi mô-vĩ mô.
Cần
lưu ý rằng tư duy của Ritzer về mô hình hoà hợp nói chung, và cụ thể hơn là về
sự liên kết vi mô-vĩ mô, được định hình bởi tác phẩm của một số tiền nhân, đặc
biệt là các tác phẩm của Abraham Edel và Georges Gurvitch. Gurvitch hoạt động
với niềm tin rằng thế giới xã hội có thể được nghiên cứu trong phạm vi “trục
ngang” hay các cấp độ vi mô-vĩ mô. Gurvitch tư duy trong phạm vi năm cấp độ
sau, được thể hiện theo trình tự tăng dần từ vi mô tới vĩ mô: các hình thức của
tính xã hội, các nhóm, giai cấp xã hội, cấu trúc xã hội và các cấu trúc toàn
cầu. Để bổ sung cho hệ thống thứ bậc này, Gurvitch cũng đề ra mười “trục dọc”,
hay các cấp độ “sâu”, bắt đầu với các hiện tượng xã hội có tính khách quan nhất
(ví dụ, các yếu tố sinh học, các tổ chức) và kết thúc với các hiện tượng xã hội
có tính chất chủ quan nhất (các tư tưởng và giá trị tập thể, trí tuệ tập thể).
Để tạo ra các cấp độ chính yếu của phân tích xã hội, Gurvitch cắt chéo các trục
dọc và trục ngang của ông để tạo ra nhiều cấp độ phân tích. Sơ đồ 9.1 đề ra một
tóm lược sự hình dung của Gurvitch về thế giới xã hội.
Trong
phạm vi vấn đề vi mô-vĩ mô, quan điểm của Ritzer là không thể xử lý nó tách
biệt với thể liên tiến của tính khách quan-chủ quan. Mọi hiện tượng xã hội vi
mô và vĩ mô cũng hoặc có tính chủ quan hoặc có tính khách quan. Như vậy, kết
luận là có bốn cấp độ chính của phân tích, và các nhà xã hội học phải tập trung
vào mối tương quan biện chứng của các cấp độ này. Cấp độ vĩ mô-khách quan bao
gồm các thực tại vật chất vĩ mô như xã hội, chế độ bàn giấy và công nghệ. Cấp
độ vĩ mô-chủ quan bao gồm các hiện tượng phi vật chất vĩ mô như các tiêu chí và
các giá trị. Ở các cấp độ vi mô, tính khách quan vi mô bao gồm các thực tại
khách quan vi mô như các khuôn mẫu của hành động và tương tác, trong khi tính
chủ quan vi mô liên quan đến các quá trình tinh thần qua đó mọi người xây dựng
thực tại xã hội. Mỗi cấp độ trong bốn cấp độ này có tính chất quan trọng ở
chính bản thân nó, nhưng quan trọng hơn hết là quan hệ biện chứng giữa
chúng. Sự hình dung này về thế giới xã
hội, chỉ vận dụng bốn cấp độ, rõ ràng là
chi li hơn nhiều so với mô hình do Gurvitch đưa ra.
Sơ đồ 9.1: Giao
điểm giữa các cấp độ ngang và dọc của Gurvitch về thực tại xã hội
Sơ
đồ 9.2: Các cấp độ phân tích xã hội chủ yếu của Ritzer
(Chú ý rằng đây
là một ảnh chụp nhanh về thời gian. Nó được thể hiện trong một quá trình lịch
sử đang diễn tiến)
Gần
đây, Ritzer đã sử dụng một cách tiếp cận hoà hợp vi mô-vĩ mô trong cuốn Nước Mỹ cấp tốc: Một phê phán về hệ thống
thẻ tín dụng toàn cầu. Cụ thể hơn, Ritzer sử dụng các ý tưởng của C. Wright
Mills về quan hệ giữa các rắc rối cá nhân
cấp độ vi mô và các vấn đề công cộng
cấp độ vĩ mô để phân tích các vấn đề do các thẻ tín dụng gây ra.
Các rắc rối là các vấn đề có ảnh
hưởng ngay tại chỗ tới một cá thể. Ví dụ, một người chồng ngược đãi vợ của mình
tức là đang gây rắc rối cho cô ấy và các thành viên khác trong gia đình, và có
lẽ cho cả bản thân anh ta (đặc biệt nếu có liên quan tới luật pháp). Tuy nhiên,
các hành động của một người chồng riêng lẽ trong việc ngược đãi vợ sẽ không tạo
ra một vấn đề công cộng- các hành động đó sẽ không làm cho một cộng đồng kịch
liệt phản đối hôn nhân ở ý nghĩa là một thể chế xã hội. Các vấn đề công cộng có
xu hướng là các vấn đề có ảnh hưởng đến một số lượng lớn người, có thể là cả xã
hội với nghĩa một tổng thể. Sự tan rã của hôn nhân ở ý nghĩa là một thể chế,
một phần như là kết quả của sự hành hạ ngược đãi vợ phổ biến, có thể trở thành
một vấn đề xã hội. Có nhiều mối quan hệ khác nhau giữa các rắc rối cá nhân và
các vấn đề công cộng. Ví dụ, các rắc rối cá nhân phổ biến có thể trở thành một
vấn đề công cộng, và một vấn đề công cộng có thể gây ra nhiều rắc rối cá nhân.
Ritzer
kiểm tra một loạt các rắc rối cá nhân và các vấn đề công cộng gắn liền với các
tín dụng thư. Chúng tôi có thể minh họa lập luận của ông, và một cách tiếp cận
hoà hợp đối với sự liên kết vi mô-vĩ mô, bằng cách thảo luận vấn đề nợ của
người tiêu dùng. Ở cấp độ vĩ mô, tập hợp các khoản nợ của người tiêu dùng đã
trở thành một vấn đề công cộng vì một số lượng lớn dân chúng đang ngày càng nợ
nần chồng chất với các công ty thẻ tín dụng. Một phó phẩm của sự tăng trưởng nợ
tiêu dùng này là sự gia tăng các vụ phạm pháp và phá sản. Cũng ở cấp độ vĩ mô,
và vấn đề công cộng, là vai trò của chính phủ trong việc cổ động các món nợ
tiêu dùng bởi xu hướng tích lũy nợ của nó. Quan trọng hơn là vai trò của các hãng phát hành thẻ tín dụng trong việc cổ
động mọi người đi đến chỗ mắc nợ bằng cách làm bất cứ điều gì chúng có thể để
dúi càng nhiều thẻ tín dụng vào càng nhiều bàn tay càng tốt. Ví dụ, có một xu
hướng đang gia tăng trong dân chúng để nhận các thông báo qua thư rằng họ có
thể được phép tái chuẩn y thẻ tín dụng. Mọi người có thể dễ dàng thu được một
số lượng lớn thẻ tín dụng với một mức hạn chế tín dụng tập thể khổng lồ. Có lẽ
các hoạt động dễ hiểu nhất của các hãng phát hành thẻ tín dụng bao gồm các nỗ
lực của họ để dúi thẻ vào tay các sinh viên cao đẳng và trung học. Họ đang cố
gắng “câu” những người trẻ tuổi vào một cuộc đời của sự mua chịu và nợ nần. Các
hoạt động như thế rõ ràng là một vấn đề công cộng gây ra các rắc rối cá nhân
đối với vô số người dân.
Quay
về vấn đề các rắc rối cá nhân, hàng triệu người đã lâm vào cảnh nợ nần, đôi khi
là không phương cứu vãn, như là một kết quả của sự lạm dụng thẻ tín dụng. Mọi
người xây dựng những khoản cân đối khổng lồ, đôi khi thoát hiểm bằng cách rút
tiền mặt trước ở một thẻ để giảm tối đa việc thanh toán ở các thẻ khác. Nổi bật
nhất, nhiều người trở nên phạm nhân và đôi khi buộc phải tuyên bố phá sản. Kết
quả là một số người dành ra nhiều năm, đôi khi suốt quãng đời còn lại của họ,
để cố gắng thanh toán các món nợ cũ và duy trì khả năng mua chịu của họ. Ngay
cả nếu chuyện này không đi quá xa, nhiều người đã phải lao động nhiều giờ để
thanh toán cho lãi suất trên khoản nợ tín dụng, và có thể làm khuyết đi ít
nhiều sự cân đối thu chi của họ. Như vậy, người ta có thể nói rằng họ bị ràng
buộc cuộc đời vào các công ty thẻ tín dụng. Những loại rắc rối cá nhân mô tả ở
đây, khi kết hợp lại, tạo thành các vấn đề xã hội. và như chúng ta đã thấy, các
vấn đề công cộng như các chính sách và các phương thức của các công ty thẻ tín
dụng (ví dụ, việc chào hàng bằng các thẻ đã chuẩn y trước và việc mời mọc những
sinh viên) càng làm nảy sinh thêm các rắc rối cá nhân. Như vậy, có một mối quan
hệ biện chứng giữa các rắc rối cá nhân và các vấn đề công cộng, cái này làm
tăng cái kia lên. Tổng quát hơn, ví dụ về các thẻ tín dụng minh họa cho khả
năng vận dụng của một cách tiếp cận hòa hợp vi mô-vĩ mô vào một vấn đề cấp bách
của xã hội.
Jeffrey Alexander: Xã hội học đa chiều kích
(Multidimensional Sociology)
Jeffrey
Alaexander đã đưa ra cái mà ông gọi là một “logic lý thuyết mới cho xã hội
học”. Logic mới này ảnh hưởng đến “tư duy xã hội học ở mọi cấp độ của thể liên
tiến của tri thức”. Theo tinh thần này, Alexander đề ra cái mà ông đặt tên là xã hội học đa chiều kích. Trong khi sự đa chiều kích có nhiều ý nghĩa trong
tác phẩm của ông, cái thích hợp nhất ở đây là nhận thức đa chiều kích của
Alexander về các cấp độ phân tích xã hội.
Chúng
ta có thể bắt đầu với cái mà Alexander ( tiếp bước Parsons) gọi là vấn đề của trật tự. Alexander cho rằng thể liên tiến vi mô-vĩ mô
( “một cấp độ ‘cá thể’ hay ‘tập thể’ của phân tích”) bao gồm trong cách thức
trật tự được tạo ra trong xã hội. Ở đầu vĩ mô của thể liên tiến, trật tự được
tạo ra từ bên ngoài và có bản chất tập thể; nghĩa là, trật tự được sinh ra bởi
các hiện tượng có tính tập thể. Ở đầu vi mô, trật tự phát sinh từ các lực lượng
bên trong và có bản chất cá thể; nghĩa là, trật tự bắt nguồn từ sự thương lượng
cá thể.
Vấn
đề của hành động được bổ sung vào vấn đề của trật tự, trong một lập trường
Parsonsian cổ điển. Hành động bao gồm một thể liên tiến vật chất– ý thức song hành với thể liên tiến
khách quan-chủ quan được sử dụng trong mô hình xã hội học hòa hợp của Ritzer. Ở
đầu vật chất, hành động được diễn tả là có tính chất phương tiện, hợp lý, và có
điều kiện. Ở đầu phi vật chất, hành động có tính chuẩn mực, phi lý và có hiệu
quả. Khi chúng ta cắt chéo các thể liên tiến hành động và trật tự của
Alexander, chúng ta đi tới bốn cấp độ phân tích xã hội rất giống với bốn cấp độ
được sử dụng bởi Ritzer (xem Sơ đồ 9.3).
Sơ đồ 9.3: Mô hình hòa hợp của Alexander
Mặc
dù hơi có sự khác biệt về mặt thuật ngữ, nhưng giữa các mô hình đề ra bởi
Alexander và Ritzer nếu có gì khác biệt thì cũng rất ít. Sự khác biệt chủ yếu nằm trong cách thức
hai tác giả quan hệ tới bốn cấp độ này. Trong khi Ritzer muốn tập trung vào
quan hệ biện chứng trong tất cả bốn cấp độ, Alexander tìm cách dành ưu tiên cho
một trong các cấp độ.
Alexander
tin rằng dành đặc quyền cho các cấp độ vi mô là “một sai lầm về mặt lý thuyết”.
Ông cực lực phê phán mọi lý thuyết, như
thuyết tương tác biểu tượng, bắt đầu ở cấp độ cá thể-chuẩn mực với cơ
quan chủ động phi lý và xây dựng nên các cấp độ vĩ mô. Theo quan đểm của ông,
vấn đề đối với các lý thuyết này là
trong khi duy trì các nhận thức về sự tự do cá thể và sự tự chủ, chúng không có
khả năng xử lý đặc tính thống nhất (riêng) của các hiện tượng tập thể.
Alexander cũng phê phán các lý thuyết như thuyết trao đổi rằng nó khởi đầu ở cấp độ cá thể có tính phương tiện và đi
tới các cấu trúc cấp độ vĩ mô như nền kinh tế. Các lý thuyết như thế cũng không
thể xử lý một các thích đáng các hiện tượng cấp độ vĩ mô. Như vậy, Alexander
phê phán tất cả các lý thuyết có nguồn
gốc từ các cấp độ vi mô và tìm cách lý
giải các hiện tượng vĩ mô từ cơ sở đó.
Ở cấp
độ vĩ mô, Alexander phê phán các lý thuyết có tính phương tiện tập thể (ví dụ,
kinh tế và cấu trúc quyết định luận) nhấn mạnh tới trật tự cưỡng bức và loại
trừ sự tự do cá thể. Về cơ bản, vấn đề là các lý thuyết đó không cho phép sự
tồn tại của cơ quan cá thể.
Trong
khi ông thể hiện sự quan tâm tới việc tập trung vào các quan hệ giữa tất cả bốn
cấp độ của mình, những mối đồng cảm của Alexander (không có gì đáng ngạc nhiên
là ông đã đưa ra các nguồn gốc Parsonsian và chức năng cấu trúc luận của ông)
nằm ở cấp độ tập thể-chuẩn mực và các lý thuyết bắt đầu từ cấp độ này. Như ông
xác định: “Niềm hy vọng cho việc kết hợp trật tự tập thể với cá thể tự chủ đi
cùng với tính chuẩn mục hơn là truyền thống hợp lý”. Trung tâm của niềm tin này
là quan điểm của ông rằng một định hướng như thế là thích hợp hơn vì các nguồn
trật tự được chủ quan hóa (trong lương tri) hơn là ngoại hiện, như trong trường
hợp với định hướng tập thể-phương tiện. Tiêu điểm này về sự chủ quan hóa các
tiêu chí cho phép có cả trật tự và cơ
quan chủ động.
Trên
hết, Alexander lập luận rằng bất kỳ viễn cảnh cá thể, hoặc vi mô nào đều phải
bị loại trừ bởi vì nó kết thúc với “sự cẩu thả và hoàn toàn khôn g thể dự đoán
được” hơn là trật tự. Như vậy, “cơ cấu chung đối với xã hội học chỉ có thể phát
sinh từ một viễn cảnh tập thể chủ nghĩa”. Và giữa hai viễn cảnh tập thể,
Alexander tán thành quan điểm tập thể-chuẩn mực.
Như
vậy, đối với Alexander, các lý thuyết gia xã hội phải chọn hoặc là một viễn
cảnh tập thể chủ nghĩa (vĩ mô), hoặc là một viễn cảnh cá nhân chủ nghĩa (vi
mô). Nếu họ chọn một lập trường tập thể chủ nghĩa, họ chỉ có thể kết hợp một
nguyên tố “tương đối nhỏ” của sự thương lượng cá thể. Tuy nhiên, nếu họ chọn
một lý thuyết cá nhân chủ nghĩa, họ đã rơi vào “tình trạng khó xử của chủ nghĩa cá nhân” của sự cố gắng lẻn vào
lý thuyết các hiện tượng siêu cá thể (supra-individual phenonmena) để xử lý sự
cẩu thả cố hữu trong lý thuyết của họ. Tình trạng khó xử này có thể được xử lý
chỉ khi “sự trung thành hình thức đối với chủ nghĩa cá nhân bị từ bỏ”.
Như
vậy, trong khi Alexander sử dụng bốn cấp độ phân tích gần giống như được sử
dụng bởi Ritzer, có một khác biệt quan trọng trong hai mô hình. Alexander ủng
hộ sự ưu tiên cho các lý thuyết tập thể-chuẩn mực và cho một tiêu điểm về các
tiêu chí trong đời sống xã hội. Ritzer phản đối sự dành ưu tiên cho bất kỳ cấp
độ nào và lý luận cho nhu cầu kiểm tra mối quan hệ biện chứng giữa bốn cấp độ.
Alexander kết thúc với việc đặt một ý nghĩa quan trọng quá đáng cho các hiện
tượng vĩ mô (chủ quan), và kết quả là đóng góp của ông cho việc phát triển một
lý thuyết hoà hợp vi mô-vĩ mô bị hạn chế rất nhiều. Trong tác phẩm về sau của
ông, Alexander nói: “Tôi tin các lý thuyết gia đã khái quát hoá một cách sai
lầm từ một khác biệt đơn lẻ tới sự tái kiến thiết ngay lập tức cả tổng thể”. Có
thể lý luận rằng Alexander là một trong những lý thuyết gia này, vì ông tìm
cách khái quát hoá một cách sai lầm từ cấp độ tập thể-chuẩn mực tới phần còn
lại của thế giới xã hội.
Trong
khi không trực tiếp nói tới tác phẩm của Alexander, Gidden đi đến một kết luận
tương tự rằng tất cả các tác phẩm phát sinh từ sự phân biệt của thuyết Parsons
giữa hành động và trật tự không thể tránh khỏi kết thúc một cách yếu ớt ở các
cấp độ vi mô, đặc biệt là về “khả năng hiểu biết về các actor xã hội, với ý
nghĩa phần nào có tính chất thiết lập nên các thực hành xã hội. Tôi (Giddens)
không nghĩ rằng bất cứ một lập trường nào vay mượn nặng nề từ Parsons có thể
đối phó một cách thoả đáng với vấn đề ở ngay chính trung tâm của lý thuyết xã
hội này”.
Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng Alexander đã ráp nối một viễn cảnh hoà hợp đích xác hơn,
một viễn cảnh xác định các thuật ngữ vi mô và vĩ mô trong phạm vi của nhau. Đây
là cách ông diễn tả viễn cảnh này: “Các môi trường tập thể của hành động đồng
thời vừa gợi nên vừa kềm hãm nó. Nếu tôi khái niệm hoá các môi trường một cách
chính xác, hành động sẽ được xem là kết quả cuối cùng của chúng”. Có vẻ là
Alexander có một nhận thức biện chứng, phức tạp hơn về mối quan hệ nhân quả,
cái giống với mô hình xã hội học hoà hợp của Ritzer hơn là mô hình trước đây
của ông.
Norbert Wiley: Các cấp độ phân tích.
Norbert
Wiley đã đưa ra một mô hình quan hệ vi mô-vĩ mô gần giống với các mô hình của
Ritzer và Alexander. Điều khác biệt ở cách tiếp cận của Wiley là nó có tính
chất chủ quan thuần túy, trong khi các tiếp cận của Ritzer và Alexander bao gồm
cả tính chất chủ quan và khách quan. Wiley làm rõ tính chất chủ quan của ông
bằng cách lý luận rằng điểm xuất phát của ông đối với sự phác họa các cấp độ là
mối quan hệ của chúng với chủ thể. Sau đây là bốn cấp độ phân tích chủ yếu của
Wiley, cũng như cấp độ song hành (trong sự xen kẻ) trong tác phẩm của Ritzer: bản ngã hoặc tính cá thể (chủ quan-vi
mô), sự tương tác (khách quan-vi mô), cấu
trúc xã hội (khách quan-vĩ mô), văn
hóa (chủ quan-vĩ mô). Trong khi bốn cấp độ của Ritzer (và của Alexander) có
sự tương đồng đáng kinh ngạc với các cấp độ của Wiley, rõ ràng là thực tại
khách quan đã bị Wiley bỏ qua. Nói cách khác, trong tác phẩm của Wiley, các cấp
độ của sự tương tác và cấu trúc xã hội, như các mặt khác, được xác định một
cách chủ quan.
Phân
tích của Wiley bắt đầu với bản ngã hay cá thể ở cấp độ vi mô. Alexander, như
chúng ta đã thấy, rõ ràng đã gặp rắc rối với một điểm xuất phát như thế. Quan điểm ở đây là
một người bắt đầu từ chỗ nào, cũng như cuối cùng một người xử lý quan hệ biện
chứng giữa các cấp độ phân tích ở chỗ nào không phải là vấn đề. Tuy nhiên,
Wiley đưa ra một khái niệm có tính hạn chế cao độ về cấp độ chủ quan-vi mô. Cụ
thể là ông trao cho bản ngã một tầm quan trọng thái quá và do đó làm ngơ một số
thành tố quan trọng khác của cấp độ chủ quan-vi mô như trí tuệ, ý thức, kiến
trúc xã hội của thực tại,vv… Xác định theo một cách khác, bản ngã, như các nhà
tâm lý học xã hội nhấn mạnh, chưa phải là tất cả cấp độ chủ quan-vi mô.
Tương
tự, quan tâm của Wiley đến sự tương tác, hay cấp độ khách quan-vi mô, cũng bị
hạn chế. Ở cấp độ này cón có nhiều thứ khác ngoài sự tương tác. Ở mức tối
thiểu, chúng ta phải bao gồm cả hành động (bao gồm một ý thức có trước) và hành
vi (không có một ý thức có trước) ở cấp độ này. Những thứ này hiển nhiên là thuộc
cấp độ này vì chúng là những hiện tượng cấp độ vi mô, không thể được bao gồm,
ít nhất là về mặt tổng thể, trong các phạm trù cấp độ vi mô-chủ quan khác của
Wiley. Hơn nữa, trong khi sự tương tác, hành động, và hành vi có thể có một
thành tố chủ quan, chúng cũng có một tồn tại khách quan: cả ba đều có thể được
thể chế hóa trong các khuôn mẫu lặp lại nhiều lần.. Trong tác phẩm của Ritzer,
các khía cạnh khách quan được đặt dưới tiêu đề “tính chất khách quan vi mô”.
Trong bất kỳ trường hợp nào, chúng ta phải xử lý cả hai tầm quan trọng khách
quan và chủ quan của chúng.
Khái
niệm của Wiley về cấu trúc xã hội và nhận thức của Ritzer về tính khách quan vĩ
mô có sự gần gũi hơn là các phân tích vi mô của họ, thậm chí dù Wiley tiếp nối
khuôn mẫu của ông bằng cách tiếp cận cấp độ này từ một quan điểm chủ quan. Ông
viết về “bản ngã chung” ở cấp độ này, nhưng hiển nhiên ông có hàm ý tới sự tồn
tại của các cấu trúc khách quan-vĩ mô khi ông diễn tả bản ngã chung như là “cái
làm đầy các vai trò và cái đi theo các quy tắc”. Trong khi Wiley nhấn mạnh bản
ngã chung có tính chủ quan ở đây, Ritzer đặt một tầm quan trọng lớn hơn tới các
cấu trúc khách quan (xã hội, thế giới-hệ thống đã tạo ra các quy tắc và các vai
trò được bản ngã phủ đầy.
Có
một vài khác biệt quan trọng giữa cấp độ văn hóa của Wiley và tính chủ quan vĩ
mô của Ritzer, bởi vì cả hai đều được thảo luận trong phạm vi chủ quan, vĩ mô.
Vấn đề tranh luận duy nhất ở đây là các tư tưởng của Wiley về “ý nghĩa thuần
túy” ở cấp độ này quá chung chung và có thể lợi dụng nét đặc trưng lớn hơn và
một số thảo luận về các khái niệm xã hội học phổ biến như các tiêu chí và các
giá trị.
Wiley
và Ritzer tương đồng nhau không chỉ trong phạm vi những khái niệm hóa về bốn
cấp độ phân tích xã hội chủ yếu, mà cả trong phạm vi nhận thức của họ về các
mối quan hệ giữa các cấp độ. Wiley nói về một quá trình tiếp diễn của “sự nảy
sinh” kết nối các cấp độ thấp hơn và cao hơn và về một quá trình của “sự hồi
tiếp” (cũng được giả thiết là tiếp diễn) chảy từ các cấp độ cao hơn xuống các
cấp độ thấp hơn. Tương tự, Ritzer quan tâm tới quan hệ biện chứng (nghĩa là,
quan hệ tiếp diễn, đa chiều hướng) giữa tất cả các cấp độ phân tích xã hội.
Trong khi nhận thức của Ritzer về quan hệ biện chứng giữa các cấp độ phân tích
xã hội có thể được xem là mơ hồ và chung chung hơn đặc tính nảy sinh-phản hồi
của Wiley, có nhiều kiểu quan hệ giữa các cấp độ phân tích hơn là Wiley đề
xuất. Một dãy rộng các khái niệm xã hội học quen thuộc (ví dụ, sự ngoại hiện,
sự thể hiện khách quan, sự xã hội hóa, sự chủ quan hóa, sự kiểm soát xã
hội) tự bản thân chúng có quan hệ tới
nhiều khía cạnh của quan hệ biện chứng giữa các cấp độ vi mô và vĩ mô.
Trong
khi các viễn cảnh vi mô-vĩ mô đề ra bởi Wiley và Alexander đã được tóm tắt và
phê phán từ quan điểm của mô hình hòa hợp của Ritzer, điểm quan trọng hơn hết
là tất cả ba viễn cảnh đề ra hiển nhiên là các mô hình hợp nhất về các cấp độ
phân tích xã hội chủ yếu. Sự chung nhất này đặc biệt đáng quan tâm, vì cả ba lý
thuyết gia đi đến vấn đề này từ các quan điểm lý thuyết rất khác nhau- Cách
tiếp cận biện chứng của Ritzer; định hướng tân chức năng đa chiều kích của
Alexander; và quan điểm chủ quan của Wiley. Bây giờ, chúng tôi quay sang một số
cách tiếp cận rất khác nhau đối với vấn đề liên kết vi mô-vĩ mô.
James Coleman: Mô hình vi mô tới vĩ mô
Trong tư duy lúc đầu của
ông về vấn đề này, James Coleman thể hiện một quan tâm tới quan hệ vi mô-vĩ mô
(chúng tôi đã xử lý lý thuyết chọn lựa hợp lý phức tạp hơn nhiều về sau của
Coleman ở Chương 7). Tuy nhiên, Coleman tập trung vào vấn đề từ vi mô tới vĩ mô
và xem nhẹ tầm quan trọng của vấn đề từ vĩ mô tới vi mô. Do vậy, từ quan điểm
của các tiếp cận có tính cân bằng hơn đề
ra bởi Ritzer, Alexander và Wiley, định hướng của Coleman đối với vấn đề này bị
hạn chế cao độ. Một tiếp cận thích đáng đối với vấn đề này phải xử lý cả các
vấn đề từ vi mô tới vĩ mô và từ vĩ mô tới vi mô.
Sơ đồ 9.4: Mô hình hòa hợp của Coleman
Coleman bắt đầu với việc đưa ra một
mô hình thích ứng một cách cục bộ về quan hệ vi mô-vĩ mô. Thực hiện việc này,
ông sử dụng các luận đề đạo đức của
Weber (xem Chương 1) như một minh họa. Như chỉ ra ở Sơ đồ 9.4, mô hình này xử
lý cả hai vấn đề vĩ mô tới vi mô (mũi tên 2) và vi mô tới vĩ mô (mũi tên 3); nó
cũng xử lý quan hệ vi mô-vi mô (mũi tên 1). Trong khi có tính hứa hẹn, mô hình
này nằmtrong phạm vi tính nguyên nhân, với các mũi tên chỉ hướng tới một chiều.
Một mô hình thích ứng hơn phải có tính chất biện chứng, với mọi mũi tên chỉ tới
mọi hướng; nghĩa là, nó phải cho phép sự hồi tiếp giữa tất cả các cấp độ phân
tích. Tuy nhiên, yếu điểm chính trong tiếp cận của Coleman là ông chỉ muốn tập
trung vào mũi tên 3, quan hệ từ vi mô tới vĩ mô. Trong khi điều này có tầm quan
trọng, nó không quan trọng hơn quan hệ từ vĩ mô tới vi mô. Một mô hình vi mô-vĩ
mô thỏa đáng phải xử lý cả hai mặt quan hệ này.
Allen Liska gần đây đã tìm cách đối
phó với yếu điểm của cách tiếp cận của Coleman bằng cách xử lý cả hai vấn đề từ
vi mô tới vĩ mô và từ vĩ mô tới vi mô. Mô hình của Liska, giống như của Coleman,
sử dụng luận đề đạo đức tín đồ Tin lành của Weber như một ví dụ. (xem sơ đồ
9.5).
Mô hình này có hai điểm tiến bộ so
với tiếp cận của Coleman. Thứ nhất, tất nhiên, là sự sẵn lòng xử lý liên kết vĩ
mô tới vi mô của Liska. Thứ hai, là tính chi tiết của một quan hệ (mũi tên a)
giữa hai hiện tượng cấp độ vĩ mô. Tuy nhiên, Liska, giống như Coleman, sử dụng
các mũi tên nguyên nhân một chiều, do vậy đã không thấy được quan hệ biện chứng
giữa tất cả các yếu tố này.
Sơ đồ 9.5:
Mô hình từ vi mô tới vĩ mô và từ vĩ mô tới vi mô của Liska
Liska sử dụng một lược đồ phổ biến
để xử lý các hiện tượng vĩ mô cũng như sự liên kết vi mô-vĩ mô. Lược đồ này bao
gồm ba cách thức cơ bản để mô tả các hiện tượng vĩ mô. Thứ nhất là sự
tập hợp (aggregation), hay sự
tổng hợp các thuộc tính cá thể để tạo ra một thuộc tính nhóm. Như vậy,
người ta có thể mô tả một nhóm trong phạm vi những điều như thu nhập ít oi hoặc
tỷ lệ tự sát của nó. Thứ hai, là tính
chất cấu trúc, và nó bao gồm các mối quan hệ giữa các cá thể trong một
nhóm, ví dụ như các quan hệ có liên quan đến quyền lực hay sự thông tin. Cuối
cùng, có các hiện tượng toàn cầu, bao
gồm cái thường được nghĩ là các thuộc tính nảy sinh ví dụ như luật pháp và ngôn
ngữ.
Trong phạm vi sự liên kết vi mô-vĩ
mô, Liska liệt kê chi tiết các khó khăn liên quan trong việc sử dụng các yếu
tố có tính chất cấu trúc và toàn cầu.
Các yếu tố này khác biệt về mặt phẩm chất với các đặc tính của hành động cá
thể, và khó mà biết chúng nảy sinh như thế nào từ cấp độ vi mô. Các nhà xã hội
học sử dụng ý tưởng sự nảy sinh để xử lý các yếu tố toàn cầu, nhưng họ biết rất
ít sự nảy sinh đã hoạt động ra sao. Do vậy, Liska nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của sự tập hợp như là một liên kết vi mô-vĩ
mô. Trong trường hợp này, tương đối rõ là các thuộc tính cá thể kết hợp ra sao
để tạo thành các thuộc tính nhóm. Như vậy, ví dụ, “các cuộc tự sát cá thể có
thể được tập hợp, hay ‘kết hợp’ lại trên một đơn vị xã hội nào đó và được thể
hiện như là một tỷ lệ của đơn vị đó”. Trong khi sự tập hợp có thể không phải là
cách hay nhất để đi từ cấp độ vi mô đến vĩ mô, nó có điều thuận lợi là rõ ràng
và ít bí ẩn hơn các tiếp cận toàn cầu hay cấu trúc.
Quay sang vấn đề từ vĩ mô tới vi mô, Liska lý luận cho
ý nghĩa quan trọng của các khác biệt về bối cảnh như là các nguyên nhân của các hiện tượng cấp độ
vi mô. Ở đây Liska bao gồm các quan hệ tập hợp, cấu trúc, và các thuộc tính
toàn cầu như là các bối cảnh của các hiện tượng cá thể. Ông lý luận rằng các
nhà xã hội học quá thường xuyên dựa vào các yếu tố cấp độ vi mô, các nhà xã hội
học vi mô cần đi theo chiều hướng của một nhận thức lớn hơn về sự liên kết vi
mô-vĩ mô.
Tác phẩm của Liska đi tới một sự
biện hộ cho các nhà xã hội học tâp trung hoặc vào cấp độ vi mô, hoặc vào cấp độ
vĩ mô. Những người tập trung vào cấp độ vĩ mô có xu hướng làm ngơ sự tập hợp vì
nó có vẻ quá có tính chất cá thể luận, và không có các phẩm chất mang tính nảy
sinh của các yếu tố toàn cầu hay cấu trúc. Những người tập trung vào cấp độ vi
mô có xu hướng sử dụng các yếu tố vi mô và làm ngơ các yếu tố bối cảnh. Liska
kết luận rằng các lý thuyết gia vĩ mô cần làm việc nhiều hơn với sự tập hợp và
các lý thuyết gia vi mô thì với các yếu tố bối cảnh.
Randall Collins: Các nền tảng vi mô của xã hội học vĩ
mô
Trong một tiểu luận nhan đề: “Trên các nền tảng vi mô của xã hội học vĩ mô”,
Randall Collins đã đưa ra một định hướng giản hóa luận cao độ tới vấn đề liên
kết vi mô-vĩ mô. Thực ra, dù cái tên của tiểu luận này có bản chất hòa hợp,
Collins gọi cách tiếp cận của ông là “xã
hội học vi mô cấp tiến”. Tiêu điểm của Collins, tiêu điểm về xã hội học vi
mô cấp tiến, là cái mà ông gọi là “các
chuỗi tương tác có tính nghi thức” (interaction ritual chains), hay các tập
hợp của “các chuỗi kinh nghiệm tương tác cá thể, đan chéo lẫn nhau trong không
gian khi chúng trôi chảy trong thời gian”, Trong việc tập trung vào các chuỗi
tương tác có tính nghi thức, Collins tìm cách tránh né cái mà ông xem là các
quan tâm thậm chí còn có tính chất giản hóa luận hơn với hành vi và ý thức cá
thể. Collins nâng cao cấp độ phân tích
tới sự tương tác, các chuỗi tương tác, và “thương trường” (market-place)
cho sự tương tác đó. Collins do vậy đã khước từ các cấp độ vi mô cực đoan của
tư duy và hành động (hành vi) và phê phán các lý thuyết (như hiện tượng luận và thuyết trao đổi) tập trung vào các cấp độ
này.
Collins cũng tìm cách lánh xa các lý
thuyết vĩ mô và các quan tâm của chúng tới các hiện tượng cấp độ vĩ mô. Ví dụ,
ông phê phán các nhà chức năng cấu trúc và quan tâm của họ tới các hiện tượng
khách quan vĩ mô (cấu trúc) và chủ quan vĩ mô (các tiêu chí). Trong thực tế,
ông đã đi quá xa khi nói rằng “thuật ngữ ‘các tiêu chí’ nên được loại bỏ khỏi
lý thuyết xã hội học”. Ông có một thái độ tiêu cực tương tự đối với các khái niệm
gắn liền với thuyết xung đột, và lý luận rằng, ví dụ, không có các thực tại
“khách quan về bản chất” như sự giàu có hay thẩm quyền, mà chỉ có “các nhận
thức đa dạng mà mọi người cảm nhận ở những không gian và thời gian cụ thể về
việc các liên kết này bền vững như thế nào”. Quan điểm của ông là chỉ có mọi
người thực hiện bất cứ cái gì: các cấu trúc, các tổ chức, các giai cấp, còn các
xã hội “không bao giờ làm bất cứ cái gì. Bất kỳ giải thích về nguyên nhân nào
cuối cùng phải đi xuống tới các hành động của các cá thể có thật”.
Collins tìm cách chỉ ra “mọi hiện
tượng vĩ mô” có thể được diễn dịch thành “các kết hợp của các sự kiện vi mô”
như thế nào. Cụ thể là ông lý luận rằng các
cấu trúc có thể được diễn dịch về mặt thực nghiệm thành các khuôn mẫu
của sự tương tác vi mô lặp lại nhiều lần”.
Như vậy, cuối cùng, không phải
Collins tìm kiếm một cách tiếp cận hòa hợp mà là tính ưu việt của lý thuyết vi
mô và các hiện tượng cấp độ vi mô (xem Gidden, về một phê phán tương tự).
Collins xác định, “Nỗ lực để tái thiết xã hội học vĩ mô trên các nền tảng vi mô
mang tính chất thực nghiệm cấp tiến là bước tiến chủ yếu tới một khoa học xã
hội học thành công hơn”.
Chúng ta có thể đối chiếu định hướng
của Collins với của Karin Knorr Cetina, người đã ráp nối lập trường của bà ta
trong lời giới thiệu một tập sách trong đó có một trong các tiểu luận về xã hội
học vĩ mô cấp tiến của Collins. Mặc dù cả bà cũng nhất trí với tầm quan trọng
to lớn của lĩnh vực tương tác, Knorr Cetina dành một vai trò lớn hơn cho các
hiện tượng cấp độ vi mô và ý thức trong tác phẩm của mình. Dù Knorr Cetina,
giống như Collins, chú ý tới một sự tái
thiết lý thuyết vĩ mô trên một nền tảng
vi mô, bà cũng sẵn lòng xem xét khía cạnh ít cấp tiến hơn các kết quả hòa hợp
xã hội học vi mô đơn giản trong lý thuyết xã hội học vĩ mô. Ngoài ra, dường như
bà theo lập trường rằng mục tiêu cuối cùng của khảo sát xã hội học vi mô là một
nhận thức về xã hội lớn, các cấu trúc và thể chế của nó:
Tôi tin vào
cái dường như nghịch lý rằng chính thông qua các tiếp cận xã hộ-vi mô mà chúng
ta sẽ hiểu được nhiều về trật tự vĩ mô, vì chính ở các tiếp cận này, thông qua
chủ nghĩa thực nghiệm của chúng, giúp
chúng ta có một cái nhìn vào thực tại mà chúng ta nói về nó. Tất nhiên chúng ta
sẽ không có được sự thấu hiểu về tổng thể vấn đề bằng một sự tương tác mặt đối
mặt có tính chất vi mô. Tuy nhiên, có lẽ cũng đủ để bắt đầu với nó nếu chúng
ta-lần đầu tiên-nghe trật tự vĩ mô kêu tích tắc.
Như vậy, dường như đã rõ rằng Knorr
Cetina có một lập trường cân bằng hơn nhiều về quan hệ giữa các cấp độ vĩ mô và
vi mô so với Collins.
Ở Aron Cicourel, một đồng soạn giả với Knorr Cetina, có một lập
trường thậm chí còn có tính hòa hợp cao hơn. Ông lý luận, “Cả các cấu trúc vĩ
mô cũng như vi mô đều không phải là các cấp độ độc lập của phân tích; chúng
tương tác lẫn nhau vào mọi lúc bất kể sự thuận tiện và đôi khi sự xa xỉ không
đáng tin cậy của việc kiểm tra duy nhất một cấp độ phân tích này hay khác.” Ở
đây, có một hàm ý phê phán Collins, nhưng Cicourel theo một lập trường khác có
thể được xem là một phê phán trực tiếp hơn về kiểu lập trường của Collins: “Vấn
đề không chỉ đơn giản là việc loại trừ một cấp độ phân tích này hay khác, mà là
việc chỉ ra chúng phải được hòa hợp như thế nào nếu chúng ta không đủ tin tưởng
vào một cấp độ với sự loại trừ cấp độ khác bởi sự làm ngơ một cách tiện lợi các
cơ cấu cạnh tranh đối với sự khảo sát và lý thuyết.” Với niềm tin này, Cicourel
nhận thức không chỉ tầm quan trọng của sự liên kết các cấp độ vĩ mô và vi mô mà
còn cả sự thật rằng liên kết này cần diễn ra về mặt bản chất, lý thuyết và
phương pháp luận.
Collins tiếp tục tán thành lập
trường giản hóa luận vi mô của ông trong một thời gian. Ví dụ, trong một tác
phẩm về sau, Collins lý luận: “Cấu trúc vĩ mô không bao gồm gì hơn là một số
lượng lớn các cuộc đối đầu vi mô, lặp lại nhiều lần (hoặc đôi khi thay đổi qua
không gian và thời gian)”. Ông kết luận không chút ngại ngùng: “Điều này nghe
có vẻ như tôi dành quá nhiều ưu thế cho vi mô. Nhưng đúng là như vậy.” Tuy
nhiên, đáng chú ý là chỉ một năm sau Collins đã sẵn lòng dành cho cấp độ vĩ mô
một tầm quan trọng lớn hơn. Cách tiếp cận này dẫn tới một khái niệm cân bằng
hơn về mối quan hệ vi mô-vĩ mô: “Sự chuyển dịch vi mô-vĩ mô cho thấy rằng mọi
thứ vĩ mô đều được tổng hợp từ vi mô. Ngược lại, bất cứ cái vi mô nào đều là
một bộ phận của sự tổng hợp nên vĩ mô; nó tồn tại trong một bối cảnh vĩ mô… có
thể theo đuổi sự nối kết vi mô-vĩ mô một cách thành công trong bất kỳ chiều
hướng nào.” Nhận định này hàm ý một cách
tiếp cận biện chứng hơn đối với quan hệ vi mô-vĩ mô. Thế nhưng Collins, tương
tự Coleman, tán thành quan điểm rằng “sự
thách thức lớn” trong xã hội học là chỉ ra “vi mô ảnh hưởng ra sao tới vĩ mô”. Như vậy, trong khi Collins đã cho thấy
một sự tiến triển trong lý thuyết vi mô-vĩ mô của ông, nó tiếp tục là một cách
tiếp cận hạn chế.
MỘT SỐ CHIỀU HƯỚNG HỨA HẸN
Như chúng ta đã thấy, có lẽ vấn đề
khó khăn nhất hiện đặt ra trước nhận thức của chúng ta về sự liên kết vi mô-vĩ
mô là sự kiện rằng các căng thẳng chủ yếu đã trải ra trong các định hướng tới
sự phát triển một cách tiếp cận hòa hợp. Đưa ra thực tế rằng phần lớn mọi người
làm việc về vấn đề này đã được định hình bởi lịch sử của chủ nghĩa cực đoan vi
mô-vĩ mô trong xã hội học, một số nhà hòa hợp thiên về hướng vi mô (ví dụ,
Collins) trong khi số khác lại đi theo một con đường khác (ví dụ, Alexander).
Do vậy, họ cho thấy nguy cơ của sự phá hủy nỗ lực vừa mới manh nha trong việc
hòa hợp và sự lặp lại trong vòng tiếp cận hòa hợp một sự căng thẳng không cần
thiết giữa các định hướng vi mô và vĩ mô đã ngự trị lý thuyết xã hội học Mỹ
trong suốt thế kỷ 20. Trong phần này, chúng ta sẽ nhìn vào một số cách thức
tránh né vấn đề này.
Một giải pháp ít có tính thỏa đáng
hoàn toàn hơn là để cho các lý thuyết gia có định hướng vĩ mô tập trung vào các
vấn đề vi mô và các lý thuyết gia có định hướng vi mô làm việc ở cấp độ vĩ mô.
Hai ví dụ tốt cho giải pháp này là tiêu điểm của Alexander (đi từ cấp độ vĩ mô của thuyết tân chức năng)
về các quá trình vi mô như sự điển hình hóa, phạm trù hóa và sự sáng tạo và các
nỗ lực của Fine để phác họa (từ một cấp độ vi mô, viễn cảnh tương tác biểu
tượng) “thực tại kiên định” của môi trường được xây dựng, các liên kết về mặt
thể chế, truyền thống và các niềm tin vào sự
ưu việt của tổ chức. Cái có lợi ích cao cho sự phát triển một tiếp cận
hòa hợp vi mô-vĩ mô là các lý thuyết gia nên tập trung vào các thực tại có tính
thực nghiệm nằm trên các đầu đối lập của các thể liên tiến từ định hướng lý thuyết của họ. Vấn đề chính yếu
là xu hướng đối với các lý thuyết gia để cho phép các thành kiến của họ ảnh
hưởng đến tác phẩm của họ ở đầu kia của thể liên tiến xã hội.
Có tính chất hứa hẹn hơn là các nỗ
lực trong việc hòa hợp các lý thuyết vĩ mô và vi mô bời những người không có
thành kiến một cách hiển nhiên đối với nhau (ví dụ, Hindess, Fararo và
Skvoretz). Trong khi sự thiếu tận tâm này có thể làm cho các tác phẩm đó công
bằng hơn, các tác phẩm đó có thể kém phẩm chất nếu các lý thuyết gia
thiếu các kiến thức sâu sắc và sự tận
tụy đối với các viễn cảnh lý thuyết họ đang thực hiện.
Một khả năng khác liên quan tới việc
bắt đầu không phải ở cấp độ vi mô hay vĩ mô, mà là ở đâu đó nằm giữa thể liên
tiến xã hội, trên cái đã được gọi là “cấp độ trung gian” trong việc nghiên cứu
các tổ chức hình thức. Có các vấn đề liên quan đến các viễn cảnh cấp độ trung
gian như biểu lộ trong xã hội học về các tổ chức hình thức. Nếu một người tập
trung vào cấp độ trung gian (ví dụ, các tổ chức hình thức), anh ta có thể đi
tới và xử lý, các hiện tượng cấp độ vĩ mô không? Đồng thời, một tiêu điểm cấp độ trung gian
như thế có cho phép anh ta có đầy đủ tính chất vi mô? Các phân tích cấp độ
trung gian chưa chứng minh được khả năng để là một sự hòa hợp thỏa đáng.
Vẫn còn một chiều hướng hứa hẹn khác
bao gồm việc tập trung vào các quan hệ đang diễn tiến giữa các cấp độ vi mô và
vĩ mô. Munch và Smeller đã đề ra một vài cách khởi đầu có ích ở đây, nhưng vì
những ý tưởng của họ rút ra từ các tác
phẩm chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa vi mô-vĩ mô cực đoan, phân tích của họ một
lần nữa lại cho thấy chúng ta có thể di động dễ dàng như thế nào trong hoặc là
một chiều hướng vi mô cực đoan, hoặc là một chiều hướng vĩ mô cực đoan. Phần
hữu dụng của tiểu luận của họ là một thảo luận về các liên kết giữa vi mô và vĩ
mô; tiêu điểm là ở các quan hệ hơn là sự cực đoan vi mô hay vĩ mô. Trong các
quan hệ này, họ thảo luận về sự tập hợp,
sự ngoại hiện, sự tạo tác, duy trì và tái sản xuất vĩ mô; sự tuân thủ, sự chủ
quan hóa và các tập hợp giới hạn. Một tiêu đểm về các quá trình có tính chất quan
hệ này giúp chúng ta đi ra khỏi chủ nghĩa vi mô-vĩ mô cực đoan, và nó có bản
chất hòa hợp. Tuy nhiên, Munch và Smeller phân các quá trình này thành các phạm
trù từ vi mô tới vi mô và từ vĩ mô tới vi mô, từ đó có xu hướng, một lần nữa,
phản ánh mối ràng buộc với chủ nghĩa vi mô-vĩ mô cực đoan.
Một chọn lựa hứa hẹn nhất là từ bỏ
một tiêu điểm về bất kỳ một cấp độ nào (vi mô, vĩ mô, trung gian) của phân
tích, và thay vào đó, đi theo một cách tiếp cận biện chứng, hòa hợp về bản
chất. Dù có các phê phán lúc đầu về định kiến tập thể chủ nghĩa của Alexander,
có những dấu hiệu trog tác phẩm gần đây hơn của ông về sự phát triển của một
lập trường hòa hợp cố hữu, một lập trường định nghĩa vi mô và vĩ mô trog phạm
vi cái này đối với cái kia. Nói chung hơn, mô hình hòa hợp của Ritzer không tập
trung vào bất cứ một cấp độ phân tích xã hội đơn lẻ nào mà nó quan tâm tới các
quan hệ biện chứng giữa mọi cấp độ.
SỰ HÒA HỢP VI MÔ-VĨ MÔ: CÔNG VIỆC PHẢI THỰC HIỆN
Trong khi các hình thức khác nhau
của chủ nghĩa cực đoan vi mô và vĩ mô còn lâu mới chết, và dường như sẽ còn có
giai đoạn hồi sinh, an toàn hơn hết là nói rằng một cách tiếp cận hoà hợp vi
mô-vĩ mô hiện đang được thiết lập rất tốt trong xã hội học Mỹ, và có lẽ sẽ có
một sự chọn lựa thú vị có thể thấy trước trong tương lai. Trong thực tế, cách
tiếp cận này dường như sẽ thu hút nhiều
người ủng hộ hơn trong tương lai, vì nó
đang tiến bộ bởi nỗ lực của các lý thuyết gia trẻ tuổi giỏi nhất của lĩnh vực
này, vì nó bắt nguồn từ một dãy rộng các chiều hướng lý thuyết, vì nó thể hiện
một sự phám phá lại một định hướng nằm ở nền tảng của các lý thuyết gia cổ điển
của bộ môn, và vì nó là một lĩnh vực rộng mênh mông và phức tạp, đưa ra nhiều
thách thức cho các lý thuyết gia xã hội học.
Kemeny lý luận rằng, “Điều cần thiết
trước nhất là việc gia tăng nhận thức về vấn đề của lĩnh vực để các lập trường không bị đưa ra
một cách vô ý thức và nhiều ẩn ý.” Đưa ra các phát triển gần đây, điều còn đáng
ngờ là các nhà xã hội học hiện tại và tương lai có khả năng hoạt động mà không
cần một nhận thức về vấn đề của phạm vi trong tác phẩm của họ hay chăng. Nói
cách khác, hiện nay các nhà xã hội học có lẽ không làm ngơ hay vô tình đưa ra
một lập trường về vấn đề này. Nói gì đi nữa, điểm cơ bản là sự hoà hợp vi mô-vĩ
mô đang sinh sôi nảy nở với ý nghĩa là vấn đề trung tâm trong lý thuyết xã hội
học Mỹ.
Dù có sự liên ứng đang nảy sinh này,
vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Trước hết, phần nhiều tác phẩm mà các nhà xã
hội học đã thực hiện về sự liên kết vi mô-vĩ mô bao gồm việc ấn định nhiều hơn
về chi tiết bản chất của cái mà, vào thời điểm này, chỉ là một định hướng rất
chung chung. Nhiều người trong số họ đang làm việc về vấn đề chung này, thực tế
là đang tập trung vào những sự vật rất khác nhau. Họ có những nhận thức khác
nhau về cái họ muốn nói thông qua các hiện tượng vi mô, các hiện tượng vĩ mô,
và các liên kết giữa chúng. Đòi hỏi phải có các định nghĩa cẩn trọng, và các lý
thuyết gia cần nói ra các khác biệt về
mặt khái niệm giữa các tác phẩm của họ, và của những người khác, về vấn đề này. Trong cùng một phạm vi, cần có nhiều
tác phẩm hơn về kiểu mẫu đã được Markovsky tiến hành trong việc ấn định các
điều kiện có ảnh hưởng tới tầm quan trọng tương đối của các hiện tượng cấp độ
vi mô và vĩ mô.
Thứ hai, trong khi hiển nhiên có một
nhu cầu to lớn để mở rộng tác phẩm về sự liên kết vi mô- vĩ mô, các nhà xã hội
học cũng phải thực hiện các công việc bổ sung trong các phạm vi vi mô và vĩ mô.
Nghĩa là, có một nhu cầu liên tiếp đối với các nhà xã hội học để tập trung sự
chú ý của họ vào các vấn đề vi mô hay vĩ mô, thông qua đó mở rộng kiến thức về
lĩnh vực này. Sự nảy sinh một vấn đề trung tâm vi mô-vĩ mô không loại trừ tác
phẩm về một cấp độ đưa ra. Ngay cả những người ủng hộ hăng hái nhất cho một
tiêu điểm về các liên kết vi mô-vĩ mô
cũng không xem nó là tiêu điểm duy nhất của xã hội học. Trong thực tế, các tiến
bộ trong kiến thức xã hội học về các cấp độ vi mô và vĩ mô có thể làm phong phú
thêm cho tác phẩm về sự hoà hợp vi mô-vĩ mô.
Thứ ba, dù có một nhu cầu đối với
các tác phẩm đi xa hơn trong các lĩnh vực vi mô và vĩ mô, các lý thuyết gia xã
hội phải bảo đảm rằng nỗ lực vẫn còn chưa chín mùi ở sự hoà hợp vi mô-vĩ mô không bị làm cho nổi trội
bởi những người ủng hộ hăng hái cho chủ nghĩa cực đoan vĩ mô và/hoặc vi mô.
Trong khi có một tiêu điểm đang gia tăng vào sự hoà hợp vi mô-vĩ mô, đồng thời, cũng có một số lực
lượng lý thuyết hùng hậu đang kéo xã hội học ra khỏi vấn đề trung tâm này để
hướng tới chủ nghĩa cực đoan vi mô hoặc vĩ mô. Nói cách khác, cùng lúc với sự
nảy sinh một sự liên ứng về mặt lý thuyết, cũng tồn tại và nảy sinh các viễn
cảnh lý thuyết đe dọa sự liên ứng trước khi nó được củng cố vững chắc. Trong
phạm trù này là các lý thuyết có định hướng vi mô cực đoan khước từ hoặc hạ
thấp vai trò của sự tồn tại và tầm quan trọng của các hiện tượng cấp độ vĩ mô
cũng như các lý thuyết có định hướng vĩ mô cực đoan khước từ hay tối thiểu hoá
vai trò của các hiện tượng cấp độ vi mô.
Cũng có một số nhà xãhội học có thế
lực công khai lý luận chống lại khả năng hoà hợp vi mô-vĩ mô. Một tiếng nói
trong đó là Peter Blau, người với sự thừa nhận của riêng mình, đã thay đổi ý
định về vấn đề này từ khi công bố nỗ lực hoà hợp của ông trong phạm vi thuyết
trao đổi (xem Chương 7):
Một vấn đề
quan trọng trong việc xây dựng lý thuyết xã hội học vĩ mô là sự liên kết với lý
thuyết xã hội học vi mô. Một cách tiếp cận là bắt đầu với các nguyên tắc xã hội
học vi mô và sử dụng chúng làm cơ sở để xây dựng lý thuyết xã hội học vĩ mô.
Cách tiếp cận chọn lựa dựa trên giả thiết rằng các viễn cảnh khác nhau và các
hệ thống khái niệm khác nhau là cần thiết đối với các lý thuyết vi mô và vĩ mô,
cơ bản là do các phạm vi chính của các lý thuyết xã hội học vĩ mô chỉ tới các
thuộc tính đang nảy sinh của các cấu trúc dân cư và không có cái tương đồng
trong phân tích xã hội học vi mô. Tôi đã đi đến kết luận rằng cách tiếp cận thứ
hai là cái duy nhất có khả năng, ít nhất ở giai đoạn này của sự phát triển xã
hội học.
Như vậy, trong khi chúng ta quan tâm
tới một sự liên ứng đang tiến triển trong xã hội học về mối hoà hợp vi mô-vĩ
mô, rõ ràng là một định hướng như thế không phổ biến nhiều, và có một số đối
thủ rất mạnh mẽ.
Thứ tư, có lẽ một nguy cơ lớn hơn
nằm trong những nhà cực đoan chủ nghĩa trong chính các nhóm làm việc với sự hoà
hợp vi mô-vĩ mô. Họ đe dọa xé toang phong trào tri thức này trước khi nó có cơ
hội phát triển hoàn toàn. Các nhà xã hội học phải thận trọng với sự tái sinh
của chủ nghĩa cực đoan ngay trong lòng vi mô-vĩ mô.
Thứ năm, có một nhu cầu to lớn đối
với các nhà xã hội học để phân loại quan hệ giữa các nỗ lực nhằm hoà hợp các lý
thuyết vi mô và vĩ mô và các nỗ lực nhằm phát triển một lý thuyết xử lý sự hoà
hợp các cấp độ phân tích xã hội vi mô và vĩ mô. Tư duy xã hội học về mối quan
hệ này có vẻ được phát triển bởi nhiều tác phẩm tìm cách kết hợp chung các nỗ
lực về mặt lý thuyết và thực nghiệm.
Thứ sáu, các lý thuyết gia xã hội
cần thực hiện các tác phẩm bổ sung về mối quan hệ giữa thể liên tiến vi mô-vĩ
mô và nhiều thể liên tiến khác nhau (ví dụ, thể liên tiến chỉnh thể luận-cá
nhân chủ nghĩa phương pháp luận) đã được dùng để phân tích thế giới xã hội. Đặc
biệt hứa hẹn là các nỗ lực hoà hợp các thể liên tiến vi mô-vĩ mô và khách
quan-chủ quan.
Thứ bảy, công việc có tính siêu lý
thuyết trừu tượng cao độ này cần được diễn dịch thành các thuật
ngữ và các cách tiếp cận có thể đi vào những người có mối quan tâm tới các vấn
đề thực nghiệm và lý thuyết cụ thể. Nói cách khác, nó cần được chuyển hoá thành
các ý tưởng, khái niệm, công cụ, lý thuyết, và các phương pháp có thể được sử
dụng bởi các nhà xã hội học trong các hoạt động nghề nghiệp của họ.
Cuối cùng là nhu cầu có nhiều hơn
nữa các nhà phương pháp luận và nhà khảo sát thực nghiệm nói tới vấn đề vi
mô-vĩ mô, mà cho tới thời điểm này đã được chiếm lĩnh phần lớn bởi các lý thuyết gia. Một số dấu
hiệu đáng mừng trong lĩnh vực này là tác phẩm của Bailey về các phương pháp vi
mô-vĩ mô, các nỗ lực thực nghiệm của Markovsky, và phê phán của Marini đối với
các nhà khảo sát dùng các dữ liệu cấp độ vi mô để nghiên cứu các hiện tượng cấp
độ vĩ mô.
Dường như sẽ có một chuyển biến tinh
vi nhưng có tầm quan trọng thiết yếu trong các tác phẩm hòa hợp vi mô-vĩ mô.
Cho tới lúc này, đưa ra cực đoan chủ nghĩa vi mô và vĩ mô của phần lớn các lý
thuyết xã hội học thế kỷ 20, những người
đã xử lý vấn đề tiếp cận nó hoặc từ đầu vi mô, hoặc từ đầu vĩ mô của thể liên
tiến. Khi sự liên kết vi mô-vĩ mô trở nên được thừa nhận rộng rãi như một vấn
đề lý thuyết trung tâm, tiêu điểm sẽ chuyển tới ccác định hướng có tính chất
hòa hợp hơn. Trong số những chiều hướng hứa hẹn có các tác phẩm hòa hợp các lý
thuyết vi mô và vĩ mô mà không thiên về phía nào cả; tiêu điểm về cấp độ vi mô
từ một định hướng lý thuyết vĩ mô (và ngược lại); tác phẩm ở cấp độ trung gian;
sự chú ý đến các quan hệ đang diễn tiến giữa vi mô và vĩ mô, và hứa hẹn nhất
trong tất cả, là tác phẩm định nghĩa vi mô và vĩ mô trong phạm vi của cái kia,
nhờ đó tập trung vào một bước biện chứng đang tiếp diễn. Các kiểu tác phẩm này,
đặc biệt là cái nói sau, hứa hẹn đưa các tác phẩm về sự hòa hợp vi mô-vĩ mô tới
một cấp độ mới, một cấp độ trong đó sự nhấn mạnh sẽ là vào sự hòa hợp hay sự
tổng hợp hơn là vào các cực vi mô hoặc vĩ mô của thế liên tiến xã hội. Sự nhấn
mạnh này đi cùng tuyến với, nhưng có tính cụ thể hơn, quan điểm được thể hiện
bởi Alexander và Giesen, những người lý luận cho nhu cầu “thiết lập một xuất phát điểm khác biệt có
tính chất cấp tiến” để tạo ra một “liên
kết vi mô-vĩ mô bao quát và xác thực”. Vì hiển nhiên tất cả các lý thuyết hiện
có về cơ bản là các viễn cảnh hoặc vi mô hoặc vĩ mô, một sự chuyển biến trong
sự nhấn mạnh sẽ dẫn tới nhu cầu tạo ra các lý thuyết mới (hay các kế hợp mới
của nhiều lý thuyết hiện có) hòa điệu về cơ bản với các quan tâm hòa hợp như
thế. Nói chung hơn, chúng ta có lẽ sẽ đi ra khỏi một mối quan tâm tới các cấp
độ vi mô và vĩ mô và các lý thuyết, đi tới các quan tâm và nỗ lực về lý thuyết
có tính chất tổng hợp hơn.
NGƯỢC TỚI TƯƠNG LAI: XÃ HỘI HỌC HÌNH TƯỢNG CỦA NORBERT
ELIAS
Xuyên suốt chương này, chúng tôi đã
xử lý một số nỗ lực chính yếu gần đây của người Mỹ hướng tới sự hòa hợp vi mô-vĩ
mô. Tuy nhiên, có một lý thuyết gia Châu Âu, Norbert Elias, mà tác phẩm của ông
tốt nhất là được thảo luận dưới tiểu tựa trên. Elias thực hiện một nỗ lực nhằm
khắc phục sự phân biệt vi mô-vĩ mô, và nói chung nhằm giải quyết xu hướng của
các nhà xã hội học trong việc phân biệt các cá thể và xã hội. Tác phẩm chủ yếu
của Elias được viết từ những năm 1930, nhưng chỉ gần đây nó mới bắt đầu có được
sự thừa nhận mà nó xứng đáng. Tới điểm này, cũng là chỗ tốt nhất để thảo luận
tư duy của ông về sự hòa hợp vi mô-vĩ mô và giới thiệu các tư tưởng lý thuyết
cơ bản của ông.
Để đạt được các mục tiêu hoà hợp của
mình, Elias đưa ra khái niệm hình tượng
(figuration), đó là một ý tưởng
tạo ra khả
năng cưỡng kháng lại áp lực xã hội có điều kiện trong việc phân hóa và phân cực
khái niệm của chúng ta về loài người, cái đã liên tục ngăn cản chúng ta khỏi
việc nghĩ về mọi người như là các cá thể, trong cùng lúc, nghĩ về họ như là các
xã hội… Khái niệm về hình tượng do đó phục vụ như là một công cụ khái niệm đơn giản để nới lỏng
sự kềm hãm xã hội này để nói và suy nghĩ như
thể “cá thể” và “xã hội” là có tính đối lập cũng như khác biệt nhau.
Những hình tượng có thể xem là các
quá trình. Trong thực tế, về sau này Elias đi đến chỗ thích dùng thuật ngữ “xã
hội học quá trình” để mô tả tác phẩm của ông. Những hình tượng là những quá
trình xã hội liên quan đến việc “đan kết” mọi người. Chúng không phải là các
cấu trúc vì chúng ở bên ngoài và có tính cưỡng chế các mối quan hệ giữa mọi
người, chúng là các quan hệ hỗ tương. Các cá thể được xem là cởi mở và phụ
thuộc lẫn nhau; các hình tượng được tạo thành từ các cá thể đó. Quyền lực là
trung tâm của các hình tượng xã hội, mà kết quả là sự thường xuyên thay đổi:
Ở trung tâm
của những hình tượng đang biến đổi - thật ra chính là trung tâm của các quá
trình hình tượng - là một sự cân bằng có tính dao động và căng thẳng, một trạng
thái cân bằng về quyền lực di động tới lui, thiên về đầu tiên là phía này, rồi
tới phía kia. Kiểu cân bằng dao động về quyền lực này là một đặc tính cấu trúc
của dòng chảy của mọi hình tượng.
Các hình tượng nảy sinh và phát
triển, nhưng theo những cách thức không thể thấy và hoạch định được.
Trung tâm của thảo luận này là
sự kiện rằng ý tưởng về một hình tượng
được áp dụng cho cả các cấp độ vi mô và vĩ mô, và cho mọi hiện tượng xã hội
giữa hai cực đó. Khái niệm có thể được áp dụng đối với các nhóm tương đối nhỏ
cũng như các xã hội được tạo thành từ
hàng ngàn hay hàng triệu dân chúng có sự phụ thuộc lẫn nhau. Các giáo viên và
học sinh trong một lớp, các bác sĩ và bệnh
nhân trong một nhóm trị liệu, các khách hàng thường xuyên ở một quán bia, trẻ
con ở nhà trẻ - tất cả tạo thành những hình tượng tương đối có thể hiểu được
với mỗi người. Nhưng các cư dân của một làng, một thành phố hay một quốc gia
cũng tạo thành các hình tượng, dù trong trường hợp này các hình tượng không thể
nhận thức được một cách trực tiếp vì các chuỗi phụ thuộc lẫn nhau liên kết mọi
người lại dài hơn và có nhiều khác biệt hơn.
Như
vậy, Elias từ chối xử lý mối quan hệ giữa “cá thể” và “xã hội” mà tập trung vào
“mối quan hệ giữa những người được coi là các cá thể và những người được coi là
các xã hội”. Nói cách khác, cả các cá thể và các xã hội (và mọi hiện tượng xã
hội trong đó) đều bao gồm trong các quan hệ con người. Ý tưởng về “chuỗi phụ
thuộc lẫn nhau”
nhấn mạnh ở đoạn trích bên trên là một hình ảnh rõ nét về bất cứ cái gì mà Elias hàm ý nói tới thông qua các hình tượng và cái
thiết lập nên tiêu điểm xã hội học của ông: “Tại sao và như thế nào mọi người
bị ràng buộc với nhau để tạo ra các hình tượng năng động cụ thể chính là một
trong những vấn đề trung tâm, thậm chí
có lẽ là vấn đề trung tâm nhất của xã hội học”.
Nhận
thức của Elias về hình tượng được nối kết với ý tưởng rằng các cá thể cởi mở và
có quan hệ hỗ tương với các cá thể khác. Ông lập luận rằng phần đông các nhà xã
hội học hoạt động với một nhận thức về mệnh đề-con người (homo-clausus), nghĩa là “một hình tượng về các con người riêng lẻ, mỗi
người về chung cuộc tuyệt đối độc lập với
mọi người khác-một cá thể ở chính bản thân mình”. Một hình tượng như thế bản
thân nó không vay mượn từ một lý thuyết hình tượng; một hình tượng về các actor
cởi mở, phụ thuộc lẫn nhau cần thiết cho xã hội học hình tượng.
Đưa
ra các quan tâm trong phần này, chúng tôi sẽ tập trung vào sự hoà hợp vi mô,
nhưng cần chỉ ra rằng tác phẩm của Elias có tính chất tổng hợp theo nhiều đường
lối khác nhau. Ví dụ, ít nhất Elias cũng phiền muộn vì khoảng cách trong xã hội
học cũng tương đương với sự phân đôi vi mô-vĩ mô. Đối với ông, lý thuyết chỉ vô
vị nếu không có các dữ liệu, và sự khảo sát sẽ không có phương hướng nếu không
có lý thuyết. Sự tổng hợp lý thuyết và khảo sát, cũng như nỗ lực đan kết vi
mô-vĩ mô thấy rõ nhất trong hai tập sách (Lịch
sử của các thái độ và Quyền lực và
phép lịch sự) đã tạo thành tác phẩm phổ biến nhất của ông, Quá trình văn minh hoá. Chính tác phẩm
này sẽ là tiêu điểm của phần này.
Trước khi tiếp tục, chúng tôi phải giải thích ngắn gọn tại sao Elias
được thảo luận ở đây dưới cái tiêu đề sự hoà hợp vi mô-vĩ mô hơn là ở chương kế
tiếp, về sự hoà hợp cơ quan-cấu trúc. Trên hết, Elias nguyên là người Đức, và
các tác phẩm về cơ quan-cấu trúc phần lớn là xuất phát từ Châu Âu, trong khi
chính người Mỹ mới chiếm lĩnh
tác
phẩm về sự hoà hợp vi mô-vĩ mô. Dù tác
phẩm của Elias có thể thảo luận ở chương nào cũng được, có vẻ nó được xếp ở đây
là phù hợp nhất, vì Elias quan tâm tới hành động và tương tác cấp độ vi mô hơn
là tới ý thức, các quá trình tạo tác thuộc mối quan tâm tới cơ quan. Thật ra,
một khiá cạnh trung tâm của lý thuyết Elias là đặc tính vô thức và không được
hoạch định của phần lớn những cái diễn ra trong thế giới xã hội. Ngoài ra, như
chúng ta sẽ thấy, tập đầu tiên của Quá
trình văn minh hoá - Lịch sử của các
thái độ, tập trung hơn vào các vấn đề vi mô, và tập thứ hai, Quyền lực và phép lịch sự, có định hướng
vĩ mô hơn.
Lịch sử của
các thái độ.
Nếu
Weber có thể được xem là quan tâm tới sự hợp lý hoá của phương Tây, quan tâm
tiêu điểm của Elias là sự văn minh hoá của phương Tây. Elias không lý luận rằng
có cái gì đó cố hữu là tốt đối với sự văn minh xảy ra ở phương Tây, hay ở bất
kỳ nơi nào khác. Ông cũng không lý luận rằng sự văn minh hoá là tồi tệ, dù ông
nhận ra có nhiều khó khăn đã nảy sinh trong sự văn minh hoá ở phương Tây. Tổng
quát là Elias không lý luận rằng văn minh hoá hơn là điều tốt, hay văn minh hoá
ít hơn là điều tệ hại. Khi nói rằng mọi người đã trở nên văn minh hơn, chúng ta
không cần thiết phải nói rằng họ đã trở nên tốt hơn (hoặc xấu hơn); chúng ta
chỉ đơn giản phát biểu một thực tế xã hội học. Như vậy, Elias quan tâm tới việc
nghiên cứu xã hội học về cái mà ông gọi là “nguồn gốc xã hội học” của sự văn
minh hoá ở phương Tây.
Cụ
thể là Elias quan tâm tới các biến đổi
tiệm tiến đã xảy ra trong hành vi và bản chất tâm lý của dân chúng phương Tây.
Chính một phân tích về các biến đổi này
là mối quan tâm của ông trong cuốn Lịch
sử của các thái độ. Trong cuốn thứ hai, cuốn Quyền lực và sự văn minh, Elias quay sang các biến đổi xã hội đi
cùng, và có quan hệ mật thiết với các biến đổi về mặt hành vi và tâm lý. Nói
chung lại, Elias quan tâm tới “các nối kết giữa các biến đổi trong cấu trúc xã hội và các biến
đổi trong cấu trúc của hành vi và bản chất tâm lý”.
Trong
nghiên cứu về lịch sử của các thái độ, Elias chú ý đến sự chuyển hóa lịch sử
tiệm tiến của nhiều hành vi rất bình thường theo chiều hướng của cái mà giờ đây
chúng ta gọi là hành vi được văn minh hóa: “Không có cái gì vô ích hơn là nỗ
lực xác định một sự khởi đầu tuyệt đối, khi xử lý các quá trình xã hội dài hạn.”
Nghĩa là quá trình văn minh hóa có thể được truy nguyên trở lại các thời cổ
xưa, tiếp diễn cho tới nay, và sẽ tiếp diễn trong tương lai. Sự văn minh hóa là
một quá trình phát triển đang diễn tiến mà để thuận tiện, Elias đã chọn ra thời
Trung cổ. Ông chú ý đến việc truy nguyên những thay đổi trong cái làm chúng ta
bối rối, tri thức tăng trưởng của chúng ta, việc chúng ta ngày càng trở nên
những người quan sát kẻ khác ra sao, và nhận thức sâu sắc của chúng ta về người
khác. Tuy nhiên, cách tốt nhất để đạt được một nhận thức về cái Elias đang làm
không thông qua những điều trừu tượng, mà thông qua một thảo luận về một số ví
dụ cụ thể của ông.
Hành vi ở
bàn ăn. Elias kiểm
nghiệm điều mà các quyển sách (và các nguồn khác) về các cung cách xử sự được
viết giữa các thế kỷ 13 và 19 nói về cách thức làm thế nào để xử sự ở bàn ăn
(cũng như về các vấn đề thảo luận trong nhiều phần kế
tiếp). Quan điểm cơ bản nhất của Elias là ngưỡng của sự bối rối dần có sự tiến
triển. Cái mà mọi người thực hiện ở bàn ăn với rất ít hoặc không hề có sự bối
rối ở thế kỷ 13 có thể gây ra nhiều xấu hổ ở thế kỷ 19. Cái được xem là đáng
ghét qua thời gian ngày càng có vẻ được “dời ra phía sau các cảnh tượng của đời
sống xã hội”.
Ví dụ, một nhà thơ vào thế kỷ 13 đã
cảnh báo, “một số người cùng gặm một khúc xương rồi đặt lại vào dĩa là một sự
vi phạm nghiêm trọng”. Một cuốn sách của thế kỷ 13 cảnh báo. “thọc ngón tay vào
lỗ tai hay mắt, như một số người đã làm, hay ngoáy mũi trong khi đang ăn là hành
vi bất lịch sự.” Rõ ràng, ngụ ý của các cảnh báo này là việc nhiều người ở vào
thời đó đã thực hiện những hành vi như thế và nói chung nó đã không làm cho họ,
hoặc những người xung quanh bối rối. Có một nhu cầu cần nhận thức về các cảnh
cáo này vì mọi người không biết những hành vi như thế là không “văn minh”. Theo
thời gian, ngày càng ít cần phải cánh báo cho mọi người về những việc như ngoáy
mũi trong khi ăn. Do vậy, một tư liệu ở thế kỷ 16 viết rằng, “Không có gì sai
lầm cho bằng liếm ngón tay, dùng tay bốc thịt đưa vào miệng và thọc ngón tay
hoặc dùng nĩa nhúng bánh mì vào tô súp để quậy.” Tất nhiên, có những việc, ví
dụ như ngoáy mũi là không đúng đắn hơn liếm ngón tay, nhưng vào thời đó sự văn
minh đã tiến triển tới một điểm là những hành vi như thế được thừa nhận một
cách rộng rãi là kém văn minh. Với việc ngoáy mũi an toàn ở phía sau các khung
cảnh, xã hội thấy ít có những hành vi quá đáng mà nó xác định là không văn
minh.
Một trong những quan điểm của Elias
trong ngữ cảnh này, và nhiều ngữ cảnh khác, là các biến đổi này không được tạo
ra một cách hợp lý. Ông thấy nguồn gốc của chúng nằm trong cảm giác nhiều hơn
là trong các suy gẫm hợp lý. (Ví dụ, trong thảo luận của ông các giới hạn tăng
dần trong việc phun nước bọt, Elias cho rằng động cơ của chúng đến từ sự quan
tâm của xã hội chứ không phải các quan tâm về y tế; các hạn chế như thế tồn tại
từ rất lâu trước khi có bất kỳ chứng cứ khoa học nào về các ảnh hưởng không có
lợi cho sức khỏe tiềm tàng trong việc phun nước bọt). Và, như đã chỉ ra, các
biến đổi này không đến một cách có ý thức mà chúng nảy sinh một cách vô ý thức.
Elias xác định, “Tất nhiên, các cá nhân ở một thời đại cổ xưa nào đó không dự
định về sự biến đổi, sự văn minh hóa này, và dần dần mới nhận ra nó bằng các
phương pháp đo lường có mục đích, hợp lý và có ý thức.” Một quan điểm trọng tâm
nữa là các biến đổi này nói chung xuất phát từ một nguồn riêng lẻ (đặc biệt,
như chúng ta sẽ thấy, ở xã hội triều đình của Pháp) và rồi phân tán khắp xã
hội. Đây là cách Elias tóm tắt các quan điểm này:
Các hình
thức xác định của hành vi bị đặt dưới sự hạn chế, không phải vì chúng không có
lợi cho sức khỏe (một lý do hợp lý) mà vì chúng dẫn tới một cảnh tượng có tính
chất xúc phạm và không được các tổ chức tán thành; sự xấu hổ khi đưa ra một
cảnh tượng như thế, ban sơ là không có, và nỗi sợ đối với việc khuấy động các
tổ chức đó dần dần lan rộng từ các phạm
vi hệ thống tiêu chuẩn đến các phạm vi lớn hơn bởi vô số nhà cầm quyền và thể
chế. Tuy nhiên, một khi các cảm giác đó đã được đánh thức và thiết lập một cách
bền vững trong xã hội bằng các phương tiện của các nghi lễ cụ thể… chúng thường
xuyên được tái sinh chừng nào mà cấu trúc của các quan hệ con người chưa bị
thay thế một cách cơ bản.
Các chức
năng cơ bản. Một xu hướng tương tự được tìm
thấy trong hoạt động của các chức năng tự nhiên. Một cuốn sách thế kỷ 14 được
sử dụng bởi học sinh, trong những cuốn khác, thấy cần thiết đề ra những lời
khuyên về việc trục xuất sự đầy hơi:
Nếu bị nhiễm
bệnh: Hãy lắng nghe câu châm ngôn về âm thanh của sự đầy hơi. Tốt nhất là nó có
thể được trục xuất mà không gây ra tiếng động. Nhưng thà là cho nó thoát ra với
một tiếng động tốt hơn là cố nén nó lại…
Âm thanh của
cú đánh rắm, đặc biệt đối với những ai có địa vị cao, rất kinh khủng. Người ta
có thể hy sinh bằng cách cố ép mạnh hai bên mông vào nhau… hãy để một tiếng ho
che giấu âm thanh nổ ra… Hãy theo luật của Nghìn đời: Thay thế các cú đánh rắm
bằng các cơn ho.
Ở đây chúng ta thấy những việc được
thảo luận công khai mà vào thế kỷ 19 (và tất nhiên cả ngày nay) là không cần
thiết phải nói tới vì mọi người đều biết rõ những hành vi đó là thiếu văn minh.
Hơn nữa, chúng ta có thể sẽ giật mình vì một thảo luận như thế. Nhưng tất cả những điều này phản ánh quá
trình văn minh hóa và sự vận động của “ranh giới của sự bối rối”. Những sự việc
có thể thảo luận cởi mở theo thời gian ngày càng tiến dần ra ngoài ranh giới
đó. Thực tế rằng chúng ta giật mình vì đọc thấy lời khuyên về sự đánh rắm phản
ánh thực tế là ranh giới ngày nay rất khác với nó vào thế kỷ 14.
Elias quan hệ sự thay đổi nhận thức
này về cách thức phù hợp để trục xuất sự đầy hơi với các thay đổi trong các
hình tượng xã hội, đặc biệt là ở triều đình Pháp. Nhiều người sống gần gũi với
nhau và có sự thường xuyên phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, có một nhu cầu to lớn để
quy định các xung lực của họ và buộc họ thực hiện những hạn chế lớn hơn. Sự
kiểm soát các xung lực bắt đầu trong các bậc thang cao của triều đình cuối cùng
được truyền tới những người ở địa vị thấp hơn. Nhu cầu mở rộng các kềm hãm này
trở nên tất yếu bởi các biến đổi hình tượng xa hơn, đặc biệt là mọi người ở các
địa vị xã hội khác nhau tiến tới gần nhau hơn, trở nên phụ thuộc vào nhau hơn,
và do sự giảm đi sự khắt khe của hệ thống phân tầng, làm cho việc tương tác
giữa những người có địa vị thấp và những người có địa vị cao trở nên dễ dàng
hơn. Kết quả là, ngày càng giảm đi nhu cầu đối với các giai cấp thấp để kiểm
soát sự đầy hơi (và nhiều hành vi khác)
như đối với những người ở giai cấp cao. Đồng thời, những người từ các giai cấp
cao cần phải kiểm soát sự đầy hơi của họ
khi có mặt không chỉ các bạn bè ngang hàng, mà cả những người thấp kém hơn họ.
Elias tổng
kết thảo luận của ông về các chức năng tự nhiên đó:
Xã hội dần
bắt đầu kềm hãm thành phần thú vị tích cực trong các chức năng xác định ngày
càng mạnh mẽ hơn bởi sự đánh thức các mối băn khoăn; hay chính xác hơn, nó thể
hiện sự vui thú này một cách riêng tư và bí mật (ví dụ, kềm chế nó trong bản
thân cá thể) trong khi đề cao các ảnh hưởng tiêu cực - không hài lòng, khiếp
sợ, chán ghét - như các cảm giác thường tình trong xã hội.
Sự hỉ mũi. Một quá trình tương tự được
tìm thấy trong các kềm chế đối với sự hỉ mũi. Ví dụ, một tư liệu ở thế kỷ 15 đã
cảnh cáo: “Đừng hỉ mũi mình với cùng một bàn tay mà bạn dùng để cầm thức ăn”.
Hay, bạn đọc thế kỷ 16 được nhắc nhở: “Không nên trải rộng chiếc khăn tay của
bạn sau khi đã chùi mũi và nhìn chăm chú vào nó như thể ngọc ngà châu báu đã
rơi xuống đó.” Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 18 các kiểu chi tiết đó đã được tránh
đưa vào các lời nhắc nhở: “Mỗi cử động bất giác của lỗ mũi.. là không tao nhã
và có vẻ trẻ con. Thọc ngón tay vào mũi là một điều sai lầm đáng tởm. Bạn nên
quan sát, khi hỉ mũi, tất cả các quy tắc của phép lịch sự và vệ sinh.” Như
Elias nói, “Sự thông đồng đang lan rộng.” Nghĩa là, những điều có thể thảo luận
một cách cởi mở trước đây một hoặc hai thế kỷ giờ đây được thảo luận một cách
kín đáo hoặc không bị đá động đến. “Ranh giới của sự xấu hổ” có liên quan đến việc hỉ mũi, cũng như nhiều
điều khác, đã tiến xa hơn. Sự xấu hổ đi
kèm với những sự việc (ví dụ như việc hỉ mũi) mà trong quá khứ không bị xem là
đáng xấu hổ. Ngày càng có nhiều bức tường được dựng lên giữa mọi người đến nỗi
những điều trước đây có thể tiến hành trước mặt người khác giờ đây đã bị che
đậy khỏi tầm mắt.
Các quan hệ tình dục. Elias mô tả một
xu hướng chung tương tự trong các quan hệ tình dục. Ở thời Trung cổ, đối với
nhiều người, kể cả đàn ông và đàn bà, việc ở chung với nhau suốt đêm trong cùng
một phòng là điều bình thường. Và, việc họ ngủ trần truồng cũng chẳng là bất
bình thường. Tuy nhiên, qua thời gian, người ta ngày càng có cảm giác xấu hổ
khi phô bày thân thể trần truồng trước sự có mặt của người khác phái. Với ý
nghĩa là một ví dụ cho hành vi tính dục “không văn minh”, Elias mô tả tập quán
lễ cưới sau ở đầu thời Trung cổ:
Đám rước đi
vào phòng cô dâu chú rễ được dẫn đường bởi một người đàn ông khá nhất. Chú rể
được cô dâu cởi bỏ các trang phục; cô ta
phải cởi ra một cách tao nhã. Họ phải trèo lên giường cưới trước sự có mặt của
các nhân chứng kiến thì cuộc hôn nhân mới có hiệu lực. Họ được đặt “nằm cạnh
nhau”. Phương ngữ nói rằng, “Khi đã nằm trên giường, các bạn thật sự cưới nhau.”
Ở cuối thời Trung cổ, tập tục này dần dần bị thay đổi tới mức đôi tân hôn được
phép nằm trên giường trong đầy đủ trang phục... Ngay cả ở xã hội chuyên chế
Pháp, cô dâu chú rể được mang tới giường bởi các khách khứa, trần truồng, và
được trao cho đồ ngủ của họ.
Rõ
ràng, sự thay đổi ngày càng xa theo thời gian với sự tiến bộ của văn minh. Ngày nay, mọi sự xảy ra ở giường cưới được
giấu kín, diễn ra ở phía sau sân khấu và ngoài tầm quan sát của mọi người. Nói
chung hơn, đời sống tình dục đã bị tước khỏi xã hội lớn và nằm trong phạm vi
gia đình nguyên tử.
Ở đây
có một điểm chủ yếu, được áp dụng một cách chung nhất, là sự văn minh hoá bao
gồm một sự biến đổi trong cách thức động năng của mọi người bị kiểm soát. Nghĩa
là, có sự vận động từ chỗ tương đối không có sự kiểm soát, hay một sự kiểm soát
ở phiá ngoài một cách rộng rãi, đến một tình thế có tính chất lâm thời hơn,
trong đó đề cao sự tự kiểm soát.
Trong
lĩnh vực tình dục, cũng như ở tất cả các lĩnh vực khác, quá trình văn minh hoá
không diễn ra theo một đường thẳng, mà là tiến tới rồi thoái lui, đôi khi đi
lệch hướng theo thời gian. Tuy nhiên, vẫn có một xu hướng có thể thấy rõ trong
tình dục và các vấn đề khác, có thể được mô tả như là quá trình văn minh hoá:
Quá trình
văn minh hoá của động năng giới tính, nhìn từ tầm vĩ mô, đi song hành với các
động năng khác, bất kể các khác biệt về căn nguyên xã hội chi tiết có thể luôn
luôn hiện hữu... sự kiểm soát trở nên gắt gao hơn. Bản năng chịu sự kềm hãm
chậm chạp nhưng tiến triển dần dần của đời sống công cộng của xã hội... Và sự
kềm hãm này, như các kềm hãm khác, ngày càng bị thúc ép ít dần bởi tác động vật
chất trực tiếp. Nó được tích lũy trong cá thể từ một thời kỳ xa xưa như là một sự tự kềm hãm tập tính bởi cấu trúc
của đời sống xã hội, bởi áp lực của các thể chế xã hội nói chung, và bởi các cơ
quan thực thi cụ thể của xã hội (mà trên hết là gia đình) nói riêng. Từ đó, các
yêu cầu và hạn chế của xã hội ngày càng trở nên một bộ phận của bản ngã.
Tổng quát, trong Lịch sử các thái độ, Elias quan tâm tới
các biến đổi trong cách thức cá thể tư duy, hành động và tương tác. Đôi khi ông
nói về điều này, nói chung, như là một thay đổi trong “cấu trúc tính cách”,
nhưng dường như Elias diễn tả nhiều hơn là các biến đổi trong tính cách; ông
cũng diễn tả các biến đổi trong cách thực mọi người hành động và tương tác. Gom
lại, có thể lý luận rằng Lịch sử của các
thái độ tập trung rộng rãi vào các quan tâm cấp độ vi mô. Tuy nhiên, có hai
yếu tố cản trở một sự diễn dịch như thế. Trước hết, trong cuốn Lịch sử các thái độ, Elias thường xử lý
các biến đổi đồng thời ở cấp độ vĩ mô (ở toà án, ví dụ) và ông lý luận rằng
“cấu trúc của tính cách và của xã hội tiến hoá trong một quan hệ hỗ tương không
thể tách biệt nhau”. Thứ hai, Lịch sử của
các thái độ được viết với một nhận thức rằng tập thứ hai, Quyền lực và phép lịch sự, xử lý tập
trung vào các biến đổi cấp độ vĩ mô này, sẽ đi kèm với nó. Dù sao đi nữa, ngay
dù Elias muốn tránh vấn đề khó khăn vi
mô-vĩ mô, một cuốn có tiêu điểm trung tâm về các vấn đề vi mô, còn cuốn kia chủ
yếu chú ý tới các vấn đề vĩ mô.
Quyền lực và
phép lịch sự
Nếu sự tự kềm chế là tâm điểm của
quá trình văn minh hoá, thì cái mà Elias quan tâm trong Quyền lực và phép lịch sự là các biến đổi trong sự kềm hãm xã hội
đi cùng với sự nảy sinh tự kềm chế này. Sẽ có ích để bắt đầu thảo luận này với
tóm lược của Elias về cuốn Lịch sử của các thái độ:
Bên trên đã
chỉ ra chi tiết các kềm hãm thông qua các góc độ khác biệt đã chuyển thành sự tự kềm hãm ra sao, các hành động có
tính bản năng thú tính hơn của loài người
đã dần dần bị đẩy ra phiá sau các sân khấu của đời sống cộng đồng xã hội
loài người ra sao, các quy tắc của toàn thể đời sống gây tác động và mang tính
bản năng bởi sự kiểm soát đã ngày càng
trở nên bền vững, ngày càng trở nên bao quát ra sao.
Tuy nhiên, dù có sự phản đối công
khai về sau đối với sự phân biệt vi mô-vĩ mô, dường như trong Quyền lực và phép lịch sự, ông xử lý một
cấp độ phân tích khác, có tính chất “vĩ mô hơn”:
Vấn đề cơ bản này, hình thành từ nhiều hoạch định và
hành động đơn lẻ của con người, có thể làm nảy sinh các biến đổi và các khuôn
mẫu mà không có một cá nhân đơn độc nào đã hoạch định hay tạo ra chúng. Từ sự phụ thuộc lẫn nhau này của
mọi người, nảy sinh một trật tự riêng, một trật tự thuyết phục và vững chắc hơn
ý chí và lý trí của cá thể con người tạo ra nó. Chính trật tự đan kết của những
thôi thúc và phấn đấu của con người này, trật tự xã hội này, đã quyết định quá
trình biến đổi lịch sử; nó nằm bên dưới quá trình văn minh hoá.
Đây
là những từ mạnh mẽ, gần như có tính chất của Durkheim, mô tả một thực tại độc
nhất (riêng) và thuyết phục đã “quyết
định quá trình biến đổi lịch sử”. Dù về sau Elias khoa trương về nhu cầu khắc
phục sự phân biệt vi mô-vĩ mô, một lập
trường như thế, cơ bản đã không được hỗ trợ bởi cuốn Quyền lực và phép lịch sự, mà xu hướng của nó đôi khi là xử lý ảnh
hưởng, đôi khi là ảnh hưởng quyết định, của các cấu trúc vĩ mô đối với các hiện
tượng vi mô, hay mối liên lạc giữa “các biến đổi đặc thù trong cấu trúc các
quan hệ con người và các biến đổi tương ứng trong cấu trúc cá tính”.
Sự
kiện Elias phân biệt giữa các điều tra căn nguyên tâm lý (psychogenetic) và căn
nguyên xã hội (sociogenetic) phản ánh các khó khăn của ông trong việc xử lý vi
mô và vĩ mô theo một cách thức hoà hợp. Ở một cuộc điều tra căn nguyên tâm lý,
người ta tập trung vào tâm lý học cá thể, trong khi các điều tra căn nguyên xã
hội có một phạm vi rộng lớn hơn và tiêu điểm dài hạn hơn về “cấu trúc tổng thể,
không chỉ về một trạng thái xã hội riêng lẻ mà là về một lĩnh vực xã hội được
tạo thành bởi một nhóm đặc thù của các xã hội phụ thuộc lẫn nhau, và về chuỗi
trật tự tiến hoá của nó”.
Sự
biến đổi cấu trúc vĩ mô này có tầm quan trọng to lớn như thế nào đối với quá
trình văn minh hoá? Có thể diễn tả nó như là sự nối dài của “các chuỗi phụ
thuộc lẫn nhau”:
Từ thời kỳ
lịch sử sơ khai của văn minh phương Tây cho tới nay, các chức năng xã hội đã
ngày càng trở nên khác biệt dưới áp lực của sự cạnh tranh. Càng khác biệt nhau,
con số các chức năng càng tăng lên và do vậy, cũng tăng lên con số những người
mà cá thể thường xuyên phụ thuộc vào trong tất cả các hành động của anh ta, từ
đơn giản và bình thường nhất cho tới phức tạp và bất thường nhất. Vì ngày càng
có nhiều người phải hoà hợp hành vi của họ với hành vi của những người khác,
mạng lưới của các hành động phải được tổ
chức ngày càng chặt chẽ và chính xác hơn, nếu mỗi hành động của cá thể là để
làm tròn chức năng xã hội của nó. Cá thể buộc phải điều chỉnh hành vi của anh ta theo một cung cách ngày càng khác
biệt, đều đặn và bền vững... sự kiểm soát hành vi phức tạp và bền vững hơn đang
ngày càng thấm nhuần vào cá thể từ những năm tháng đầu đời như là một hành động vô thức, một sự tự cưỡng bách mà anh ta không thể kháng cự
lại thậm chí ngay khi nếu anh ta mong muốn một cách có ý thức.
Kết quả của tất cả những điều này là
“sự kéo dài các chuỗi của hành động xã hội và sự phụ thuộc lẫn nhau”, là cái góp
phần cho nhu cầu tương ứng đối với các cá thể để tiết chế các cảm xúc của họ
bằng cách phát triển “tập tính của các sự kiện nối kết trong phạm vi các chuỗi
nguyên nhân và hậu quả”.
Như vậy, đối với Elias, sự phân biệt
ngày càng lớn của các chức năng xã hội đóng một vai trò chủ yếu trong quá trình
văn minh hóa. Ngoài sự phân biệt này, và có liên quan tới nó, là tầm quan trọng
của cái mà Elias gọi là “một sự tái tổ chức hoàn toàn cơ cấu xã hội”. Ở đây ông
mô tả quá trình lịch sử đã chứng kiến sự nảy sinh của các cơ quan trung tâm
ngày càng bền vững của xã hội. Các cơ quan này chiếm độc quyền các phương tiện
của lực lượng vật chất và của hệ thống thuế má. Trong quá trình này, chủ yếu là
sự nảy sinh một ông vua với địa vị tuyệt đối, cũng như của tòa án (đặc biệt là
ở Pháp và trong thời ngự trị của vua Louis 14, dù là các tòa án Châu Âu cũng có
sự nối kết gần gũi). Cái mà Elias gọi là một “kết cấu hoàng gia” đang vận hành
ở đây.- các ông vua có thể nảy sinh trong một hình tượng đặc thù nơi mà các nhóm
có tính cạnh tranh về mặt chức năng mâu thuẫn với nhau (chúng được định tính
đồng thời bởi sự phụ thuộc và sự thù
địch) và quyền lực được phân phối đồng
đều cho chúng, do vậy hạn chế một xung đột có tính quyết định hay một thỏa
thuận có tính quyết định. Elias xác định: “Không phải do cơ hội, không phải khi
mà một tính cách cai trị mạnh mẽ ra đời, mà chính là khi một cấu trúc xã hội
đặc thù cung cấp cơ hội, cơ quan trung tâm đạt được quyền lực quý tộc, thể hiện
thường nhất ở các chế độ chuyên chế cao độ.” Nói cách khác, một ông vua nảy
sinh khi hình tượng thích hợp nằm đúng chỗ.
Triều đình của nhà vua có một tầm
quan trọng đặc biệt đối với Elias, vì chính ở đây các biến đổi diễn ra và cuối
cùng có ảnh hưởng tới toàn xã hội. Đối lập với người chiến binh, người mà các
chuỗi phụ thuộc ngắn của anh ta làm anh ta dễ thực hiện hành vi bạo lực, quý
tộc triều đình với các chuỗi phụ thuộc dài hơn nhiều vào nhiều quý tộc khác thấy cần phải tăng cường
tình cảm với những kẻ khác. Nhà quý tộc
cũng thấy khó mà bộc lộ tự do
tình cảm của mình thông qua bạo lực hay các hành động khác. Anh ta còn bị hạn
chế bởi sự kiện rằng đang ngày càng thu được quyền kiểm soát các phương tiện
bạo lực. “Sự độc quyền về bạo lực vật chất, sự tập trung vào vũ khí và lính
tráng dưới một nhà cầm quyền… buộc những người không có vũ khí ở các xã hội an
bình kềm hãm bạo lực của riêng họ qua sự tiên đoán hay sự phản ánh. Nói cách
khác nó tác động lên mọi người một mức độ tự kiểm soát ít hơn hay nhiều hơn.” Tính độc quyền của bạo
lực về cơ bản có quan hệ với khả năng của nhà vua để độc quyền hệ thống thuế
khóa, vì các loại thuế cho phép nhà vua chi trả cho sự kiểm soát các phương
tiện bạo lực. Trong thực tế, Elias mô tả một hoàn cảnh bao gồm sự tác động lẫn
nhau giữa hai tính độc quyền này: “Các phương tiện tài chính trút vào nhà cầm
quyền trung tâm này, duy trì sự độc quyền về lực lượng quân sự của nó, rồi tới lượt điều này lại duy trì sự độc
quyền về thuế khóa.” Ngoài ra, sự tăng dần thu
nhập của nhà vua đi kèm với sự
giảm dần thu nhập của giới quý
tộc, và sự chênh lệch này phục vụ cho sự nâng cao hơn nữa quyền lực của nhà
vua.
Giới quý tộc đóng một vai trò chủ
yếu trong quá trình văn minh hóa vì các thay đổi diễn ra trong các nhóm ưu tú
dần dần được phổ biến trong xã hội:
Chính ở
trong xã hội văn minh này, nguồn cơ bản
của các mô hình hành vi được tạo thành, rồi hợp nhất với các nguồn khác và được
bổ sung theo lập trường của các nhóm thực hiện chúng, trải rộng, với sự thúc ép
thực hiện đã tiên đoán, mở rộng mãi phạm vi các chức năng. Hoàn cảnh đặc biệt
của chúng làm cho những người của xã hội văn minh - các chuyên gia tạo tác và
nắn đúc hành vi xã hội, bị ảnh hưởng bởi sự vận động này, hơn là bất kỳ nhóm
phương Tây nào khác.
Hơn
nữa, các biến đổi phát khởi từ phương Tây này bắt đầu lan ra nhiều vùng trên
thế giới.
Sự
nảy sinh nhà vua, triều đình và sự chuyển biến từ người chiến binh thành quan lại triều thần
(hoặc là sự “quan lại hóa” của người chiến binh) đối với Elias thể hiện một “sự
bộc phát” chủ yếu trong quá trình văn minh hóa. Ý tưởng về sự bộc phát này là
trung tâm đối với lý thuyết của Elias về sự biến đổi xã hội; ông không xem biến
đổi là một quá trình đơn tuyến suôn sẻ, mà là một quá trình có nhiều điểm dừng
và khởi hành - một vận động có nhiều tiến thoái.
Trong
khi Elias dành tầm quan trọng lớn lao cho sự ra đời của triều đình, nguyên nhân
cuối cùng của các biến đổi có tính quyết định xảy ra sau đó là sự biến đổi
trong hình tượng tổng thể xã hội của thời gian. Nghĩa là, vấn đề chủ yếu là các
biến đổi trong các quan hệ đa dạng giữa các nhóm (ví dụ, giữa các chiến binh và
các quý tộc), cũng như các biến đổi trong các quan hệ giữa các cá thể trong
những nhóm đó. Hơn nữa, hình tượng này kềm hãm cả giới quý tộc cũng như nhà
vua: “Các ông hoàng và các nhóm quý tộc có khuynh hướng tỏ ra là những người
sống một cuộc sống tự do không câu thúc. Ở đây… nảy ra rất rõ cái đã câu thúc
các giai cấp thượng lưu, ngay cả thành viên có quyền lực nhất của nó, nhà vua
quyền uy tối thượng.”
Từ sự
thống trị của nhà vua và giới quý tộc có một sự vận động tiệm tiến hướng tới
một nhà nước. Nói cách khác, một khi sự tư hữu độc quyền (của nhà vua) về vũ
khí và thuế khóa đã vào khuôn, nền tảng được thiết lập cho sự độc quyền công
cộng của các tiềm năng đó - nghĩa là sự nảy sinh nhà nước. Có một sự kết nối
trực tiếp giữa sự tiến triển của nhà vua và sau đó là nhà nước như là các cơ
quan kiểm soát trong xã hội và sự phát triển của một cơ quan kiểm soát song
hành trong cá thể. Chúng bắt đầu cùng nhau thực thi quyền lực trước đó chưa
từng thấy lên khả năng hành động theo các cảm xúc của cá thể. Không phải là
trước lúc này mọi người hoàn toàn thiếu sự tự kiểm soát, nhưng sự tự kiểm soát
tiếp diển và vững bền hơn trong việc ảnh hưởng
ngày càng nhiều đến các khía cạnh của cuộc đời của mọi người. Lập luận
của Elias rất gần với của Durkheim khi ông cho rằng với các chuỗi phụ thuộc kéo
dài, “cá thể biết cách kiểm soát bản thân một cách vững vàng hơn; lúc này anh
ta ít là tù nhân của các cảm xúc của anh ta hơn.”
Một
khía cạnh thú vị trong lập luận của Elias là ông thừa nhận rằng sự kiểm soát
các cảm xúc này không phải là một điều hoàn toàn tốt đẹp. Đời sống trở nên ít
hiểm nguy hơn, nhưng nó cũng trở nên ít vui thú hơn. Không thể thể hiện trực
tiếp những cảm xúc của họ, mọi người cần tìm ra các lối thoát khác, chẳng hạn
trong các giấc mơ hay qua các quyển sách. Ngoài ra, cái là những đấu tranh ở
bên ngoài có thể biến thành chủ quan hóa như, theo cách dùng từ của Freud,
những đấu tranh giữa xung động bản năng (the id) và siêu ngã (superego). [Tư
duy của Elias về cá thể chịu ảnh hưởng nặng từ lý thuyết của Freud]. Như vậy,
trong khi sự kiểm soát lớn hơn đối với các cảm xúc đem lại một sự giảm thiểu
bạo lực đáng kể, nó cũng mang theo sự chán nản và sự hiếu động.
Các
chuỗi phụ thuộc kéo dài không chỉ gắn liền với sự kiểm soát có tầm ảnh hưởng
lớn hơn, mà cả với sự nhạy cảm tăng lên đối với những người khác và bản ngã.
Hơn thế, các xét đoán của mọi người trở nên đậm nét và giàu sắc thái hơn, làm
cho họ phán xét và kiểm soát chính bản thân và những người khác tốt hơn. Trước
lúc xã hội triều đình ra đời, mọi người phải tự bảo vệ họ khỏi bạo lực và cái
chết. Về sau, khi nguy cơ này xa dần, mọi người có thể xoay xở để có sự nhạy
cảm hơn đối với các nguy cơ và hành động tinh vi hơn rất nhiều. Sự nhạy cảm lớn
này là một khía cạnh chủ yếu của quá trình văn minh hóa và là đóng góp chủ yếu
cho sự phát triển xa hơn của nó.
Có
tầm quan trọng lớn lao trong quá trình văn minh hóa là sự xã hội hóa của thiếu
niên để chúng phát triển sự tự kềm chế. Tuy nhiên, nói đúng ra, sự gia tăng tự
kềm chế cũng có các vấn đề của nó. “Sự văn minh hóa của thiếu niên không bao
giờ là một quá trình hoàn toàn không trải qua đau đớn; nó luôn luôn để lại
những vết sẹo.”
Các nghiên cứu trường hợp: Thời gian và thể
thao
Bản
chất của lập luận chung của Elias được làm rõ khi chúng ta xem xét, mặc dù vắn
tắt, tác phẩm của ông về thời gian và thể thao.
Một
trong những tác phẩm cuối cùng của Elias là Thời
gian: Một tiểu luận. Trong cuốn này, Elias tìm cách nối kết ý thức ngày
càng tăng về thời gian của chúng ta với quá trình văn minh hóa. Ở những thời sơ
khai, mọi người không cần đến đồng hồ hay lịch. Họ có thể sống sót và thực hiện
chức năng mà không cần cứ phải kiểm tra sự trôi qua của thời gian. Tuy nhiên,
với sự phụ thuộc lẫn nhau tăng dần của mọi người, ngày càng có một nhu cầu nhận
thức về thời gian. Việc chậm trễ ảnh hưởng không chỉ đến bản thân, hay một phạm
vi tương đối nhỏ, mà là một số lượng người ngày càng tăng. Elias tóm tắt lập
luận cơ bản của ông như sau:
Giống như
nhiều kỷ năng xã hội khác, việc ấn định giờ giấc đã tăng trưởng về điều kiện
thể hiện của nó một cách chậm chạp qua nhiều thế kỷ trong sự nối tiếp tương hỗ
với sự tăng trưởng các yêu cầu xã hội cụ thể. Trong đó, trên hết là nhu cầu để
cộng tác, để đồng bộ hóa các họat động riêng của họ với những người khác và với
sự tiếp nối các sự kiện phi con người. Một nhu cầu như thế không phải tồn tại
trong bất cứ xã hội nào. Nó tự khẳng định ngày càng mạnh mẽ hơn khi các xã hội
do con người tạo ra ngày một trở nên lớn hơn, đông đúc và phức tạp hơn. Trong
các nhóm thợ săn, người chăn nuôi, người trồng trọt thời nguyên thủy, nhu cầu
ấn định giờ giấc hay định ngày tháng một cách chính xác là rất ít. Trong các xã
hội đô thị hóa, nhất là ở các xã hội mà sự chuyên môn hóa các chức năng xã hội
đã tiến bộ khá xa, nơi các chuỗi phụ thuộc lẫn nhau đang ràng buộc những người
người thực hiện các chức năng đó lại với nhau dài và đa dạng, và nơi mà phần
nhiều các công việc vất vả hàng ngày của con người được thực hiện bởi các năng
lượng và máy móc do con người chế tạo ra, nhu cầu ấn định giờ giấc và các
phương tiện để thỏa mãn nó, các dấu hiệu của những mảnh thời gian cơ giới, trở
nên không thể tránh né được, và do vậy, làm cho mọi người ý thức về thời gian.
Các biến đổi này ở cấp độ xã hội
cũng song hành ở cấp độ cá thể bởi một biến đổi trong cấu trúc tính cách xã
hội, hoặc cái mà Elias gọi là “tập tính xã hội” (social habitus), một khái niệm
giả thiết thậm chí tầm quan trọng lớn hơn trong tác phẩm của Pierre Bourdieu
(xem Chương 10). Trong trường hợp này, tập tính bao gồm “sự tự điều chỉnh không
thể lay chuyển trong phạm vi thời gian của mọi người được mang vào các xã hội
có tính chất điều chỉnh thời gian cao độ”. Như vậy, đối với một xã hội ở nghĩa
tổng thể, với các đồng hồ và lịch có mặt khắp nơi, và đối với các cá thể với “ý
thức-thời gian cá nhân” của họ, thời gian đã ngày càng trở nên quan trọng. Quá
trình văn minh hóa đã mang theo nó cả sự tự điều chỉnh về mặt thời gian và
nhiều sự nhạy cảm hơn đối với thời gian và sự trôi qua của nó. Elias nhận định:
“Sự cá thể hóa của sự kiểm soát thời gian-xã hội do đó mang trong hầu hết hình
thức biến hóa các đặc điểm của một quá trình văn minh hóa.” Trong ngữ cảnh của
tác phẩm về thời gian này của ông, Elias đưa ra một khái quát về viễn cảnh của
ông đối với sự liên kết vi mô-vĩ mô: “Cấu trúc cá tính của con người phát triển
theo những tuyến khác nhau tùy thuộc vào những khác biệt trong cấu trúc, và do
vậy, tùy thuộc vào giai đoạn phát triển của các xã hội nơi họ đã lớn lên.”
Quay sang thể thao, Elias lý luận
rằng “sự phát triển của thể thao cho thấy một phát triển toàn diện của luật về
hành vi và tình cảm trong cùng một chiều
hướng” như quá trình văn minh hóa nói chung. Các kiểu thể thao đã phát triển
của Anh Quốc đã được quy định một cách chặt chẽ, có ít bạo lực hơn và đòi hỏi
nhiều tự kiểm soát hơn những kiểu có trước đó hay đang tồn tại trong các xã hội
khác. Chính các kiểu này đã được các quốc gia khác chọn và cũng định tính cho
thể thao trên khắp thế giới.
Sự phát triển này gắn liền với một
sự vận động chung song hành ở nước Anh trong thế kỷ 18 hướng tới một xã hội hòa
bình hơn. Các thể chế trung tâm của quốc gia có thể đạt được sự kiểm soát các
phương tiện bạo lực. Kết quả là các cuộc đấu tranh sau đó để kiểm soát quốc gia
đều có tính chất phi bạo lực. Sau một thời kỳ xung đột gay gắt kéo dài, một hệ
thống quốc hội đã được sinh ra. Một hệ thống như thế hàm chứa “sự sẵn lòng của
một bộ phận hay một đảng phái trong chính phủ để trao quyền cho các đối thủ mà
không dùng đến bạo lực nếu các nguyên tắc của quốc hội đòi hỏi nó, ví dụ nếu
một cuộc bầu cử quan trọng trong quốc hội hay một cuộc tuyển cử trong xã hội
chống lại nó”. Sự phát triển này, tới
lượt nó, lại gắn liền với sự hòa bình của xã hội theo nghĩa một tổng thể. Những
điều này diễn ra trong vòng một thế kỷ và đối với Elias là một “ví dụ gây ấn
tượng khác về một sự bộc phát văn minh”.
Sự
thủ tiêu xung đột và bạo lực này ở cấp độ quốc gia song hành với một sự
thủ tiêu tương tự đối với việc săn cáo.
Các nguyên tắc săn cáo đã được hình thành để mọi người có thể trải nghiệm tính
kích thích của cuộc săn mà không cần
dùng đến bạo lực và giết chóc. Sự giết chóc được thực hiện bằng cách “ủy thác”.
Nghĩa là, những con chó săn tiến hành sự giết chóc chứ không phải con người. Ngoài
ra, tập quán ăn thịt cáo không còn tồn tại. Đây là một ví dụ của cái mà Elias
gọi là “sự thể thao hóa” các trò tiêu khiển của người Anh. Tuy nhiên, với sự
thể thao hóa này, nảy sinh vấn đề nhàm chán.
Bạo lực có thể bị loại bỏ mà không kèm theo việc loại bỏ sự kích thích
mà mọi người vẫn còn cần thiết và tìm kiếm? Trong khi thể thao có thể thực hiện chức năng này đến một mức độ nào
đó, thực tế là bạo lực vẫn nhiều khi diễn ra trong các sự kiện thể thao (ví dụ,
bóng đá bạo lực ở Anh và nhiều nơi khác), và thực tế là bạo lực vẫn tiếp diễn
rộng khắp trên toàn thế giới bên ngoài các sự kiện thể thao, dường như đã chỉ
ra rằng thể thao không phải là một sự thay thế hoàn hảo cho sự xung đột và bạo
lực xã hội.
TÓM TẮT
Tiêu điểm của chương này là sự phát
triển chủ yếu của lý thuyết xã hội học Mỹ trong những năm 1980 và 1990 -
sự nảy sinh mối quan tâm đến việc hòa
hợp vi mô-vĩ mô. Bước phát triển này thể hiện một sự quay trở lại với các quan
tâm của các nhân vật lớn của lý thuyết xã hội học thời sơ khai và một sự đi ra
khỏi chủ nghĩa cực đoan lý thuyết, cả về vi mô và vĩ mô, đã định tính phần lớn
lý thuyết xã hội học Mỹ thế kỷ 20. Trong khi ít có sự chú ý đến vấn đề vi mô-vĩ
mô trước những năm 1980, trong thập kỷ đó và bước vào hững năm 1990, mối quan
tâm tới đề tài này đã bùng nổ. Các tác phẩm đến từ cả hai phía cực đoan vi mô
cũng như vĩ mô cũng như các quan điểm khác nhau giữa chúng. Một số tác phẩm tập
trung vào các lý thuyết hòa hợp vi mô-vĩ
mô, trong khi số còn lại quan tâm đến sự liên kết giữa các cấp độ vi mô
và vĩ mô của phân tích xã hội. Ngoài khác biệt cơ bản này, còn có các khác biệt
quan trọng khác giữa những người làm việc trong các lý thuyết và các cấp độ hòa
hợp.
Trọng tâm của chương này là một thảo
luận về nhiều ví dụ chính yếu về các tác phẩm hòa hợp các cấp độ vi mô và vĩ mô
của phân tích xã hội. Ba tác phẩm của Ritzer, Alexander và Wiley, phát triển
các mô hình vi mô-vĩ mô rất giống nhau
về thế giới xã hội. Trong khi có những khác biệt quan trọng giữa các tác phẩm
này, các hình dung tương đồng của chúng về thế giới xã hội phản ánh một sự liên
ứng đáng kể giữa những người tìm cách liên kết các cấp độ vi mô và vĩ mô của
phân tích xã hội.
Một ví dụ hạn chế hơn nhiều do
Coleman đề ra, ông tập trung vào mối liên kết vi mô-vĩ mô. Tác phẩm này bị phê
phán vì nó thất bại trong việc giải quyết mối liên kết vi mô-vĩ mô, cũng như vì
nó thiếu một sự hình dung biện chứng về thế giới xã hội. Tác phẩm của Liska được thảo luận trong ngữ cảnh
này vì các nỗ lực để khắc phục các hạn chế của tiêu điểm tư vi mô tới vĩ mô của Coleman, và để xử lý vấn đề từ vĩ mô
tới vi mô. Liska nhấn mạnh tới tầm quan trọng của sự kết hợp và các yếu tố ngữ
cảnh trong việc xử lý liên kết vi mô-vĩ mô. Nỗ lực của Collins về sự hòa hợp vi
mô-vĩ mô được thảo luận và bị phê phán vì tính chất giản hóa luận vi mô -
khuynh hướng giảm trừ các hiện tượng vĩ mô xuống thành các hiện tượng vi mô của
nó.
Một loạt các chiều hướng mới hứa hẹn
trong các tác phẩm về sự hòa hợp vi mô-vĩ mô cũng được thảo luận. Một cách tiếp
cận như thế bao gồm các lý thuyết gia vi mô làm việc với các vấn đề vĩ mô và
các lý thuyết gia vĩ mô làm việc với các vấn đề vi mô. Có nhiều hứa hẹn hơn là
các tác phẩm về vấn đề liên kết của những người không có định kiến về một cấp
độ này hay cấp độ khác. Các tác phẩm cũng có tiềm năng là các tác phẩm khởi đầu
ở cấp độ trung gian và hướng dần tới các cấp độ vi mô và vĩ mô. Cũng có những
nỗ lực để tập trung vào các quan hệ đang diễn tiến giữa vi mô và vĩ mô. Nhưng
nhiều hứa hẹn nhất là các tác phẩm tập trung vào các quan hệ biện chứng giữa
mọi cấp độ phân tích xã hội. Còn có rất nhiều điều mà các lý thuyết gia chú ý
đến mối quan hệ vi mô-vĩ mô phải thực hiện.
Chương này khép lại với một xem xét
chi tiết tác phẩm của một trong những tiền bối Châu Âu của các tác phẩm Mỹ về
vấn đề hòa hợp vi mô-vĩ mô - Nobert Elias. Đặc biệt thích đáng là các tư tưởng
của ông về xã hội học hình tượng, cũng như nghiên cứu đối chiếu lịch sử của ông
về mối quan hệ giữa các ứng xử cấp độ vi mô và các biến đổi cấp độ vĩ mô ở
triều đình và nhà nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét