Thứ Tư, 25 tháng 3, 2020

LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC - GEORGE RITZER - PHẦN 2 - 6







CHƯƠNG 8:
LÝ THUYẾT NỮ QUYỀN ĐƯƠNG THỜI

PATRICIA MADOO ENGERMANN
ĐH GEORGE WASHINGTON
JILL NIEBRUGGE
ĐH GEORGE  WASHINGTON

CÁC CÂU HỎI LÝ THUYẾT CƠ BẢN
CÁC LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC VỀ PHÁI TÍNH: TỪ 1960  TỚI NAY
Các lý thuyết xã hội vĩ mô về phái tính
Các lý thuyết xã hội vi mô về phái tính
CÁC THỂ LOẠI CỦA THUYẾT NỮ QUYỀN ĐƯƠNG THỜI
Sự khác biệt về phái tính
Sự bất bình đẳng về phái tính
Sự áp bức phái tính
Làn sóng nữ quyền thứ ba
MỘT THUYẾT XÃ HỘI HỌC NỮ QUYỀN
Xã hội học nữ quyền về kiến thức
Trật tự xã hội vĩ mô
Trật tự xã hội vi mô
Tính chủ quan
MỘT TỔNG HỢP VI MÔ-VĨ MÔ

            Thuyết nữ quyền là một hệ thống tư tưởng trải rộng và khái quát về đời sống xã hội và kinh nghiệm con người được phát triển từ một viễn cảnh phụ nữ-trung tâm. Thuyết nữ quyền có tính chất phụ nữ-trung tâm (woman-centered) hoặc những người phụ nữ-trung tâm (women-centered) theo ba cách thức. Trước hết, “đối tượng” điều tra chủ yếu của nó, khởi điểm của mọi điều tra, là hoàn cảnh (hay các hoàn cảnh) và những kinh nghiệm của giới nữ trong xã hội. Thứ hai, nó coi phụ nữ là các “chủ thể” trung tâm trong quá trình điều tra; nghĩa là, nó tìm cách nhìn thế giới từ lợi điểm riêng biệt của phụ nữ trong thế giới xã hội. Thứ ba, thuyết nữ quyền có tính chất phê phán và chính trị với tư cách của phụ nữ, để tìm cách tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn cho nữ giới, và từ đó - nó lý luận - cho tất cả nhân loại.

            Thuyết nữ quyền khác với đa phần các lý thuyết khác theo một số cách. Thứ nhất, nó là tác phẩm của một cộng đồng đa bộ môn, bao gồm không chỉ các nhà xã hội học, mà cả các học giả từ các bộ môn khác, như nhân loại học, sinh học, kinh tế học, lịch sử, triết học, khoa học chính trị, tâm lý học và thần học: những người tốt nhất được nhìn nhận là các nhà trước tác sáng tạo, những người tự cho mình là các nhà hoạt động chính trị, các phát ngôn nhân cho nữ giới các màu da, và các tác gia từ nhiều cộng đồng tri thức của Châu Âu và Thế giới thứ ba. Thứ hai, các nhà xã hội học nữ  giới,  như  các học giả hàn lâm nữ giới khác, làm việc với một lịch trình gấp bội: để mở rộng và đào sâu bộ môn nguyên thủy của họ - xã hội học, trong trường hợp này - bằng cách tái tạo lại kiến thức bộ môn để lý giải các phát hiện được thực hiện bởi các nữ học giả, và để phát triển một nhận thức  phê phán về xã hội, nhằm tthay đổi thế giới theo những chiều hướng công bằng và nhân bản hơn. Một lịch trình gấp bội theo kiểu này là cái xác nhận phẩm chất của bất kỳ lý thuyết phê phán nào. Trong những năm 1990, lý thuyết xã hội học nữ quyền có thể là động lực tốt nhất cho các trường phái phê phán để có một tác động đến xã hội học. Nói thế là vì nó không chỉ thúc đẩy việc mở rộng lý thuyết nói chung, mà thuyết xã hội học nữ quyền còn được sử dụng để định lại khuôn mẫu các tiểu lĩnh vực xã hội học như gia đình, lao động, các tổ chức, luật pháp, tội phạm học, sự bạo động, và các lý thuyết về trật tự toàn cầu. Thứ ba, dù  có những phát triển này, nhiều - có lẽ là phần lớn - nhà xã hội học vẫn còn e ngại để kết hợp thuyết nữ quyền vào tác phẩm của họ, một phần vì thuyết này dường như quá cấp tiến, một phần vì nhiều nhà sáng tạo ra nó không phải là nhà xã hội học, phần vì các mối ngờ vực về tính chất khoa học của một công cuộc hàn lâm như  thế quá gần với thuyết hoạt động chính trị, và cũng vì quá nhiều người sáng tạo ra nó là phụ nữ. Thứ tư, thuyết nữ quyền không bám víu vào bất cứ cái nào trong ba mô hình đã từ lâu được định khuôn trong định hướng xã hội học đối với vấn đề chủ thể của nó - mô hình các sự kiện xã hội, mô hình sự xác định xã hội, và mô hình hành vi xã hội (xem phần Phụ lục). Xuất phát điểm từ một mô hình khác lạ này xảy ra vì thuyết nữ quyền đã đi một chặng đường dài hướng tới sự hoà hợp một cách hiệu quả, và do đó, đã vượt quá mối tranh chấp xã hội vi mô với xã hội vĩ mô, vốn là một trong các nguyên nhân chủ yếu của sự phân chia về mặt mô hình này (xem chương 9). Tính siêu nghiệm này về vấn đề vĩ mô chống vi mô có thể làm cho các nhà xã hội học từng dựa vào một trong các lý thuyết đã tồn tại từ lâu của bộ môn khó khăn hơn trong việc xúc tiến mối quan hệ với thuyết nữ quyền. Thế nhưng đồng thời, sự tiên nghiệm này là một trong những ngụ ý kích thích nhất của thuyết nữ quyền đối với những người đang làm việc trên các mặt trận của lý thuyết xã hội học đương thời. Chúng tôi sẽ mở rộng khía cạnh này của thuyết nữ quyền trong phần cuối cùng của chương này.

            Trong phần còn lại của chương này, chúng tôi  sẽ mô tả các vấn đề lý thuyết cơ bản mà các lý thuyết gia nữ quyền nói tới; một cái nhìn lướt qua lý thuyết về phái tính của các trường phái lý thuyết xã hội học khác nhau; và rồi kiểm chứng chi tiết các dạng của thuyết nữ quyền hiện ảnh hưởng tới xã hội học và làm nảy sinh một lý thuyết xã hội học nữ quyền. Trong phần chính của chương, chúng tôi thảo luận các chủ đề chính của lý thuyết xã hội học nữ quyền đương thời.

            CÁC CÂU HỎI LÝ THUYẾT CƠ BẢN

            Sự thúc đẩy đối với thuyết nữ quyền đương thời bắt đầu trong một câu hỏi tưởng chừng như đơn giản: “Thế còn phụ nữ thì sao?”. Nói cách khác, Những người phụ nữ ở chỗ nào trong bất cứ hoàn cảnh được điều tra nào? Nếu họ không hiện diện, thì tại sao? Nếu họ hiện diện, chính xác là họ đang làm gì? Họ trải nghiệm hoàn cảnh như thế nào? Họ đóng góp gì cho nó? Nó có ý nghĩa gì đối với họ?

            Hậu quả của việc cố gắng trả lời cho câu hỏi cơ bản của thuyết nữ quyền – “Thế còn phụ nữ thì sao? - bao hàm một sự chuyển biến mạnh mẽ. Cộng đồng học giả đương thời phát hiện ra rằng cái mà nó giả đoán  là sự  phổ quát về kinh nghiệm thực ra chỉ là một lý giải riêng biệt cho các actor nam giới và các kinh nghiệm nam giới. Nhận thức về một tập hợp tổng thể các actor mới thể hiện một sự tái tạo lại nhận thức của chúng ta và sự xác định khuôn mẫu của mọi hoàn cảnh xã hội. Những người phụ nữ, các nhà nữ quyền nồng nhiệt, có thể đưa yêu sách đòi lại “phân nửa bầu trời”. Và thật sự, ảnh hưởng cũng khá giống với sự phát hiện ra, thông qua tầm ngắm của một kính viễn vọng mới, vô số vì sao trên vũ trụ cho đến nay chưa được khám phá, một hình thể mới về cơ bản đối với mỗi chòm sao.

            Hai mươi lăm năm đưa ra câu hỏi này đã tạo ra một số kết luận khái quát. Phụ nữ hiện diện trong tất cả các hoàn cảnh, nơi nào không có họ, không phải là vì họ thiếu khả năng hay sự quan tâm mà là vì có những nỗ lực một cách chủ định nhằm loại trừ họ ra ngoài. Ở nơi nào họ hiện diện, nữ giới đã có vai trò rất khác với khái niệm phổ biến về họ (ví dụ như, các bà vợ, bà mẹ thụ động). Thật ra, khi những bà vợ và bà mẹ giữ một loạt các vai trò khác, nữ giới đã, cùng với nam giới, sáng tạo một cách chủ động các hoàn cảnh được nghiên cứu. Thế nhưng dù cho phụ nữ hiện diện tích cực trong phần lớn các hoàn cảnh xã hội, những học giả, công luận, và chính bản thân các actor xã hội, dường như mù lòa đối với sự hiện diện của họ. Hơn nữa, các vai trò của phụ nữ trong phần lớn các hoàn cảnh xã hội, dù có tính chất chủ yếu, đã bị phân biệt, có ít đặc quyền hơn, và có vị trí thấp hơn đối với những vai trò đó của nam giới. Sự vô hình hóa của họ chỉ là một chỉ báo cho sự bất bình đẳng này.    

            Câu hỏi cơ bản thứ hai  của thuyết nữ quyền là: “Vậy thì tại sao tất cả những chuyện này lại là như vậy?” Trong khi câu hỏi  đầu  tiên thể hiện một sự mô tả thế giới xã hội, câu hỏi này đòi hỏi một sự lý giải về thế giới đó. Sự mô tả và sự lý giải về thế giới xã hội là hai mặt của bất kỳ lý thuyết xã hội học nào. Các nỗ lực  của thuyết nữ quyền để trả lời các câu hỏi này do đó đã tạo ra một lý thuyết về sự quan trọng phổ quát cho xã hội học.

            Trong vòng 25 năm tìm tòi khám phá những vấn đề này, phạm vi của thuyết nữ quyền đã dần dần lớn rộng và bao gồm nhiều người ở các bối cảnh xuất thân khác nhau, cả ở Mỹ và trên toàn thế giới. Điều này đã dẫn tới cái mà hiện nay người ta gọi là: “làn sóng nữ quyền thứ ba” (third-wave feminism), một phong trào được định tính bởi tiêu điểm của nó vào các ngụ ý về sự giống nhau như đúc đến từ  việc  nói về “một phụ nữ” hay “những phụ nữ” và từ một quan tâm sâu sắc tới vấn đề về các khác biệt giữa phụ nữ. Quan tâm này đã làm nảy sinh câu hỏi cơ bản thứ ba đang dẫn đường cho tác phẩm lý thuyết nữ quyền ngày nay: “Thế còn các khác biệt giữa những người phụ nữ thì sao?”[1] Chúng tôi gọi câu hỏi thứ ba này là câu hỏi định phẩm cho thuyết nữ quyền, vì nó dẫn tới một kết luận chung nhất rằng sự vô hình hóa, sự bất bình đẳng và các khác biệt về vai trò trong quan hệ với nam giới mà nhìn chung đã định tính cuộc sống của giới phụ nữ – là nằm trong các đặc tính riêng biệt của họ, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi vị trí trong xã hội của người phụ nữ - nghĩa là, bởi giai cấp, chủng tộc, lứa tuổi, các sở thích cảm xúc, tình trạng hôn nhân, tôn giáo, dân tộc, và vị trí toàn cầu.

            Lý thuyết này phổ quát như thế nào? Một số người có thể lý luận rằng vì các câu hỏi có tính chất riêng biệt đối với hoàn cảnh của một nhóm “thứ yếu” - những người phụ nữ, lý thuyết được tạo ra cũng sẽ có tính chất riêng biệt, và hạn chế về phạm vi, tương đương với các lý thuyết khác về sự lầm lạc hay các quá trình của nhóm nhỏ. Nhưng trong thực tế, các  câu hỏi cơ bản của thuyết nữ quyền đã tạo ra một lý thuyết về đời sống xã hội có tính chất phổ quát trong khả năng vận dụng của nó. Những lý thuyết song hành tương ứng với thuyết nữ quyền không phải là các lý thuyết về các nhóm nhỏ hay về sự lầm lạc, vì mỗi lý thuyết đó được tạo ra khi các nhà xã hội học chuyển sự quan tâm của họ khỏi “bức tranh toàn cảnh” để hướng về các chi tiết của một đặc điểm của bức tranh đó. Đúng hơn, lý thuyết song hành tương ứng là một trong các hoàn thành về nhận thức luận của Marx. Marx giúp các nhà khoa học phát hiện ra rằng kiến thức mà mọi người có được về xã hội - cái mà họ giả đoán là một trình bày có tính chất tuyệt đối và phổ quát về thực tại, trong thực tế phản ánh những kinh nghiệm của những người thống trị thế giới xã hội về mặt chính trị và kinh tế. Lý thuyết theo Marx chứng minh một cách hiệu quả rằng một người cũng có thể nhìn thế giới từ một lợi điểm của giai cấp công nhân thế giới, những người mà dù phụ thuộc hạ cấp về mặt kinh tế, nhưng dù sao cũng là những nhà sản xuất không thể thiếu được của thế giới chúng ta. Lợi điểm mới này đã tương đối hoá kiến thức của giai cấp cầm quyền và, trong khi cho phép chúng ta đặt cạnh nhau kiến thức đó và kiến thức thu được từ viễn cảnh của giai cấp công nhân, đã mở rộng tối đa khả năng phân tích thực tại xã hội của chúng ta. Một thế kỷ sau khi Marx qua đời, chúng ta đang tiêu hoá các hàm ý của phát hiện này.

            Các câu hỏi lý thuyết cơ bản của thuyết nữ quyền, tương tự, cũng tạo ra một sức ấn chuyển biến tình thế trong nhận thức của chúng ta về thế giới. Các câu hỏi này cũng dẫn chúng ta tới việc khám phá ra rằng cái chúng ta xem là kiến thức tuyệt đối và phổ quát về thế giới, trong thực tế, là kiến thức phát sinh từ các kinh nghiệm của một bộ phận có quyền lực của xã hội, nam giới-với tư cách là những “chủ nhân ông”. Kiến thức này bị tương đối hoá nếu chúng ta tái phát hiện lại thế giới từ một lợi điểm của những người từ trước tới nay bị vô hình hoá, bị che khuất, không được biết tới: những người phụ nữ, những người hạ cấp phụ thuộc nhưng đóng các vai trò “phục vụ” rất cần thiết đã lao động để duy trì và tái tạo xã hội mà chúng ta đang sống. Sự phát hiện này làm nảy sinh các câu hỏi về mọi thứ mà chúng ta vẫn tưởng là chúng ta đã biết về xã hội. Sự phát hiện này và các hàm ý của nó thiết lập một yếu tính cho tầm quan trọng của thuyết nữ quyền đương thời đối với lý thuyết xã hội học.

            Thách thức cấp tiến của thuyết nữ quyền đối với các hệ thống tri thức đã thiết lập, bằng cách đối lập chúng với các nhận thức phụ nữ-trung tâm về thực tại,  không chỉ tương đối hoá kiến thức đã thiết lập, mà còn “phá hủy đi” kiến thức đó. Nói kiến thức đó “bị phá hủy đi” là nói rằng chúng ta khám phá ra cái mà trước nay đã bị che đậy bên dưới sự thể hiện của kiến thức đã thiết lập, đơn nhất, tự nhiên - sự thể hiện đó là một kiến trúc dựa trên các sắp xếp có tính chất xã hội, quan hệ và quyền lực. Thuyết nữ quyền phá hủy các hệ thống kiến thức đã bằng cách chỉ ra xu hướng và nền chính trị nam giới của chúng đã cơ cấu và hình thành nên chúng. Nhưng bản thân thuyết nữ quyền cũng đã trở thành chủ thể của các áp lực tương đối hoá và có tính phá hủy ngay từ bên trong phạm vi ranh giới lý thuyết của nó, đặc biệt là trong thập kỷ cuối cùng. Áp lực đầu tiên, và cũng vẫn còn có tính chất hiệu quả hơn trong số đó, đến từ phong trào làm sóng nữ quyền thứ ba, trong đó phản đối quan điểm đơn nhất ban đầu về “phụ nữ” với các xác quyết rằng có nhiều phụ nữ có hoàn cảnh khác nhau, và có nhiều hệ thống kiến thức phụ nữ-trung tâm phản kháng cả các xác quyết kiến thức theo xu hướng chủ đạo nam giới đã thiết lập cũng như bất kỳ đòi hỏi sự lãnh đạo nữ quyền nào về một lập trường của giới nữ. Chúng tôi sẽ khảo sát sự phát triển này đầy đủ hơn ở phần “Làn sóng nữ quyền thứ ba” ở cuối chương. Áp lực phá hủy thứ hai trong lòng thuyết nữ quyền đến từ thuyết hậu hiện đại (xem chương 12) và từ sự tăng trưởng của một nền văn chương hậu hiện đại của giới nữ, mà phát triển trước hết là ở các nghiên cứu văn chương, triết học, và lịch sử, và nay đang dần dần chảy vào thuyết nữ quyền khoa học xã hội. Thuyết nữ quyền hậu hiện đại hoạt động để phá vỡ sự ổn định và phá hủy mọi lược đồ khái niệm, đang đặt chúng trong phạm vi các khám phá của các cộng đồng truyền dẫn quyền lực. Quan trọng là thuyết nữ quyền hậu hiện đại làm nảy sinh những câu hỏi về tính bền vững của bản thân phái tính như là một cách thức nhìn nhận thế giới, và về bản thân cá thể như là một vị trí bền vững của ý thức và cá tính từ đó phái tính và thế giới được nếm trải kinh nghiệm. Tác động tiềm ẩn của các câu hỏi này về cơ bản rơi vào nhận thức luận nữ giới - hệ thống của nó để tạo ra các xác quyết chân thực. Chúng tôi sẽ khảo sát các hàm ý của thuyết nữ quyền hậu hiện đại đầy đủ hơn trong phần “Một xã hội học nữ quyền về kiến thức”, giới thiệu sự tổng hợp thuyết xã hội học nữ quyền mà chúng tôi sẽ đưa ra trong nửa thứ hai của chương này.

CÁC LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC VỀ PHÁI TÍNH - TỪ 1960 ĐẾN NAY

            Trong phần này chúng tôi nhìn vào tác phẩm của các nhà xã hội học đang nỗ lực nêu ra các mối quan tâm của nữ giới trong phạm vi các cấu trúc của các lý thuyết đang tồn tại. Chúng tôi tổ chức thảo luận về các lý thuyết này thành các lý thuyết vĩ mô về phái tính và các lý thuyết vi mô về phái tính.

            Các lý thuyết vĩ mô về phái tính

            Câu hỏi đầu tiên của thuyết nữ quyền: “Thế còn phụ nữ thì sao?” đã tạo ra các phản ứng quan trọng từ các lý thuyết gia làm việc từ ba viễn cảnh xã hội vĩ  mô chủ yếu đã được giới thiệu đầy đủ ở các phần khác của cuốn sách - thuyết chức năng (chương 3), thuyết phân tích xung đột (chương 3) và lý thuyết các hệ thống thế giới tân Marxian (chương 4). Tất cả các lý thuyết gia này cùng sử dụng một quá trình phân tích như nhau trong việc đặt phái tính vào giải thích lý thuyết phổ quát về các hiện tượng xã hội vĩ mô của họ. Trước tiên, họ xác định các hiện tượng đó như là một hệ thống các cấu trúc có quan hệ hỗ tương và tương tác, được hiểu như là “các quy tắc định khuôn trong hành vi của mọi người”. Các lý thuyết gia chức năng và phân tích xung đột tập trung vào các nhà nước-quốc gia hay, đôi khi, đặc biệt là trong thuyết phân tích xung đột, vào các phân nhóm văn hóa tiền hiện đại; thuyết các hệ thống thế giới xem chủ nghĩa tư bản toàn cầu là một  hệ thống vượt phạm vi quốc gia trong đó các nhà nước-quốc gia là các cấu trúc quan trọng. Những khác biệt giữa các lý thuyết này tập trung vào các cấu trúc đặc thù và các quá trình hệ thống mà chúng xem là quan trọng. Thứ hai, các lý thuyết gia này đi tới chỗ đặt phụ nữ vào trong hệ thống đã mô tả. Tất cả ba lý thuyết này đều đi tới cùng một kết luận: vị trí cơ bản của phụ nữ - theo nghĩa nó là một vị trí được nhìn từ bên trong mọi nền văn hóa như là một “khu vực” đối với phụ nữ -  là sự nội trợ/gia đình. Từ vị trí cơ bản đó, và luôn luôn với nó như là một điều kiện cốt yếu, phụ nữ có thể có các vị trí cấu trúc quan trọng khác đối với hoạt động, đáng chú ý nhất là trong nền kinh tế thị trường. Lúc này vấn đề trở thành việc nhận thức các chức năng của sự nội trợ/gia đình trong hệ thống xã hội và việc lập biểu đồ mối quan hệ giữa sự nội trợ và nền kinh tế. Thứ ba, mỗi một nhóm trong các nhóm lý thuyết gia phái tính này tìm cách lý giải sự phân tầng về phái tính – được xem như là sự bất lợi xã hội phổ quát của phụ nữ - trong phạm vi liên kết cấu trúc hình tam giác của sự nội trợ/gia đình - kinh tế - và các nhu cầu và quá trình chung của hệ  thống xã hội.

            Thuyết chức năng. Người đề xướng chủ yếu của một lý thuyết chức năng về phái tính là Miriam Johnson. Phát biểu với tư cách một nhà chức năng và theo thuyết nữ quyền, trước hết Johnson ghi nhận sự thất bại của thuyết chức năng để tìm hiểu một cách tương thích các sự bất lợi của phụ nữ trong xã hội. Bà thừa nhận rằng có một xu hướng phân biệt giới tính không chủ định trong lý thuyết của Talcott Parsons về gia đình và rằng thuyết chức năng đã đặt ra ngoài lề các vấn đề về sự bất bình đẳng xã hội, sự thống trị và sự áp bức- một khuynh hướng có tính nguyên thủy trong mối quan tâm cơ bản của thuyết chức năng đối với trật tự xã hội. Thế nhưng Johnson chứng minh một cách thuyết phục rằng phép phân tích đa dạng và phức tạp của thuyết chức năng Parsonian nên được duy trì trong các phân tích về phái tính vì tính chất phân tích rộng rãi và linh hoạt lớn lao của một lý thuyết đa phương diện như thế- sự lặp lại quan điểm của nhiều nhà tân chức năng (xem chương 3). Tác phẩm của Johnson khảo sát sự  tương ứng đối với phái tính của nhiều hệ thống kiểu hình chủ chốt của Parsons: vai trò với ý nghĩa là đơn vị cơ bản trong hệ thống xã hội, trái ngược với các định hướng vai trò thể hiện tình cảm mang tính phương tiện, gia đình như một thể chế trong quan hệ với các thể chế khác, các điều kiện chức năng tiên quyết của hệ thống xã hội (sự thích nghi, sự đạt được mục tiêu, sự hòa hợp, sự duy trì khuôn mẫu) các cấp độ phân tích của hành động xã hội (xã hội, văn hóa, cá tính, hành vi) các giai đoạn của biến đổi xã hội (sự phân biệt, sự nâng cấp thích nghi, sự hòa hợp, sự khái quát hóa giá trị).

            Quan trọng nhất đối nhận thức của một nhà chức năng học về phái tính là sự ứng dụng của Johnson đối với các khái niệm về các vai trò thể hiện tình cảm mang tính phương tiện, luận đề về mối quan hệ của gia đình với các thể chế khác, và mô hình về các điều kiện chức năng tiên quyết của Parsons. Johnson định vị nhiều nguồn gốc của sự bất bình đẳng phái tính trong cấu trúc của gia đình theo chế độ gia trưởng ở hầu hết mọi xã hội đã biết. Gia đình có các chức năng khác biệt với nền kinh  tế và các thể chế “công cộng” khác: nó xã hội hóa trẻ con và tân tạo về mặt tình cảm các thành viên trưởng thành của nó, các hoạt động chủ yếu đối với sự cấu kết xã hội và sự tái sản xuất giá trị (sự hòa hợp và sự tiềm tàng). Vị trí xã hội cơ bản của phụ nữ trong  cấu trúc gia đình như  là nhà sản xuất chính của các chức năng cốt yếu đó. Trong những hoạt động đó, bà ta phải định hướng cách thể hiện tình cảm, nghĩa là, với sự hòa hợp và sự phản ứng trong quan hệ có tính chất tình cảm. Các chức năng của phụ nữ trong gia đình và định hướng về sự  thể hiện tình cảm ảnh hưởng tới các chức năng trong mọi cấu trúc xã hội khác của họ, đặc biệt là kinh tế. Phụ nữ, ví dụ, được hướng tới các nghề nghiệp có tính thể hiện tình cảm điển hình; trong các nghề nghiệp mà đàn ông thống trị, họ được kỳ vọng có tính chất biểu cảm nhưng đồng thời bị trừng phạt vì định hướng này, và, trách nhiệm hướng tới các cơ cấu gia đình luôn luôn xâm phạm vào sự tham gia kinh tế.

            Tuy nhiên, không có chức năng nào trong số mô tả bên trên tất yếu sẽ gây ra kết quả là một hệ thống phân tầng hạ thấp giá trị và gây bất lợi cho phụ nữ. Để hiểu tại sao sự phân tầng về phái tính nảy sinh, chúng ta cần  quay trở lại gia đình theo chế độ gia trưởng. Ở đây, theo định hướng thể hiện tình cảm trong chăm sóc con cái, những người phụ nữ hành động với sức mạnh và thẩm quyền, mang tới cho các bé trai và bé gái nhận thức về “tính nhân bản chung”. Các kềm hãm thể chế và văn hoá đòi hỏi phụ nữ phải yếu ớt và phục tùng trong mối quan hệ với chồng của bà ta, người thông qua phương tiện trung gian cạnh tranh trong nền kinh tế mang lại cho gia đình mình sự an toàn ở cấp độ kinh tế. Nhìn nhận mẹ chúng trong vai trò “bà vợ yếu đuối”, bọn trẻ học cách tôn sùng chế độ gia trưởng và hạ thấp giá trị của sự biểu cảm với ý nghĩa là một thái độ trong quan hệ đi ngược lại phương tiện dường như mạnh mẽ và có giá trị hơn. Sự đánh giá tính chất phương tiện của nam giới là có hiệu quả hơn tính biểu cảm của  nữ giới  được phổ biến lan rộng trong nền văn hoá. Nhưng lập trường về giá trị này không có một nền tảng thực hành – ngoại trừ  khi bị vây bọc hệ tư tưởng gia trưởng. Một trong những niềm hy vọng của Johnson là phong trào phụ nữ sẽ tạo ra các biến đổi về văn hoá và xã hội, dẫn tới  một sự tái thẩm định giá trị của sự biểu cảm trên phạm vi toàn hệ thống.

            Tuy nhiên, đồng thời Johnson phải xử lý vấn đề các cấu trúc chế độ gia trưởng có chức năng ra sao trong việc tạo ra sự cân bằng hệ thống và trật tự xã hội. Johnson cho rằng chúng ta phải hỏi, “có chức năng đối với ai?”. Nhưng với câu hỏi này, bà đã đi ra khỏi thuyết cấu trúc Parsonian, vì nó lập luận rằng tính chức năng được nhận thức trong phạm vi của chính bản thân hệ thống. Câu hỏi “có chức năng đối với ai ?” mở ra các vấn đề bất bình đẳng về quyền lực và các quan tâm xung đột, và hướng tới một quan điểm có tính phê phán hơn là có tính giá trị-trung lập đối với các lý thuyết gia, một quan điểm phản chứng đối với thuyết chức năng. Câu hỏi về phụ nữ, vấn đề phái tính, vẫn luôn luôn như bất cứ lúc nào, làm cho “chiếc ấm cứ sôi sùng sục mãi”.          

            Thuyết phân tích xung đột. Lý thuyết gia có ảnh hưởng nhiều nhất về vấn đề phái tính từ viễn cảnh của thuyết phân tích xung đột là Janet Chafetz. Không như Johnson, bà làm việc trong một hệ thống các tác phẩm lý thuyết có cơ cấu tương đồng (Rae Lesser Blumberg, Randall Collins, và nhà nhân loại học Peggyy Sanday). Cách tiếp cận của Chafetz có tính chất văn hoá chéo và diễn dịch lịch sử,  tìm cách lý luận về phái tính trong mọi khuôn mẫu xã hội đặc thù của nó. Cụ thể hơn, bà tập trung vào sự bất bình đẳng phái tính, hay như cách bà gọi, sự phân tầng giới tính (sex stratification). Trong việc bắt  đầu từ sự phân tầng giới tính, Chafetz bám sát các thực hành của thuyết phân tích xung đột: bà tìm một hình thái có tính chất tái diễn của xung đột xã hội và đưa vào phân tích, từ một quan điểm trung hoà-giá trị, các điều kiện cấu trúc sản sinh ra sự xung đột ở cường độ nhiều hơn hay ít hơn.

            Chafetz thăm dò các cấu trúc và điều kiện xã hội có ảnh hưởng tới cường độ của sự phân tầng giới tính – hay các bất lợi của phụ nữ - trong mọi xã hội và mọi nền văn hoá. Các cấu trúc và điều kiện này bao gồm sự phân biệt giới tính về vai trò, ý thức hệ gia trưởng, gia đình và tổ chức lao động, các điều kiện định khuôn như các khuôn mẫu sinh sản, sự phân cách của các vị trí lao động và nội trợ, thặng dư kinh tế, tính phức tạp về kỹ thuật, mật độ dân số, và sự khắc nghiệt của môi trường - tất cả được nhận thức như là các biến số. Sự tương tác giữa các biến số này quyết định mức độ của sự phân tầng giới tính, vì chúng định khuôn các cấu trúc chủ yếu của sự nội trợ và sự sản xuất kinh tế và mức độ mà các phụ nữ di động giữa hai lĩnh vực này. Quan điểm của Chafetz là phụ nữ chịu đựng sự bất lợi ở mức thấp nhất khi họ có thể cân bằng giữa các trách nhiệm nội trợ với vai trò quan trọng và độc lập trong nền sản xuất thị trường. Nội trợ/gia đình được xem không phải là một lĩnh vực nằm bên ngoài lao động, một khu vực của tình cảm và sự nuôi dưỡng, mà là một lĩnh vực trong đó sự lao động diễn ra – sự chăm sóc trẻ, công việc nhà, và đôi khi cũng là lao động (như ở gia đình nông trại) mà đối với chúng có những tưởng thưởng vật chất vượt khỏi phạm vi nội trợ. Sự tiếp nhận của phụ nữ đối với các tưởng thưởng đó hoặc thông qua sự nội trợ hoặc thông qua sự sản xuất thị trường trở thành sự giảm nhẹ các bất lợi xã hội, và hình thái của sự nội trợ - kết quả thu nhận từ sự tác động qua lại của nhiều biến số khác - là cấu trúc chủ yếu tạo điều kiện thuận lợi hay gây trở ngại cho sự tiếp nhận này.

            Rồi Chafetz tiếp tục tập trung vào việc sự công bằng phái tính có thể được theo đuổi một cách có mục đích như thế nào; bà tìm cách nhận diện các điểm mang tính cấu trúc chủ yếu nơi mà sự biến đổi có thể cải thiện điều kiện của phụ nữ. Theo lập trường tiên phong thực hiện của bà đối với sự công bằng phái tính, Chafetz đi tới sự trung hoà giá trị đã là tiêu chuẩn xác nhận của thuyết phân tích xung đột kể từ thời Weber. Sự khảo sát về phái tính một lần nữa đưa nhà lý thuyết - trong trường hợp này là một nhà thực  hành có nguyên tắc nhất - vượt ra khỏi lý thuyết để đi tới các vấn đề về quyền lực và chính trị.

            Thuyết các hệ thống thế giới. Thuyết các hệ thống thế giới xem chủ nghĩa tư bản toàn cầu trong tất cả các giai đoạn lịch sử của nó như là một hệ thống đối với phép phân tích xã hội học. Các xã hội thuộc các quốc gia và các nhóm văn hoá phân biệt khác (ví dụ, các thuộc địa và những dân tộc bản xứ) là các cấu trúc quan trọng trong hệ thống thế giới của chủ nghĩa tư bản toàn cầu; cũng như là sự phân tầng kinh tế của các xã hội và các nhóm đó (các nền kinh tế trung tâm, ngoại biên, bán ngoại biên): sự phân bố lao động, nguồn vốn và quyền lực giữa chúng; và các quan hệ giai cấp trong lòng mỗi đơn vị xã hội. Vì quá trình xác định định khuôn sự điều tra lý thuyết này trong chủ nghĩa tư bản, các cá thể trong mọi đơn vị xã hội được nhận thức một cách điển hình trong phạm vi vai trò của họ trong các  sắp xếp của nhà tư bản đối với việc tạo ra giá trị thặng dư. Lý thuyết này do vậy nhận thức một cách khuôn mẫu vai trò của phụ nữ trong hệ thống xã hội chỉ tới mức độ là lao động của họ là một bộ phận của chủ nghĩa tư bản - nghĩa là, khi họ là công nhân trong nền sản xuất và các thị trường tư bản. Nhưng một sự thực hiện đầy đủ và trực tiếp vấn đề phái tính ngay lập tức ném mô hình về hệ thống xã hội vào dấu hỏi.

            Kathryn B. Ward lý luận rằng hệ thống thế giới không thể được nhận thức cho tới khi lao động nội trợ và lao động của nền kinh tế phi thể thức được xác định chính xác là các nhân tố của nó, và (2) vì phụ nữ gắn bó rất nhiều với lao động này, họ phải được đặc biệt lưu ý trong lý thuyết các hệ thống thế giới và không thể bị gộp chung một cách đơn giản dưới cái tên gọi “công nhân”. Sự nội trợ thiết lập nên mọi công việc được thực hiện ở nhà để  duy trì và tái sản sinh ra công nhân; nền kinh tế phi thể thức là sự tổ chức lao động trong đó không có sự phân cách rõ ràng giữa lao động và tư bản, và không có sự quy định về lao động bởi pháp luật hay sự tổ chức của nhà tư bản. Ward lý luận rằng có lẽ có đến 66% lao động thế giới được thực hiện trong hai nền kinh tế lớn lao phi tư bản bị làm ngơ; và rằng tỷ lệ công việc được thực hiện của thế giới ở hai nền kinh tế này đang được mở rộng, chính xác là giống như sự mở rộng của bản thân chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn cầu. Việc trả lời cho câu hỏi: “Thế còn phụ nữ thì sao?” trong hệ thống thế giới do vậy đã vén mở ra một “tiểu lục địa” của nền sản xuất phi tư bản đang tồn tại, mở rộng và tương tác với chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Trong khuôn mẫu của lao động phụ nữ toàn cầu- nơi mà các nhu cầu cấp bách của lao động nội trợ luôn luôn hiện diện, và nơi mà phụ nữ từ nền tảng đó có quan hệ với các nền kinh tế tư bản và kinh tế phi thể thức trong một phép tính luôn luôn thay đổi- chúng ta tìm ra một  lối vào cho việc lý thuyết hoá các cấu trúc lao động trong phạm vi hệ thống thế giới. Hơn nữa,Ward lý luận rằng các đóng góp cụ thể của lao động không được trả lương của phụ nữ đối với nền kinh tế thế giới và sự thống trị của nam giới lên nữ giới phải được nhận thức và lý giải không chỉ đơn giản như là các sản phẩm của chủ nghĩa tư bản mà phải là “các thuộc tính hiện tượng nổi bật với logic của chính nó”.

Các lý thuyết xã hội vi mô về phái tính

Các lý thuyết gia xã hội học vi mô ít tập trung vào việc giải thích sự bất lợi xã hội của phụ nữ hơn là việc giải thích hiện tượng phái tính khi nó đi vào nhận thức của họ về xã hội như là nhân loại trong sự tương tác; họ hỏi  tại sao phái tính có mặt trong các tương tác và tại sao các tương tác sản sinh ra phái tính. Hai lý thuyết xã hội học vi mô về phái tính chủ yếu là thuyết tương tác biểu tượng và phương pháp luận thực hành.

Lý thuyết về phái tính của thuyết TTBT bắt đầu với một định đề trung tâm đối với bất kỳ phân tích TTBT nào: “Sự nhận diện phái tính, cũng giống như bất kỳ sự nhận diện xã hội nào khác, nảy sinh từ sự tương tác xã hội và được hoà nhập vào sự thay đổi hoàn cảnh của bản ngã của cá thể (và) phải được tiếp tục xác nhận thông qua các hoàn cảnh tương tác khác nhau... vì bản ngã chịu các kiểm chứng thực nghiệm liên tiếp”. Thuyết TTBT nghịch đảo luận điểm của Freud rằng sự đồng nhất với bố mẹ cùng phái tính là nguyên tố chủ yếu trong việc phát triển sự nhận diện phái tính; nó lý luận rằng trong việc thủ đắc ngôn ngữ đứa trẻ biết rằng nó được nhận diện, và do vậy, để tự nhận diện, như là một bé trai hay bé gái, và do vậy, tới lượt, lại đồng nhất với “mẹ” hay “bố”. Các lý giải của nhà TTBT chỉ ra các cá thể thực hiện việc duy trì phát tính bản thân trong các hoàn cảnh khác nhau; cốt lõi của các lý giải này là một nhận thức về cá thể, kẻ có một tập hợp ý tưởng, ngôn từ, trong các cuộc đối thoại trong thâm tâm hay với bên ngoài, về cái mà nó muốn mang ý nghĩa là nam hay nữ. Cá nhân đem một bản ngã phái tính vào các hoàn cảnh và cố gắng hành động theo sự xác định chủ quan hoá này, cái có thể được chỉnh sửa thông qua sự tương tác với hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, nhưng là nơi chứa đựng thành tố phái tính của hành vi thay đổi hoàn cảnh của mọi người.

Phương pháp luận thực hành đặt câu hỏi về tính bền vững của sự nhận diện phái tính và nhìn vào “cách thức phái tính được thực hiện như thế nào”, nghĩa là, phái tính với ý nghĩa là một sự hoàn thành bởi các actor trong các hoàn cảnh khác nhau. Nhà PPLTH bắt đầu từ định đề của Zimmerman rằng: “các thuộc tính của đời sống xã hội mà dường như có tính chất khách quan, có thật, và sự thay đổi hoàn cảnh, thực ra lại là các hoàn thành đã thực hiện được, hay là các thành tựu của các quá trình nội tại”.   Nhà PPLTH thực hiện một sự phân biệt quan trọng giữa giới tính (sex - sự nhận diện như là giống đực hay giống cái), phạm trù giới tính (sex category - sự nhận diện xã hội như là giống đực hay giống cái) và phái tính (gender - hành vi gặp được các kỳ vọng xã hội vì là giống đực hay giống cái). Trong khi sự nhấn mạnh vào sự chủ quan hoá về một nhận diện phái tính cố định có thể giảm thiểu phái tính thành một sự quy chiếu cá thể như là giới tính - một cái gì đó vốn là bộ phận của cá thể - lý luận của  PPLTH cho rằng phái tính không gắn liền với cá thể mà được thủ đắc trong tương tác với hoàn cảnh. Bởi vì phạm trù giới tính có khả năng là một phẩm chất biểu diện vĩnh viễn của một cá thể, sự thành tựu về phái tính có khả năng là một phẩm chất biểu hiện vĩnh viễn của các hoàn cảnh xã hội. Các khái niệm chuẩn mực của mọi người về hành vi thích hợp của nam hay nữ có tính linh hoạt theo hoàn cảnh. Mọi người trong một hoàn cảnh biết rằng họ “có thể giải thích được” đối với các hành vi phái tính ở một mức độ mà hoàn cảnh đó cho phép một cá nhân cư xử như một người đàn ông hay một người phụ nữ, và được sự thừa nhận như thế của mọi người về hành vi của bản thân anh ta hoặc cô ta. Có khả năng là mọi người ở các nền văn hoá khác nhau- bao gồm các nền văn hoá giai cấp và chủng tộc - thấy khó mà hiểu được hành vi của người khác trong phạm vi nhận diện  phái tính: điều mà người khác đang làm không được thừa nhận là hành vi thích hợp để là nam hay nữ. Mặt khác, khảo sát PPLTH đã chỉ ra rằng các phân bố lao động nội trợ có vẻ rất bất bình đẳng nhìn từ bên ngoài hoàn cảnh nội trợ có thể được xem là công bình bởi cả nam hay nữ trong hoàn cảnh đó, vì  cả hai bên chấp nhận và tuân thủ theo các  kỳ vọng chuẩn mực trong việc thực hiện phái tính ở phạm vi nội trợ.

Cả thuyết TTBT và PPLTH cho phép và giả đoán một phạm vi thể chế về các khái niệm chuẩn mực về phái tính. Goffman đã lưu ý từ trước đó, và các nhà TTBT, dưới ảnh hưởng của thuyết hậu hiện đại, ngày càng khẳng định rằng các khái niệm này không được tiếp thu một cách đơn độc, hay thậm chí một cách cơ bản, thông qua sự tương tác với những người khác. Các thông điệp trung gian - nghĩa là, các hình ảnh truyền thông trong quảng cáo, ti-vi, phim ảnh, sách báo – bảo cho cả người trưởng thành và trẻ em một cách hoàn toàn trực tiếp, không qua một can thiệp có tính tương tác nào, rằng phái tính đã được thực hiện ra sao. Những thông điệp trung gian này đưa ra cái mà Goffman gọi là “các diễn xuất” của phái tính: “sự đơn giản hoá, cường điệu hoá, điển hình hoá” các thông tin về sự điều chỉnh “thích hợp” đối với đàn ông và phụ nữ trong các tương tác đưa ra. Phân tích này tạo ra một sự rối rắm về nguyên nhân luận: “Thế thì truyền thông mô phỏng cuộc sống, hay cuộc sống mô phỏng truyền thông?” Ở đây cũng như các trường hợp khác, các khảo sát xã hội học vi mô về phái tính hoạt động một cách thành công trong phạm vi các mô hình đưa ra của chúng, mà không đụng chạm gì đến yếu tính giống đực, các xu hướng tinh túy đặc quyền trong các mô hình đó, các thách thức mà chúng tôi sẽ đưa ra trong thảo luận về thuyết xã hội học nữ quyền ở phần sau của chương này.

CÁC THỂ LOẠI KHÁC NHAU CỦA THUYẾT NỮ QUYỀN ĐƯƠNG THỜI

Cơ sở đối với bất kỳ thuyết xã hội học nữ giới nào, bao gồm một lý thuyết đã được    phát triển trong phần trước của chương, đều nằm trong thuyết nữ quyền đương thời, hệ thống các tư tưởng chung đó được thiết kế để mô tả và giải thích các kinh nghiệm xã hội của con người từ một lợi điểm phụ nữ-trung tâm. Trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu các chủ đề mà thuyết nữ quyền đưa ra để xây dựng các lý thuyết xã hội học nữ quyền.

Các học giả nữ giới đương thời tiếp tục tạo ra một tập hợp đang phát triển, phong phú, đa dạng các trước tác lý thuyết, một minh chứng cho chủ nghĩa tri thức hữu hiệu, gọi theo Jessie Bernard là “trào lưu ánh sáng nữ giới”. Phạm vi và sự mở rộng vẫn đang diễn tiến của nền văn học này khó mà minh họa. Sơ đồ lý thuyết nữ quyền giới thiệu ở đây là một kiến trúc, hoặc mô hình lý tưởng, để ấn định khuôn mẫu cho thể tác phẩm tri thức phức tạp này.

Sự mô phỏng của chúng tôi về lý thuyết nữ quyền dựa vào ba câu hỏi cơ bản (đã thảo luận ở phần trên) hợp nhất mọi lý thuyết này: câu hỏi có tính mô tả, Thế còn phụ nữ thì sao?; câu hỏi có tính giải thích, “Vậy thì tại sao tất cả những chuyện này lại là như vậy?”; và câu hỏi có tính định phẩm, “Thế còn các khác biệt giữa những người phụ nữ thì sao?” Khuôn mẫu của phản hồi cho câu hỏi có tính mô tả làm nảy sinh ra các phạm trù chủ yếu cho sự phân loại của chúng tôi (xem Bảng 8.1).

Bảng  8.1
KHÁI QUÁT VỀ CÁC THỂ LOẠI LÝ THUYẾT NỮ QUYỀN


Các thể loại lý thuyết nữ                                 Những phân biệt trong phạm vi các lý
quyền cơ bản-trả lời cho câu                           thuyết - các trả lời cho câu hỏi có tính
hỏi có tính chất mô  tả, “Thế                         chất giải thích,“Tại sao hoàn cảnh của còn phụ nữ thì sao?”                                                     phụ nữ lại là như vậy?”

Sự khác biệt phái tính

Vị trí  và kinh nghiệm của phụ nữ                  Thuyết nữ quyền về  văn hoá
trong phần lớn các hoàn cảnh khác                 Thuyết nữ quyền về sinh học 
biệt với của nam giới trong các hoàn              Thuyết nữ quyền về thể chế và xã hội hoá
cảnh đó.                                                           Thuyết nữ quyền về xã hội-tâm lý

Sự bất bình đẳng phái tính

Vị trí của phụ nữ trong phần lớn hoàn            Thuyết nữ quyền tự do
cảnh không chỉ khác biệt mà còn ít đặc          Thuyết nữ quyền Marxian
quyền hơn hoặc là không bình đẳng               Các giải thích của Marx và Engels
với của nam giới.                                             Các giải thích của thuyết Marxian đương thời

Sự áp bức phái tính

Phụ nữ bị áp bức, không chỉ khác với                   Phân tâm học nữ quyền
hay không bình đảng với nam giới, mà                 Thuyết nữ quyền cấp tiến
còn bị kềm hãm, làm cho lệ thuộc, bị                    Thuyết nữ quyền xã hội chủ nghĩa
đúc nặn, sử dụng và lạm dụng một cách
chủ động bởi nam giới.

Làn sóng nữ quyền thứ ba

Kinh nghiệm của phụ nữ về sự khác biệt,                   Tính đa dạng
bất bình đẳng, và áp bức  bị biến đổi                          Tính phê phán
bởi vị trí xã hội của họ                                                Các vec-tơ



Cơ bản chúng tôi thấy có bốn  câu trả lời cho câu hỏi: “Thế còn phụ nữ thì sao?” Trả lời đầu tiên là vị trí và kinh nghiệm của phụ nữ trong phần lớn các hoàn cảnh khác biệt với vị trí và kinh nghiệm của nam giới trong các hoàn cảnh đó. Thứ hai là vị trí của phụ nữ trong phần lớn hoàn cảnh không chỉ khác biệt mà còn ít đặc quyền hơn hoặc là không bình đẳng với của nam giới.

Thứ ba là hoàn cảnh của phụ nữ cũng phải được nhận thức theo nghĩa một quan hệ quyền lực trực tiếp giữa nam và nữ. Phụ nữ bị áp bức, nghĩa là, bị kềm nén, làm cho lệ thuộc, bị đúc nắn, bị sử dụng và lạm dụng bởi nam giới. Khả năng thứ tư được cung cấp bởi luận đề trung tâm của làm sóng nữ quyền thứ ba: kinh nghiệm của phụ nữ về sự khác biệt, bất bình đẳng, và sự áp bức khác nhau tùy theo sự định vị toàn thể của họ trong các xã hội; các xếp đặt mang tính chất phân tầng hay các véc-tơ của sự áp bức và sự đặc quyền- giai cấp, chủng tộc, dân tộc, lứa tuổi, tình cảm, sở thích, tình trạng hôn nhân, vị trí toàn cầu. Mỗi một trong các kiểu thể loại khác nhau của thuyết nữ quyền có thể được phân loại như là một lý thuyết về sự khác biệt hay sự bất bình đẳng, hay về sự áp bức, hay về làn sóng nữ quyền thứ ba. Trong thảo luận của chúng tôi, chúng tôi phân biệt trong phạm vi ba phạm trù cơ bản-sự khác biệt, sự bất bình đẳng và sự áp bức - theo nghĩa của các câu trả lời khác nhau của chúng đối với câu hỏi thứ hai hoặc câu hỏi giải thích “Vậy thì tại sao mọi thứ lại là như vậy?” (Các kiểu trả lời khác nhau được tóm tắt ở Bảng 8.1). Ngoài ra, chúng tôi lưu ý tất cả các câu trả lời bị ảnh hưởng ra sao bởi câu hỏi định phẩm ở trung tâm của làn sóng nữ quyền thứ ba: “Thế còn các khác biệt giữa những phụ nữ thì sao?”            

Phương pháp phân loại này đưa ra một cách thức để định khuôn thể chung của thuyết nữ quyền đương thời và  nền văn học đang mở rộng về phái tính đã phát triển trong xã hội học kể từ những năm 1960. Sự mở rộng này phản ánh phản ứng của cuộc đấu tranh đòi quyền lợi hiển nhiên của nữ giới trong xã hội, và phong trào không song hành của phụ nữ ở các nền giáo dục cao hơn, như các sinh viên và phân khoa, từ  năm 1960. Các câu hỏi của  nữ giới như vậy đã trực tiếp luồn sâu vào sự bàn luận hàn lâm  của chuyên ngành xã hội học. Khi các nhà xã hội học đã quay nỗ lực của họ sang việc khảo sát các vấn đề nữ giới, họ hẳn sẽ sử dụng một số bộ phận của thể lý thuyết xã hội học đang tồn tại như là một xuất phát điểm đối với cái mà trong bộ môn gọi là xã hội học về phái tính (sociology of gender). Mặc dù từ phái tính thường được sử dụng một cách hoa mỹ trong xã hội học đối với “phụ nữ”, xã hội học phái tính là, nói chính xác hơn, sự nghiên cứu cấu trúc xã hội về các vai trò, các quan hệ và sự nhận diện nam giới và nữ giới - và hiện nay đang có một nền văn học xã hội học đang phát triển về nam tính. Tiêu điểm này về mối quan hệ giữa nam và nữ không tương xứng với một lý thuyết nữ quyền trong đó đưa ra một khuôn mẫu phụ nữ-trung tâm về kinh nghiệm loài người. Dù sao, một số nhà xã hội học bắt đầu từ một lập trường xã hội học về phái tính đã tạo ra các tác phẩm có ý nghĩa quan trọng đối với thuyết nữ quyền, và nhiều nhà xã hội học đang trực tiếp có liên quan tới việc sản sinh ra lý thuyết nữ quyền.

            Phần còn lại của phần này khảo sát các lý thuyết nữ quyền về sự khác biệt, sự bất bình đẳng, sự áp bức và làn sóng nữ quyền thứ ba, mô tả trong mỗi trường hợp các đặc điểm chung của cách tiếp cận, một số đường nét khác biệt chủ yếu bên trong nó, và các khuyến cáo của nó đối với sự thay đổi.

            Tuy nhiên, có hai lưu ý quan trọng cần cảnh giác. Thứ nhất, tác phẩm của nhiều lý thuyết gia cản trở sự phân loại rõ ràng. Người ta phải hoặc là nhấn mạnh lý thuyết chủ yếu, hoặc là phân biệt nó trong nhiều trình bày lý thuyết khác nhau. Thứ hai, đây là một phê bình có lựa chọn. Với số lượng lớn các trước tác của nữ giới và xã hội học gần đây về hoàn cảnh của phụ nữ, việc đưa ra một nhận thức thấu đáo đã vượt khỏi phạm vi của chương này.

            Sự khác biệt phái tính

            Ở điểm này trong lịch sử tư duy nữ giới, “sự khác biệt” là một vấn đề trong năm cuộc tranh chấp quan trọng. Thứ nhất là bản thân thuật ngữ “khác biệt” thích hợp hơn là được dùng để diễn tả các khác biệt giữa nam và nữ, nghĩa là các khác biệt phái tính, tiêu điểm của thảo luận trong phần này, hay dùng để lý luận về vấn đề khác biệt giữa những người phụ nữ, mối quan tâm trọng yếu của làn sóng nữ quyền thứ ba (sẽ thảo luận sau trong chương này). Thứ hai, như chúng ta đã thấy, là khả năng nảy sinh bởi các nhà hậu hiện đại rằng phái tính không phải là một đặc điểm cơ bản của cá tính con người mà là sự thể hiện có tính quá trình và dễ thay đổi trong các tương tác đặc thù hoặc được ngữ cảnh hóa. Tranh chấp thứ ba là trên các ngụ ý chính trị đối với các nhà nữ quyền về một lập trường có tính nguyên tắc về sự khác biệt phái tính, nghĩa là, một cuộc tranh luận về các chính sách nói tới các nhu cầu đặc biệt của phụ nữ, ví dụ, thời gian nghỉ thai sản hoặc là khảo sát ung thư vú. Về mặt lịch sử, đây là cuộc tranh luận quan trọng được sử dụng bởi các nhà nữ quyền, nhưng nhiều nhà nữ quyền đương thời, như một số trong quá khứ, quan tâm tới nhu cầu đi từ các chính sách “đàn bà và trẻ con trước hết” tới các chính sách nói tới những bất công có ảnh hưởng đến mọi người, như tổ chức lao động hoặc chăm sóc sức khỏe của chủ nghĩa tư bản. Thứ tư là cuộc tranh chấp về các khác biệt phái tính có âm hưởng trong các giao tranh phổ biến với thuyết nữ quyền: câu hỏi rằng các đặc tính “đặc thù giống đực” hoặc “đặc thù giống cái” có phải là các “khuôn mẫu” thích hợp đối với các thể và tổ chức xã hội không. Khởi đầu từ cuốn best-seller ngoài dự kiến của Carol Gilligan, Với một tiếng nói khác (1982), sự vận động trong thập kỷ trước đã hướng tới nữ  giới như là một kiểu mẫu cho sự  chứng kiến về mặt thông tin, quan hệ và tổ chức, ví dụ thành công có tính hiện tượng của nghiên cứu về nam và nữ trong đối thoại ở cuốn Chỉ là do bạn không hiểu của Deborah Tannen (1990). Thứ năm là vấn đề các lý thuyết về sự khác biệt phái tính có tự bản thân nó mang tính ‘bản chất luận không’. “Bản chất luận” (essentialism) có nghĩa là việc một sự vật hay một cá nhân sở hữu hay thiếu một phẩm chất đặc thù như là một bộ phận của chính các giới hạn hay bản chất của sự tồn tại của nó/anh ta/chị ta. Phần lớn các lý thuyết gia nữ giới thấy bất tiện với “bản chất luận” vì họ xem mục đích của tác phẩm của họ là một mệnh lệnh có tính phê phán “không lý luận về thế giới mà là thay đổi nó”, và bản chất luận thì lại khước từ  khả năng biến đổi. Phản ứng đối với bản chất luận là một cách thức để phân biệt giữa các lý thuyết về sự khác biệt phái tính khác nhau.

            Thuyết nữ quyền về văn hóa. Cuộc tranh luận về sự khác biệt phái tính không thể thay đổi được, dĩ nhiên, ban đầu được dùng để chống lại phụ nữ trong các thuyết trình có tính chất gia trưởng của nam giới để quả quyết rằng phụ nữ là thấp kém và phụ thuộc vào nam giới. Nhưng cuộc tranh luận đi vào thuyết nữ quyền trong làn sóng thứ hai trong thế kỷ 19 như là sự ca ngợi các khía cạnh tích cực của cái từng được xem là “tính cách đàn bà” hay “tính cách phái nữ”. Các nhà văn và nhà tư tưởng như Margaret Fuller, Charlotte Perkins Gilman và Jane Addams đều là những phát ngôn viên về một thuyết nữ quyền văn hóa với lý luận rằng xã hội, trong sự điều hành nhà nước, cần phải có các đức tính của phụ nữ như sự cộng tác, sự cẩn trọng, tính hòa bình và phi bạo lực trong việc xử lý các xung đột (Donovan). Truyền thống này đã được tiếp nối cho tới ngày nay trong các tranh luận về các tiêu chuẩn nổi bật của phụ nữ đối với sự phán xét luân lý (Gillian); về một mô hình “chú ý cẩn trọng” trong ý thức của phụ nữ được phát triển thông qua việc làm mẹ (Ruddick); về các khuôn mẫu động cơ để đạt được thành tựu khác nhau (Kaufman và Richardson); về một phong cách thông tin của nữ giới (Bate và Taylor, Tannen); về khả năng của phụ nữ đối với việc khai mở các kinh nghiệm tình cảm (Cixous, Irgaray, Lorde); về khả năng tưởng tượng của phụ nữ đối với tính dục và sự thân mật (Hite, Radway, Snitow, Stansell và Thompson); và sự đồng tồn tại về các cấp độ thấp hơn ở hành vi gây hấn và khả năng lớn hơn để tạo lập hòa bình của họ (Campbell, Ruddick). Thuyết nữ quyền văn hóa được nghĩ một cách khuôn mẫu là không đặc biệt quan tâm  đến việc nâng cao các giá trị của các khác biệt của phụ nữ hơn là đến việc giải thích các nguồn gốc của nó. Nhưng một số lý giải về các nguồn gốc của sự khác biệt phái tính cũng đã được các nhà lý thuyết nữ quyền đưa ra bao gồm: sinh học, các cấu trúc thể chế và các kinh nghiệm xã hội hóa, các thực hành tương tác và các quá trình tâm lý xã hội.

            Các lý giải sinh học. Dù các lý giải sinh học đã là cái dự phòng của tư duy bảo thủ về các khác biệt phái tính kể từ Kinh Cựu ước cho tới Freud, Herrnstein và Murray, lý luận sinh học cũng đã được sử dụng trong các trước tác có nhiều đồng cảm hơn đối với thuyết nữ quyền. Nhà xã hội học nữ quyền Alice Rossi đã có những chú ý quan trọng tới các nền tảng sinh học của hành vi phái tính đặc thù. Rossi đã liên kết sự khác biệt giữa các chức năng sinh học của nam và nữ giới với sự khác biệt của các khuôn mẫu phát triển được quyết định bởi các hoóc-môn trong suốt vòng đời, và sự phát triển này, tới lượt nó, với sự dao động giới tính đặc thù trong các đặc tính như sự nhạy cảm với ánh sáng và âm thanh và với các khác biệt trong các nối kết trong não phải và não trái. Các khác biệt này, bà cảm thấy, cung cấp cho các khuôn mẫu chơi đùa khác nhau trong thời thơ ấu được ghi chú lại bởi Gilligan, Lever và Best; và sự thật hiển nhiên rằng phụ nữ có thiên hướng chăm sóc trẻ em bằng một cách thức giàu tính giáo dưỡng hơn là nam giới. Thuyết nữ quyền của Rossi dẫn bà tới chỗ lý luận rằng các sắp xếp của xã hội học văn hóa tạo ra khả năng đền bù cho mỗi phái tính, thông qua việc học hỏi xã hội, đối với các bất lợi “được đưa tới” về mặt sinh học, nhưng với tư cách một nhà sinh học bà cũng công nhận tính cấp tiến của các hàm ý của sự khảo sát sinh học.

            Các lý giải về thể chế và sự xã hội hóa. Hai kiểu lý giải này dựa trên niềm tin rằng các khác biệt phái tính được tạo ra từ các vai trò khác nhau mà nam giới và nữ giới đã được dạy dỗ để thực hiện (sự xã hội hóa) hoặc chỉ đơn giản là phải thực hiện (thể chế) trong phạm vi các hệ thống thể chế khác nhau. Người ta xem một yếu tố quyết định chủ yếu của sự khác biệt là sự phân bố lao động có tính chất giới tính, đã nối kết phụ nữ với các chức năng của người vợ, người mẹ, người lao động nội trợ, tới quả cầu riêng tư của ngôi nhà, gia đình, và do vậy tới một chuỗi sự kiện và kinh nghiệm dài cả một đời rất khác với của nam giới. Các vai trò của phụ nữ  với tư cách các bà mẹ và các bà vợ trong việc sản xuất và tái sản xuất một cá tính và văn hóa giống cái đã được phân tích bởi nhiều nhà lý thuyết đa dạng như Berger và Berger, Bernard, Chodorow, Johnson, Leonard và Allen, Thompson và Walker. Phần lớn các lý thuyết gia này đi ra khỏi một trình bày về vai trò được chỉ định có tính chất thể chế tới các trình bày khác có lẽ có những nguyên nhân và kết qủa phức tạp hơn, nhưng tất cả bọn họ đều thừa nhận sự xếp đặt có tính thể chế như là một nguồn tiềm năng của sự khác biệt phái tính. Các lý thuyết gia xã hội hóa nhìn vào các cách thức mà trẻ con nói riêng (nhưng cả bản thân người lớn cũng sẵn sàng, ví dụ, đối với việc kết hôn và làm mẹ) được chuẩn bị để chơi đùa các vai trò khác nhau trong đời sống theo một kịch bản có tính chất phái tính. (Như Best, Brown và Gilligan, Lever, Sidel).

            Các lý giải về sự thực hành tương tác hay “Việc thực hiện phái tính”. Các lý thuyết xã hội học phái tính dường như thường đề xuất rằng các cách thức có tính chất phái tính của hành vi hay các đặc tính về phái tính của cá nhân khá thường xuyên được đặt vào đúng chỗ, đặc biệt là trong giai đoạn xã hội hoá cơ bản. Phản ứng từ một trạng thái khó chịu với sự nhấn mạnh này về các sự phân đôi giữa nam và nữ, một số lý thuyết gia (Cornell và những người khác; Thorne, West và Zimmerman) đã bắt đầu nhìn vào sự khác biệt phái tính như là các thực hành tương tác, ngữ cảnh hoá - không phải là các khác biệt về cá tính mà là về các cách thức “thực hiện”, nghĩa là, sự diễn xuất hay sự thực hiện “phái tính” văn hoá điển hình đang tồn tại.

            Các lý giải tâm lý-xã hội. Các lý giải tâm lý-xã hội nhìn vào các cách thức mà các cấu trúc sâu trong văn hoá - các mô hình cơ bản và ngôn ngữ - có tính chất phái tính đến mức mọi người không thể không nghĩ về phái tính, không thực hiện phái tính. Các lý thuyết này có hai kiểu lớn - hiện tượng luận và hậu cấu trúc luận. Các lý thuyết hiện tượng luận nhấn mạnh tới các cách thức nhận thức các mô hình đó, thường là bị mã hoá trong ngôn ngữ, làm cho phụ nữ không thể diễn tả được các kinh nghiệm của riêng họ, vì  các mô hình này được rút ra từ  kinh nghiệm của nam giới. Hành động của con người khi này được xem như là công việc đã thực hiện trong bối cảnh nhằm tái tạo các mô hình phái tính đó của thực tại (Garfinkel; D. Smith). Các lý thuyết hậu cấu trúc có các khớp nối đầy đủ của họ trong tác phẩm của các lý thuyết gia nữ quyền Pháp - Helene Cixous, Luce Irigaray và Julia Kristeve. Được đào tạo trong một truyền thống triết học chính xác, các tư tưởng gia này đã đi lấy một ý tưởng trung tâm của phân tâm học Pháp làm xuất phát điểm, rằng mọi ngôn ngữ hiện đang tồn tại có tính chất dương tính-trung tâm (phallo-centric)  cắm neo vào và phản ánh về các kinh nghiệm và các khái niệm hoá của những kẻ thống trị phái nam; và rằng mối quan hệ giữa ngôn ngữ và nam tính đã thâm nhập vào sự khám phá của đứa trẻ về cả ngôn ngữ cũng như  sự nhận diện thông qua sự học hỏi các danh tính theo họ cha của xã hội của nó. Bắt đầu với ý tưởng này, các nhà lý thuyết đặt ra câu hỏi theo hình thức sâu sắc nhất của thuyết nữ quyền rằng: ”Vậy làm thế nào phụ nữ có thể cất tiếng nói về kinh nghiệm của họ?” Trong khi đa số các nhà hiện tượng luận có định hướng nhận thức hơn dùng lý lẽ để biện hộ cho một vốn từ vựng có nền tảng nữ giới, các nhà nữ quyền Pháp này thể hiện sự phản đối nền văn hoá nam giới, với sự nhấn mạnh vào tính đơn độc và tính đồng dạng, và quay sang bênh vực cho một nền văn hoá phụ nữ-trung tâm sâu sắc hơn.

            Ngoại trừ tính chất bảo thủ, những lý thuyết gia phi nữ giới lý luận một cách đơn giản về tính bất khả kháng của sự khác biệt và từ đó về tính tất yếu phải tuân phục theo yêu cầu của nó, các khuyến cáo về hoàn cảnh phụ nữ tuôn ra từ các lý thuyết về khác biệt phái tính này tập trung vào tính cần thiết đối với sự tôn sùng. Những lý thuyết gia các kiểu yêu cầu rằng các cách thức riêng biệt để được thừa nhận của phụ nữ không phải đến từ các lựa chọn bình thường mà là từ các lựa chọn có khả năng đứng vững trước các kiểu mẫu của nam giới; và rằng kiến thức  công cộng, sự học thuật hàn lâm, và chính cái khuôn mẫu của đời sống xã hội phải điều chỉnh để quan tâm nghiêm túc đến các cách thức tồn tại của phụ nữ. Thật ra ở mục đích mang tính chiến đấu tối hậu của các tiếp cận lý thuyết này, chúng ta tìm thấy một xác quyết đã xưa cũ hàng thế kỷ của thuyết nữ quyền rằng khi sự truyền bá chính yếu về các cách thức của phụ nữ đã trở thành một bộ phận của đời sống công cộng, thế giới sẽ trở nên một nơi chốn an toàn, nhân  bản hơn cho tất cả chúng ta.         

            Sự bất bình đẳng phái tính.

            Có bốn nội dung chính định tính các lý thuyết về bất bình đẳng phái tính. Thứ nhất, nam và nữ được định vị trong xã hội không chỉ khác biệt nhau mà còn bất bình đẳng. Cụ thể là, phụ nữ có ít tiềm năng vật chất, địa vị xã hội, quyền lực, và các cơ hội để tự thể hiện tiềm năng (self-actualization) hơn nam giới có cùng một vị trí xã hội - đó là vị trí xã hội dựa trên    sở giai cấp, chủng tộc, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo, học vấn, quốc tịch hay bất kỳ một nhân tố xã hội quan trọng nào khác. Thứ hai, sự bấ t bình đẳng này xuất phát từ sự tổ chức của xã hội chứ không phải từ các khác biệt nào về mặt sinh học hay có tính cách cá nhân giữa nam và nữ. Thứ ba, dù cá thể nam giới có thể hơi khác biệt nhau về tiểu sử các tiềm năng hay các đặc tính, không có khuôn mẫu quan trọng nào đối với các khác biệt có tính chất tự nhiên phân biệt giữa các giới tính. Thay vì thế, tất cả nhân loại đều được định tính bởi một nhu cầu sâu thẳm để tự do tìm kiếm sự tự thể hiện tiềm năng và bởi một bản chất dễ bị uốn nắn dẫn họ tới chỗ thích ứng với các kềm hãm hay các cơ hội của những hoàn cảnh trong đó họ tìm ra bản thân mình. Vậy nên,  nói rằng có sự bất bình đẳng, là xác nhận rằng phụ nữ về mặt hoàn cảnh ít có khả năng hơn nam giới để nhận ra nhu cầu mà họ cùng có chung với nam giới về sự tự thể hiện tiềm năng. Thứ tư, mọi lý thuyết về sự bất  bình đẳng đều giả đoán rằng cả nam  lẫn nữ sẽ phản ứng khá dễ dàng và tự nhiên đối với các hoàn cảnh và cấu trúc xã hội có tính chất quân bình hơn. Họ khẳng định, nói cách khác, rằng  có thể biến đổi được hoàn cảnh. Với niềm tin này, các lý thuyết gia về sự bất bình đẳng phái tính trái ngược hẳn với các lý thuyết gia về sự khác biệt phái tính, những người đưa ra một bức tranh về đời sống xã hội  trong đó các khác biệt phái tính, dù chúng gây nên điều gì đi nữa, có tính chất lâu bền và sâu sắc trong tính cách cá nhân, và không dễ gì thay đổi được.

            Các lý giải về sự bất bình đẳng phái tính biến thiên xung quanh cái trung tâm chung là sự tương tác. Có hai dạng chủ yếu được xem xét ở đây: thuyết nữ quyền tự do và thuyết nữ quyền theo Marx.

            Thuyết nữ quyền tự do. (Liberal feminism) Trong lý thuyết nữ giới đương thời, thuyết nữ quyền tự do có một vị trí thứ yếu. Thế nhưng đồng thời nó là cách tiếp cận được phổ biến rộng rãi nhất trong phong trào phụ nữ đương thời ở Mỹ, nó bao gồm nhiều trước tác phổ thông về các nghề nghiệp đối với phụ nữ, quyền bố mẹ bình đẳng, và nhu cầu đối với các trường không phân biệt giới tính cho trẻ  em; nó dẫn dắt nhiều chính sách khởi sự từ các phong trào, và gắn liền với hệ thống chương trình của tổ chức mạnh nhất của phụ nữ, Tổ chức quốc gia vì phụ nữ  (National Organization for woman - NOW). Một sự bổ sung dễ dàng giữa thuyết nữ quyền tự do và dòng chủ đạo của các niềm tin chính trị Mỹ giúp chúng ta có thể nhận thức về tính phổ thông của dòng lý thuyết nữ quyền này.

            Lý giải của thuyết nữ quyền tự do về sự bất  bình đẳng phái tính bắt đầu ở nơi mà các lý thuyết về sự khác biệt phái tính rời bỏ: với một sự nhận diện về sự phân bố lao động theo giới tính, sự tồn tại của phân cách công cộng và các khu vực riêng tư của hoạt động xã hội, vị trí cơ bản của nam giới ở cái nói trước và của nữ giới  ở cái nói sau, sự xã hội hoá có tính hệ thống của trẻ em để chúng thâm nhập vào các  vai trò của người lớn và các khu vực thích hợp cho phái tính của chúng. Trái với các lý thuyết gia về sự khác biệt, tuy nhiên, các nhà nữ quyền tự do không thấy có gì giá trị ở các khu vực riêng tư, có lẽ ngoại trừ nó cho phép sự bộc lộ tình cảm. Thay vào đó, khu vực riêng tư bao gồm các chu kỳ tuần hoàn vô tận của cái mà họ xem là các công việc có yêu cầu cao, không được chú ý, không được trả lương, và bị đánh giá thấp gắn liền với việc nhà, chăm sóc trẻ, và sự phục vụ về tình cảm, thực hành, tính dục cho nam giới trưởng thành. Các tưởng thưởng thật sự của đời sống xã hội: tiền, quyền lực, địa vị, sự tự do, các cơ hội để tăng trưởng và nâng cao giá trị bản thân - đều tìm thấy ở khu vực công cộng. Hệ thống đã ngăn trở giới hạn sự thâm nhập của phụ nữ vào khu vực đó, ấn lên vai họ các trách nhiệm của khu vực riêng tư, cách ly họ trong các công việc nội trợ cá nhân, và cũng chính cái hệ thống đã sản sinh ra sự bất bình đẳng đó đã miễn cho bạn đời của họ khỏi bổn phận chia sẻ các công việc nhọc nhằn của khu vực riêng tư.

            Khi được yêu cầu nhận diện các lực lượng chính trong hệ thống này, các nhà nữ quyền tự do chỉ ra chủ nghĩa phân biệt giới tính (sexism) một hệ ý thức tương tự như chủ nghĩa vị chủng (racism), trong đó bao gồm một phần các lề thói thành kiến và phân biệt chống lại phụ nữ, và một phần những niềm tin có tính chất hiển nhiên về những khác biệt “tự nhiên” giữa nam và nữ làm cho họ phù hợp với những vận số xã hội khác nhau. Do chủ nghĩa phân biệt giới tính, những người phụ nữ ngay từ thời thơ ấu đã bị hạn chế và gây thương tổn, để họ có thể đi vào các vai trò người lớn của họ, và trong những vai trò đó “thoái hoá đi” từ chỗ đầy đủ phẩm chất con người thành những sinh vật không đáng chú ý, phụ thuộc, bị đè nén trong tiềm thức, được tạo ra bởi các kềm hãm và các đòi hỏi của những vai trò phái tính đặc thù của họ.

            Sự mô tả về sự thoái hoá của phụ nữ từ chỗ có đầy đủ phẩm chất con người được rút ra từ cuốn Tương lai của hôn nhân của Jessie Bernard. Bernard là một nhà xã hội học đã từng viết về vấn đề phái tính từ những năm 1940, và từ trước đó khá lâu, nó đã được xem là một đề tài quan trọng của các nhà xã hội học. Tương lai của hôn nhân, cuốn sách được biết đến nhiều nhất của bà, là một mô hình cổ điển của thuyết nữ quyền tự do. Trong tiếng nói thản nhiên vô tình của bộ môn xã hội học  dòng chủ đạo, có định hướng thể chế, cắm neo vào thực nghiệm, Bernard đưa ra cho các nhà xã hội học một chân dung mới, có tính chất tàn phá của thể chế hôn nhân. Hôn nhân cùng lúc vừa là một hệ thống văn hoá về các niềm tin và lý tưởng, vừa là sự xếp đặt có tính chất thể chế về các  vai trò và các tiêu chí, vừa là một phức thể các kinh nghiệm tương tác đối với các cá thể nam và nữ. Về mặt văn hoá, hôn nhân được lý tưởng hoá thành ra mệnh số và nguồn thỏa mãn đối với phụ nữ; một niềm hạnh phúc hổn hợp của đời sống gia đình, trách nhiệm và sự kềm chế đối với nam giới; và đối với xã hội Mỹ theo nghĩa tổng thể, là một sự kết hợp quân bình về cơ bản giữa người chồng và người vợ. Về mặt thể chế, hôn nhân trao quyền lực cho vai trò của người chồng với thẩm quyền và sự tự do, thật ra là bổn phận, để vận động ra ngoài cuộc sống gia đình; nó tạo ra sự ăn khớp giữa ý tưởng về thẩm quyền của nam giới với khả năng giới tính và quyền lực nam giới; và nó buộc những người vợ phải phục tùng, phụ thuộc, tự vô nghĩa hoá, và chủ yếu tập trung vào các hoạt động và công việc vặt của đời sống cách ly trong việc nội trợ gia đình. Về mặt kinh nghiệm, có hai thể hôn nhân trong bất cứ thể chế hôn nhân nào: hôn nhân của nam giới; trong đó anh ta bám lấy niềm tin bị kềm chế và gánh vác trách nhiệm, trong khi nếm trải cái mà các tiêu chí đòi hỏi - thẩm quyền, sự độc lập, và một quyền hạn đối với sự phục vụ của người vợ trong đời sống tình cảm, tính dục, gia đình; và hôn nhân của người vợ, trong đó cô ta xác nhận niềm tin văn hoá về sự thỏa mãn, trong khi nếm trải sự phụ thuộc và không có quyền lực có tính chuẩn mực, một bổn phận phải cung cấp sự phục vụ đời sống tình cảm, tính dục, gia đình, và một sự thoái hoá dần mòn khỏi cô gái trẻ trung độc lập mà cô ta đã từng là trước  lúc kết hôn. Tất cả những kết quả của sự việc này được tìm thấy trong các dữ liệu đo lường các áp lực đối với con người; những phụ nữ có gia đình, dù họ quả quyết có sự thỏa mãn như thế nào, và những người đàn ông chưa có gia đình, dù họ có quả quyết tự do ra sao, được xếp thứ hạng cao trong tất cả các chỉ báo stress, bao gồm các chứng tim đập mạnh, choáng váng, nhức đầu, chóng mặt, ngất xỉu, ác mộng, mất ngủ, nỗi sợ hãi bị đột quỵ thần kinh; những phụ nữ chưa có gia đình, dù họ có quả quyết cảm giác về sự nhục nhã của họ ra sao, và những người đàn ông đã kết hôn đều có thứ hạng thấp trong tất cả các chỉ báo stress. Vậy là hôn nhân tốt đối với đàn ông và xấu đối với phụ nữ và chỉ chấm dứt các tác động bất bình đẳng như thế khi cả hai đều cảm thấy có đủ tự do để vượt ra khỏi các kềm hãm thể chế phổ biến, để bàn bạc về loại hôn nhân phù hợp nhất cho các nhu cầu và tính cách của họ.

            Đối với các nhà nữ quyền tự do, xã hội Mỹ, bị ràng buộc bởi các thể chế và quyền hạn hợp hiến, cho phép cá thể có sự tự do và bình đẳng nhiều hơn là các xã hội khác. Tuy nhiên, ngay cả ở đây, cơ hội bình đẳng cũng bị hạn chế bởi chủ nghĩa phân biệt giới tính và chủ nghĩa vị chủng. Các hệ thống niềm tin này không có tính chức năng, được mang tới từ những thời đại xa xưa, không có gì hỗ trợ ngoài truyền thống, tập tục, thành kiến vô căn cứ. Chủ nghĩa phân biệt giới tính, giống như chủ nghĩa vị chủng, ràng buộc nam giới và nữ giới vào các khuôn khổ khắc nghiệt, khước từ tập thể - phạm vi đầy đủ của các tài năng sẵn có trong dân cư, hạ thấp phụ nữ và đưa ra một phủ nhận thường xuyên về các giá trị văn hoá của chúng ta đối với giá trị và sự tự  do cá thể. Do tất cả những điều này, các nhà nữ quyền tự do xác nhận rằng xã hội Mỹ hiện thời phải được thay đổi để loại bỏ chủ nghĩa phân biệt giới tính, và họ tin rằng đa số mọi người có thể được giáo dục để nhận ra tính chất hợp lý của sự phê phán của nữ giới.

            Các nhà nữ quyền tự do đề xuất một loạt chiến lược để loại trừ sự bất bình đẳng phái tính: động viên sử dụng các nguồn pháp lý và chính trị  đang tồn tại để thực hiện thay đổi; phát triển các cơ hội kinh tế bình đẳng; tổ chức lại cuộc sống gia đình để chia sẻ các trách nhiệm về sự duy trì bảo vệ cho tất cả mọi thành viên; động viên các thông điệp trong gia đình, sự giáo dục và truyền thông đại chúng để mọi người không còn bị xã hội hoá vào trong các vai trò giới tính bị ngăn chia một cách khắc nghiệt; hỗ trợ các cá thể trong sự thách thức đối với chủ nghĩa phân biệt giới tính bất cứ ở đâu nó bị bắt gặp trong đời sống hàng ngày. Trong thập kỷ trước, hai nội  dung chính của mô hình nữ giới này đã được khảo sát với tính hiệu quả được chứng minh bởi các nhà hàn lâm nữ giới – sự trả công lao động một cách bình đẳng. (Acker, England, Fudge và Mc Dermott, Kessler Harris) và và sự bất bình đẳng phái tính trong công việc gia đình (Goldscheider và Waite, Hochschild, Shelton), cũng như  các quan hệ nối kết trong các cuộc sống của những người phụ nữ về hai vấn đề này (Millman, Morgan, Vogel, Weitzman). Trong cùng thời kỳ này, một nội dung của thuyết nữ giới tự do thứ ba, sự chọn lựa tái sản xuất (reproductive choice) là vấn đề mang tính động viên chủ yếu cho các nhà hoạt động chính trị nữ giới.

            Đối với các nhà nữ quyền tự do, sự xếp đặt phái tính lý tưởng là sự  xếp đặt trong đó mỗi cá thể chọn lựa cách sống thích hợp nhất đối với mình và làm cho sự lựa chọn đó được thừa nhận và tôn trọng, nó được vận dụng cho vợ cũng như chồng, những người ham danh vọng hay một bộ phận  của thu nhập đôi của gia đình, có hoặc không có trẻ con, đồng giới hay dị giới tính giao. Các nhà nữ quyền tự do xem lý tưởng này như là một động lực nâng cao sự thực hiện tự do và bình đẳng, tập trung các ý tưởng về văn hoá ở Mỹ. Thuyết nữ quyền tự do như vậy có sự phù hợp với đặc tính thống trị của người Mỹ trong sự chấp nhận cơ bản của các thể chế và văn hoá Mỹ, định hướng cải cách của nó, và sức hấp dẫn của nó đối với các giá trị của chủ nghĩa cá nhân, sự lựa chọn, sự tự do, sự bình đẳng về cơ hội.

            Thuyết nữ quyền Marxian. Chủ nghĩa Marx đưa ra một trong những lý thuyết được biết đến nhiều nhất và được soạn thảo công phu nhất về mặt tri thức đối với sự áp bức xã hội. Bắt đầu với Marx và Engels, và tiếp tục qua suốt toàn bộ nền trước tác tân Marxian, viễn cảnh này phát triển lý thuyết về sự áp bức giai cấp xã hội, tập trung vào sự thống trị của giai cấp cầm quyền đối với các quan tâm của giai cấp công nhân, và về tính chất lan tỏa của sự thống trị, áp bức giai cấp và mối xung đột trong  việc định khuôn mẫu của cả các quan hệ xã hội của nội bộ quốc gia và trên phạm vi quốc tế. Thuyết nữ quyền Marxian kết hợp phân tích giai cấp Marxian và phản kháng xã hội của nữ  giới. Thế nhưng mối hỗn hợp này tạo ra không phải là một lý thuyết sâu sắc về sự áp bức mà đúng hơn là một hệ thống trình bày câm lặng hơn về sự bất bình đẳng, nghĩa là, về sự bất bình đẳng phái tính. Trong khi thuyết nữ quyền Marxian thuần túy là một lý thuyết tương đối im lìm trong thuyết nữ quyền đương thời, truyền thống này có ý nghĩa quan trọng vì ảnh hưởng của nó đối với thuyết nữ quyền xã hội chủ nghĩa,  một lý thuyết có lẽ đang chiếm ưu thế trong thuyết nữ  quyền hàn lâm.

          Marx và Engels. Nền tảng của lý thuyết được Marx và Engels đặt ra. Mối quan tâm chủ yếu của họ là sự áp bức giai cấp xã hội, nhưng họ thường chuyển hướng chú ý sang sự áp bức phái tính. Khảo sát nổi tiếng nhất của họ về vấn đề này được thể hiện trong Các nguồn gốc của gia đình, tư hữu và nhà nước, được viết và xuất bản bởi Engels năm 1884 từ các ghi chú mở rộng của Marx trong những năm ngay trước lúc Marx chết, năm 1883. Các lập luận chính của cuốn sách này là:

1.      Sự lệ thuộc của phụ nữ phải là kết quả của cơ cấu sinh học của cô ta, được cho là không biến đổi, mà từ các xếp đặt xã hội có một lịch sử rõ ràng và có thể truy nguyên, các xếp đặt được cho là có thể thay đổi. (Riêng mỗi xác quyết này, đặt vào ngữ cảnh những niềm tin về phụ nữ trong thế kỷ 19, làm cho cuốn sách có tính chất một văn bản của thuyết nữ quyền)
2.      Nền tảng về mặt quan hệ đối với sự lệ thuộc của phụ nữ nằm ở gia đình, một thể chế mà tên của nó theo nghĩa thích hợp của từ La-tinh là sự giúp việc, bởi vì gia đình khi tồn tại trong các xã hội phức hợp là một hệ thống của các vai trò thống trị và lệ thuộc. Các đặc điểm chính của gia đình trong xã hội phương Tây là nó tập trung vào đôi bạn đời và con cái của họ, được đặt trong một hộ riêng lẻ; và nó có tính chất phụ hệ, với sự di truyền và của cải thông qua nam giới, có tính chất phụ quyền, với thẩm quyền được dành cho cánh đàn ông, và có tính chất một chồng một vợ, ít nhất do sự ràng buộc của nguyên tắc rằng người vợ chỉ có quan hệ tính dục với chồng của mình. Tiêu chuẩn gấp đôi cho phép đàn ông có sự tự do tính dục lớn hơn nhiều. Trong một thể chế như thế - đặc biệt là khi, ở gia đình tầng lớp trung lưu, người phụ nữ không có công việc nào ở bên ngoài căn hộ và không có sự độc lập về kinh tế – những người phụ nữ thực tế chỉ là những động sản hay vật sở hữu của các ông chồng của họ.
3.      Xã hội chính thống hoá hệ thống gia đình bằng cách xác nhận rằng một cấu trúc như thế là thể chế cơ bản trong mọi xã hội. Điều này thật ra là một xác nhận sai      lầm, như nhiều chứng cứ nhân loại học và khảo cổ học cho thấy. Đối với nhân loại ở thời tiền sử không có các cấu trúc gia đình theo kiểu này. Thay vì thế, mọi người liên kết với nhau trong một mạng lưới mở rộng: các gen- những tổ chức lớn giữa những người có cùng huyết thống. Hơn nữa các mối liên hệ này được truy nguyên là theo chế độ mẫu hệ, vì mối liên hệ trực tiếp của một người với mẹ người ấy dễ chứng minh hơn nhiều so với mối liên hệ của người ấy với cha mình. Các gen, nói cách khác, có tính chất mẫu hệ. Nó cũng có tính chất mẫu quyền, với quyền lực quan trọng nằm trong tay người phụ nữ. Trong nền kinh tế săn bắt và hái lượm sơ khai, họ có chức năng kinh tế độc lập và chủ yếu với vai trò là người hái lượm, chế biến, cất giữ và phân phối các vật chất chủ yếu. Quyền lực này được thực hiện trong các xếp đặt sinh hoạt tập thể và cộng đồng hợp tác, cộng đồng trong tiêu dùng, nuôi nấng trẻ nhỏ, ra quyết định, và thông qua sự chọn lựa tự do và không bị gây trở ngại các đối tượng yêu đương và tính dục ở cả nam và nữ giới. Kiểu xã hội này, mà Marx và Engels mô tả theo một lối khác là chế độ cộng sản nguyên thủy, thuộc vào một trong “Các nguồn gốc”, với một địa vị xã hội tự do và có quyền lực cho phụ nữ.
4.      Các nhân tố phá hủy kiểu hình hệ thống xã hội này, tạo ra cái mà Engels gọi là “sự bại trận mang tính chất lịch sử của nữ giới”, là các nền kinh tế, cụ thể là sự thế chỗ cho nền kinh tế săn bắt, hái lượm bằng nền kinh tế chăn nuôi, trồng trọt. Sự biến đổi làm nảy sinh ra sự tư hữu này đưa tới tư tưởng và thực tế của các thành viên nhóm trong việc khẳng nhận các tiềm năng chủ yếu của chính họ đối với sự sản xuất kinh tế. Chính đàn ông là những kẻ định giá sự khẳng nhận này, rằng sự nhanh nhẹn, sức mạnh và sự độc quyền đối với các công cụ nhất định đã tạo cho họ uy thế kinh tế. Với các thay đổi này, đàn ông cũng, với tư cách là những người chiếm hữu của cải, phát triển các nhu cầu không thể tránh khỏi cả về một lực lượng lao động phụ - đó là  các nô lệ, tù binh, các bà vợ, hay trẻ con - và về những người kế tục, những người sẽ là những phương tiện bảo quản và lưu truyền của cải. Từ đó nảy sinh ra hình thái gia đình đầu tiên, một ông gia trưởng và các nô lệ-giúp việc, các bà vợ-giúp việc, các con cái-giúp việc của ông ta; một đơn vị trong đó người chủ nhân bảo vệ quyết liệt độc quyền tính giao với các bà vợ của mình và do đó hẳn nhiên độc quyền đối với các kẻ thừa kế của minh. Và các đứa con trai, cũng lại hỗ trợ cho hệ thống kiểm soát giới tính này, vì nhờ nó mà chúng được độc quyền đối với của cải.
5.      Kể từ đó, sự bóc lột lao động đã phát triển thành các cấu trúc thống trị ngày càng phức tạp, đặc biệt nhất là các quan hệ giai cấp; trật tự chính trị được tạo ra để bảo vệ an toàn cho tất cả các hệ thống thống trị này, và bản thân gia đình cũng tiến triển cùng với các  chuyển biến lịch sử của các hệ thống kinh tế và tư hữu thành một thể chế có tính chất đè nén và phụ thuộc, phản ánh mọi sự bất công to lớn hơn của nền kinh tế chính trị và sự tiếp tục nâng cao mức độ lệ thuộc của phụ nữ. Chỉ với sự phá hủy các quyền lợi tư hữu trong cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa sắp xảy ra phụ nữ mới có được sự tự do về xã hội, kinh tế, chính trị và hành động cá nhân.

Cuốn Các nguồn gốc đã bị thách thức bởi các nhà nhân loại học và khảo cổ học về các cứ liệu và bởi thuyết nữ  quyền vì sự thất bại theo nhiều cách khác nhau trong việc hiểu thấu độ phức tạp hoàn toàn của sự áp bức phụ nữ. Nhưng trong việc đưa ra xác quyết rằng phụ nữ bị áp bức, trong việc phân tích sự áp bức này được duy trì bởi gia đình, một thể chế gần như được xem là có tính chất thiêng liêng bởi các bộ phận nắm quyền lực của xã hội, như thế nào; và trong việc truy nguyên các phân nhánh của sự lệ thuộc này đối với địa vị kinh tế và xã hội của phụ nữ, cuốn Các nguồn gốc đã đưa ra một lý thuyết xã hội học hùng hồn về sự bất bình đẳng phái tính, một lý thuyết đối lập sâu sắc với lý thuyết theo dòng chủ đạo của Parsons.

Thuyết nữ quyền Marxian đương thời. Các nhà nữ quyền Marxian đương thời gắn các quan hệ phái tính vào trong cái mà họ xem là một cấu trúc cơ bản hơn của hệ thống giai cấp và đặc biệt là trong cấu trúc của hệ thống giai cấp chủ nghĩa tư bản hiện thời. Từ lợi điểm lý thuyết này, phẩm chất của mỗi đời sống cá thể là một sự phản ánh trước tiên về vị trí giai cấp của anh ta hay cô ta, và thứ hai mới đến phái tính của anh ta hay cô ta. Những phụ nữ thuộc các thành phần xuất thân giai cấp khác nhau có ít kinh nghiệm sống nói chung hơn là những phụ nữ thuộc một giai cấp cụ thể nào đó có với những người đàn ông cùng giai cấp với họ. Ví dụ, trong các kinh  nghiệm được quyết định bởi giai cấp cũng như trong các quan tâm của họ, những người phụ nữ tầng lớp thượng lưu, giàu có tương phản hẳn với những phụ nữ thuộc tầng lớp lao động nghèo nàn nhưng có chung nhiều kinh nghiệm và quan tâm với những người đàn ông thuộc tầng lớp thượng lưu, giàu có. Đưa ra xuất phát điểm này, các nhà nữ quyền Marxian ghi nhận rằng trong bất cứ giai cấp nào, phụ nữ có ít thuận lợi hơn nam giới trong việc tiếp nhận các hàng hoá vật chất, quyền lực, địa vị, và các khả năng đối với sự tự thể hiện tiềm năng. Các nguyên nhân của sự bất bình đẳng này nằm trong tổ chức của bản thân chủ nghĩa tư bản.

      Dấu ấn của sự bất bình đẳng phái tính trong hệ thống giai cấp hiển nhiên là đơn giản và rõ ràng nhất trong giai cấp thống trị của chủ nghĩa tư bản đương thời, giai cấp tư sản. Những người đàn ông thuộc giai cấp tư sản làm chủ các tiềm năng sản xuất và tổ chức của nền công nghệ sản xuất, nền nông nghiệp thương mại hoá và mậu dịch trong nước và quốc tế. Phụ nữ thuộc giai cấp tư sản không chiếm hữu mà bản thân họ cũng là vật sở hữu. Và những người đàn ông giai cấp hiểu ở cấp độ sâu sắc nhất nghệ thuật chiếm hữu. Phụ nữ là loại hàng hoá hấp dẫn và riêng biệt trong một quá trình trao đổi đang diễn tiến giữa những người đàn ông, và thường là một phương tiện của các liên minh tài sản giữa những người đàn ông. Phụ nữ thuộc giai cấp tư sản sinh sản và dạy dỗ các con trai, để chúng sẽ kế thừa các tiềm năng kinh tế xã hội của cha chúng. Họ cũng cung cấp các sự phục vụ về tình cảm, xã hội, và  tính dục cho những người đàn ông cùng giai cấp. Đổi lại, họ được tưởng thưởng bằng một  nếp sống sang trọng tương ứng. Họ là, theo cách nói của Rosa Luxemburg, ”loài ký sinh của loài ký sinh”.

      Sự bất bình đẳng phái tính trong các giai cấp lao động cũng có chức năng đối với chủ nghĩa tư bản và do đó được các nhà tư bản duy trì. Phụ nữ làm công ăn lương, vì địa vị xã hội thấp kém của họ, được trả lương một cách eo hẹp, và vì nhận thức của họ về sự ngoài lề của bộ phận tầng lớp lao động, khó mà kết hợp lại trong công đoàn. Do vậy, họ phục vụ như một nguồn lợi không có tính chất cưỡng kháng đối với các giai cấp cầm quyền. Hơn nữa, vì tình trạng bên lề của khu vực làm công, họ trở nên một bộ phận quan trọng của lực lượng lao động dự bị, với ý nghĩa là một nhóm lao công có thể lựa chọn, hành động như là một mối nguy cơ và một là cái phanh hãm đối với các yêu cầu của lực lượng công nhân nam giới. Với tư cách là các bà vợ, bà mẹ, phụ nữ đã hỗ trợ một cách vô ý thức cho quá trình tạo ra lợi nhuận của giai cấp tư sản khi thực hiện chức năng người tiêu thụ các hàng hoá và dịch vụ gia đình và người theo dõi không ăn lương trợ giúp và che đậy các giá trị thực sự của sự tái sản xuất và duy trì lực lượng lao động. Cuối cùng, nhưng đối với các nhà Marxian là ít có ý nghĩa quan trọng, các bà vợ của những người làm công ăn lương cung cấp cho chồng mình một tí chút kinh nghiệm quyền lực cá nhân, đền bù cho sự vô quyền lực của họ trong xã hội. Họ là, nói cách khác, “nô lệ của những người nô lệ”.

Như chúng ta đã thấy, nhận thức của các nhà nữ quyền Marxian đã được vận dụng vào “lý thuyết các hệ thống thế giới” trên cơ sở thuyết Marxian, được phát triển một cách đáng chú ý nhất bởi Immanuel Wallerstein. Lý thuyết các hệ thống thế giới của các nhà nữ quyền Marxian mô tả và lý giải kinh nghiệm của phụ nữ về sự bất bình đẳng trên cơ sở giai cấp chịu ảnh hưởng và được tăng mức độ sâu sắc bởi vị trí của họ trong  hệ thống toàn cầu ra sao. Phụ nữ ở các khu vực ngoại biên trên toàn cầu  (nghĩa là, bị kiểm soát hay lệ thuộc về mặt kinh tế) có một kinh nghiệm về sự bất bình đẳng trên cơ sở giai cấp khác với phụ nữ ở các khu vực trung tâm (nghĩa là, kiểm soát về mặt kinh tế).

Vậy, phụ nữ không bình đẳng với nam giới không phải vì bất kỳ xung đột cơ bản và trực tiếp nào về mối quan tâm giữa  hai phái tính, mà vì họ hoạt động trong một môi trường áp bức giai cấp, với các yếu tố kèm theo của nó về sự bất bình đẳng về tài sản, sự bóc lột lao động và sự tha hoá. Thực tế là trong bất kỳ giai cấp nào phụ nữ cũng có ít thuận lợi hơn nam giới, ngược lại, dường như thuyết nữ quyền Marxian không đưa ra một nguyên nhân có tính chất cấu trúc tại chỗ. Theo như thuyết nữ quyền Marxian, thực tế này được tạo ra từ một bước ngoặt lịch sử bởi sự  sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy như  Engels đã mô tả. Như vậy, giải pháp đối với sự bất bình đẳng phái tính là sự phá hủy áp bức giai cấp. Sự phá hủy này sẽ đến thông qua cách mạng bởi hành động  của một giai cấp công nhân đoàn kết, bao gồm cả nam và nữ. Bất cứ sự cổ động trực tiếp nào để phụ nữ chống lại nam giới đều là phản cách mạng bởi vì nó phân chia tiềm lực cách mạng của giai cấp công nhân. Một cuộc cách mạng của giai cấp công nhân nhằm phá hủy hệ thống giai cấp bằng cách tạo ra mọi của cải của nền kinh tế của toàn thể cộng đồng cũng sẽ giải phóng xã hội khỏi một phó phẩm của sự bóc lột giai cấp - sự bất bình đẳng giới tính.

Sự áp bức phái tính

            Mọi lý thuyết về áp bức giai cấp mô tả hoàn cảnh phụ nữ như là hậu quả của mội quan hệ quyền lực trực tiếp giữa nam và nữ, trong đó nam giới có những quan tâm cơ bản và cụ thể trong việc kiểm soát, sử dụng, nô dịch và áp bức phụ nữ - nghĩa là trong việc thực hiện sự thống trị. Bằng sự thống trị, các lý thuyết gia áp bức muốn nói tới bất kỳ quan hệ nào trong đó một bên (cá thể hay tập thể) là kẻ thống trị (the dominant), thành công trong việc làm cho bên kia, bên lệ thuộc (the subordinate)  trở thành một công cụ của ý chí của kẻ thống trị, và chối bỏ không thừa nhận sự độc lập khách quan của bên lệ thuộc. Hoặc trái ngược lại, từ quan điểm của kẻ lệ thuộc, đó là quan hệ mà trong đó tầm quan trọng được ấn định của kẻ lệ thuộc duy nhất chỉ mang ý nghĩa như một công cụ của ý chí của kẻ thống trị. Hoàn cảnh của phụ nữ, như vậy, đối với các lý thuyết gia áp bức, chủ yếu là bị sử dụng, kiểm soát, nô dịch và áp bức bởi nam giới. Khuôn mẫu của sự áp bức này kết hợp chặt chẽ theo những phương cách sâu sắc và có tính chất thâm nhập nhất vào bên trong sự tổ chức của xã hội, một cấu trúc cơ bản của sự thống trị thường được gọi là chế độ gia trưởng (patriarchy). Chế độ gia trưởng không phải là hệ quả thứ cấp và ngoài dự  tính  một tập hợp các yếu tố khác nào đó - sinh học, hay sự xã hội hóa, hay các vai trò giới tính của  hệ thống giai cấp. Nó là một cấu trúc quyền lực cơ bản được duy trì bởi một dự định có chủ ý và vững chắc. Thật sự, đối với đa phần các lý thuyết gia áp bức, các khác biệt phái tính và sự áp bức phái tính là các phó phẩm của chế độ gia trưởng.

            Trong khi phần lớn các lý thuyết gia nữ quyền thời kỳ đầu tập trung vào các vấn đề về bất bình đẳng phái tính, một  bước ngoặt của thuyết nữ  quyền đương thời là mức độ và cường độ quan tâm của nó đến sự áp bức. Đa số các lý thuyết gia nữ quyền đương thời ở một phương diện nào đó tán thành lý thuyết áp bức, và các phát triển phong phú và có tính chất cải tiến nhất về mặt lý thuyết trong thuyết nữ quyền đương thời thuộc vào tác phẩm của nhóm lý thuyết gia này. Giờ đây chúng tôi quay sang ba thể loại chính của thuyết áp bức: thuyết nữ quyền phân tâm, thuyết nữ quyền cấp tiến và thuyết nữ quyền xã hội chủ nghĩa.

            Thuyết nữ quyền phân tâm. (Psychoanalytic Feminism) Các lý thuyết gia nữ quyền phân tâm cố gắng giải thích chế độ phụ quyền bằng cách sử dụng các lý thuyết của Freud và những người kế thừa tri thức của ông (al-Hibri, Benjamin, Chodorow, Dinnerstein, Kittay). Các lý thuyết này, đã nói tới, mô tả lại và nhấn mạnh các động năng tình cảm của cá tính, các tình cảm thường bị chôn sâu trong các khu vực tiềm thức hay vô thức của tâm lý; chúng cũng làm nổi bật vai trò quan trọng của thời sơ sinh và thơ ấu trong việc định khuôn các tình cảm này. Trong nỗ lực sử dụng các lý thuyết của Freud, tuy nhiên, các nhà nữ quyền đã thực hiện một cách tân chủ yếu về các kết luận của ông, vì bản thân Freud ai cũng biết là một người theo chế độ gia trưởng. Ông thừa nhận sự phân biệt và bất bình đẳng phái tính, nhưng không thừa nhận có áp bức phái tính. Phụ nữ đối với ông là những con người hạng hai, có bản chất tâm lý tự nhiên chỉ làm họ phù hợp với một cuộc sống thấp hơn cuộc sống được nam giới trải nghiệm. Các nhà lý thuyết nữ quyền, do đó, phải đi theo những hướng khác nhau được ngụ ý trong lý thuyết Freud trong khi phản đối các kết luận đặc thù phái tính của ông.

Các nhà nữ quyền phân tâm tiến hành theo một mô hình gia trưởng. Như mọi lý thuyết gia áp bức khác, họ xem chế độ gia trưởng là một hệ thống trong đó đàn ông nô dịch hóa phụ nữ, một hệ thống chung, lan vào khắp các tổ chức của nó, kéo dài qua không gian và thời gian, và được duy trì thành công dưới bề mặt cạnh tranh thỉnh thoảng xảy ra. Tuy nhiên, điểm khác biệt của thuyết nữ quyền phân tâm, là quan điểm rằng trong hệ thống này, thông qua các hoạt động cá nhân hàng ngày của họ, tất cả những người đàn ông làm việc liên tục và có năng suất để tạo tác và duy trì nó. Phụ nữ  chỉ đôi khi kháng cự, nhưng người ta phát hiện rằng thường là họ ngầm mặc nhận hoặc tích cực hoạt động ở vai trò lệ thuộc của họ. Vấn đề rắc rối mà thuyết nữ quyền phân tâm đưa ra xử lý là tại sao nam giới bỏ ra một năng lượng to lớn và liên tục nhằm duy trì chế độ gia trưởng, và tại sao lại không có một năng lượng bù đắp về phần những người phụ nữ.

Trong khi tìm kiếm một lý giải cho vấn đề trên, các lý thuyết gia này lý luận rằng có một sự tính toán có ý thức về các lợi ích thực tiễn đủ để nam giới ủng hộ cho chế độ gia trưởng. Sự huy động về mặt nhận thức  dường như không phải là một nguồn thỏa đáng đối với năng lượng căng thẳng mà những người đàn ông tập trung cho chế độ gia trưởng, đặc biệt bởi vì, dưới ánh sáng của năng lực đấu tranh và phê bình của con người, không phải lúc nào và ở bất kỳ nơi đâu họ cũng chắc chắn rằng chế độ gia trưởng là không có giá trị tương xứng đối với họ. Hơn nữa, một lý luận bám víu vào sự theo đuổi mối tư lợi có tính chất nhận thức sẽ cho rằng phụ nữ được cổ động một cách mạnh mẽ để chống lại chế độ gia trưởng. Thay vì thế, các lý thuyết gia này nhìn tới những khía cạnh tâm lý được những người theo thuyết Freud minh họa lại một cách hữu hiệu: khu vực các tình cảm của con người, của các khát vọng và những nỗi sợ hãi được nhận thức mơ hồ hoặc không được nhận thức, của chứng loạn thần kinh chức năng và bệnh lý. Ở đây người ta phát hiện một nguồn đã được chứng minh về mặt lâm sàng của năng lực phi thường và sự suy nhược, một thứ chìm sâu vào các cấu trúc tâm thần đến nỗi chúng không thể được nhận thức và điều khiển bởi ý thức của cá thể. Trong việc tìm kiếm các nền tảng của chế độ gia trưởng, các nhà nữ quyền phân tâm đã nhận diện hai lý giải khã dĩ cho sự thống trị của đàn ông đối với phụ nữ: sự sợ hãi cái chết và môi trường xã hội-tình cảm trong đó tính cách của đứa trẻ được định hình.

Nỗi sợ hãi cái chết, sự chấm dứt tồn tại của một cá tính của con người, được nhìn theo quan điểm của thuyết phân tâm học như là một trong những vấn đề tồn tại mà bất kỳ ai, ở bất kỳ nơi nào cũng đều phải đương đầu, và là cái làm cho bất kỳ ai, trong cuộc chạm trán này đều trải qua một sự khủng khiếp. Các lý thuyết gia nữ  quyền phát triển nội dung này lý luận rằng do sự thực hiện có tính bản chất và kéo dài trong việc mang thai, sinh nở ra cuộc sống mới của những người phụ nữ, do đó họ ít bị áp lực hơn nhiều so với nam giới bởi nhận thức về cái chết của họ. Tuy nhiên, nam giới phản ứng với nỗi kinh hoàng sâu thẳm trước dự đoán về sự tuyệt diệt cá nhân của họ, đã tiến hành một chuỗi biện pháp tự vệ, mà tất cả những thứ này đã dẫn tới sự thống trị của họ đối với nữ giới. Nam giới bị thôi thúc phải tạo ra những thứ có thể kéo dài cuộc sống của họ - nghệ thuật và kiến trúc, tài sản và vũ khí, khoa học và tôn giáo. Rồi tất cả những thứ này lại trở thành những tiềm năng nhờ đó họ thống trị nữ giới (và thống trị lẫn nhau). Họ cũng bị thôi thúc - một phần bởi sự đố kỵ của vai trò tái sản sinh của nữ giới, một phần bởi khát vọng mãnh liệt của riêng họ đối với sự bất tử  thông qua con cái - để tìm cách kiểm soát chính quá trình tái sinh sản. Họ xác quyết quyền làm chủ đối với phụ nữ, tìm cách kiểm soát thân thể những người phụ nữ, và đặt ra xác quyết thông qua các tiêu chí về tính chính thống và tính khuôn mẫu đối với những sản phẩm của các thân thể đó - các đứa bé. Cuối cùng, bị thôi thúc bởi nỗi sợ hãi, nam giới tìm cách phân cách họ khỏi mọi thứ  nhắc cho họ nhớ tới cái chết: sự sinh sản, bản chất, hoạt động giới tính, thân thể con người và các chức năng tự nhiên của họ. Và phụ nữ, bởi sự gắn liền của họ đối với những thứ đó làm cho họ trở thành biểu tượng của tất cả các thứ đó. Các phương diện đó của sự tồn tại phải bị khước từ, ngăn chặn, và kiểm soát cũng như  nam giới thường xuyên tìm cách cách ly khỏi, chối bỏ và ngăn chặn cái chết của họ. Và những người phụ nữ - biểu tượng cho tất cả các đề tài cấm kỵ đó, cũng bị đối đãi giống như chúng: bị sợ hãi, bị né tránh, bị kiểm soát.

Chủ đề thứ hai trong thuyết nữ quyền phân tâm tập trung vào hai mặt của thời kỳ phát triển trẻ thơ: (1) Giả thiết rằng loài người trưởng thành bằng cách học hỏi để cân bằng mối căng thẳng không bao giờ giải quyết được giữa khát vọng được tự do hành động – sự cá tính hóa (individuation) - và khát vọng được công nhận bởi một kẻ khác - sự thừa nhận (recognition) và (2) thực tế có thể quan sát thấy rằng trong mọi xã hội trẻ sơ sinh và trẻ em trải nghiệm bước phát triển cơ bản và sớm nhất của chúng trong một mối quan hệ gần gũi, mật thiết, không gián đoạn với một người phụ nữ-mẹ hoặc bảo mẫu của chúng. Vì trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, trong một thời gian đáng kể thiếu ngay cả một công cụ cơ bản nhất để nhận thức kinh nghiệm là ngôn ngữ, các cá thể trải nghiệm các giai đoạn sớm nhất của sự phát triển tính cách của chúng như là một mớ hỗn độn các tình cảm sơ khai: sợ, yêu, ghét, vui, giận dữ, mất mát, ước ao. Các hệ quả về mặt tình cảm của các kinh nghiệm sơ khai này ở lại mãi trong mọi người như là các “ký ức cảm giác” mạnh mẽ  nhưng thường là vô ý thức.  Trung tâm của cái còn lại đó một mớ các cảm giác mâu thuẫn sâu sắc đối với người phụ nữ/người mẹ/người săn sóc: nhu cầu, sự phụ thuộc, tình yêu, sự chiếm hữu, nhưng cũng đồng thời là nỗi sợ và phẫn nộ đối với khả năng ngăn trở của bà ta đối với ý chí của cá thể. Quan hệ của trẻ con đối với người cha/đàn ông có tính chất thỉnh thoảng, thứ yếu và không gắn bó về mặt tình cảm. Từ sự khởi đầu này, đứa bé trai, lớn lên trong một nền văn hóa tích cực đề cao giá trị nam giới và hạ thấp giá trị nữ giới, và ngày càng nhận thức về nam tính của mình, sẽ nỗ lực đạt tới một sự phân ly nhanh chóng và vụng về khỏi sự đồng nhất với người mẹ/phụ nữ. Sự cách ly có nguyên nhân về mặt văn hóa này không chỉ là có tính chất bất công mà còn có tính chất phá hủy ở các hệ quả của nó. Ở tuổi trưởng thành, những cảm xúc mang lại từ thời thơ ấu đối với phụ nữ - nhu cầu, yêu, ghét, chiếm hữu - tiếp năng lực cho người đàn ông truy lùng một người đàn bà của chính mình, một người đáp ứng cho các nhu cầu tình cảm của hắn, thế nhưng phụ thuộc vào và bị kiểm soát bởi hắn - nghĩa là,  hắn có một sự thôi thúc để thống trị và thấy sự công nhận lẫn nhau là điều khó khăn. Đứa bé gái, cùng chịu những cảm giác tương tự đối với người mẹ/phụ nữ, phát hiện ra sự đồng nhất về nữ tính của nó trong một nền văn hóa hạ thấp giá trị phụ nữ. Nó trưởng thành với những cảm giác tích cực và tiêu cực trộn lẫn vào nhau về bản thân và về mẹ/phụ nữ và mâu thuẫn đó làm tiêu mòn đi tiềm năng của nó để phản kháng lại sự lệ thuộc xã hội của bản thân. Nó tìm cách giải quyết những tồn đọng tình cảm này ở tuổi trưởng thành bằng cách đề cao các khả năng của mình đối với sự công nhận - thường là có tính chất phục tùng trong những hành động thu hút tính giao với nam giới và có tính trao đổi lẫn nhau thông qua tình bạn hữu láng giềng với nữ giới, và thay vì tìm những người mẹ thế chỗ, cô gái này tái tạo lại quan hệ mẹ-con bằng cách tự trở thành một người mẹ.

Các lý thuyết gia nữ quyền phân tâm đã thành công trong việc mở rộng các lý giải của họ từ  tính cách cá thể ra nền văn hóa - hoặc, ít nhất, là nền văn hóa phương Tây. Sự nhấn mạnh của khoa học phương Tây về sự cách biệt giữa “đàn ông” và “tự nhiên”, rằng đàn ông là kẻ thống trị tự nhiên và rằng một “phương pháp khoa học” phát sinh từ các thái độ này và một chân lý “khách quan” đầy hứa hẹn đã bị thách thức và được diễn dịch lại như một sự phóng chiếu tự ngã cực đoan cá thể của đàn ông về khát vọng thống trị và nỗi sợ hãi sự công nhận hiện thực chủ quan. Sự phê phán này được mang vào không chỉ khoa học xã hội mà cả các lĩnh vực bất khả xâm phạm của khoa học tự nhiên có tính “khách quan”. Cái được giới thiệu nghe như một phương pháp khách quan, phân cách, có sự kiểm soát và không bị ảnh hưởng lúc này lại được diễn dịch như là một kết quả xuất phát từ tính cách về mặt phái tính. Hơn nữa, các motif trong văn hoá phổ thông - chẳng hạn sự xếp đặt vị trí lặp  đi lặp lại cả về nội dung và hình ảnh của nam giới với ý nghĩa là kẻ thống trị đối với nữ giới - được các lý thuyết gia phân tâm diễn giải như là một dấu hiệu của sự  sụp đổ trong những căng thẳng tất yếu giữa một nhu cầu về sự cá tính hoá và một nhu cầu về sự thừa nhận. Khi sự đổ vỡ này đạt tới một tỷ lệ vừa đủ, trong một nền văn hoá hay một tính cách, nó sẽ tạo ra hai bệnh lý - kẻ thống trị có cá tính cực đoan, kẻ chỉ “công nhận” người khác thông qua các hoạt động kiểm soát, và kẻ lệ thuộc có cá tính dưới mức, kẻ từ bỏ hành động độc lập để tìm một sự đồng nhất với tư cách là một ảnh phản chiếu của kẻ thống trị.

Rồi các lý thuyết gia nữ quyền phân tâm lý giải sự áp bức phụ nữ trong phạm vi nhu cầu tình cảm sâu thẳm của nam giới với việc kiểm soát nữ giới, một động cơ nảy sinh từ chứng loạn thần kinh chức năng của nam giới bắt nguồn từ nỗi sợ cái chết và cảm giác mâu thuẫn với những bà mẹ đã nuôi nấng họ. Nữ giới hoặc là thiếu các chứng loạn thần kinh đó, hoặc là chịu đựng chúng, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, họ cũng không có đủ năng lượng tương xứng để phản kháng lại sự thống trị. Các chứng cứ tâm thần lâm sàng này ủng hộ cho lý luận rằng các chứng loạn thần kinh đó trong thực tế phổ biến rộng rãi,  ít nhất là trong các xã hội phương Tây. Nhưng các lý thuyết này, trong việc rút trực tiếp từ các tình cảm phổ quát của con người ra sự áp bức phụ nữ, đã thất bại trong việc khảo sát các xếp đặt xã hội tại chỗ đã nối kết tình cảm và sự áp bức, và không đưa ra được các tuyến khác nhau có thể tồn tại trong tình cảm, sự áp bức và các xếp đặt xã hội. Nói rõ hơn, nhiều lý thuyết gia đã thảo luận về các giả thiết chưa được  ghi nhận  về dân tộc, giai cấp, quốc tịch trong các lý thuyết đó từ sự khái quát hoá của họ đối với kinh nghiệm của gia đình người da trắng tầng lớp thượng lưu Bắc Đại Tây Dương. Chúng ta sẽ quay lại các mối quan tâm này trong thảo luận về làn sóng nữ quyền thứ ba. Ngoài ra, vì  các sơ sót này, lý thuyết nữ quyền phân tâm ít đề ra các chiến lược cho sự thay đổi, có lẽ ngoại trừ  khi chúng ta tái xây dựng lại các thực tiễn chăm sóc trẻ của chúng ta và bắt đầu một sự tái hoạt động nào đó về mặt tâm lý-văn hoá đối với định hướng của chúng ta đối với cái chết. Các lý thuyết gia này như vậy đã đưa ra cho chúng ta một số nhận thức gợi mở để đi sâu vào sự thấu hiểu các nguồn  gốc của áp bức phái tính, nhưng chúng đòi hỏi một sự chuẩn bị công phu hơn rất nhiều về cả các yếu tố xã hội học cũng như các chiến lược thay đổi. Cả hai công việc này đã được thực hiện trọn vẹn hơn bởi các dòng lý thuyết áp bức khác - thuyết nữ quyền cấp tiến và thuyết nữ quyền xã hội chủ nghĩa.

Thuyết nữ quyền cấp tiến. Thuyết nữ quyền cấp tiến dựa trên cơ sở hai niềm tin trung tâm có tính chất tình cảm: (1) rằng phụ nữ hoàn toàn có giá trị tích cực với tư cách là phụ nữ, một niềm tin được xác quyết để chống lại cái mà họ cho là sự hạ thấp một cách phổ quát giá trị của người phụ nữ; và (2) rằng ở bất kỳ nơi nào phụ nữ cũng bị áp bức một cách thô bạo như nhau, bởi hệ thống của chế độ gia trưởng. (Atkinson, Bunch, Chesler, Daly, Douglas, Dworkin, Echols, French, Frye, Griffin, Jeffrey, Millett, Rich). Trong hỗn hợp các tình cảm yêu thương và hờn giận mãnh liệt này, các nhà nữ quyền cấp tiến tương tự như kiểu mang tính chiến đấu nhiều hơn của các nhóm dân tộc và chủng tộc, các xác quyết của người Mỹ gốc Phi rằng “đen là đẹp” hay “sự chứng kiến” đến tận chi tiết của những người Do Thái sống sót sau nạn diệt chủng của chế độ Phát xít. Xây dựng trên nền tảng những niềm tin chủ yếu này, các nhà nữ quyền cấp tiến đề ra một lý thuyết về sự tổ chức xã hội, sự áp bức phái tính và các chiến lược cho sự thay đổi.

Các nhà nữ quyền cấp tiến thấy các cấu trúc cơ bản nhất trong mọi các thể chế và các xã hội là sự tính giao dị giới, giai cấp, đẳng cấp, củng tộc, dân tộc, lứa tuổi và phái tính - các hệ thống áp bức mà trong đó một số người thống trị những người khác. Trong tất cả các hệ thống của sự thống trị và sự lệ thuộc này, cấu trúc cơ bản nhất của sự áp bức là phái tính, hệ thống của chế độ gia trưởng. Về mặt lịch sử, chế độ gia trưởng không chỉ là cấu trúc đầu tiên của sự thống trị và sự lệ thuộc, mà nó còn tiếp tục là hệ thống lâu bền và phổ biến nhất của sự bất bình đẳng, mô hình xã hội cơ bản của sự áp bức (Lerner). Thông qua sự tham dự vào chế độ gia trưởng, nam giới  học được cách thức coi khinh người khác, xem họ không phải là con người, và kiểm soát họ. Trong chế độ gia trưởng nam giới nhìn nhận và nữ giới học được sự lệ thuốc là như thế nào. Chế độ gia trưởng tạo ra tội lỗi và sự kềm hãm, chứng bạo dâm và chứng khổ dâm, sự mánh khóe và sự dối trá, tất cả các thứ đó đưa nam giới và nữ giới tới các hình thức khác của sự chuyên quyền độc đoán. Chế độ gia trưởng, đối với các nhà nữ quyền cấp tiến, là cấu trúc ít được chú ý nhất nhưng lại là cấu trúc quan trọng nhất đối với sự bất bình đẳng xã hội.

Trung tâm của phân tích này là sự hình dung chế độ gia trưởng như là bạo lực được thực hiện bởi nam giới và các tổ chức do nam giới thống trị nhằm chống lại nữ giới. Bạo lực không phải lúc nào cũng ở dưới hình thức của sự  tàn ác công khai về vật chất. Nó có thể được ẩn giấu trong các thực tiễn phức tạp hơn của sự bóc lột và sự kiểm soát; trong các tiêu chuẩn về thời trang và sắc đẹp; trong các tư tưởng chuyên chế về tình mẫu tử, chế độ đơn hôn, trinh tiết, sự đồng giới tính giao; trong sự quấy rối tình dục ở công sở; trong các thực hành phụ khoa, sản khoa và tâm lý liệu pháp; trong các công việc nội trợ nặng nhọc và các công việc có mức lương chết đói (Mackinnon, Rich, Wolf). Bạo lực tồn tại ở bất cứ nơi nào có một nhóm kiểm soát theo các quan tâm của bản thân nó các biến đổi của cuộc sống, các môi trường, các hành động và nhận thức của một nhóm khác, như là nam giới đối với nữ giới.

Nhưng nội dung chủ yếu của bạo lực với ý nghĩa là một sự tàn ác về vật chất công khai nằm ở trung tâm của sự kết nối của thuyết nữ quyền cấp tiến giữa chế độ gia trưởng với bạo lực : sự cưỡng hiếp, lạm dụng tình dục, nô lệ tình dục trong tệ nạn mãi dâm cưỡng bức, sự lạm dụng vợ, sự loạn luân, sự gạ gẫm tình dục với trẻ em, sự cắt bỏ tử cung và các hình thức giải phẩu cấp tiến cực đoan khác, và chứng bạo dâm hiển hiện trong phim khiêu dâm, tất cả các thứ này được kết nối với các thực tiễn có tính chất lịch sử và văn hóa chéo của sự hỏa thiêu những người phù thủy, sự ném đá đến chết những người thông dâm, sự ngược đãi những người phụ nữ đồng tính ái, tệ giết trẻ gái sơ sinh, tục bó chân của phụ nữ Trung Hoa, sự cưỡng bức tự sát các góa phụ người Ấn Độ, sự tàn ác trong thực hành cắt bỏ âm vật của phụ nữ (Barry, Bart và Moran, Buchwald, Fletcher và Roth, MacKinnon, Scully). Thông qua tầm nhìn cấp tiến, chúng ta được đưa ra một hình ảnh về người phụ nữ đẫm máu và bị cắt xén như các thể hiện có thể trông thấy cái mà chế độ gia trưởng đã thực hiện.

Chung quy lại, chế độ gia trưởng tồn tại như là một hình thức xã hội gần như phổ quát bởi vì nam giới có thể tập trung tiềm năng quyền lực cơ bản nhất, lực lượng vật chất, để thiết lập sự kiểm soát. Một khi chế độ gia trưởng đã ổn định vị trí, các tiềm năng quyền lực khác - kinh tế, ý thức, pháp luật và tình cảm - cũng có thể bị sắp xếp theo hàng ngũ để duy trì nó. Nhưng bạo lực vật chất luôn luôn ẩn chứa sự phòng vệ tối hậu của nó, trong cả các quan hệ liên nhân vị và liên nhóm, bạo lực đó được tái sử dụng nhiều lần để bảo vệ chế độ gia trưởng khỏi sự phản kháng của cá nhân và tập thể phụ nữ. (Caputi, Faludi)

Nam giới tạo ra và duy trì chế độ gia trưởng không chỉ vì họ có các tiềm năng để làm điều đó, mà cũng vì họ có một quan tâm thật sự đến việc buộc phụ nữ phải tuân phục như là những công cụ. Chẳng hạn, phụ nữ là phương tiện hiệu quả độc nhất vô nhị để nam giới thỏa mãn khát vọng tình dục của nam giới. Ngoài ra, thân thể của họ chủ yếu là để sản xuất ra trẻ con, những người sẽ đáp ứng cả những nhu cầu về mặt thực tiễn, và, như các nhà phân tâm học đã chỉ ra, về mặt tinh thần cho nam giới. Phụ nữ là một lực lượng lao động hữu ích, như những người Marxian đã lưu ý. Họ cũng là những dấu hiệu trang sức cho địa vị và quyền lực của nam giới. Vì là những bạn đồng hành bị kiểm soát một cách cẩn trọng với cả nam giới trưởng thành cũng như trẻ con, họ là những thành viên thú vị, là nguồn hỗ trợ về tình cảm, và là những vật làm nền có ích, để củng cố mãi nhận thức của nam giới về ý nghĩa quan trọng trung tâm trong xã hội của họ. Các chức năng hữu ích này cũng có nghĩa là nam giới ở bất cứ nơi đâu cũng tìm cách duy trì sự phụ thuộc của phụ nữ. Nhưng các hoàn cảnh xã hội khác nhau tạo ra các trật tự  khác nhau đối với các chức năng đó và do đó dẫn tới các khác biệt văn hóa chéo nhau trong việc định khuôn chế độ gia trưởng. Các nhà nữ quyền cấp tiến, không giống như các nhà nữ quyền phân tâm, vừa đưa ra một lý giải về sự áp bức phái tính phổ quát, vừa đưa ra một mô hình để nhận thúc các dạng khác biệt văn hóa chéo nhau trong sự áp bức này.

Chế độ gia trưởng sẽ bị đánh bại như thế nào? Các nhà cấp tiến cho rằng một cuộc đánh bại như thế phải được bắt đầu với một sự tái tạo về cơ bản đối với ý thức của phụ nữ, để mỗi người đều  nhận ra giá trị và sức mạnh của họ; để phản kháng lại áp lực của chế độ gia trưởng xem họ là yếu ớt, phụ thuộc và thứ cấp; và để cùng  hoạt động trong khối thống nhất với các phụ nữ khác, bất kể những khác biệt giữa họ, thiết lập  một nền tảng kết nghĩa chị em rộng lớn cùng chung niềm tin, sự hỗ trợ, sự tán đồng và bảo vệ lẫn nhau. Với tình kết nghĩa đã ổn định này, hai chiến lược sẽ tự nó xuất hiện: một sự đối mặt có tính chất phê phán với bất kỳ bộ mặt nào của sự thống trị gia trưởng ở bất kỳ nơi nào chạm trán với nó; và một mức độ của chính sách ly khai khi phụ nữ lui vào trong họat động doanh thương do phụ nữ điều hành, vào các công việc nội trợ, các tập thể, các trung tâm sáng tạo nghệ thuật, các quan hệ tự do luyến ái đồng tính nữ. Thuyết nữ quyền luyến ái đồng tính, với tư cách là một nhánh chủ yếu của thuyết nữ quyền cấp tiến, là sự thực hành và niềm tin rằng “sự tận tâm về tình ái và tình cảm đối với phụ nữ là một phần của sự phản kháng lại chế độ thống trị gia trưởng”. (Taylor và Rupp)

Người ta đánh giá thuyết nữ quyền cấp tiến như thế nào? Về mặt tình cảm mỗi người trong chúng ta sẽ phản ứng với nó theo mức độ cấp tiến của bản thân chúng ta, một số xem nó có tính phê phán cực đoan, còn số khác hoàn tòan bị thuyết phục. Nhưng trong một nỗ lực đánh giá về mặt lý thuyết, người ta cần lưu ý rằng thuyết nữ quyền cấp tiến kết hợp các lập luận được đưa ra bởi cả các nhà nữ quyền Marxian và nữ quyền phân tâm về các nguyên nhân đối với sự phụ thuộc của phụ nữ, thế nhưng đã đi ra khỏi các lý thuyết này. Nó là thể rộng nhất của các dòng lý thuyết nữ quyền khác nhau mà cho đến nay chúng ta tiếp xúc. Các nhà nữ quyền cấp tiến đã thực hiện các khảo sát quan trọng để hỗ trợ cho luận đề của họ rằng chế độ gia trưởng chung quy là dựa vào sự thực hành bạo lực chống lại phụ nữ. Họ cũng có một tư tưởng có lẽ là một chương trình thay đổi chưa hoàn thành. Họ đã có thiếu sót trong ưu tiên tập trung vào chế độ gia trưởng. Vì tiêu điểm này có vẻ đã đơn giản hóa các thực tiễn của sự tổ chức xã hội và sự bất bình đẳng xã hội, và do vậy đã tiếp cận các vấn đề cải thiện thay đổi khá phi hiện thực. Nhóm thứ ba của các lý thuyết áp bức, thuyết nữ quyền xã hội chủ nghĩa, đưa ra một phê phán dứt khoát về mối quan tâm đơn diện của thuyết nữ quyền cấp tiến đối với chế độ gia trưởng.

Thuyết nữ quyền xã hội chủ nghĩa. Thuyết nữ quyền xã hội chủ nghĩa là một nhóm các trước tác đa dạng được hợp nhất bởi lịch trình lý thuyết hơn là bởi những kết luận tồn tại độc lập. (Bartsky, Eisentein, Frase, Hannsen và Philipson, Hartmann, Hartsock, Hennessey, Jaggar, MacKinnon, D. Smith). Ba mục tiêu dẫn dắt thuyết nữ quyền XHCN tổng hợp về mặt lý thuyết các lý thuyết Marxian, nữ quyền cấp tiến và hiện tượng luận là: (1) đạt được một sự kết hợp độ rộng và sự chính xác để cho mọi hình thức áp bức đều được khảo sát và sự khảo sát đó gắn bó với kinh nghiệm của phụ nữ; (2) phát triển các phương pháp rõ ràng và tương thích đối với phân tích xã hội nhờ vào một nhận thức mở rộng về chủ nghĩa duy vật lịch sử; và (3) coi các ý tưởng  là tương đương với sự sản xuất vật chất trong việc quyết định các vấn đề của con người. Các nhà nữ quyền XHCN đã đặt cho bản thân một dự án chính thức nhằm đạt được một sự tổng hợp các lý thuyết nữ quyền cũng như một bước mở rộng ra khỏi các lý thuyết đó. Nói cụ thể hơn, các nhà nữ quyền XHCN tìm cách tập trung lại cái mà họ xem là hai truyền thống nữ quyền có giá trị nhất: tư tưởng của thuyết nữ quyền Marxian và nữ quyền cấp tiến.

Xuất phát từ  dự án tổng hợp này đã nảy sinh ra hai phân nhánh của thuyết nữ quyền XHCN. Nhánh đầu tiên tập trung duy nhất vào sự  áp bức phụ nữ và sự nhận thức nó theo một cách thức kết hợp giữa tri thức về áp bức giai cấp (của chủ nghĩa Marx) và sự áp bức phái tính (của thuyết nữ quyền cấp tiến). Thông qua giao điểm lý thuyết này, các lý thuyết gia tìm cách lược đồ các điểm chung và các khác biệt trong kinh nghiệm về sự lệ thuộc của phụ nữ. Thuật ngữ thường được sử dụng nhất bởi các lý thuyết này đối với hệ thống mà họ mô tả là chế độ gia trưởng tư bản (Eisenstein, Hartmann).

Nhánh thứ hai của thuyết nữ quyền XHCN mô tả và lý giải mọi hình thức áp bức xã hội, sử dụng các kiến thức về các hệ thống phân cấp phái tính và giai cấp như  là một cơ sở để từ đó khảo sát các hệ thống áp bức, không chỉ tập trung vào phái tính và giai cấp mà cả chủng tộc, dân tộc, lứa tuổi, sở thích tính dục, và vị trí trong hệ thống thứ bậc toàn cầu của các quốc gia. Thuật ngữ thường được sử dụng đối với các hệ thống này là sự thống trị (mà chúng ta đã thảo luận ở đầu chương). Phụ nữ vẫn là trung tâm của tiếp cận lý thuyết này theo hai phương cách. Thứ nhất, như ở tất cả các thuyết nữ quyền, sự áp bức phụ nữ vẫn còn là một đề tài chủ yếu đối với sự phân tích. Các nhà lý thuyết về sự thống trị có thể lược  tả  thậm chí còn tỉ mỉ hơn những lý thuyết gia về chế độ gia trưởng tư bản các dạng khác nhau và sự hoán vị trong sự áp bức này. Thứ hai, vị trí của phụ nữ và kinh nghiệm về thế giới của họ là một lợi điểm cho sự thống trị ở tất cả mọi hình thức của nó. Tuy thế, chung quy lại, các lý thuyết gia này quan tâm tới tất cả các kinh nghiệm về sự  áp bức, bởi nam giới hay cả bởi nữ giới. Họ cũng khảo sát việc một số phụ nữ, bản thân họ bị áp bức, thế nhưng có thể tham dự  tích cực vào sự áp bức đối với các phụ nữ khác như thế nào, ví dụ như phụ nữ da trắng ở xã hội Mỹ áp bức các phụ nữ da đen. Thật ra, chiến lược của tất cả các nhà nữ quyền XHCN là đối đầu với sự bất công và các thực hành áp bức trong bản thân cộng đồng phụ nữ (Eisenstein, Lorde). Sự khảo sát này pha trộn với các lập luận của làn sóng nữ quyền thứ ba.

Cả tiêu điểm về chế độ gia trưởng tư bản cũng như về sự thống trị được kết nối với một sự tận tụy, dù là hiển hiện hay tiềm tàng, với chủ nghĩa duy vật lịch sử với ý nghĩa là một chiến lược phân tích (Jaggar). Chủ nghĩa duy vật lịch sử, một nguyên tắc cơ bản của trong lý thuyết xã hội Marxian, chỉ ra lập trường rằng các điều kiện vật chất của đời sống con người, bao gồm các hoạt động và các quan hệ làm sản sinh ra các điều kiện đó, chính là các yếu tố chủ chốt định khuôn kinh nghiệm, cá tính, tư tưởng và các xếp đặt xã hội của con người. Các nhà duy vật lịch sử cho rằng bất kỳ nỗ lực nào trong phân tích xã hội phải truy nguyên trong các chi tiết lịch sử cụ thể các đặc thù của những điều kiện vật chất của nhóm và các nối kết giữa các điều kiện đó với các kinh nghiệm, các tính cách, các sự kiện, các ý tưởng, và các đặc điểm xếp đặt xã hội của nhóm. Trong việc nối kết chủ nghĩa duy vật lịch sử với tiêu điểm về sự thống trị của họ, các lý thuyết gia XHCN cố gắng nhận ra mục tiêu của họ về một lý thuyết khảo sát các sắp xếp xã hội của con người và các sự thống trị rộng lớn nhất, thế nhưng vẫn tận lực đối với các phân tích chính xác, cụ thể về mặt lịch sử của các xếp đặt vận chất và xã hội đã ấn định các hoàn cảnh cụ thể của sự thống trị.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử, một xác nhận tiêu chuẩn của thuyết nữ quyền XHCN cho thấy rõ sự vay mượn của trường phái đối với tư duy Marxian. Nhưng trong việc vận dụng nguyên tắc này, các nhà nữ quyền XHCN vượt ra khỏi các nhà Marxian  theo ba hướng chủ yếu: sự định nghĩa lại của họ về các điều kiện vật chất, sự tái thẩm định giá trị về tầm quan trọng của ý thức hệ, và tiêu điểm của họ vào sự thống trị. Trước hết, họ mở rộng ý  nghĩa của các điều kiện vật chất của đời sống con người. Các nhà Marxian chủ yếu ngụ ý rằng các động lực kinh tế của xã hội, đặc biệt là các phương thức trong đó hàng hoá đủ các kiểu được tạo ra và trao đổi trong thị trường. Trong những xếp đặt khác nhau có tính chất bóc lột ở đây, làm cho một số trở thành người giàu và số khác trở thành người nghèo, họ định vị các nguồn gốc của sự bất bình đẳng giai cấp và xung đột giai cấp. Phân tích của thuyết nữ quyền XHCN bao gồm các động lực kinh tế và, rộng hơn, cả các điều kiện khác đã tạo ra và duy trì cuộc sống con người: thân thể của con người, giới tính của nó và mối liên quan trong việc sinh nở và nuôi nấng con cái; sự duy trì gia đình, với những công việc không lương, không được chú ý; sự nuôi dưỡng tình cảm; và sự sản sinh ra bản thân kiến thức. Trong tất cả các hoạt động duy trì cuộc sống này, các xếp đặt có tính chất bóc lột làm lợi cho một số người và làm bần cùng hoá một số khác. Sự thấu hiểu trọn vẹn mọi xếp đặt có tính cơ bản này của sự sản xuất và sự bóc lột là nền tảng chủ yếu cho một lý thuyết về sự thống trị.

    Sự định nghĩa lại khái niệm về các điều kiện vật chất  đã chuyển hoá giả thiết của những người Marxian rằng con người là những nhà sản xuất ra các hàng hoá  sang một nội dung rằng con người là những nhà sáng tạo và kẻ duy trì toàn thể đời sống nhân loại. Bước chuyển biến này đưa chúng ta tới điểm khác biệt thứ hai giữa chủ nghĩa duy vật lịch sử Marxian và chủ nghĩa duy vật lịch sử được phát triển trong thuyết nữ quyền XHCN, đó là, viễn cảnh của cái nói sau nhấn mạnh vào cái mà một số nhà Marxian có thể gọi một cách tùy tiện là các hiện tượng thuộc về mặt tư tưởng hay tinh thần: ý thức, động cơ, các tư tưởng, các định nghĩa xã hội về hoàn cảnh, kiến thức, ý thức hệ, ý chí để hành động cho các quan tâm của cá thể hoặc để đồng ý với các quan tâm của những người khác. Đối với các nhà nữ quyền XHCN tất cả những yếu tố này có ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách con người, hành động con người, và các cấu trúc của sự thống trị được nhận thức thông qua hành động đó. Hơn nữa, các khía cạnh này của tính chủ quan của con người được tạo ra bởi các cấu trúc xã hội gắn bó chặt chẽ với, và cũng phức tạp và có tác động lớn như , các cấu trúc tạo ra các hàng hoá kinh tế. Trong tất cả những cấu trúc này, các xếp đặt có tính bóc lột làm giàu và tăng thêm quyền lực cho một số trong khi làm nghèo đi và hạ thấp một số khác. Sự phân tích các quá trình định khuôn tính chất chủ quan của con người là điều cốt yếu đối với một lý thuyết về sự thống trịvà sự phân tích đó cũng có thể được gọt dũa cho chính xác bằng cách áp dụng các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch  sử.

      Khác biệt thứ ba giữa các nhà nữ quyền XHCN và các nhà Marxian là đối tượng phân tích đối với các nhà nữ quyền XHCN về cơ bản không chỉ là sự bất bình đẳng giai cấp mà còn là sự  đan xen phức tạp của một loạt các bất công xã hội. Thuyết nữ quyền XHCN phát triển một chân dung của sự tổ chức xã hội trong đó các cấu trúc công cộng của kinh tế, chính trị và hệ tư tưởng tương tác với các quá trình riêng biệt của sự tái sản xuất, đời sống gia đình, hoạt động tình dục và tính chất chủ quan của con người, để duy trì một hệ thống thống trị đa diện. Để phân tích hệ thống này, các nhà nữ quyền XHCN dao động qua lại giữa một lược đồ các hệ thống vĩ mô và một sự bóc lột chi tiết, cụ thể về mặt hoàn cảnh của các kinh nghiệm trong cuộc sống bình thường hàng ngày của những người bị áp bức. Chiến lược thay đổi của họ dựa trên quá trình khám phá này, trong đó họ cố bao gồm các nhóm bị áp bức mà họ nghiên cứu, và họ hy vọng thông qua đó cả các cá thể và các nhóm, theo những phương thức khác nhau, sẽ học được cách hành động để theo đuổi sự giải phóng tập thể của họ.

Một phê phán quan trọng của thuyết nữ quyền XHCN, và thật ra của mọi thể nữ quyền đã mô tả, là dù đề ra các yêu cầu giải phóng, họ có xu hướng bị định vị trong những giả thiết và các khát vọng của những người phụ nữ da trắng tầng lớp cao Bắc Đại tây Dương. Trong thuyết nữ quyền có một mối quan tâm đang lớn dần đối với các khó khăn về mặt thực hành và lý thuyết đặt ra từ sự bóc lột đối với phụ nữ của một nhóm giai cấp, chủng tộc, dân tộc bởi một nhóm phụ nữ khác. Vấn đề khó khăn này là tiêu điểm của các nhà lý thuyết được thảo luận ở phần sau.

Làn sóng nữ quyền thứ ba

Cụm từ “Làn sóng nữ quyền thứ ba” được dùng để nhận diện cái được xem là một giai đoạn mới trong lịch sử lý thuyết nữ quyền, một giai đoạn đối lập với “làn sóng thứ nhất” của các trước tác nữ quyền, đi cùng với sự cổ động cho quyền đầu phiếu của phụ nữ từ giữa thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, và “làn sóng thứ hai” của giới học giả mở rộng, khởi đầu từ cuối những năm 1960 và kéo dài cho đến hiện tại. Phần lớn các dạng lý thuyết nữ quyền khác nhau được điểm lại ở đây đã lớn lên từ làn sóng thứ hai này, dù thuyết nữ quyền cấp tiến và XHCN phần nào đó đi theo những chiều hướng do sự phát triển gần đây hơn của làn sóng nữ quyền thứ ba đề ra. Hiện nay, các lý thuyết này của làn sóng thứ hai vẫn đang cùng tồn tại về mặt thời gian và không gian và có một sự trao đổi qua lại linh hoạt với các lập luận của làn sóng nữ quyền thứ ba.

Tầm quan trọng của một lý thuyết làn sóng nữ quyền thứ ba trở nên hiển nhiên trong những năm 1980 và hiện đang thiết lập một trong các lĩnh vực năng động và có tính trung tâm nhất của sự tăng trưởng tri thức trong phạm vi lý thuyết nữ  quyền. Sự phát triển này thật sự là một chỉ báo thành công của phong trào phụ nữ đương thời, một phong trào ngày càng trở nên toàn cầu hóa, đụng chạm đến cuộc sống và trí tưởng tượng của phụ nữ trong nhiều khu vực của xã hội Mỹ và đa số các nước trên thế giới. Quan tâm trọng yếu của làn sóng nữ quyền thứ ba là những khác biệt giữa những người phụ nữ. Bám sát quan tâm này, các nhà nữ quyền làn sóng thứ ba tái thẩm định giá trị và mở rộng thêm các vấn đề mà làn sóng thứ hai đã mở ra, đồng thời tái đánh giá có phê phán các chủ đề và khái niệm của các lý thuyết làn sóng thứ hai này. Các nhà nữ quyền làn sóng thứ ba nhìn một cách có phê phán vào xu hướng các tác phẩm đã được thực hiện trong những năm 1960 và 1970 để vận dụng một khái niệm phổ quát, chắc chắn về “phụ nữ” với ý nghĩa một phạm trù về giống trong sự phân tầng và tập trung vào các hàm ý thực tiễn và lý thuyết về các khác biệt giữa những người phụ nữ.  Những khác biệt này được xem là được tạo nên bởi một sự phân bố không đồng đều các hàng hóa sản phẩm và dịch vụ xã hội trên cơ sở vị trí trong hệ thống toàn cầu, giai cấp, dân tộc, lứa tuổi và sở thích tình cảm khi các yếu tố này tương tác với sự phân tầng giới tính.

Tiêu điểm về sự khác biệt này đã tạo ra ít nhất ba lĩnh vực tác phẩm tri thức cụ thể hóa trong thuyết nữ quyền làn sóng thứ ba: một mô tả về tính đa dạng của các kinh nghiệm của phụ nữ; một phê phán đối với nhiều phạm trù cơ bản nhất chung cho cả thuyết nữ quyền hiện đại và các phân tích xã hội; và một nỗ lực để lược tả thế giới trong phạm vi các vector của sự  lệ thuộc và đặc quyền – phái tính, giai cấp, chủng tộc, lứa tuổi, dân tộc, vị trí toàn cầu, các sở thích tình cảm - vừa tương tác về mặt cấu trúc vừa giao nhau về mặt động năng trong cuộc sống của mọi người để tạo ra sự áp bức và sự bất bình đẳng. Trong khi phần lớn các tác phẩm hiện nay trong nền trước tác phong phú cất tiếng nói về tính đa dạng, nhát cắt về mặt lý thuyết là nằm trong phản ứng thứ  ba, các lý thuyết về các vector của sự lệ thuộc và đặc quyền.

Tính đa dạng. Các trước tác về tính đa dạng dựa trên niềm tin rằng sự thật về các quan hệ xã hội được phát hiện tốt nhất là từ lợi điểm của những người bị áp bức (cả nam giới và nữ giới), từ đó các lý do phải được bộc lộ ra. Các nhà nữ quyền làn sóng thứ ba khảo sát các vấn đề phức tạp của hệ thống thống trị này bằng cách xem xét vị trí của phụ nữ, những người bị áp bức nhất, nghĩa là, có ít đặc quyền nhất. Một nguồn kiến thức đặc biệt có tính chất vén mở về các quan hệ xã hội thống trị đã được chứng minh là của những người phụ nữ da màu Bắc Đại Tây Dương, những người tự thấy mình nối kết mật thiết với những người kiểm soát và bóc lột họ trong các hoàn cảnh lao động của cuộc sống gia đình, của công việc phục vụ được trả công rất thấp, các công việc có tính chất tình dục, tình cảm và tái sản xuất, được trả công hoặc không được trả công. Phụ nữ da màu thấy họ gắn bó gần gũi với những người áp bức họ - như phụ nữ nói chung, những người da màu và người nghèo. Họ có kinh nghiệm về “kẻ lạ bên trong” các nhóm thống trị. Các tác phẩm cất tiếng nói về tính đa dạng có thể được xem là có ba kiểu chính. Thứ nhất, có một thể tác phẩm khác thường về các phụ nữ xuất thân từ tầng lớp không có đặc quyền, các phụ nữ “ở bên lề”. Các tác phẩm này bao gồm các trình bày của phụ nữ  Mỹ gốc Phi (Brewer, Golden, James và Ousia, Zinn và Dill), phụ nữ La-tinh (Garcia, Hardy Fanta),  phụ nữ Châu Á (Iwao), phụ nữ thổ dân (Allen); những người đồng tính nữ (Phelan), những nữ công nhân (Cobble, Gabin, Luttrell, Zandy, Gabaccia, Lamphere, Safa). Thứ hai, có một thể các nghiên cứu định vị các phụ nữ này trong các thể chế như gia đình (Pemberton, Sherman, Waston, Zavella) và lao động (Brinton, Rollins, Sacks, Sokoloff, Woody). Thứ ba là các tác phẩm liền kề hoặc đan xen các lý giải về tính đa dạng của phụ nữ, tạo ra trong tổng thể của chúng một chân dung lý thuyết về tính đa dạng (Anzaldua, Aptheker, Grewal và Kaplan).

Phê phán. Các nghiên cứu nỗ lực phê phán các khái niệm đang tồn tại trong thuyết nữ quyền là vay mượn từ thuyết hậu hiện đại. Nhưng sự vay mượn đó có thể bị cường điệu hóa. Từ lâu trước khi cuộc tranh chấp của nhà hậu hiện đại và phương pháp phá hủy trở nên mang tính hàn lâm thông qua từ ngữ,  các nhà nữ quyền ở bên lề - các phụ nữ da màu, đồng tính nữ và công nhân nữ - đã đặt dấu hỏi không chỉ về ý thức hệ giới tính và địa vị bất bình đẳng của phụ nữ, mà rộng hơn, cả toàn bộ các hệ thống thống trị - chủ nghĩa phân biệt về giới tính, về chủng tộc, về giai cấp, về luyến ái, chủ nghĩa đế quốc - và ý thức sai lạc đặc thù đã dẫn phụ nữ dị tính ái người da trắng giai cấp trung lưu sử dụng thuật ngữ  phụ nữ” như là một phạm trù cụ thể đối lập với sự thống trị của nam giới trong khi làm ngơ các hành động áp bức của chính họ đối với những phụ nữ không cùng giai cấp, chủng tộc và sở thích tính cảm với họ. Phê phán này đã đặt ra các câu hỏi về cái mà chúng ta ngụ ý bởi các phạm trù như  “phụ nữ”, “phái tính”, và “chủng tộc” (ví dụ, Butler, Kaninsky) và đã định nghĩa lại “màu da trắng” như là một kiến trúc xã hội hơn là một sự kiện thuần túy từ đó các “chủng tộc khác” xuất phát (Frankenberg, Ware). Các  câu hỏi này buộc những phụ nữ da trắng đánh giá lại thuyết nữ quyền mà họ sản sinh ra với ý nghĩa là một lý thuyết về nữ quyền chứ không phải là chính bản thân thuyết nữ quyền; trong sự đánh giá lại này, họ cố gắng xem xét cuộc cách mạng mà họ đã tạo ra và đã không tạo ra được (Breines). Phê phán này cũng tập trung vào sự đa dạng về kinh nghiệm trong các hành vi có vẻ phổ quát như  “làm mẹ” và mở rộng các tác phẩm lý thuyết chẳng hạn các nghiên cứu tâm lý-xã hội của Chodorow và Benjamin (Glenn, Chag và Forcey, Mahoney và Yngvesson, Segura và Pierce, Zhang). Bản thân Chdorow cũng đáp lại phê phán của làn sóng thứ ba bằng cách đánh giá lại tác phẩm của mình trong một viễn cảnh văn hoá chéo.

Các vector của sự áp bức và sự đặc quyền. Không câu hỏi học thuật nào về cái được mang ý nghĩa là “phụ nữ”, “phái tính” và “sự khác biệt” đã loại trừ  ra khỏi trung tâm của làn sóng nữ quyền thứ ba niềm tin sâu sắc rằng “không phải tất cả khổ đau đều như nhau, rằng nỗi đau có thể tính toán đo lường”. Sự tính toán này được quyết định bởi các giao điểm trong đời sống của một  cá thể về vị trí toàn cầu, giai cấp, chủng tộc, dân tộc, lứa tuổi, sở thích tình cảm và các chiều kích khác của sự phân tầng. Nhiều nghiên cứu nữ quyền hiện nay được dành cho việc mô tả và lý giải giao điểm của các vector của sự áp bức và sự đặc quyền như là một hiện tượng vĩ mô và một kinh nghiệm sống của cá thể. Các chủ đề nghiên cứu bao gồm các quan hệ về phái tính và chủng tộc (L. Blum, Newman, Strom, Turbin); về chủng tộc và sở thích tình cảm (Lorde); về phái tính, giai cấp và chủng tộc (P. Collins, Cordova, Golden, Harris, Quadagno, Wade Gayles) và về phái tính, giai cấp, chủng tộc, vị trí toàn cầu (Chinchilla, Momsen, Scheper Hughes). Chung qui, các nghiên cứu này chỉ ra một hệ thống đan xen phức tạp của giai cấp, chủng tộc, phái tính, sự áp bức và sự đặc quyền toàn cầu. Họ chỉ ra rằng hệ thống áp bức này sinh ra các thái độ, hành động và tính cách có tính chất bệnh lý trong phạm vi các chuỗi phân loại của cả kẻ áp bức và kẻ bị áp bức. Rằng sự phản kháng đối với áp bức và bệnh lý định vị trước tiên ở nhu cầu không nguôi của loài người đối với sự tự thể hiện tiềm năng bản thân một cách trọn vẹn, và kế đến, một cách biện chứng, là tư cách thành viên của một cộng đồng cụ thể của những người bị áp bức, những người mà văn hoá, sự nuôi dưỡng con cái, các chiến lược sống còn của họ là điều cốt yếu đối với sự hoàn hảo của các thành viên cá thể của cộng đồng này. Các lý thuyết về các vector của sự áp bức và sự đặc quyền trực tiếp tạo cơ sở cho lý thuyết xã hội học nữ quyền được giới thiệu ở phần kế tiếp.

MỘT LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC NỮ QUYỀN

Một nguyên tắc thực hành tri thức của thuyết nữ quyền mà chúng tôi lấy làm điểm xuất phát đối với lý thuyết xã hội học nữ quyền là không thể có các nhà quan sát vô tư. Ví dụ, các nhà xã hội học quan sát sự tổ chức xã hội từ một lập trường về tính thuận lợi của quan hệ xã hội. Do đó, chúng tôi phải nhận diện lập trường của mình như là các nhà nữ quyền. Chúng tôi là các lý thuyết gia áp bức, nằm đâu đó giữa lý thuyết cấp tiến và lý thuyết XHCN. Chúng tôi hoạt động trong phạm vi giao diện giữa thuyết áp bức và làn sóng nữ quyền thứ ba, nhưng từ một vị trí tương đối có đặc quyền của các nhà khoa học xã hội đang sống ở nước Mỹ hiện thời, thế nhưng không phải là không bị xúc phạm với ý nghĩa là những người phụ nữ bởi chủ nghĩa vị chủng, chủ nghĩa phân biệt lứa tuổi, và sự phân biệt về dị tính ái. Từ viễn cảnh này, chúng tôi nhận diện bốn đặc điểm cơ bản của một xã hội học nữ quyền:

1.      Một xã hội học riêng biệt về kiến thức.
2.      Một mô hình riêng biệt về sự tổ chức xã hội ở cấp độ xã hội vĩ mô.
3.      Một khảo sát về hoàn cảnh quan hệ của phụ nữ làm thay đổi nhận thức xã hội học truyền thống về sự tương tác vi mô.
4.      Một sự xét lại về mô hình xã hội học chủ quan.

Cái mà chúng tôi giới thiệu ở đây là sự tổng hợp các nguyên tắc cơ bản về một lý thuyết xã hội học nữ quyền đang nảy sinh. Phạm vi của lý thuyết này được đề xuất tốt nhất  bởi sự nhận diện các lý thuyết gia chủ yếu của nó. Trước hết và trên hết, lý thuyết này hàm ơn của các tác phẩm phụ nữ-trung tâm có tính chất tiên phong của Dorothy E. Smith. Những nhà nữ quyền có đóng góp quan trọng cho sự tổng hợp này bao gồm Anzaldua, Benjamin, Bernard, Chodorow, P.Collins, Gardiner, Gilligan, Haraway, Harding, Heibrun, Lorde, MacKinnon, Rich, Stacey và Thorne. Gần như mọi tác phẩm về lý thuyết nữ quyền đều là lý thuyết “nền tảng”’ nghĩa là, chúng giải thích kinh nghiệm sống của phụ nữ trong phạm vi các xếp đặt có tính chất cấu trúc vĩ mô, vi mô hay các quan hệ liên nhân vị, và ý thức cá thể. Ngoài ra, có một số tác phẩm khảo   sát vận dụng và mở rộng lý thuyết được phát triển dưới đây. Bao gồm các nghiên cứu về phái tính và các tổ chức (Acker, Cockburn, Savage và Witz); về các công việc có lương và không lương của phụ nữ (Abel, De Vault, Diamond, Glazer, Hochschild, Rubin, Tannen, Thorne); về thân thể và ý thức (Bordo, Charmaz), và về ý thức phụ nữ trong một thời điểm lịch sử (Sidel). Trong thập kỷ trước, lý thuyết nữ quyền hậu hiện đại đã bắt đầu chảy, theo những đường hướng có ý nghĩa quan trọng, từ các môn văn học, triết học và lịch sử, vào các thảo luận xã hội học nữ quyền - đặc biệt là về nhận thức luận và các tính chất chủ quan của phái tính. Thảo luận của chúng tôi về tác động của bước phát triển gần đây rút ra từ  Barrett và Philips, Butler, Flax, Fraser và Bartsky, Hartsock, Irving và Longino.

Một xã hội học nữ quyền về kiến thức

Lý thuyết xã học nữ quyền đặt trên cơ sở một môn xã hội học về kiến thức có tính chất riêng biệt, nhánh xã hội học này nghiên cứu kiến thức ở bản thân nó là một sản phẩm của các quan hệ xã hội ra sao.

Một xã hội học nữ quyền về kiến thức xem mọi sự vật mà mọi người gọi là “kiến thức của thế giới” là có bốn đặc điểm chủ yếu: (1) Luôn luôn nó được phát hiện từ lợi điểm của một actor được đặt trong một cấu trúc xã hội; (2), do vậy, nó luôn luôn có tính chất bộ phận và thiên vị, không bao giờ là toàn bộ và khách quan; (3) nó khác biệt từ cá nhân này sang cá nhân khác vì các khác biệt ở sự thể hiện và hoàn cảnh xã hội; (4) nó luôn luôn chịu ảnh hưởng của các quan hệ quyền lực - dù là được phát hiện từ lợi điểm của kẻ thống trị hay kẻ lệ thuộc. Như vậy, từ một viễn cảnh xã hội học nữ quyền, kiến thức chính là vấn đề khó khăn chủ yếu, vấn đề vẫn chưa được khẳng định, đã đặt ra một câu hỏi xa hơn. Đối với thuyết xã hội học nữ  quyền, công việc cơ bản đối với bất kỳ một câu hỏi nào là (1) nhận diện và mô tả tính chất phức tạp của hoàn cảnh xã hội của một  actor như là một ‘lợi điểm” trên thực tế; (2) thiết lập các tiêu chuẩn qua đó nhà xã hội học hoạt động với các lý giải phần nào có thể chấp nhận được trong việc sản sinh ra bất kỳ kiến thức nào, cho bất kỳ nhận thức nào ở cuối cuộc nghiên cứu; và (3) phân tích phương cách các quan hệ quyền lực được biểu lộ  như thế nào trong các xác nhận về kiến thức. Trên hết, sai lầm không thể bỏ qua được từ một lập trường của nhận thức luận nữ quyền là việc thực hiện, nói hay viết  trên vị thế  “con mắt của thượng đế”, nghĩa là, hành động như thể anh là một nhà quan sát tách rời, xa cách và toàn năng, đứng bên ngoài và bên trên nhưng biết hết tất cả về chủ đề khảo cứu của anh. (Ví dụ thông thường nhất của “con mắt thượng đế” là các quan sát được thực hiện bởi một cá nhân được viết lại từ “Tôi hiểu rằng” thành “Khảo sát cho thấy”).

Công việc đầu tiên để nhận diện các actor xã hội xây dựng kiến thức của họ trên nền tảng các kinh nghiệm và mối quan tâm có thuộc tính hoàn cảnh của họ. Các nhà nữ quyền, khởi đầu từ chỗ Marx để lại, nhận diện ba nhóm chủ yếu - chủ nhân, công nhân và phụ nữ - những người mà hoàn cảnh sống và các quan hệ của họ với nhau chỉ được định khuôn phần nào bởi các yếu tố kinh tế. Như vậy, khi các nhà nữ quyền khảo sát các khác biệt trong những người phụ nữ, họ phát hiện ra vô số các nhóm có hoàn cảnh khác biệt nhau. Trong việc truy nguyên các quan hệ trong tất cả các nhóm này, nhà nữ quyền phải đi ra ngoài một mô hình thống trị giai cấp tới một tầm nhìn về một hệ thống phức tạp của các nhóm được trao quyền lực một cách bất bình đẳng quan hệ với nhau thông qua các chuyển biến trong các xếp đặt liên minh và đối kháng. Hơn nữa, các nhà nữ quyền nhận ra rằng các actor là những người thể hiện mà lợi điểm xã hội  của họ chuyển biến theo thời gian và bởi vấn đề; do vậy, không có một quỹ tích trừu tượng đối với kiến thức - không có “phụ nữ Thế giới thứ ba” hay “nhà sinh học tách rời”, hay “tôn giáo bí ẩn”. Chỉ có những người mà đối với họ các tên gọi này có thể biểu thị một phần đặc điểm nhận diện của họ, nhưng toàn thể con người họ là một ai đó phải được xác định bằng một cách phức tạp hơn là các tên gọi đó hàm ý.

Công việc thứ hai là lý giải trên cơ sở nào mà một người có thể, với tư cách một nhà xã hội học, đưa ra các xác quyết chân thật nếu cái nói trước là một lý giải chính xác, nghĩa là, nếu kiến thức được khám phá bởi các actor xã hội, những người mà vị trí của họ không bền vững chỉ duy nhất bởi vì tính chất phải chết của con người. Các lý thuyết gia xã hội học nữ quyền cố gắng không bị rơi vào một chủ nghĩa tương đối trong đó một lý giải loại trừ một lý giải khác. Thay vào đó, họ  cung cấp nhiều cơ sở cho việc đánh giá kiến thức. Một cơ sở trong số đó là việc đánh giá  hiệu lực của cái mà Haraway gọi là “các lý giải mạng nhện”. Nghĩa là, các lý giải đan bện với nhau thông qua việc thuật lại tất cả các phiên bản của actor về một kinh nghiệm và mô tả các hoàn cảnh từ đó actor tạo ra các phiên bản đó. Cách tiếp cận này, theo đuổi ở những chiều hướng khác nhau trong các nghiên cứu thực nghiệm của thuyết nữ quyền, đòi hỏi rằng cả người đọc lẫn nhà khảo cứu đều phải ghi khắc trong đầu, và làm việc với, một nhận thức phức tạp về kiến thức. Nó cụ thể hóa sự phức tạp của tính chất lý tưởng trong việc công nhận các lợi điểm. Một hệ quả tất yếu đối với cách tiếp cận này là nhà khảo sát nhận diện được sự thiên vị của mình (với đầy đủ ý nghĩa của từ này) và chịu trách nhiệm đối với việc đánh giá kiến thức thu được từ một vị trí cụ thể (ví dụ, Stanley). Ở cách tiếp cận thứ ba, nhà khảo sát nữ quyền xem công việc chủ yếu là phân tích các sự vật họat động ra sao để sản sinh ra cái được gọi là kiến thức. Cô ta nhìn vào các quá trình qua đó một lý giải trở nên “thực tế”, nghĩa là, trở nên được công nhận bởi đa số mọi người như là cách thức mà một sự kiện xảy ra. Cô ta có thể đưa ra một lý giải mạng nhện về cái “thực sự” xảy ra và một lý giải có tính trình tự về việc sự kiện trở thành thực tế ra sao. Trong tất cả những chuyện này, nhà khảo sát bị cuốn hút vào một phân tích về các quan hệ quyền lực hoặc về tính chất phức tạp của cô ta với tư cách một nhà khoa học xã hội chuyển hóa các lý giải thành hiện thực trong việc duy trì các quan hệ này (ví dụ, Smith).

Công việc có tính chất nhận thức luận thứ ba là phân tích các quan hệ giữa kiến thức và quyền lực bởi vì điều cuối cùng xảy ra đối với bất kỳ lý giải nào của actor về bất kỳ sự kiện nào tùy thuộc vào vị trí của actor trong một hệ thống xã hội mà trong đó quyền lực quyết định vị trí, và vị trí quyết định quyền lực. Khái niệm này về quan hệ giữa kiến thức và quyền lực cung cấp một cơ sở triết học cho giá trị quả quyết của nhà nữ quyền về các quan điểm về các nhóm ít đặc quyền, vì một nhân tố chủ yếu trong tính đặc quyền là các quan điểm của một actor được định vị một cách thuận lợi trở thành “các quan điểm của xã hội” (một mở rộng cho châm ngôn của Marx, ‘các tư tưởng chiếm ưu thế của bất kỳ thời đại nào là các tư tưởng của giai cấp cầm quyền của nó’).  Nhận thức này ép buộc các nhà nữ quyền thường xuyên kêu gọi sự chú ý không chỉ tới quan điểm “của phụ nữ” về một hoàn cảnh mà còn tới các quan điểm trong các nhóm phụ nữ khác nhau, và với sự mở rộng, tới các quan điểm của ngững người mà vị trí của họ bởi chủng tộc, lứa tuổi, sở thích tình cảm, vị trí toàn cầu  làm cho họ trở nên có ít đặc quyền hơn.

Như chúng tôi đã nói, tất cả những thứ này cuối cùng đều bắt nguồn từ những kinh nghiệm hàng ngày của phụ nữ. Hoàn cảnh xã hội của phụ nữ, theo truyền thống, đã làm họ trở thành, một mặt, là những đối trọng của các quan điểm khác nhau, và mặt khác, là những người  cho rằng các quan điểm riêng của họ đã bị hạ thấp hay xuyên tạc bởi quyền lực của nam giới. Ở trường hợp thứ nhất, họ được kỳ vọng - trong vai trò của họ là những người vợ, người mẹ và con gái, và trong thế giới lớn, ít có quy định phái tính hơn của sự sản xuất kinh tế, giáo dục, chính trị, tôn giáo - để phục vụ như là những người trung gian, những người bảo đảm rằng mọi vị trí đều nhận được một thái độ lắng nghe “vô tư”. Nhưng nếu họ có phản ánh chút gì đó, họ cũng nhận thức được rằng, ở trường hợp thứ hai, biết bao nhiêu lần họ và những người không có quyền lực khác - trẻ em, người già, người nghèo, các tộc người thiểu số, và phụ nữ với tư cách là phụ nữ - không được phép tham dự vào các thảo luận được tiến hành một cách nghiêm túc (Heilbrun). Phụ nữ do vậy tìm được kiến thức không bởi việc chấp nhận các xác quyết đơn phương đối với sự thật mà là bởi việc cân nhắc đo lường các lý giải về thực tại được đưa ra cho họ bởi nhiều người khác.

Thảo luận về kiến thức vừa giới thiệu về cơ bản là một tóm tắt về lập trường của thuyết nữ quyền được mệnh danh là “lập trường nhận thức luận” (Harding). Thuyết lập trường (Standpointism) lý luận rằng một nhà quan sát xã hội có thể đi tới một chân lý về một hoàn cảnh bằng cách đan kết các lý giải được ấn định của các actor đã được định vị, bao gồm cả lý giải về chính bản thân nhà quan sát trong hoàn cảnh đó. Một nhà quan sát xã hội nữ quyền bắt đầu bằng cách cố gắng nhìn thế giới từ lập trường của phụ nữ, nghĩa là, từ một lập trường của sự  bị đặt bên lề và sự áp bức. Làn sóng nữ quyền thứ ba mở rộng thuyết lập trường để bao gồm tính phức tạp của các vị trí trong đó một actor có thể đứng vào một thời điểm-phụ nữ, giai cấp công nhân, người dân tộc thiểu số, người già cả, người đồng tính  nữ. Nhận thức luận nữ quyền ưu tiên cho kiến thức của những cá nhân có lập trường nảy sinh từ các lập trường của sự lệ thuộc căng thẳng trong giao điểm của các vector áp bức. Thuyết lập trường có tính chất thách thức trong phạm vi thuyết nữ quyền ngày nay bởi các đề xuất của thuyết hậu hiện đại, người “phá hủy” chính các phạm trù mà từ đó nhận thức luận nữ quyền tạo ra một lập trường - các phạm trù đó là “phụ nữ”, “phái tính”, “giai cấp”, “sự khác biệt” và “chủng tộc”. Sự phá hủy là một phương pháp cơ bản của thuyết hậu hiện đại và nhiều thuyết nữ quyền; nó bao gồm một khái niệm thích hợp trong các quan hệ quyền lực và lịch sử của nó đến nổi sự thẩm thấu hay tính tương đối cơ bản của khái niệm trở nên rõ ràng; nghĩa là nó không còn được xem là có một ý nghĩa cố định và cụ thể. Nhiều nhà nữ quyền tranh cãi với bước ngoặt chung cuộc này của thuyết hậu hiện đại vì nó dẫn tới một sự tương đối hóa mọi lập trường đến mức không kiến thức nào được ưu tiên, không có giá trị nào là tuyệt đối, như vậy, thuyết hậu hiện đại ở hình thức cực đoan nhất của nó không để lại một “lập trường” nào để từ đó đúc kết nên phê phán về chính trị. Các nhà nữ quyền lập trường phần nào đáp lại bằng cách diễn tả bản thân thuyết hậu hiện đại  như là một sản phẩm của một thời điểm lịch sử đặc thù trong các quan hệ quyền lực- nghĩa là, của một thời điểm khi phụ nữ và những người bị áp bức khác đòi hỏi có quyền phát ngôn như là những chủ thể: “Tại sao mà chỉ ở thời điểm khi nhiều người trong số chúng ta, những người đã câm lặng từ lâu, bắt đầu yêu cầu quyền được đặt tên cho chính mình, được hành động như là các chủ thể hơn là các đối tượng của lịch sử, khái niệm về tính chủ thể chợt trở  nên mơ hồ?” (Hartsock)

Trật tự  xã hội vĩ 

Trong phần này và các phần khác tiếp theo, chúng tôi tiến hành khảo sát trong phạm vi các truyền thống xã hội học đã được thiết lập về  từ ngữ và sự khái niệm hóa bằng cách tổ chức sự giới thiệu các cụm từ như  xã hội vĩ mô, xã hội vi môtính chủ quan. Tất nhiên người ta có thể trích ra từ thuyết nữ quyền có liên quan đến một trong những khái niệm xã hội học đã được thiết lập này, mặc dù, như chúng ta sẽ thấy, phần lớn cái được trích  đặt ra một phê phán cơ bản đối với các xác quyết xã hội học đang tồn tại về các chủ đề này. Nhưng sự phê phán thậm chí còn đi sâu hơn. Thuyết nữ quyền đang trong quá trình  nối kết một nguồn từ vựng có tính chất khái niệm mới đối với xã hội học, mà nó đi ra khỏi sự phân nhánh của vấn đề xã hội vĩ mô chống xã hội vi mô, làm cho viễn tượng đó của thực tại xã hội trở nên lỗi thời. Vì lý do này, mặc dù trong mối quan tâm tới sự thông tin hiệu quả chúng tôi vận dụng các khái niệm truyền thống - vĩ mô, vi mô, chủ quan - như là một điểm đi vào lý thuyết nữ quyền, ở phần cuối của phân đoạn này, chúng tôi sẽ quay sang một số khái niệm mới, mà với chúng, các nhà xã hội học nữ quyền bắt đầu đi ra khỏi mô hình cũ của thực tại xã hội.

Quan điểm của xã hội học nữ quyền về trật tự xã hội vĩ mô nhấn mạnh tới tác động của cả cấu trúc xã hội (hay sự sản xuất vĩ mô–khách quan) và hệ tư tưởng (hay chủ thể vĩ mô) lên những nhận thức của các actor về thực tại xã hội.

Xã hội học nữ quyền bắt đầu bằng cách mở rộng khái niệm Marxian về sự sản xuất kinh tế sang một khái niệm chung nhất hơn nhiều về sự sản xuất xã hội, nghĩa là, sự sản xuất của mọi đời sống xã hội của con người. Cùng với sự sản xuất ra các mặt hàng cho thị trường, sự sản xuất xã hội đối với thuyết nữ quyền cũng bao gồm các sự xếp đặt như sự tổ chức công việc nhà, cái tạo ra các tiện nghi và sự phục vụ cơ bản của cuộc sống gia đình; của hoạt động tình dục, cái định khuôn và thỏa mãn khát vọng của nam giới; của sự thân mật, cái định khuôn và thỏa mãn các nhu cầu tình cảm của con người đối với sự chấp nhận, tình yêu, lòng tự trọng; của nhà nước và tôn giáo, cái tạo ra các nguyên tắc và luật pháp của một cộng đồng; và của chính trị, truyền thông đại chúng, thảo luận hàn lâm, cái thiết lập các định nghĩa công cộng, có tính thể chế về hoàn cảnh.

Được cấu tạo và mở rộng như vậy, mô hình Marxian về các quan hệ liên nhóm vẫn còn có thể  nhận ra trong mô hình của thuyết nữ quyền về sự tổ chức xã hội. Mỗi một kiểu trong sự sản xuất xã hội đặt trên cơ sở một sự xếp đặt qua đó một số actor kiểm soát các tiềm năng chủ yếu đối với hoạt động đó, hành động như những kẻ thống trị hay những “ông chủ”, ra mệnh lệnh và hưởng lợi từ các hoàn cảnh của sự sản xuất. Trong mỗi khu vực sản xuất, hiệu năng sản xuất dựa trên lao động của nhữn người lệ thuộc, hay các “người phục vụ”, những người mà năng lượng của họ tạo ra một thế giới được duy trì trật tự bởi các chủ nhân của họ và sự bóc lột của các chủ  nhân đó cũng tước đoạt khỏi họ các tưởng thưởng và các thỏa mãn được tạo ra từ lao động của chính họ. Thông qua thuyết nữ quyền, chúng ta thấy, một cách sâu sắc hơn qua lý thuyết Marxian, sự gắn bó mật thiết giữa các chủ nhân và những người phục vụ nằm ở trung tâm của mọi sự sản xuất và tính tất yếu của lao động của những người phục vụ trong việc tạo tác và duy trì mọi thứ cần thiết cho đời sống xã hội của con người. Sự sản xuất xã hội diễn ra thông qua một cấu trúc đa chiều kích của sự thống trị và sự bóc lột đã tổ chức cho giai cấp, phái tính, chủng tộc, giới tính, quyền lực và kiến thức vào các hệ thống thứ bậc trùng lắp giữa các chủ nhân và người phục vụ được gắn bó mật thiết  với nhau.

Quay sang một khía cạnh khác của trật tự vĩ mô, khảo sát nữ quyền cho thấy rằng phụ nữ và những người không nắm quyền thống trị khác không trải nghiệm cuộc sống xã hội như là một sự vận động giữa các vai trò chia thành từng ngăn riêng biệt, như các nhà cấu trúc luận quả quyết. Thay vì thế,  họ thực hiện trong một sự cân bằng giữa các vai trò, một sự kết hợp các quan tâm và các định hướng gắn liền với vai trò, và thông qua sự hợp nhất này, trong một sự đan kết lẫn nhau giữa các thể chế xã hội. Đúng là người mẹ lao động cũng như người phụ nữ lao động trong các phạm trù công việc “tiêu biểu của giống cái” như thư ký và điều dưỡng. Cũng đúng là khi phụ nữ liên kết các hoạt động của đời sống gia đình với người tiêu thụ kinh tế, hoặc của người mẹ của đám con lứa tuổi đến trường với một thành viên của bộ phận làm công hưởng lương. Hơn nữa, trong một kết nối đôi cổ điển, hoặc “hoàn cảnh không thể thắng”, đánh dấu kinh nghiệm của phụ nữ về sự lệ thuộc, sự pha trộn và điều hòa này được kỳ vọng ở phụ nữ trong khi được dùng như  là một cơ sở cho các so sánh xúc phạm giữa việc thực hiện hành vi vai trò của phụ nữ với vai trò có tính chất “tiêu biểu” hoặc chia ngăn riêng biệt. Do vậy, người ta nói một cách gièm pha rằng phụ nữ “mang các quan tâm ngoài đường vào trong văn phòng”, và “để cho những tình cảm của họ ảnh hưởng tới công việc của họ”, và “ không thể ngăn được thực tế rằng họ là những người phụ nữ từ trong hoàn cảnh”.

Mô hình thuyết nữ quyền về sự phân tầng trong sự sản xuất xã hội đề ra một một phê phán trực tiếp về viễn tượng của nhà chức năng cấu trúc về một xã hội bao gồm một hệ thống các thể chế cách ly và riêng biệt dù có các vai trò có quan hệ hỗ tương. Thuyết nữ quyền xác quyết rằng sự hình dung này không có tính chất phổ quát mà nó mô tả các kinh nghiệm và các lợi điểm của một nhóm được xếp đặt cụ thể - người da trắng, nam giới, tầng lớp thượng lưu, người lớn. Thật ra, một chỉ báo của sự kiểm soát nhóm đối với các hoàn cảnh của sự sản xuất có thể là các thành viên của nó thủ đắc được kiểu chia thành từng ngăn riêng biệt có mục đích trong hành vi vai trò của họ, một điều kiện giúp cho việc tái sản sinh sự kiểm soát của họ đối với hoàn cảnh. Nhưng xã hội học nữ quyền nhấn mạnh rằng điều kiện này phụ thuộc vào các dịch vụ lệ thuộc của các actor, những người không thể chia thành từng ngăn riêng biệt cuộc sống và các hành động của họ. Thật ra, nếu các actor lệ thuộc này  làm được như thế, toàn bộ hệ thống sản xuất trong các xã hội công nghiệp hóa phức tạp sẽ phải sụp đổ. Trái với mô hình  chức năng cấu trúc, mô hình thuyết nữ quyền nhấn mạnh rằng kinh nghiệm hợp nhất với vai trò của phụ nữ có thể phổ quát hóa với kinh nghiệm của nhiều nhóm phục vụ lệ thuộc khác, những nhóm mà lao động của họ tạo ra kết cấu suôn sẽ của đời sống hàng ngày. Các nhận thức rằng các nhóm lệ thuộc đó có sự tổ chức về đời sống xã hội có thể khác với nhận thức được mô tả trong thuyết chức năng cấu trúc;  ngay cả sự nhận diện của họ về các phạm vi thể chế chủ yếu cũng có thể khác nhau. Thế nhưng lợi điểm của họ đến từ các hoàn cảnh cần thiết cho xã hội như nó được tổ chức trong hiện tại và từ công việc đã làm cho trở nên khả dĩ cảm giác an toàn của những chủ nhân về một thế giới được phân thành từng ngăn về mặt thể chế.

Xa hơn, thuyết nữ quyền nhấn mạnh tính chất trung tâm của sự thống trị về mặt hệ tư tưởng đối với cấu trúc của sự thống trị xã hội. Hệ tư  tưởng là một mạng lưới rắc rối của các niềm tin về thực tại và đời sống xã hội được thể chế hóa thành kiến thức công cộng và được phổ biến trong khắp xã hội một cách có hiệu quả đến nỗi nó trở thành kiến thức chiếm ưu thế đối với mọi nhóm xã hội. Như vậy cái mà thuyết nữ quyền xem như là “kiến thức công cộng về thực tại xã hội” không phải là một nền văn hóa bao quát, một sản phẩm xã hội được tạo ra một cách liên ứng, mà là một một sự phản ánh của các mối quan tâm và các kinh nghiệm của những kẻ thống trị xã hội và là một thước đo cho quyền lực của họ trong xã hội. Cái phân biệt quan điểm này với phần lớn các quan điểm Marxian là đối với các nhà nữ quyền, sự kiểm soát về mặt hệ tư tưởng là quá trình cơ bản trong sự thống trị, và sự kiểm soát hệ thống thứ bậc về sự bàn luận và kiến thức là nguyên tố chủ chốt trong sự thống trị xã hội.

Trung tâm của các quan tâm của thuyết nữ quyền về trật tự xã hội vĩ mô, dĩ nhiên là sự định khuôn cấu trúc vĩ mô của bất bình đẳng phái tính. Hệ tư tưởng đóng một vai trò chủ yếu trong việc duy trì vector xã hội của sự thống trị và sự lệ thuộc này. Sự bất bình đẳng phái tính được tái sinh bởi một hệ thống kiến thức được thể chế hóa, phản ánh các quan tâm và các kinh nghiệm của nam giới. Trong số những điều khác, hệ tư tưởng phái tính này nhận diện nam giới như là những người gánh vác thẩm quyền về mặt văn hóa xã hội và ấn định cho vai trò của nam giới quyền được thống trị và cho vai trò của nữ giới sự bắt buộc phải phục vụ trong mọi chiều kích của sự sản xuất xã hội. Hệ tư tưởng phái tính cũng dàn mỏng và xuyên tạc các hoạt động sản xuất của phụ nữ bởi (1) tầm thường hóa một số, ví dụ, các công việc gia đình; (2) lý tưởng hóa tới một điểm không thể thừa nhận các hoạt động khác, ví dụ, việc làm mẹ; và (3) thế nhưng làm cho không thể thấy được các công việc chủ yếu khác, ví dụ, vô số các cống hiến có tính chủ yếu của phụ nữ đối với sự sản xuất ra các hàng hóa cho thị trường. Các quá trình về mặt hệ tư tưởng này có thể được khái quát hóa thành sự sản xuất cấu trúc vĩ mô của mọi sự lệ thuộc xã hội.

Trật tự xã hội vi mô

Ở cấp độ tương tác vi mô, xã hội học nữ quyền (như một số viễn cảnh xã hội học vi mô khác) tập trung vào cách thức các cá thể quan tâm lẫn nhau khi họ theo đuổi các kế hoạch khách thể hay những ý nghĩa chung về mặt chủ quan. Xã hội học nữ quyền khác với thuyết định nghĩa xã hội và thuyết hành vi xã hội - cả hai thuyết này đều tập trung vào trật tự tương tác vi mô - ở năm phương diện quan trọng (xem phần Phụ lục). Một phê bình về năm điểm khác biệt này sẽ vén mở nhiều khía cạnh quan trọng của mô hình nữ quyền về trật tự vi mô.

Hành động phản ứng chống hành động có mục đích.  Phần lớn các xã hội học vi mô dòng chủ đạo đưa ra một mô hình con người có mục đích xác lập các mục tiêu riêng của họ và theo đuổi chúng theo tuyến của chuỗi hành động mà trong đó họ (cá thể hay tập thể) cố gắng kết nối các ý nghĩa cho các mục đích. Trái lại, khảo sát nữ quyền chỉ ra, trước hết, rằng cuộc sống của phụ nữ có một phẩm chất của thuyết ngẫu nhiên, vì phụ nữ  thấy bản thân họ bị giam hãm vào các lịch trình chuyển biến và thay đổi theo những biến đổi thất thường của hôn nhân, các chuỗi hành động của người chồng, các tác động không thể đoán trước của con cái trong suốt cuộc đời, sự ly hôn, sự góa bụa, và tình trạng bấp bênh của phần lớn những nghề nghiệp làm công của phụ nữ. Thứ hai, trong những hoạt động hàng ngày của họ, phụ nữ thấy bản thân họ không theo đuổi các mục tiêu theo một tuyến riêng biệt mà là đáp ứng lại một cách liên tục những đòi hỏi và nhu cầu của những người khác. Chủ đề này đã được phát triển trong phân tích của Chodorow về sự cộng sinh giữa các bà mẹ và các đứa con gái, thông qua mô tả của Lever và Gilligan về các nhóm phụ nữ có quan hệ thi đấu căng thẳng, để phân tích phụ nữ trong các nghề nghiệp tiêu biểu của họ như giáo viên, y tá, thư ký, tiếp tân, người phục vụ văn phòng; và lý giải những phụ nữ trong vai trò của họ với tư cách người vợ, người mẹ, và những người cộng tác trong cộng đồng và dòng họ. Trong việc gọi các hoạt động của phụ nữ là có tính chất “phản ứng”, chúng tôi không có ý mô tả họ là có những phản ứng thụ động. Thay vì thế, chúng tôi đưa ra một bức tranh về những con người có định hướng không nhiều lắm đối với các mục tiêu của riêng họ cho bằng các công việc giám thị, cộng tác, tạo điều kiện và động viên các ước muốn, hành động và yêu cầu của những người khác. Ở vị trí mô hình truyền thống của xã hội học vi mô về các actor có mục đích, như vậy khảo sát nữ quyền đã đưa ra một mô hình các actor, những người trong cuộc sống hàng ngày của họ được xếp đặt có tính chất phản ứng vào trung tâm mạng lưới của các hành động của những người khác và những người trong thời gian dài tìm thấy bản thân họ được xếp đặt vào vị trí này hay vị trí khác trong những hoàn cảnh đó bởi các áp lực mà họ không thể đoán trước hay kiểm soát được.

Tương tác gián đoạn chống tương tác tiếp diễn.  Bức tranh tiêu biểu của xã hội học vi mô về đời sống xã hội cho thấy các actor có mục đích liên tục nằm trong các tương tác mặt đối mặt, trong đó họ định hướng lẫn nhau và trong đó họ giả đoán rằng tất cả mọi actor khác trong hoàn cảnh đó về cơ bản là giống họ. Thuyết nữ quyền mô tả một thế giới trong đó phụ nữ trải nghiệm các tương tác rất khác biệt nhau, hiếm khi giả đoán về mọi phẩm chất có tính tương tác của mô hình đó. Đối với thời gian dài của mỗi ngày, phụ nữ trưởng thành bị đặt vào các công việc nội trợ cách lý với các tương tác mặt đối mặt và chỉ định hướng tới những người khác một cách chủ quan và có tính phản ứng hơn là có mục đích. Trong các hệ thống khác, đặt biệt là trong các văn phòng hạng thấp, nhà máy hay các công việc phục vụ, phụ nữ thấy họ làm việc theo các lề thói có tính khuôn mẫu về cấu trúc, gần gũi, nhưng không có sự tương tác lẫn nhau. Trong nhiều hoàn cảnh trong số các tương tác quan trọng nhất của họ, họ thấy bản thân có quan hệ với những người mà họ không cho là có tính chất chủ yếu như họ: trẻ con quá bé nên phải được đối xử kém hơn bản thân và những người đàn ông trưởng thành, những người mà họ biết rằng về cơ bản khác biệt với họ về tính cách, kinh nghiệm sống, và hoàn cảnh xã hội - một sự “tồn tại khác” của họ. Chỉ khi nào họ đến với nhau trong một mối liên kết cởi mở và thoải mái với những người phụ nữ trưởng thành khác, kinh nghiệm tương tác của họ mới đáp ứng với các giả thiết được xây dựng trong mô hình xã hội học vi mô truyền thống về sự tương tác tiêu biểu. Thuyết nữ quyền do vậy đề ra các câu hỏi: Những kinh nghiệm tương tác của ai cung cấp cơ sở cho xã hội học mô hình của nó về sự tương tác nguyên mẫu? Cái gì, theo lập trường của phụ nữ, thiết lập sự tương tác nguyên mẫu? Các nhà nữ quyền trả lời các câu hỏi này bằng cách quả quyết rằng, trước hết, kinh nghiệm của những người đàn ông thống trị  được phản chiếu trong mô hình tương tác cơ bản của xã hội học, và, thứ hai, rằng mối quan hệ giữa phụ nữ với những người đàn ông này, ít nhất ở tính thường xuyên và các hậu quả thực tiễn của nó, là sự tương tác chủ yếu và có tính chất nguyên mẫu của phụ nữ. Sự khảo sát của các nhà nữ quyền về các tương tác nam-nữ đưa chúng ta đi xa hơn vào mô hình của sự tương tác vi mô.

Giả thiết về sự bất bình đẳng chống giả thuyết về sự bình đẳng. Lý thuyết xã hội vi mô truyền thống giả thiết rằng các áp lực trong các hoàn cảnh tương tác đối với sự cộng tác và sự xây dựng ý nghĩa lớn đến nỗi các actor, trong cấu trúc vĩ mô, định hướng lẫn nhau trên một giả thiết về sự bình đẳng. Khảo sát của thuyết nữ quyền về các tương tác giữa nam giới và nữ giới dứt khoát đối lập với tư tưởng này, chỉ ra rằng các tương tác xã hội này được định khuôn khá tràn lan bởi các ảnh hưởng từ bối cảnh cấu trúc vĩ mô của chúng. Trong các hoạt động hàng ngày của họ, những người phụ nữ bị ảnh hưởng bởi thực tế rằng họ lệ thuộc về mặt cấu trúc vào nam giới, những người mà với họ các phụ nữ này tương tác qua một mối liên kết ngẫu nhiên, hay qua sự tỏ tình, hôn nhân, gia đình, lao động ăn lương. Bất kỳ sự bình đẳng hoặc thống trị liên nhân vị nào mà phụ nữ với tư cách là các cá thể có thể thủ đắc, được đền bù một cách hiệu quả, trong bản thân của chính quá trình tương tác, bởi các khuôn mẫu cấu trúc này - trong đó cái có tính chất lan tỏa nhất là thể chế về phái tính. Khuôn mẫu cấu trúc vĩ mô của sự bất bình đẳng phái tính được đan kết một cách phức tạp thông qua các tương tác giữa nam giới và nữ giới và ảnh hưởng đến không chỉ sự phân bố lao động rộng lớn của nó, trong việc phân định ai đặt ra và ai thực hiện các kế hoạch; mà cả ở các chi tiết quá trình của nó; nhiều lần chỉ ra sự ban bố thẩm quyền và sự tôn kính trong các xếp đặt vị trí và chỗ đứng, các hình thức phát biểu và đối thoại, tiếp xúc bằng ánh mắt và sự kiểm soát không gian và thời gian.

Các ý nghĩa được phân tầng chống các ý nghĩa chung. Xã hội học vi mô truyền thống hoặc đóng ngoặc vấn đề ý nghĩa (các nhà hành vi xã hội), hoặc giả thiết rằng các hoạt động và các mối quan hệ diễn ra trong các tương tác được xếp đặt trở thành cơ cở và tiêu điểm của sự xây dựng ý nghĩa (các nhà định nghĩa xã hội). Các actor, nhìn lẫn nhau trong hoạt động và tương tác, hình thành nên các nhận thức chung thông qua sự thông tin và cuối cùng là một lợi điểm chung về các kinh nghiệm của họ. Các nhà nữ quyền lý luận rằng giả thiết này phải được hạn chế một cách dứt khoát  bởi sự kiện rằng các tương tác vi mô được thể hiện trong và lan tỏa bởi cấu trúc vĩ mô. Các hành động và tương tác hàng ngày của phụ nữ diễn ra dựa vào một nền tảng công cộng hoặc nhận thức được thể chế hóa của kinh nghiệm hàng ngày, nghĩa là, như chúng tôi đã nói, một tầng cấu trúc của hệ tư tưởng cào bằng và xuyên tạc thực tiễn bằng sự tầm thường hóa, lý tưởng hóa hoặc làm cho không thể nhận thấy các hoạt động và kinh nghiệm của phụ nữ. Hệ tư tưởng này định khuôn các ý nghĩa được ấn định cho các hoạt động trong tương tác. Nam giới (kẻ thống trị) trong mối tương tác với phụ nữ có khả năng trong việc ấn định các ý nghĩa của hoạt động của phụ nữ được rút ra từ cấu trúc vĩ mô của hệ tư  tưởng phái tính hơn là thâm nhập vào một hoàn cảnh với một thái độ tra vấn công khai hoặc rút từ một kiểu cấp độ vi mô bất kỳ khác cho sự diễn dịch hoạt động của phụ nữ. Phụ nữ, bị nhấn chìm vào cùng một sự diễn dịch mang tính ý thức hệ về các kinh nghiệm của họ, đứng ở một điểm căng thẳng  về mặt biện chứng, cân bằng ý thức hệ này dựa vào thực tiễn cuộc sống của họ. Một sự đa dạng to lớn về ý nghĩa phát triển ra từ sự căng thẳng này.

Như những điều đã nói cho thấy, các nhà định nghĩa xã hội giả thiết rằng các actor, quan hệ và thông tin mật thiết qua một thời gian lâu dài, tạo ra một lợi điểm hoặc hệ thống nhận thức chung. Khảo sát của các nhà nữ quyền về cái có khả năng là sự liên kết mật thiết, lâu bền nhất giữa nam và nữ - hôn nhân, chỉ ra rằng, đối với tất cả các lý do nói trên, các bên trong cuộc hôn nhân vẫn là người xa lạ đối với nhau và sống trong các thế giới cách biệt về ý nghĩa. Hơn nữa, Dorothy Smith lý luận một cách thuyết phục rằng, “sự  xa lạ” này có thể là một khác biệt trong đó người đàn ông thống trị, trong các mối quan tâm về sự kiểm soát có hiệu quả, là một kẻ xa lạ đối với người phụ nữ hơn là người phụ nữ với tư cách một kẻ lệ thuộc có thể thích ứng với các ý nghĩa của kẻ thống trị.

Sự kềm hãm chống sự lựa chọn trong các vị trí tạo ra ý nghĩa. Một đặc tính dân chủ sâu sắc định hình các mô tả của cả các nhà định nghĩa xã hội cũng như các nhà hành vi xã hội về sự tương tác. Các mô hình truyền thống vẫn kiên quyết ngụ ý rằng mọi người có một sự bình đẳng đáng kể về cơ hội và sự tự do chọn lựa trong việc đi vào hay đi ra khỏi các hệ thống tương tác. Khảo sát nữ quyền cho thấy các tương tác trong đó phụ nữ được tự do nhất để cùng những người khác sáng tạo các ý nghĩa mô tả các kinh nghiệm sống của họ là những tương tác xảy ra khi họ đang trong mối quan hệ và thông tin với những người phụ nữ có hoàn cảnh tương tự. Hơn nữa, các liên kết này có thể rất thu hút đối với phụ nữ nhờ sự hỗ trợ về mặt thực hành, tình cảm và xác nhận ý nghĩa mà họ cung cấp. Tuy nhiên, phụ nữ không được trao quyền một cách tự do để đứng trong các hệ thống này. Luật pháp, sự thống trị tương tác, và ý thức hệ giới hạn và hạ thấp ý nghĩa của sự  lựa chọn có tính liên kết này, đến nỗi thậm chí những người phụ nữ cũng nghi ngờ về các yếu tố hấp dẫn của nó. Dưới các hoàn cảnh đó, sự liên kết trở nên không phải là một sự chọn lựa tự do cởi mở mà là một khu vực ngấm ngầm, hạn chế và vô hình trước công chúng đối với sự quan hệ và ý nghĩa.

Tất cả những điều này bổ sung thêm cái gì cho xã hội học nữ quyền về trật tự vi mô? Trước hết, nó đưa ra không chỉ các mô hình truyền thống hoàn toàn không chính xác mà còn là các mô hình cục bộ. Nhưng nếu chúng ta quay trở lại điểm xuất phát, rằng chân lý nằm ở giao điểm của các lợi điểm, khi đó một mô hình cục bộ phải có các nguyên tố của sự xuyên tạc- đặc biệt là khi mô hình cục bộ  đó được phép tồn tại mà không có sự thách thức. Mô hình truyền thống về sự tương tác có thể mô tả các phạm trù cấu trúc vĩ mô bình đẳng như thế nào, sự ban giao quyền lực tạo ra một lợi điểm ra sao. Nó cũng có thể mô tả bằng cách nào, từ lợi điểm của sự thống trị về mặt cấu trúc, một người trải nghiệm sự tương tác với cả những người ngang hàng và lệ thuộc. Và nó cũng có thể đề ra một chiều hướng hay xu hướng trong mọi sự xếp đặt tương tác. Thứ hai, khi các bất bình đẳng về cấu trúc tương tác với nhau, sự liên kết của chúng có nhiều phẩm chất khác hơn là do các mô hình truyền thống đề ra. Thật ra, các đặc điểm khác này đề ra một mô hình khác, có thể nắm bắt tốt hơn các thực tại của kinh nghiệm của kẻ lệ thuộc: tính chất ngẫu nhiên về kế hoạch, sự phản ứng của hành động, sự  vận động vào trong và ra khỏi các kinh nghiệm tương tác rất khác biệt, sự ban hành liên tục các khác biệt về quyền lực, các họat động mà ý nghĩa của chúng là không thể thấy được hoặc bị che đậy đi, sự xa lạ với các ý nghĩa của những người khác có liên quan trong tương tác, và lối thâm nhập hạn chế đối với các hệ thống, nơi nói một cách đầy đủ ý nghĩa, có vẻ là một kinh nghiệm chung chân chính. Thứ ba, chúng ta cần phải hỏi rằng có phải rằng mô hình nói sau này là không thể khái quát hóa đối với kinh nghiệm của tất cả các kẻ lệ thuộc hay không, và có phải các nhà xã hội học không cần thiết phải vẻ sơ đồ thực tại của trật tự tương tác vi mô ở giao điểm về biện chứng của tất cả mọi mô hình liên kết liên nhân vị này hay không.

Tính chủ quan.

Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của xã hội học nữ quyền là sự quả quyết của nó về một cấp độ thứ ba của hoạt động xã hội - tính chủ quan. Phần lớn các lý thuyết xã hội học gộp cấp độ này dưới hành động xã hội vi mô ( tính chủ quan vi mô) (xem chương 9; Phụ lục). Xã hội học nữ quyền, tuy vậy, quả quyết rằng sự diễn dịch cá thể của actor về các mục tiêu và các quan hệ phải được nhìn nhận ở một cấp độ riêng biệt. Quả quyết này phát triển từ sự nghiên cứu về các cuộc sống của những người phụ nữ  và dường như có thể ứng dụng đối với các cuộc sống của những người lệ thuộc nói chung. Đặc biệt là phụ nữ (và có lẽ cả những người lệ thuộc khác) ý thức một cách chính xác về sự riêng biệt của kinh nghiệm chủ quan của họ, bởi vì, như chúng tôi đã chỉ ra, kinh nghiệm của riêng họ thường là đi ngược lại các định nghĩa phổ biến đã được thiết lập về văn hóa và tương tác vi mô.

Khi các nhà xã hội học nhìn vào cấp độ chủ quan của kinh nghiệm, thường như là một bộ phận của trật tự xã hội vi mô, họ tập trung vào bốn vấn đề chính: (1) Việc nắm lấy vai trò và kiến thức của người khác; (2) quá trình chủ quan hóa của các tiêu chí cộng đồng; (3) bản chất của bản thân với ý nghĩa là một actor xã hội; (4) bản chất của ý thức về cuộc sống hàng ngày. Phần này khảo sát các luận điểm của thuyết nữ quyền đối với các vấn đề này.

Vấn đề nắm lấy vai trò và ý thức của người khác. Mô hình xã hội học truyền thống về tính chủ quan (như đã giới thiệu ở các lý thuyết của Mead- xem chương 5- và Schutz) giả thiết rằng trong quá trình nắm lấy vai trò, actor xã hội học được cách nhìn bản thân thông qua mắt của những người khác được cho là ít hay nhiều giống như actor. Nhưng  xã hội học nữ quyền chỉ ra rằng đã bị xã hội hóa nhìn bản thân họ thông qua mắt của những người đàn ông. Ngay cả với những nhân vật quan trọng khác là phụ nữ, họ cũng bị xã hội hóa đến mức đi theo quan điểm của đàn ông để nhìn nhận bản thân và các phụ nữ khác. Kinh nghiệm của phụ nữ trong việc học cách nắm lấy vai trò định hình bởi sự kiện là họ phải, theo một phương cách mà đàn ông không cần tiến hành, học cách nắm lấy vai trò của đích thực một người khác, chứ không chỉ là một cá thể xã hội khác được xem là rất giống với bản thân. Người khác đối với phụ nữ là đàn ông và người xa lạ. Còn người khác đối với đàn ông là, trước hết và trên hết, là những người đàn ông ở một mức độ nào đó giống họ về phẩm chất mà nền văn hóa xem là yếu tố quan trọng hơn hết: phái tính. Làn sóng nữ quyền thứ ba nhấn mạnh rằng thể thức này bị làm cho phức tạp thêm bởi sự tương tác của các vector khác nhau về sự áp bức và sự đặc quyền trong phạm vi các đời sống cá thể.

Sự chủ quan hóa của các tiêu chí cộng đồng. Việc nắm lấy vai trò thường được xem là việc tích  lũy trong sự chủ quan hóa của các tiêu chí cộng đồng thông qua sự học hỏi của actor  xã hội để nắm lấy vai trò của “một người khác nói chung”, một sự xây dựng mà actor tạo ra về mặt tinh thần từ một hỗn hợp các kinh nghiệm cấp độ vĩ mô và vi mô đã hình thành đời sống  xã hội của anh ta. Việc sử dụng số ít người khác chỉ ra rằng các nhà xã hội học vi mô thường hình dung người khác nói chung  có tính chất tưởng tượng này như là một sự thể hiện các kỳ vọng có tính cấu kết. Nhưng các nhà nữ quyền lý luận, trước hết, rằng trog một nền văn hóa nam giới thống trị có tính chất gia trưởng, người khác nói chung thể hiện một tập hợp các tiêu chí của cộng đồng do nam giới thống trị buộc người phụ nữ tự vẽ lại mình như là kém hơn hoặc “không bằng” nam giới. Ở mức độ mà một phụ nữ thành công trong việc trình bày một ý thức về người khác nói chung, phản ánh một cách chính xác các nhận thức thống trị của cộng đồng, cô ta có thể đã phá hỏng các khả năng của chính mình đối vói sự tự trọng và tự thăm dò.

Thứ hai, các nhận thức của thuyết nữ quyền quan tâm đến chính sự tồn tại của một người khác nói chung thống nhất đối với đa số mọi người- thật ra, một nhà hậu hiện đại phê phán có thể lý luận cho tất cả mọi người. Tâm điểm mà với nó chúng tôi bắt đầu phần này là sự thật về một hoàn cảnh xã hội đưa ra nằm ở giao diện của các điểm thuận lợi. Giả sử rằng bất kỳ cái nào trong số các lợi điểm này có thể thiết lập một người khác nói chung qua đó một cá nhân có thể xem bản thân cô ta là một đối tượng và xét đoán  sự thực hiện của cô ta. Chỉ duy nhất với ý thức rằng làm cách nào một đám đông những người khác ảnh hưởng đến ý thức về bản thân của một cá thể, chúng ta mới có thể bắt đầu nắm bắt tính chất phức tạp tiềm tàng của có hay là một bản ngã. Kẻ lệ thuộc, nói riêng, không có sự  đắc chí hay ảo tưởng về sự tồn tại của một người khác đầy đủ tiêu chuẩn  (trừ phi kẻ lệ thuộc bị áp bức đến phải đầu hàng mọi quyền lực của sự phản ánh riêng biệt).

Bản chất của Bản ngã như là một actor xã hội. Các  nhà xã hội học vi mô diễn tả actor xã hội như đang vẽ lại thế giới hàng ngày như là một cái gì đó phải được điều hành theo các quan tâm cụ thể của một người.  Các nhà nữ quyền lý luận rằng phụ nữ có thể tìm ra bản thân họ một cách hạn chế bởi địa vị với tư cách phụ nữ của họ đến nỗi ý tưởng về việc thực hiện kế hoạch của riêng họ trong thế giới trở nên vô nghĩa trong mọi thứ trừ lý thuyết. Hơn nữa, phụ nữ có thể không trải nghiệm thế giới-đời sống như là một nơi chốn trong đó một người cân bằng một loạt những quan tâm khác hau của actor. Thật ra, Gilligant, đã phải đau đớn bảo đảm với những người phụ nữ rằng một biểu hiện của sự trưởng thành là một khả năng có và bảo vệ các mối quan tâm của một người với ý nghĩa là một cách bảo vệ bản thân. Phụ nữ  có thể không có cùng một kinh nghiệm về sự kiểm soát các lĩnh vực đặc thù của không gian, nằm tự do bên ngoài sự can thiệp. Tương tự, ý thức của họ về thời gian hiếm khi có thể đi theo một khuôn mẫu đơn giản về những sự vật đầu tiên, vì họ có, như  một kế hoạch cả đời, sự cân bằng các mối quan tâm và các kế hoạch của những người khác. Như vậy, phụ nữ có thể trải nghiệm kế hoạch và các hành động như là các hành động của sự quan tâm đối với những quan tâm khác nhau, của chính họ và của những người khác, và như những hành động, trên hết, của sự cộng tác chứ không phải điều hành.

Ý tưởng này gắn với ý tưởng đã thảo luận trước về kinh nghiệm vai trò của phụ nữ như là một “sự hợp nhất vai trò”. Trong sự kết hợp, những ý tưởng này đưa ra nhu cầu gọi tên lại sự xung đột vai trò thành sự cân bằng vai trò ( nằm trong các ranh giới của ngôn ngữ  hiện tại). Như vậy khả năng cân bằng vai trò, một là của phụ nữ và một là của các khả năng và kinh nghiệm cơ bản của những người lệ thuộc khác, có thể được khảo sát như là một giá trị xã hội tích cực. Sự chia thành ngăn riêng biệt lúc này được xem là một dấu hiệu của cá tính về mặt chức năng “kém hơn”.

Ý thức về cuộc sống hàng ngày. Các nhà xã hội học nữ quyền đã đánh giá có phê phán luận điểm về một ý thức thống nhất về cuộc sống hàng ngày mà xã hội học vi mô truyền thống thường giả thiết. Các nhà xã hội học nữ quyền nhấn mạnh rằng đối với phụ nữ, đặc điểm phổ biến nhất của kiểu nhận thức về cuộc sống hàng ngày là đặc điểm về ý thức phân đôi. Phụ nữ trải nghiệm cái mà Dorothy Smith đã gọi là “một giới tuyến sai lầm” giữa cá nhân của chính họ, sống động và được phản ánh qua kinh nghiệm và các kiểu mẫu được thiết lập có sẵn trong nguồn kiến thức xã hội để diễn tả kinh nghiệm đó. Bản thân cuộc sống hàng ngày do vậy chia thành hai thực tại đối với những kẻ lệ thuộc: thực tại có thực, sống động, phản ánh qua kinh ngiệm và thực tại của các kiểu mẫu xã hội. Thường là nhận thức về cách thức mà kinh nghiệm riêng của họ khác biệt với nhận thức của nam giới thống trị về mặt văn hóa mà họ tương tác, phụ nữ  ít tin vào sự dễ dàng  của tính chủ quan chung. Và với tư cách là những tồn tại sinh học và xã hội mà các hoạt động của chúng không được điều khiển một cách hoàn hảo bởi thời gian tiêu chuẩn thuộc chế độ gia trưởng,, họ ý thức nhiều hơn về sự phân ranh giới giữa thời gian như là kinh nghiệm sống và thời gian như  là một sự  ủy thác xã hội. Một xã hội học nữ quyền về tính chủ quan có lẽ phải bắt đầu ở đây: Mọi người sống sót như thế nào khi kinh nghiệm riêng của họ không phù hợp với các kiểu mẫu xã hội đã thiết lập về kinh nghiệm đó? Chúng ta đã biết rằng một số người làm được điều này bằng cách tránh né các hành động duy trì sự phản ánh; một số bằng cách tích lũy các chuỗi kiểu mẫu thuộc cá nhân của riêng họ để nhận thức về kinh nghiệm của họ; một số bằng cách tìm kiếm sự cộng đồng với những người khác có cùng thực tại phân đôi này; một số  bằng cách chối bỏ giá trị của kinh nghiệm riêng của họ.

Cái mà chúng tôi khái quát hóa ở đây đối với tính chủ quan của phụ nữ có thể đúng đối với tính chủ quan của tất cả những kẻ lệ thuộc. (1) Kinh nghiệm của họ về việc nắm lấy vai trò có tính chất phức tạp do họ nhận thức một cách căng thẳng rằng họ phải hiểu được các kỳ vọng của một người khác, kẻ bởi vì các khác biệt về quyền lực là một người xa lạ. (2) Họ phải có quan hệ không chỉ với một người khác nói chung mà là với nhiều người khác nói chung, với nhiều nền văn hóa phụ, cả nền văn hóa phụ của kẻ nắm quyền lực và nhiều nền văn hóa phụ của những kẻ có ít quyền lực cũng như không có quyền lực. (3) Họ không kinh nghiệm về chính bản thân như là các actor xã hội có mục đích có thể vạch ra sơ đồ của riêng họ trong cuộc sống - dù họ có thể thường xuyên được bảo rằng họ có thể làm điều đó, đặc biệt là trong phạm vi đặc tính của người Mỹ. (4) Phổ biến nhất, họ sống hàng ngày với một ý thức phân đôi, một ý thức về một giới tuyến sai lầm giữa các kinh nghiệm sống của riêng họ và cái mà nền văn hóa thống trị bảo họ là thực tại xã hội.

Mọi điều trong thảo luận này đã giả thiết một chủ thể thống nhất, nghĩa là, một cá thể nam hay nữ với một ý thức diễn tiến, thường xuyên và một nhận thức về bản ngã. Chủ thể thống nhất này quan trọng đối với lý thuyết nữ quyền vì chính thủ thể đó được cho là trải nghiệm sự đau đớn và áp bức, tạo ra các phán xét có giá trị, và phản kháng hay chấp nhận thế giới một cách đúng chỗ - chủ thể thống nhất là tác nhân cơ bản của biến đổi xã hội. Thế nhưng, thảo luận của chúng tôi về tính chủ quan cũng đặt ra những câu hỏi về việc chủ thể thống nhất này ra sao; có những khó khăn về một chủ thể mà những người khác nói chung của nó thật sự là “người khác” hay “kẻ xa lạ”, người kinh nghiệm không phải về chỉ một người khác nói chung mà là nhiều người khác nói chung, người mà ý thức của hắn có tính phân đôi, và bản ngã của hắn nằm trong các khả năng của hắn đối với sự phát triển và thay đổi có thể được xem là một quá trình hơn là một sản phẩm. Tất cả những xu hướng này đối với một nhận thức về bản ngã là có tính phân tán hơn là có tính thống nhất gắn liền với lý luận của thuyết nữ quyền về bản ngã - đúng ra, chúng nằm ở tâm điểm của các tư tưởng của thuyết nữ quyền về sự phản kháng và sự biến đổi. Ý thức về sự phân tán này được nâng cao hơn hơn trong các phê phán của thuyết nữ quyền hậu hiện đại (đã thảo luận trong chương này), một lập trường lý thuyết đặt ra các câu hỏi về chính khả năng của “một chủ thể hay ý thức thống nhất”. Nếu một bản ngã bất kỳ chịu sự thay đổi trong từng ngày hay thậm chí trong từng thời điểm, nếu chúng ta có thể nói “không phải là bản thân tôi” vậy trên cơ sở nào chúng ta thừa nhận một bản ngã? Phải, các phê phán nữ quyền về thuyết hậu hiện đại đáp lại bằng cách bắt đầu từ kinh nghiệm của phụ nữ trong cuộc sống hàng ngày, những người khi họ bảo rằng “Tôi không phải là chính bản thân tôi”, hoặc “ Tôi chưa từng là bản thân tôi”, vẫn có thể giả thiết về một bản ngã bền vững từ đó họ đã xuất phát, và xa hơn, bởi chính các phát biểu này, một bản ngã nào đó biết về sự  xuất phát này. Nỗ lực để định nghĩa lại bản chất của bản ngã, để cân bằng các động năng hay tính bền vững với các quá trình và sự phân tán này, là một trong những thách thức chủ yếu của thuyết nữ quyền đương thời (Gardiner, Irving, Mahoney và Yngvesson).

MỘT TỔNG HỢP VI MÔ-VĨ MÔ

Bức tranh của sự tổ chức xã hội nảy sinh từ thuyết xã hội học nữ quyền có tính chất hòa hợp cao độ. Nó kết hợp hoạt động kinh tế với các hình thái khác của sự sản xuất xã hội của con người (nuôi con cái, nuôi dưỡng tình cảm, kiến thức, duy trì gia đình, hoạt động tình dục, vv..); nó xem sự sản xuất vật chất như được nối kết một cách phức tạp với sự sản xuất hệ tư tưởng; nó mô tả sự thâm nhập của các thể chế xã hội tự trị một cách rõ ràng, các hành động và các quan hệ cá thể có tính chất tự nguyện rõ ràng; nó nối kết cấu trúc với sự tương tác và ý thức.  Gần đây, trong nỗ lực để đặt ra một nguồn từ vựng để nói về các thực tại khác biệt và đồng thời ngay lập tức, các nhà nữ quyền XHCN, đặc biệt là trong tác phẩm của Dorothy Smith, đã giới thiệu các khái niệm về “các quan hệ của sự cầm quyền”, “các văn bản phổ quát hóa, nặc danh, phi cá nhân” và “những thực tế cục bộ của kinh nghiệm sống”. Các quan hệ của sự cầm quyền chỉ các hoạt động xãhội phức tạp, không vững chắc nhưng kết nối một cách chặt chẽ đang nỗ lực kiểm soát sự sản xuất xã hội của con người. Sự sản xuất xã hội của con người phải, với bản chất vật chất của nó, xảy ra ở cùng thời điểm trong các thực tại cục bộ của kinh nghiệm sống - nghĩa là, những vị trí nơi một cá nhân thực sự nào đó ngồi trong khi đang viết hay đọc một cuốn sách (hay trồng trọt, dệt may). Các quan hệ của sự cầm quyền ở cuối chế độ gia trưởng tư bản chủ nghĩa tự biểu lộ chúng thông qua các văn bản được định tính bởi các tính chất chủ yếu của chúng là sự nặc danh, sự phổ quát, và tính thẩm quyền. Các văn bản này được chỉ định để định khuôn mẫu và diễn dịch thực tại cuộc sống, kinh nghiệm cá thể đặc thù thành một hình thức ngôn ngữ có thể chấp nhận đối với các quan hệ của sự cầm quyền. Tiêu chuẩn “có thể chấp nhận này” được đáp ứng  khi văn bản ấn định được sự định nghĩa của những người thống trị lên hoàn cảnh. Các văn bản có thể trải rộng từ các hợp đồng tới các báo cáo chính trị, các tờ trình điều tra văn phòng, các chứng chỉ trường học, các  chỉ số y tế. Ở mọi nơi, chúng làm thay đổi thực tại vật chất - tái diễn dịch cái đã xảy ra, quyết định cái sẽ có thể có. Do vậy, trong việc tìm cách tương tác với các quan hệ của sự cầm quyền, ngay cả ở một cấp độ khá cục bộ, một cá thể đưa ra (ví dụ một sinh viên đang xin một công việc mùa hè ở một nhà hàng do gia đình một người bạn làm chủ) thấy rằng anh ta hoặc cô ta phải điền vào  một số văn bản (thẻ báo thuế chẳng hạn) đã được thiết lập không phải bởi chính người tuyển dụng trực tiếp mà bởi một bộ phận của bộ máy cầm quyền. Các văn bản này tiếp tục tạo ra các giao điểm giữa các quan hệ của sự cầm quyền và các thực tại cục bộ của kinh nghiệm sống. Rất quan trọng để quan sát thấy rằng các giao điểm này có hiệu quả theo hai cách: ở một số chuỗi thời điểm trong thời gian lịch sử, các actor thể hiện được định vị trong các vị trí có tính chất cá thể tuyệt đối, ngồi ở bàn giấy hay tổng đài vi tính hay bàn hội nghị, sản sinh ra các mẫu đơn từ sẽ trở thành một bộ phận của bộ máy cầm quyền.

Tất cả ba khía cạnh này của đời sống xã hội - các quan hệ cầm quyền, các thực tại cục bộ của kinh nghiệm sống và các văn bản – là những đặc điểm phổ biến rộng khắp, lâu dài, thường xuyên của sự tổ chức của đời sống xã hội và của sự thống trị. Cả ba đặc điểm này cùng một lúc, có thể và phải được nghiên cứu như  là các hành động, các quan hệ và lao động của con người. Mỗi chiều kích có một động năng nội tại riêng của nó - động năng để kiểm soát trong các quan hệ cầm quyền, động năng đối với sự  sản xuất và thông tin trong các  thực tại cục bộ, động năng hướng tới tính khách quan và  yêu cầu của tính xác thực trong các văn bản phổ quát hóa. Mỗi chiều kích quyết định nhưng cũng bị quyết định bởi những chiều kích khác. Thông qua tầm nhìn này, sự phân hóa vi mô chống vĩ mô  trở nên không thích ứng. Các nguyên tố của cấu trúc và sự tương tác được hợp nhất lại. Sự thống trị và sự sản xuất được định nghĩa bởi thuyết nữ quyền trở nên một vấn đề khó khăn, và các biểu hiện của chúng bao gồm và do vậy thâm nhập vào các phân biệt xã hội học thời đại cũ về xã hội vĩ mô, xã hội vi mô, các khía cạnh chủ quan của thực tại xã hội. Trong điều này, thuyết nữ quyền nhất trí với nhiều tác phẩm sẽ thảo luận trong Phần Ba của sách, về sự hòa hợp vi mô-vĩ mô và cơ quan-cấu trúc.

TÓM TẮT

Lý thuyết xã hội học nữ quyền lớn lên từ thuyết nữ quyền nói chung, nhánh học thuật mới đó về phụ nữ tìm cách cung cấp một hệ thống tư  tưởng về đời sống con người, trong đó mô tả đặc điểm của phụ nữ như là khách thể và chủ thể, người thực hiện và người hiểu biết.

            Một ảnh hưởng của phong trào nữ quyền đương thời đối với xã hội học là mở rộng ý nghĩa quan trọng của xã hội học về các quan hệ phái tính và cuộc sống của phụ nữ. Nhiều tác phẩm lý thuyết xã hội học hiện đang khảo sát các vấn đề này. Các lý thuyết xã hội vĩ mô của thuyết chức năng, thuyết phân tích xung đột và thuyết tân Marxian về thế giới-hệ thống đều khảo sát vị trí của công việc gia đình trong các hệ thống xã hội như là một phương tiện để lý giải sự lệ thuộc xã hội của phụ nữ. Thuyết tương tác biểu tượng và phương pháp luận thực hành, hai lý thuyết xã hội vi mô, khảo sát các phương cách trong đó phái tính được sản sinh và tái sản sinh trong các quan hệ liên nhân vị.

            Các câu hỏi của thuyết nữ quyền rất phong phú về khả năng đối với lý thuyết xã hội học ngày nay đã được duy trì sống động trong thể lý thuyết nữ quyền được phát biểu từ những năm 1960 cho tới nay. Thể loại của những tư tưởng này có thể phân lọai theo ba câu hỏi cơ bản của giới học giả nữ quyền: Thế còn phụ nữ thì sao? Tại sao hoàn cảnh của phụ nữ lại là như vậy? Thế còn các khác biệt giữa những phụ nữ thì sao? Những giải đáp cho câu hỏi thứ nhất và thứ ba cung cấp cho chúng ta các phạm trù chủ yếu về các thể loại của thuyết nữ quyền. Trong hệ thống của chúng ta, có bốn mô tả chính về hoàn cảnh xã hội của phụ nữ: (1) Nó khác biệt với của nam giới; (2) nó không bình đẳng với của nam giới; (3) nó là của một nhóm người bị áp bức và những kẻ áp bức là những người đàn ông hay hệ thống xã hội gia trưởng  do nam giới thiết lập; và (4) nó được phân tầng xa hơn bởi các vector của sự thống trị và sự đặc quyền đã đánh dấu sự khác biệt giữa những người phụ nữ.

            Trong mỗi một phạm trù nói trên - sự khác biệt, sự bất bình đẳng, sự áp bức và các lý thuyết làn sóng thứ ba về các khác biệt giữa phụ nữ - có nhiều thể loại xa hơn dựa trên cơ sở các giải đáp cho các câu hỏi rằng tại sao hoàn cảnh của phụ nữ lại là như vậy. Các lý thuyết gia xem hoàn cảnh của phụ nữ  về cơ bản là khác biệt với sự lý giải của nam giới rằng khác biệt là do bốn cách thức cơ bản: điều kiện sinh học, thể chế xã hội, tương tác xã hội và giao diện tâm lý-xã hội. Các lý thuyết gia nhấn mạnh đến các lý giải bất bình đẳng giải thích các vị trí của phụ nữ trong phạm vi vị trí giai cấp. Một số lý thuyết gia nhấn mạnh đến sự  áp bức lý giải sự áp bức đó trong phạm vi các lý thuyết phân tích tâm lý xem nam giới có một nhu cầu bẩm sinh trong việc nô dịch hóa phụ nữ để  đạt được các mục tiêu tâm lý sâu sắc. Một số đề ra một giải đáp nữ quyền cấp tiến xem nguồn gốc của sự áp bức có tính gia trưởng là nằm trong khả năng và ý chí lớn hơn của nam giới để sử dụng bạo lực để nô dịch hóa kẻ khác. Và một số đề ra thuyết nữ quyền XHCN phân tích các nỗ lực để tổng hợp các hình thức và lý thuyết khác nhau về sự áp bức, sử dụng các thuật ngữ như chế độ gia trưởng tư bản chủ nghĩa và sự thống trị để diễn tả hệ thống đa diện của sự áp bức dựa trên cơ sở các xếp đặt của sự sản xuất, giai cấp, lứa tuổi, dân tộc, sở thích tình cảm và vị trí toàn cầu, cũng như là phái tính -  một hệ thống áp bức tất cả phụ nữ và phần lớn nam giới. Gần đây hơn, các nhà nữ quyền làn sóng thứ ba tập trung vào các hàm ý về các khác biệt này - giai cấp, lứa tuổi, dân tộc, sở thích tình cảm và vị trí toàn cầu - được tạo ra đối với các quan hệ giữa những người phụ nữ ở cả các cấp độ vi mô và vĩ mô.

            Thuyết nữ quyền đề ra một cơ sở cho việc xem xét lại các lý thuyết xã hội học tiêu chuẩn về sự tổ chức xã hội. Lý thuyết xã hội học nữ quyền mà chúng tôi giới thiệu ở đây là một hình mẫu về điều mà lý thuyết nữ quyền có thể đem lại cho lý thuyết xã hội học nói chung, có thể tóm lược trong phạm vi sáu tiền đề chính yếu, rút ra và tổng hợp từ các dạng khác nhau của thuyết nữ quyền.

            Thứ nhất, sự thực hành lý thuyết xã hội học phải dựa trên cơ sở một xã hội học về kiến thức, thừa nhận người hiểu biết là được thể hiện và được định vị về mặt xã hội, tính cục bộ của mọi kiến thức, và chức năng của quyền lực trong việc ảnh hưởng tới cái sẽ trở thành kiến thức.

            Thứ hai, các cấu trúc vĩ mô dựa trên các quá trình được kiểm soát bởi những kẻ thống trị hành động theo các quan tâm riêng của họ và được thực thi bởi những kẻ lệ thuộc, mà lao động của họ bị làm cho không thể nhận ra và bị đánh giá thấp ngay cả ở chính bản thân họ bởi hệ ý thức xã hội. Như vậy ngay cả nhận thức về cái thiết lập sự sản xuất cũng bị xuyên tạc. Sự tập trung vào vị trí của phụ nữ có thể đưa đến các nhận thức cụ thể đối với ba cấu trúc vĩ mô này của sự lệ thuộc, bởi vì phụ nữ, dù vị trí giai cấp của họ là gì, cơ bản vẫn là người thực hiện các lao động không thể nhận thấy: công việc gia đình, mang thai, nuôi con, phục vụ tình cảm và tình dục, và các họat động cộng tác trong công việc ăn lương.

            Thứ ba, các quá trình tương tác vi mô trong xã hội đã biến thành hiện thực các xếp đặt quyền lực thống trị-lệ thuộc này, sự không nhìn nhận và xuyên tạc đối với các đóng góp của những kẻ lệ thuộc. Như vậy, phụ nữ thấy các đóng góp của họ đối với sự sản xuất xã hội hoặc là bị coi thường, như trong công việc gia đình hay các hoạt động cộng tác ở chỗ làm công, hoặc được lý tưởng hóa vượt khỏi bất cứ một nhận thức nào của kinh nghiệm thực tế, như trong việc làm mẹ.

            Thứ tư, các điều kiện này tạo ra trong tính chất chủ quan của phụ nữ một “ranh giới sai lầm” thường xuyên mà họ phải lèo lái. Ranh giới sai lầm này phân ly hệ tư tưởng gia trưởng và các phản ánh từ kinh nghiệm của phụ nữ về thực tế của các vai trò của họ trong việc sản xuất đời sống xã hội ở các cấp độ vi mô và vĩ mô. Phụ nữ lèo lái ranh giới này theo nhiều cách - bằng sự kềm chế, sự phục tùng, sự phản kháng, và bằng các nỗ lực ở sự tổ chức vi mô và vĩ mô đối với việc cải cách.

            Thứ năm, cái đã được nói về phụ nữ có thể được vận dụng cho tất cả những người lệ thuộc ở một hình thức song hành, nhưng không đồng nhất nào đó.
           
Thứ sáu, người ta phải thắc mắc về việc sử dụng bất kỳ phạm trù đã phát triển nào bởi một bộ môn do nam giới thống trị, và đặc biệt nhất là các phân chia giữa xã hội học vi mô và vĩ mô. Các khái niệm hóa của thuyết nữ quyền đương thời về trật tự  xã hội đã tiên nghiệm sự lưỡng phân xã hội học cổ điển này, sử dụng các khái niệm như “các quan hệ cầm quyền”, các thực tại cục bộ của kinh nghiệm sống”, và “các văn bản phổ quát”. Câu hỏi khép lại của thuyết nữ quyền đặt ra cho mọi người vấn đề này: Chúng ta có thể ở trong các phạm trù bộ môn đã được thiết lập để diễn tả và lý giải thế giới không, hay chúng ta phải tạo ra các khái niệm mới nếu chúng ta muốn diễn tả và lý giải thế giới như được nhìn thấy bởi những kẻ lệ thuộc, bất lợi và thường là những thành viên không được nhìn nhận của nó?
           


[1] Câu hỏi thứ tư cho tất cả các nhà lý thuyết gia nữ quyền là: “Chúng ta có thể thay đổi và cải thiện thế giới như thế nào?” Trong phạm vi xã hội học, chủ yếu là các lý thuyết của Marx và tân Marxian có cùng mối quan tâm sâu sắc đến sự thay đổi này. Chúng tôi sẽ mô tả các chương trình  của các nhà nữ quyền ở các phần sau của chương này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét