Thứ Sáu, 20 tháng 3, 2020

LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC - GEORGE RITZER - PART 2 - 2





CHƯƠNG 4

CÁC THỂ LÝ THUYẾT
TÂN MARXIAN KHÁC NHAU


KINH TẾ QUYẾT ĐỊNH LUẬN
CHỦ NGHĨA MARX-HEGEL
Georg Lukacs
Antonio Gramsci
LÝ THUYẾT PHÊ PHÁN
Các phê phán chủ yếu về xã hội và đời sống tri thức
Các đóng góp chính
Các chỉ trích Lý thuyết phê phán
Các tư tưởng của Jurgen Habermas
Lý thuyết phê phán ngày nay
XÃ HỘI HỌC KINH TẾ TÂN MARXIAN
Tư bản và Lao động
Thuyết Ford và thuyết sau Ford
CHỦ NGHĨA MARX ĐỊNH HƯỚNG LỊCH SỬ
Hệ thống thế giới hiện đại
LÝ THUYẾT HẬU MARXIST
Chủ nghĩa Marx phân tích
Lý thuyết Marxian hậu hiện đại
Hậu Marxism
Các phê phán lý thuyết hậu Marxist


Trong Chương 3 chúng ta đã thảo luận sự nảy sinh của thuyết xung đột như là kết quả của một số vấn đề của thuyết Chức năng cấu trúc. Dù thuyết Xung đột có nội dung theo truyền thống Marxian, nó thực sự là một phiên bản nghèo nàn của lý thuyết theo Marx. Trong chương này chúng ta sẽ xử lý một loạt các lý thuyết phản ánh tốt hơn các tư tưởng của Marx. Như chúng tôi sẽ lưu ý, ảnh hưởng của Marx đã rời xa sự  đồng dạng. Bởi vì lý thuyết Marx mang tính bách khoa, một loạt lý thuyết gia khác nhau có thể quả quyết là vẫn làm việc trong sự dẫn đường được thiết lập từ tác phẩm nguyên thủy của ông, Trong thực tế, dù mỗi người trong số các lý thuyết gia này đều quả quyết mình mới là người kế tục chân chính của lý thuyết Marx, có nhiều sự khác biệt không thể hòa hợp được giữa họ.

KINH TẾ QUYẾT ĐỊNH LUẬN

Trong một số chỗ trong tác phẩm của minh, Marx  có vẻ như là một nhà kinh tế quyết định luận; nghĩa là, dường như ông xem hệ thống kinh tế có tầm quan trọng tối cao và lập luận rằng nó quyết định tất cả các bộ phận khác của xã hội – các nền chính trị, tôn giáo, các hệ tư tưởng, vv… Dù Marx xem bộ phận kinh tế là cái hàng đầu, ít nhất trong xã hội tư bản, với tư cách một nhà biện chứng ông không thể đưa ra một lập trường mang tính quyết định luận, bởi vì biện chứng pháp được định tính bởi nhận thức rằng có một chuyển động xoắn trôn ốc tiếp diễn và một sự tương tác qua lại giữa các bộ phận khác nhau của xã hội. Các nền chính trị, tôn giáo, vv… không thể bị giảm thiểu thành các hiện tượng bị quyết định bởi kinh tế, bởi vì chúng cũng ảnh hưởng tới kinh tế như nó đã ảnh hưởng tới chúng. Dù bản chất của biện chứng pháp là thế, Marx vẫn tiếp tục được diễn dịch như là một nhà kinh tế quyết dịnh luận. Mặc dù một số khía cạnh của tác phẩm Marx có thể dẫn tới kết luận này, đi theo nó có nghĩa là phớt lờ đi sự đột phá có tính chất biện chứng của lý thuyết của ông.

Agger lý luận rằng kinh tế quyết định luận đã lên tới đỉnh của nó ở nghĩa sự diễn dịch lý thuyết Marx trong thời kỳ Quốc tế Cộng sản II, giữa năm 1889 và năm 1914. Thời kỳ lịch sử này thường được xem là tột đỉnh của thị trường tư bản sơ khai, và sự tăng trưởng bùng nổ của nó dẫn tới nhiều dự báo về cái chết sắp tới của nó. Những người Marxist tin vào kinh tế quyết định luận nhìn thấy sự tan rã của chủ nghĩa tư bản là điều không thể tránh khỏi. Theo quan điểm của họ, chủ nghĩa Marx có thể sản sinh ra một lý thuyết khoa học về sự tan rã này (cũng như các khía cạnh khác của chủ nghĩa tư bản) với một độ tin cậy mang tính dự báo của các khoa học tự nhiên và vật lý. Tất cả những gì nhà phân tích phải làm là kiểm tra các cấu trúc của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là các cấu trúc kinh tế. Gắn với các cấu trúc này là một chuỗi các quá trình sẽ làm đổ nhào chủ nghĩa tư bản một cách bất khả kháng, thế nên nhiệm vụ của các nhà kinh tế quyết định là khám phá ra quá trình này hoạt động như thế nào.

Friedrich Engels, cộng sự của Marx, dẫn đầu trong việc diễn dịch lý thuyết Marx, những người như Karl Kautski và Eduard Bernstein cũng thế. Kautski, ví dụ, đã thảo luận về sự suy vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư  bản như sau:

không thể tránh khỏi theo nghĩa là các nhà phát minh cải tiến kỹ thuật và các nhà tư bản với khát khao lợi nhuận của họ đã cách mạng hóa toàn bộ đời sống kinh tế, cũng như không thể tránh khỏi là những người công nhân đòi hỏi giờ làm ít đi và lương tăng cao hơn, họ tự tổ chức lại, họ chiến đấu với giai cấp tư sản và nhà nước của nó, và cũng không thể tránh khỏi là họ hướng tới nắm lấy quyền lực chính trị và lật đổ sự thống trị tư bản. Chủ nghĩa xã hội là không thể tránh khỏi bởi vì trận chiến giai cấp và thắng lợi của giai cấp vô sản là không thể tránh khỏi.

Hình tượng ở đây là về các tác nhân hành động bị thúc đẩy bởi các cấu trúc của chủ nghĩa tư bản tới một loạt các hành động.

          Chính hình tượng này đã dẫn tới sự phê phán chủ yếu về định hướng khoa học của kinh tế quyết định luận – rằng nó không đúng với sự đột phá biện chứng của lý thuyết Marx. Cụ thể là, lý thuyết dường như  đã rút ngắn chu trình bằng cách tầm thường hóa suy nghĩ và hành động cá thể. Các cấu trúc kinh tế của chủ nghĩa tư bản quyết định tư duy và hành động của cá thể là nguyên tố chủ yếu. Sự diễn dịch này cũng dẫn tới chủ nghĩa ẩn dật về chính trị và do đó mâu thuẫn với tư duy của Marx. Tại sao các cá thể phải hành động nếu hệ thống tư bản sẽ sụp đổ dưới những mâu thuẫn về cấu trúc của chính nó? Rõ ràng, đưa ra ao ước của Marx để hòa hợp giữa lý thuyết và thực hành, một viễn cảnh đã bỏ qua hành động và thậm chí giảm thiểu nó thành vô nghĩa không thể nằm trong truyền thống tư duy của Marx.

CHỦ NGHĨA MARX-HEGEL

            Như là kết quả của các phê phán vừa thảo luận, kinh tế quyết định luận bắt đầu mất đi tầm quan trọng, và một số lý thuyết gia đã phát triển nhiều loại lý thuyết theo Marx khác nhau. Một nhóm các nhà Marxist quay lại nguồn gốc Hegel của lý thuyết Marx để tìm một định hướng chủ quan để bổ sung cho sức mạnh của phe Marxist thời đầu ở cấp độ vật chất, khách quan. Những nhà lý thuyết Marx-Hegel đầu tiên tìm cách khôi phục tính biện chứng giữa các khía cạnh chủ quan và khách quan trong đời sống xã hội. Mối quan tâm của họ đến các yếu tố chủ quan đặt nền tảng cho sự phát triển sau này của lý thuyết phê phán, lý thuyết đi đến tiêu điểm hầu như độc nhất vào các yếu tố chủ quan. Một số tư tưởng gia (ví dụ, Karl Korsch) có thể coi là một minh họa của chủ nghĩa Marx-Hegel, nhưng chúng tôi sẽ thảo luận tác phẩm của một người đã đạt được một tiếng tăm hàng đầu, Georg Lukács, nhất là tác phẩm Lịch sử và ý thức giai cấp. Chúng tôi cũng đưa ra một quan tâm vắn tắt về các ý tưởng  của Antonio Gramsci.

Georg Lukács

Sự quan tâm của các học giả theo Marx hồi đầu thế kỷ 20 chủ yếu bị giới hạn ở các tác phẩm lớn về kinh tế sau này của Marx, như Tư bản. Tác phẩm thời đầu, đặc biệt là Các bản thảo kinh tế và triết học của Năm 1844, chịu ảnh hưởng nặng cửa chủ nghĩa chủ quan Hegel, khá ít được biết đến đối với các tư tưởng gia theo Marx. Sự tái phát hiện các bản thảo và việc xuất bản chúng năm 1932 là một bước ngoặt chủ yếu. Tuy nhiên, trong những năm 1920, Lukásc đã viết tác phẩm chính của ông, trong đó ông nhấn mạnh mặt chủ quan của thuyết Marx. Như Martin Jay nhận xét, “Lịch sử và ý thức giai cấp đã thấy trước theo nhiều cách thức cơ bản các hàm ý trong Các bản thảo 1844 của Marx, mà việc xuất bản nó đã lùi về trước gần một thập niên”.

            Đóng góp chủ yếu của Lukásc đối với lý thuyết Marxian nằm trong tác phẩm của ông ở hai tư tưởng chính - sự vật dụng hóa (reification) và ý thức giai cấp (class conciousness). Lukács làm rõ từ đầu rằng  ông không hoàn toàn chối bỏ tác phẩm của những người Marxist về sự vật dụng hóa, mà chỉ đơn giản tìm cách mở rộng các tư tưởng của họ. Lukács phê bình khái niệm theo Marx về hàng hóa, mà ông định tính là “vấn đề trung tâm, có tính cấu trúc của xã hội tư bản”. Một quan hệ hàng hóa về cơ bản là một quan hệ giữa mọi người mà, họ đi đến chỗ tin tưởng, nắm lấy đặc tính của một sự vật và phát triển một hình thức khách quan. Mọi người trong mối tương tác của họ với tự nhiên trong xã hội tư bản sản xuất ra nhiều sản phẩm, hoặc hàng hóa (ví dụ, bánh mì, xe hơi, phim). Tuy nhiên, mọi người có xu hướng bỏ quên sự thật rằng họ sản xuất ra những hàng hóa  đó và cho chúng các giá trị. Giá trị thành ra được xem là do một thị trường độc lập với các tác nhân hành động sản sinh ra. Chủ nghĩa tôn thờ hàng hóa là một quá trình bởi nó những hàng hóa và thị trường cho chúng được ban cho một sự tồn tại khách quan bởi chính những actor trong xã hội tư bản. Khái niệm của Marx về chủ nghĩa tôn thờ hàng hóa là cơ sở cho khái niệm của Lukásc về sự vật dụng hóa.

          Khác biệt chủ chốt giữa chủ nghĩa tôn thờ hàng hóa và sự vật dụng hóa là ở trong sự tồn tại của hai khái niệm. Trong khi cái trước bị giới hạn ở thể chế kinh tế, cái sau được vận dụng bởi Lukács đối với toàn xã hội-nhà nước, luật pháp, và bộ phận kinh tế. Cùng một động lực áp dụng trong mọi bộ phận của xã hội tư bản: mọi người đi đến chỗ tin rằng các cấu trúc xã hội có một đời sống riêng của chúng, và kết quả là chúng thành ra có một đặc tính khách quan. Lukács mô tả quá trình này:

Con người trong xã hội tư bản đương đầu với một thực tại “được tạo ra” bởi chính y (ở ý nghĩa giai cấp) và đối với y có vẻ là một hiện tượng tự nhiên xa lạ, y hoàn toàn phụ thuộc vào sự thương hại của các “luật lệ” của nó; các hoạt động của y bị hạn chế từ sự bóc lột bởi sự thực hiện không thương xót các luật lệ cá thể nhất định đối với các lợi ích (vị kỷ) của chính y. Nhưng ngay cả trong khi “hành động”, y vẫn là, trong bản chất của sự việc, đối tượng chứ không phải là chủ thể của các sự kiện.

Trong việc phát triển các tư tưởng của ông về sự vật dụng hóa, Lukács đã hòa hợp các nhận thức từ Weber và Simmel. Tuy nhiên, vì sự vật dụng hóa đã hòa nhập trong lý thuyết theo Marx, nó được xem là một vấn đề hạn chế đối với chủ nghĩa tư bản, và không phải là, như đối với Weber và Simmel, định mệnh không tránh khỏi của loài người.

Đóng góp chủ yếu thứ hai của Lukásc là về ý thức giai cấp, nói tới các hệ thống niềm tin được chia sẻ bởi những người nắm giữ cùng một vị trí giai cấp trong xã hội. Lukásc làm rõ rằng ý thức giai cấp không phải là tổng số hay số bình quân của ý thức cá thể; đúng hơn, nó là thuộc tính của một nhóm người cùng có chung một vị trí như nhau trong hệ thống sản xuất. Quan điểm này dẫn tới một tiêu điểm về ý thức giai cấp của giai cấp tư sản dân tộc và đặc biệt là của giới vô sản. Trong tác phẩm của Lukásc, có một nối kết rõ ràng giữa lập trường kinh tế khách quan, ý thức giai cấp, và “các tư duy chân thật, có tính tâm lý của con người về cuộc sống của họ”.

Khái niệm ý thức giai cấp hàm ý, ít nhất trong xã hội tư bản, trạng thái có trước của ý thức lầm lạc. Nghĩa là, các giai cấp trong chủ nghĩa tư bản nói chung  không có một ý thức rõ ràng về các lợi ích giai cấp chân chính của họ. Ví dụ, cho tới giai đoạn cách mạng, các thành viên của giới vô sản không nhận thức đầy đủ về bản chất và mức độ của sự bóc lột đối với họ trong chủ nghĩa tư bản. Sự sai lầm về ý thức giai cấp phát sinh từ vị trí của giai cấp trong lòng cấu trúc kinh tế của xã hội: “ ý thức giai cấp bao hàm một sự vô ý thức giai cấp có điều kiện của các điều kiện kinh tế và xã hội-lịch sử của chính bản thân giai cấp… Sự ‘sai lầm’, sự ảo tưởng tiềm ẩn trong hoàn cảnh này, ở bất kỳ ý nghĩa nào là không tùy ý.” Phần lớn các giai cấp xã hội trong lịch sử đã không có khả năng khắc phục sai lầm ý thức và từ đó đạt được ý thức giai cấp. Vị trí cấu trúc của giới vô sản trong chủ nghĩa tư bản, tuy nhiên, cho nó khả năng đặc biệt để đạt tới ý thức giai cấp.

Khả năng đạt tới ý thức giai cấp là cái riêng biệt đối với các xã hội tư bản. Trong các xã hội tiền tư bản, một loạt nhân tố khác nhau cản trở sự phát triển của ý thức giai cấp. Ví dụ như, nhà nước, độc lập về kinh tế, có ảnh hưởng tới các tầng lớp trong xã hội; ví dụ khác, ý thức địa vị (uy thế) có xu hướng che đậy đi ý thức giai cấp (kinh tế). Kết quả là Lukásc kết luận rằng, “Do đó không có vị trí nào trong một xã hội như thế mà từ đó các nền tảng kinh tế của mọi quan hệ xã hội có thể tạo ra ý thức”. Trái lại, nền tảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản rõ ràng và đơn giản hơn. Người ta có thể không ý thức tới các ảnh hưởng của nó, nhưng ít nhất họ nhận thức  được chúng một cách vô ý thức. Kết quả là “ý thức giai cấp đi tới một điểm mà từ đó nó trở nên được ý thức”. Ở giai đoạn này xã hội biến thành một đấu trường tư tưởng trong đó những người tìm cách vén mở đặc tính giai cấp của xã hội chống lại nhũng người tìm cách che đậy nó.

Lukács so sánh các giai cấp khác nhau trong chủ nghĩa tư bản về vấn đề ý thức giai cấp. Ông lý luận rằng tầng lớp tiểu tư sản và nông dân không thể phát triển ý thức giai cấp vì sự mơ hồ của vị trí cấu trúc của họ trong chủ nghĩa tư bản. Vì hai giai cấp này đại diện cho các vết tích xã hội ở thời kỳ phong kiến, họkhông thể phát triển một nhận thức rõ ràng về bản chất của chủ nghĩa tư bản. Tầng lớp tư sản có thể phát triển ý thức giai cấp, nhưng cao nhất nó cũng chỉ hiểu là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản như là một cái gì đó nằm ở bên ngoài, chịu các quy luật khách quan, mà nó chỉ có thể trải nghiệm một cách thụ động.

Giới vô sản có khả năng phát triển ý thức giai cấp thật sự, và khi nó làm điều này, tầng lớp tư sản rơi vào thế tự vệ. Lukács từ chối xem giới vô sản đơn giản bị lái đi bởi các lực lượng bên ngoài mà xem nó là một nhà sáng tạo chủ động đối với vận mạng của nó. Trong mặt trận giữa  tư sản và vô sản, tầng lớp trước có mọi vũ khí trí thức và tổ chức, trong khi tầng lớp sau có, ít nhất là trước hết,  khả năng nhìn nhận xã hội như nó vốn thế. Khi trận chiến tiếp diễn, giai cấp vô sản đi từ chỗ là “một giai cấp tự  chính nó”, nghĩa là một thực thể được sáng tạo mang tính cấu trúc, tới chỗ là một “giai cấp cho chính nó”, một ý thức về vị trí và nhiệm vụ của nó. Nói cách khác, “cuộc đấu tranh giai cấp phải dâng lên từ cấp độ tất yếu kinh tế tới cấp độ giác ngộ về mục đích và hiệu quả của ý thức giai cấp”. Khi cuộc đấu tranh đi tới điểm này, giai cấp vô sản có khả năng hành động lật đổ hệ thống tư bản chủ nghĩa.

Lukács có một lý thuyết xã hội học phong phú, dù nó bị chìm vào các thuật ngữ của phe Marxian. Ông quan tâm tới mối quan hệ giữa các cấu trúc (cơ bản là kinh tế) của chủ nghĩa tư bản, các hệ tư tưởng (đặc biệt là ý thức giai cấp), tư duy cá thể, và cuối cùng, hành động cá thể. Viễn cảnh lý thuyết của ông cung cấp một cầu nối quan trọng giữa các nhà kinh tế quyết định luận và những nhà Marxist hiện đại hơn.

Antonio Gramsci

            Nhà Marxist người Ý Antonio Gramsci cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự chuyển biến từ kinh tế quyết định luận tới các quan điểm theo Marx hiện đại hơn. Gramsci phê phán những người Marxist là “có tính chất quyết định luận, định mệnh luận và cơ giới luận”. Thực tế, ông đã viết một tiểu luận tên là “Cách mạng chống “Tư bản” trong đó ông tuyên bố “ sự hồi sinh của chính trị sẽ chống lại kinh tế quyết định luận của những người đã giảm thiểu chủ nghĩa Marx xuống các quy luật lịch sử của tác phẩm nổi tiếng nhất của Marx (Tư bản)”. Dù ông nhận ra rằng có những quy phạm lịch sử, ông khước từ  ý tưởng về những phát triển lịch sử không thể tránh khỏi hoặc tự động. Do vậy, quần chúng phải hành động để mang lại một cách mạng xã hội. Nhưng để hành động, quần chúng phải trở nên ý thức về hoàn cảnh của họ và bản chất của hệ thống trong đó họ sống. Như vậy, dù Gramsci nhận ra sự quan trọng của các nhân tố cấu trúc, ông không tin rằng chúng có thể dẫn quần chúng tới cách mạng. Quần chúng cần phát triển một hệ tư tưởng cách mạng, nhưng họ không thể tự mình làm điều đó. Gramsci vận hành với một khái niệm khá thiên về sự phát triển tầng lớp ưu tú của xã hội trong đó các tư tưởng được sản sinh bởi trí thức và rồi mở rộng tới quần chúng và được biến thành hành động bởi chính họ. Quần chúng không thể sản sinh ra các tư tưởng đó, và họ có thể trải nghiệm được chúng, một khi đang tồn tại, chỉ bằng lòng tin. Quần chúng không thể chính mình tự ý thức về nó, họ cần sự giúp đỡ của các tầng lớp ưu tú trong xã hội. Tuy nhiên, một khi họ đã chịu ảnh hưởng của các tư tưởng đó, họ có thể tiến hành các hành động dẫn tới cách mạng xã hội. Gramsci, giống như Lukács, tập trung vào các tư tưởng chọn lọc hơn là các cấu trúc xã hội như kinh tế, và cả hai đều hoạt động trong truyền thống lý thuyết theo Marx.

            Khái niệm trung tâm của Gramsci, đã phản ánh chủ nghĩa Hegel của ông, là quyền lãnh đạo (heremony) (đối với một cách sử dụng hiện thời khái niệm này, xem phần thảo luận về tác phẩm của Laclau và Mouffe ở cuối chương ). Theo Gramsci, “thành tố chủ yếu triết học hiện đại nhất về praxis (tập quán-sự nối kết giữa tư duy và hành động) là khái niệm lịch sử-triết học về quyền lãnh đạo. Quyền lãnh đạo được xác định bởi Gramsci là sự lãnh đạo về văn hóa, được thực hiện bởi giai cấp cầm quyền. Ong tương phản quyền lãnh đạo với sự áp bức là “được thực hiện bởi các quyền lực lập pháp hay hành pháp, hoặc được thể hiện qua sự can thiệp của cảnh sát”. Trong khi các nhà kinh tế học Marxist có xu hướng nhấn mạnh tới các khía cạnh kinh tế và áp bức của nhà nước thống trị, Gramsci nhấn mạnh “quyền lãnh đạo”. Trong một phân tích về chủ nghĩa tư bản, Gramsci muốn biết tại sao một số trí thức, làm việc với tư cách các nhà tư bản, lại đạt được quyền lãnh đạo văn hóa và sự tán thành của quần chúng.

            Khái niệm quyền lãnh đạo không chỉ giúp chúng ta hiểu được sự thống trị trong xã hội tư bản, mà còn phục vụ để định hướng tư duy của Gramsci về cách mạng. Nghĩa là, qua cách mạng, chưa đủ để nắm quyền kiểm soát kinh tế và bộ máy nhà nước; còn cần phải đạt được một quyền lãnh đạo về văn hóa trên phần còn lại của xã hội. Chính ở đây Gramsci nhìn thấy vai trò chủ yếu của các trí thức cộng sản và đảng cộng sản.

            Giờ đây chúng ta quay sang lý thuyết phê phán, lớn lên từ tác phẩm của các nhà theo chủ nghĩa Marx-Hegel như Lukács và Gramsci, và đã di chuyển thậm chí xa hơn ra khỏi các nguồn gốc truyền thống của Marx về kinh tế quyết định luận.

            LÝ THUYẾT PHÊ PHÁN

          Lý thuyết phê phán là sản phẩm của một nhóm người Đức theo chủ nghĩa Marx mới (Neo-Marxist) không thỏa mãn với tình trạng của lý thuyết Marx, đặc biệt là xu hướng nghiêng về kinh tế quyết định luận của nó.  Tổ chức gắn liền với lý thuyết phê phán, Viện Khảo sát khoa học, được chính thức thành lập ở Frankfurt, Đức ngày 23/3/1923, mặc dù một số thành viên của nó đã hoạt động từ trước đó. Với sự nắm quyền lực của bọn Quốc xã năm 1933, viện bị tịch thu, và nhiều nhân vật chủ chốt di cư sang Mỹ, tiếp tục công việc của họ ở một viện thành viên của ĐH Columbia tại New York. Sau Thế chiến II, một số lý thuyết gia phê phán (Hokheimer, Adomo) dần dần quay trở lại Đức; những người khác (Marcuse) ở lại Mỹ. Lý thuyết phê phán đã trải rộng ra khỏi tầm hạn chế của trường phái Franfurt. Lý thuyết phê phán đã và đang là một định hướng Châu Âu, dù ảnh hưởng của nó trong xã hội học Mỹ đã lớn lên.

            Các phê phán chính về đời sống xã hội và đời sống trí thức

            Lý thuyết phê phán bao gồm nhiều phê phán rộng rải về nhiều khía cạnh của đời sống xã hội và trí thức. Nó lấy nguồn ngẫu hứng từ tác phẩm của Marx, được định hình bởi một phép phân tích phê phán về các tư tưởng triết học và sau đó bởi các phê phán về bản chất của chủ nghĩa tư bản. Trường phái phê phán dựng nên một phê phán cả về xã hội và các hệ thống kiến thức khác nhau. Phần lớn các tác phẩm ở hình thức phê phán, nhưng mục tiêu cuối cùng của nó là vén mở một cách chính xác bản chất của xã hội. Trước tiên chúng ta tập trung vào các phê phán chính do trường phái này đưa ra, tất cả đều biểu lộ một sự tham chiếu đối với các tư duy đối kháng và đối với các khía cạnh chưa được vén mở, vạch trần của thực tại xã hội.

            Phê phán lý thuyết theo Marx.  Lý thuyết phê phán, là một dạng của lý thuyết theo Marx, đã lấy điểm khởi đầu của nó là một phê phán các lý thuyết theo Marx. Các lý thuyết gia phê phán thấy khó chịu nhất bởi các nhà kinh tế quyết định luận- cơ giới luận, hoặc các nhà Marxist cơ giới (Antonio; Schroyer; Sewart). Một số (ví dụ, Habermas) phê phán quyết định luận hàm ẩn trong các bộ phận của tác phẩm nguyên thủy của Marx, nhưng phần lớn tập trung sự phê phán của họ vào những người tân Marxist, cơ bản là vì họ đã diễn dịch tác phẩm của Marx một cách cơ giới luận thái quá. Các lý thuyết gia phê phán không nói rằng các nhà kinh tế quyết định luận là sai khi tập trung vào lĩnh vực kinh tế, nhưng rằng họ cũng nên quan tâm đến các khía cạnh khác của đời sống xã hội. Như sẽ thấy, trường phái phê phán tìm cách chỉnh sửa sự mất cân bằng này bằng cách tập trung quan tâm của nó vào lĩnh vực văn hóa. Ngoài ra, để tấn công các lý thuyết theo Marx khác, trương phái này phê phán các xã hội, như xã hội Liên Xô trước đây, đã xây dựng một cách hình thức trên  lý thuyết theo Marx.

            Các phê phán chủ nghĩa thực chứng. Các lý thuyết gia phê phán cũng tập trung vào các nền tảng triết học của điều tra khoa học, đặc biệt là chủ nghĩa thực chứng. Sự phê phán chủ nghĩa thực chứng có liên quan phần nào tới các phê phán kinh tế quyết định luận, vì một số trong đó là các nhà quyết dịnh luận đã chấp nhận một phần hoặc toàn bộ các lý thuyết thực chứng về kiến thức. Chủ nghĩa thực chứng được mô tả là thay thế cho nhiều thứ khác nhau. Nó chấp nhận ý tưởng rằng một phương pháp khoa học riêng lẻ có thể được áp dụng cho mọi lĩnh vực nghiên cứu. Nó xem các khoa học vật chất là tiêu chuẩn về sự chắc chắn và chính xác cho tất cả mọi bộ môn. Các nhà thực chứng luận tin rằng kiến thức vốn có tính chất trung lập. Họ cảm thấy họ có thể không để cho các giá trị của nhân loại xen vào các tác phẩm của họ. Niềm tin này, tới lượt nó, dẫn tới một quan điểm rằng khoa học không ở trong lập trường ủng hộ cho bất kỳ một hình thức cụ thể nào của hành động xã hội. (xem chương 1)

            Chủ nghĩa thực chứng bị phản đối bởi trường phái phê phán do nhiều lẽ khác nhau. Ví như, nó có xu hướng cụ thể hóa thế giới xã hội và xem nó như là một quá trình tự nhiên. Các nhà lý thuyết phê phán thích tập trung hơn vào họat động của con người cũng như các cách thức trong đó một họat động như thế ảnh hưởng tới các cấu trúc xã hội lớn. Nói vắn tắt, chủ nghĩa thực chứng đã bỏ sót các actor, giảm thiểu họ thành các thực thể thụ động bị quyết định bởi các “lực lượng tự nhiên”. Đưa ra niềm tin của họ vào tính riêng biệt của actor, các lý thuyết gia phê phán không chấp nhận ý tưởng rằng các quy luật chung của khoa học có thể áp dụng một cách nghiễm nhiên đối với con người. Chủ nghĩa thực chứng bị tấn công vì hài lòng khi xác quyết sự tương xứng của các phương tiện đối với các mục đích đưa ra và vì không có một xác quyết tương tự về các mục đích. Sự phê phán này dẫn tới một quan điểm rằng chủ nghĩa thực chứng vốn dĩ là bảo thủ, không có khả năng cạnh tranh trong hệ thống đang tồn tại. Như Martin Jay nói về chủ nghĩa thực chứng, “ Kết quả là sự tuyệt đối hóa các “sự kiện” và sự vật dụng hóa trật tự đang tồn tại”. CNTC dẫn actor và các nhà khoa học xã hội tới sự thụ động. Một vài nhà Marxist của kiểu bất kỳ nào có thể tán thành một viễn cảnh không có quan hệ gì tới lý thuyết và hành động. Dù có những phê phán này đối với CNTC, một số nhà Marxist (ví dụ, một số cấu trúc gia, phân tích Marxist) tán thành CNTC, và bản thân Marx cũng thường phạm sai lầm vì có tính chất thực chứng thái quá.

Các phê phán xã hội học.  Trường phái phê phán cũng lấy xã hội học làm mục tiêu. Xã hội học bị tấn công vì “chủ nghĩa khoa học” của nó, nghĩa là vì đã làm cho phương pháp khoa học tự nó trở thành một mục đích. Ngoài ra, xã hội học cũng bị cáo buộc vì đã chấp nhận hiện trạng. Trường phái phê phán xác nhận rằng xã hội học không nghiêm túc phê phán xã hội, cũng không tìm cách vượt quá cấu trúc xã hội đương thời. Xã hội học, phái phê phán cho rằng, đã từ bỏ nghĩa vụ của nó để trong việc giúp mọi người bị áp bức bởi xã hội hiện thời.

            Ngoài các phê phán có tính chính trị như thế ra, trường phái phê phán có một phê phán về mặt tồn tại: nó chỉ trích khuynh hướng của các nhà xã hội học giảm thiểu mọi vật, từ con người cho đến các mặt đa dạng của xã hội. Khi các nhà xã hội học tập trung vào xã hội ở ý nghĩa tổng thể hơn là các cá thể trong xã hội, họ bỏ qua sự tương tác của các cá thể và xã hội. Dù phần lớn các viễn cảnh xã hội học không phạm sai lầm về việc bỏ qua sự tương tác, quan điểm này là một cơ sở cho cuộc tấn công của trường phái phê phán đối với xã hội học. Vì bỏ qua cá thể, các nhà xã hội học được xem là không có khả năng nói bất cứ điều gì có ý nghĩa về các biến đổi chính trị dẫn tới một “xã hội công minh và nhân văn”. Như Zoltar xác định, xã hội học trở thành “một bộ phận toàn thể của xã hội đang tồn tại thay vì là một phương tiện của phê phán và một sự vận động tân tạo”

            Phê phán xã hội hiện đại.  Phần lớn tác phẩm của trường phái phê phán có mục đích hướng về sự phê phán xã hội hiện đại và các thành tố khac nhau của nó. Trong khi đó phần lớn lý thuyết theo Marx thời kỳ đầu có mục tiêu cụ thể tới kinh tế, trường phái phê phán chuyển định hướng của nó sang cấp độ văn hóa dưới ánh sáng của cái nó xem là các thực tại của xã hội tư bản hiện đại. Nghĩa là, quỹ tích của sự thống trị trong xã hội hiện đại chuyển từ nền kinh tế sang lĩnh vực văn hóa. Cũng như thế, trường phái phê phán giữ vững mối quan tâm của nó tới sự thống trị, mặc dù trong thế giới hiện đại có vẻ nó bị thống trị bởi các nguyên tố văn hóa hơn là các nguyên tố kinh tế. Trường phái phê phán do vậy tìm cách tập trung vào sức ép văn hóa lên cá thể trong xã hội hiện đại.

            Các tư tưởng gia phê phán đã bị định hình không phải chỉ bởi lý thuyết theo Marx mà cả bởi lý thuyết Weber, như đã phản ánh trong tiêu điểm của họ về sự hợp lý như là bước phát triển hàng đầu của thế giới hiện đại. Như Trent Schroyer làm rõ, quan điểm của trường phái phê phán là trong xã hội hiện đại sức ép sản sinh bởi sự hợp lý đã thay chỗ cho sự bóc lột kinh tế như là vấn đề xã hội hàng đầu. Trường phái phê phán rõ ràng đã đi theo sự phân biệt giữa hợp lý hình thức (formal rationality) và hợp lý thật sự (substantive rationality) của Weber, hay cái mà các ký thuyết gia phê phán nghĩ tới như là sự suy lý (reason). Đối với các lý thuyết gia phê phán, hợp lý hình thức được quan tâm một cách hời hợt với câu hỏi về các phương tiện có hiệu quả nhất để đạt được bất kỳ mục đích nào được đưa ra. Điều này được xem là “tư duy kỹ trị” (technocratic thinking), trong đó đối tượng sẽ phục vụ cho các lực lượng của sự thống trị, chứ không phải để giải phóng mọi người khỏi ách thống trị. Mục tiêu đơn giản là tìm ra các phương tiện hiệu quả nhất đối với bất cứ mục đích nào được những người có quyền lực xác định là quan trọng. Tư duy kỹ trị trái ngược với sự suy lý, là, trong tâm trí của các lý thuyết gia phê phán, niềm hy vọng của xã hội. Sự suy lý bao gồm các sự đánh giá những phương tiện trong phạm vi các gía trị tối yếu của con người như công bằng, hòa bình, hạnh phúc. Các lý thuyết gia phê phán đồng nhất hóa chủ nghĩa quốc xã nói chung, và cụ thể hơn là các trại tập trung của nó, với những ví dụ về hợp lý hình thức trong trận chiến sống còn với sự suy lý. Do vậy, như George Friedman nói, “Auschwitz là một địa điểm hợp lý, nhưng nó không phải là một địa điểm có lý”.

            Dù sự hợp lý bề ngoài của xã hội hiện đại, trường phái phê phán thấy thế giới hiện đại đầy rẫy những điều phi lý. Ý tưởng này có thể gán cho cái nhãn “sự phi lý của sự hợp lý” hoặc cụ thể hơn là sự phi lý của sự hợp lý hình thức. Theo quan điểm của Herbert Marcuse, dù nó có vẻ là hiện thân của sự hợp lý, “ xã hội này toàn bộ đều phi lý”. Phi lý là ở chỗ thế giới hợp lý bị phá hủy bởi các cá thể và các nhu cầu và khả năng của họ; hòa bình được duy trì thông qua một nguy cơ chiến tranh thường hằng liên tục; và dù có sự tồn tại của các phương tiện đầy hiệu quả, con người vẫn bị bần cùng hóa, bị áp bức, bóc lột, và không có khả năng phát huy năng lực bản thân”.

            Trường phái phê phán tập trung cơ bản vào một hình thức của hợp lý hình thức – kỹ thuật hiện đại. Marcuse, ví dụ, là một phê bình gia nghiêm khắc kỹ thuật hiện đại, ít nhất là như nó bị sử dụng trong chủ nghĩa tư bản. Ông thấy kỹ thuật trong xã hội tư bản hiện đại dẫn tới chủ nghĩa độc quyền chuyên chế. Thực tế, ông thấy nó dẫn tới các phương pháp mới, hiệu quả hơn, và thậm chí “thú vị” hơn của sự kiểm soát ngoại vi lên các cá thể. Ví dụ chính là sự sử dụng ti-vi để xã hội hóa và xoa dịu dân chúng (các ví dụ khác là các môn thể thao quần chúng, tình dục). Marcuse phản đối ý tưởng rằng kỹ thuật có tính trung lập trong xã hội hiện đại, và thấy rằng thay vì vậy, nó là các phương tiện để thống trị con người. Nó có hiệu quả bởi vì nó được làm cho có vẻ trung lập khi trong thực tế nó đang nô dịch hóa. Nó phục vụ cho việc áp bức các cá thể. Sự tự do nội tâm của actor đã bị “xâm lăng và cắt xén đi” bởi kỹ thuật hiện đại. Kết quả là cái mà Marcuse gọi là “xã hội một chiều”, trong đó cá thể đánh mất khả năng tư duy một cách phê phán và tiêu cực về xã hội. Marcuse không xem bản thân kỹ thuật là kẻ thù, mà là một thứ kỹ thuật như bị sử dụng trong xã hội tư bản chủ nghĩa: “Kỹ thuật, dù cho ‘thuần túy’ như thế nào đi nữa, vẫn duy trì và sắp xếp tổ chức cho có hiệu quả hơn sự tiếp diễn của ách thống trị. Mối liên kết định mệnh này chỉ có thể cắt rời bằng một cuộc cách mạng, mà (nó sẽ) buộc kỹ thuật và phương pháp kỹ thuật phục vụ cho các nhu cầu và mục tiêu của con người tự do”. Marcuse vẫn duy trì quan diểm nguyên thủy của Marx rằng kỹ thuật tự nó vốn không phải là một vấn đề và rằng nó có thể được sử dụng để phát triển một xã hội “tốt đẹp hơn”.

Phê phán văn hóa. Theo Friedman, “Trường phái phê phán tập trung các quan tâm căng thẳng nhất của nó vào lĩnh vực văn hóa”. Các lý thuyết gia phê phán xếp mức độ quan trọng của các phê phán ở cái mà họ gọi là “công nghệ văn hóa”, sự hợp lý hóa, các cấu trúc chế độ bàn giấy (ví dụ hệ thống ti-vi) kiểm soát nền văn hóa hiện đại. Mối quan tâm đến công nghệ văn hóa phản ánh mối quan tâm của họ với khái niệm theo Marx về “siêu cấu trúc” hơn là với các nền tảng kinh tế. Công nghệ văn hóa sản sinh ra cái gọi theo truyền thống là “văn hóa quần chúng”, được xác định như  là “nền văn hóa bị quản lý… phi tự nhiên, vật chất hóa, giả mạo hơn là nền văn hóa thật sự”. Có hai điều làm các tư tưởng gia phê phán lo âu nhất về nền công nghệ này. Trước hết, họ quan tâm đến sự sai lầm của nó. Họ nghĩ về nó như là một bộ hàng đóng gói sẵn các ý tưởng được sản xuất đại trà và được gieo rắc tới quần chúng bằng phương tiện truyền thông. Thứ hai, các nhà lý thuyết gia phê phán bị quấy rầy bởi ảnh hưởng xoa dịu, kềm hãm và u mê hóa của nó đối với mọi người.

Douglas Kellner đã tự động đưa ra một lý thuyết phê phán về ti-vi. Trong khi ông gắn tác phẩm của ông vào các quan tâm văn hóa của trường phái Frankfurt, Kellner rút từ các truyền thống theo Marx khác một khái niệm hòan chỉnh hơn về công nghệ ti-vi. Ông phê phán trường phái phê phán vì nó “làm ngơ các phân tích chi tiết về kinh tế chính trị của hệ truyền thông, khái niệm hóa văn hóa quần chúng một cách đơn giản như  một công cụ của ý thức hệ tư bản”. Do vậy, ngoài việc nhìn vào ti-vi như là một bộ phận của công nghệ văn hóa, Kellner kết nối nó với tổ chức tư bản chủ nghĩa và hệ thống chính trị. Hơn nữa, Kellner không xem ti-vi là rắn chắc như đá hoặc bị kiểm soát bởi các lực lượng tổ chức cố kết, mà đúng hơn là một “phương tiện truyền thông đại chúng có tính xung đột cao độ trong đó các lực lượng cạnh tranh về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa giao nhau. Như vậy, trong khi làm việc trong truyền thống lý thuyết phê phán, Kellner khước từ quan điểm rằng chủ nghĩa tư bản là một thế giới được điều hành một cách hoàn toàn. Dù sao, Kellner xem ti-vi như là một nguy cơ đe dọa cho dân chủ, tính chất cá nhân, tự do và đưa ra các đề xuất (ví dụ, nhiều khả năng giải trình dân chủ hơn, các sự lui tới tham gia của công dân lớn hơn, tính đa dạng lớn hơn trên ti-vi)  để xử lý nguy cơ đó. Như vậy, Kellner vượt ra khỏi một phê phán đơn thuần để đưa ra các đề xuất nhằm giải quyết các mối nguy do ti-vi đem lại.

Trường phái phê phán cũng quan tâm đến và phê phán về cái nó gọi là “công nghệ kiến thức”, chỉ các thực thể liên quan đến các sản phẩm kiến thức (ví dụ, các trường đại học, các viện nghiên cứu) đã trở nên các cấu trúc có tính tự trị trong xã hội của chúng ta. Quyền tự trị của chúng cho phép chúng tự mở rộng ra khỏi sự ủy trị nguyên thủy của chúng. Chúng đã trở thành các cấu trúc đàn áp quan tâm đến việc mở rộng tầm ảnh hưởng của chúng trong xã hội.

Phân tích phê phán chủ nghĩa tư bản của Marx dẫn ông tới một hy vọng vào tương lai, nhưng nhiều lý thuyết gia phê phán đã đi tới một lập trường chán nản và thất vọng. Họ thấy các vấn đề của thế giới hiện đại không chỉ đặc thù đối với chủ nghĩa tư bản mà là tính chất đặc hữu của một thế giới hợp lý hóa. Họ thấy tương lai, theo từ của Weber, như một “cái lồng sắt” của các cấu trúc hợp lý ngày càng gia tăng còn hy vọng thoát khỏi nó ngày càng giảm đi.

Nhiều lý thuyết phê phán (như phần lớn hệ thống phát biểu nguyên thủy của Mark) đi theo hình thức phân tích phê phán. Ngay cả dù các lý thuyết gia phê phán đã có một số quan tâm tích cực, một trong những phê phán cơ bản tạo thành lý thuyết phê phán là nó đã đề ra nhiều phê phán hơn là có những đóng góp tích cực. Tính chất phủ định liên miên không dứt  này đụng chạm đến nhiều người, và vì lý do này họ cảm thấy rằng lý thuyết phê phán ít có đóng góp gì cho lý thuyết xã hội học.

Các đóng góp chủ yếu

Tính chủ quan. Đóng góp lớn lao của trường phái phê phán là nỗ lực của nó để tái định hướng lý thuyết theo Marx theo một chiều hướng chủ quan. Dù điều này thiết lập nên một sự phê phán về chủ nghĩa duy vật của Marx và tiêu điểm sát nút của ông vào các cấu trúc kinh tế, nó cũng đưa ra một cống hiến mạnh mẽ cho sự thấu hiểu của chúng ta về các nguyên tố chủ quan của đời sống xã hội. Các đóng góp chủ quan của trường phái phê phán ở cả hai cấp độ cá thể và văn hóa.

Nguồn gốc Hegel của lý thuyết theo Marx là nguồn chủ yếu cho mối quan tâm vào tính chủ quan. Nhiều tư tưởng gia phê phán tự xem họ là đã quay lại các nguồn gốc đó, như đã thể hiện trong các tác phẩm đầu của Marx, đặc biệt là Các bản thảo kinh tế và triết học năm 1844. Trong việc làm này, họ theo lên đến tác phẩm của các nhà cải biên lý thuyết theo Marx hồi đầu thế kỷ 20, như  Karl Korsch và Georg Lukács, người tìm cách tập trung vào tính chủ quan chỉ đơn giản hòa hợp một quan tâm như thế với mối quan tâm truyền thống của thuyết sau Marx đối với các cấu trúc khách quan. Korsch và Lukács không tìm kiếm một tái cấu trúc cơ sở của lý thuyết theo Marx, dù các lý thuyết gia phê phán về sau tạo cho nó tính chất rộng lớn và nhiều khát vọng khách quan hơn.

Chúng ta bắt đầu với quan tâm của trường phái phê phán vào văn hóa. Như đã chỉ ra, trường phái phê phán đã chuyển tới một quan tâm về “siêu cấu trúc” văn hóa hơn là một “nền tảng” kinh tế. Một yếu tố thúc đẩy bước chuyển biến này là trường phái  phê phán cảm thấy rằng những nhà Marxist đã quá nhấn mạnh đến các cấu trúc kinh tế và rằng sự nhấn mạnh này đã nhấn chìm quan tâm của họ đến các khía cạnh khác của thực tại xã hội, đặc biệt là văn hóa. Ngoài yếu tố này, một loạt những biến đổi ngoại vi trong xã hội đã đưa đến sự chuyển biến như thế. Đặc biệt, sự phồn vinh của thời kỳ sau Thế chiến II ở Mỹ dường như đã dẫn tới sự biến mất các mâu thuẫn nội tại kinh tế nói chung và xung đột giai cấp nói riêng. Ý thức sai lầm hầu như  trở thành phổ quát: mọi giai cấp xã hội, bao gồm giai cấp công nhân, có vẻ là những người thụ hưởng thành quả và những ủng hộ viên nồng nhiệt cho hệ thống tư bản. Ngoài ra, Liên Xô cũ, dù với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của nó, ít nhất cũng có tính áp bức như là xã hội tư bản. Vì hai xã hội có hai nền kinh tế khác nhau, các tư tưởng gia đã tìm nguồn gốc chủ yếu của sự áp bức ở nơi khác. Cái họ hướng tới đầu tiên là văn hóa.

Ở các khía cạnh đã thảo luận về các quan tâm của trường phái Frankfurt -  sự hợp lý, công nghệ văn hóa, công nghệ kiến thức – có thể bổ sung vào tập hợp các quan tâm, cái đáng chú ý nhất là một quan tâm về hệ tư tưởng. Bằng hệ tư tưởng các lý thuyết gia phê phán xác định các hệ thống ý tưởng, thường là sai lầm và khó hiểu, sản sinh bởi các tầng lớp ưu tú của xã hội. Tất cả các khía cạnh cụ thể này của siêu cấu trúc và định hướng của trường phái phê phán đối với họ có thể gộp chung vào dưới cái tên “phê phán sự thống trị”. Mối quan tâm tới sự thống trị này đầu tiên bị tác động bởi chủ nghĩa phát-xít trong những năm 1930 và 1940, nhưng nó đã chuyển sang một quan tâm tới sự thống trị trong xã hội tư bản. Thế giới hiện đại đã đi tới một giai đoạn của sự thống trị không thể vượt khỏi đối với các cá thể. Thực tế, sự kiểm soát phức tạp đến nỗi không còn đòi hỏi các hành động tự chủ về phần các nhà lãnh đạo. Sự kiểm soát tràn ngập vào mọi khía cạnh của thế giới văn hóa và, quan trọng hơn, là sự chủ quan hóa trong actor. Hệ quả là actor đi đến chỗ tự thống trị họ dưới cái tên của cấu trúc xã hội lớn. Sự thống trị đã tới một giai đoạn hoàn tất đến nỗi không còn có vẻ bị thống trị chút nào. Vì sự thống trị không còn được nhận thức là có tính nguy hiểm và tha hóa cá nhân, dường như thế giới đã đi đúng con đường nó phải đi. Đối với actor việc thế giới cần trở nên như thế nào không còn rõ ràng nữa. Do vậy, sự bi quan của các tư tưởng gia càng được củng cố, vì họ không còn có thể thấy được phân tích hợp lý có thể thay đổi hoàn cảnh như thế nào.

Một trong những quan tâm của trường phái phê phán ở cấp độ văn hoá là với cái mà Hebermas gọi là những sự chính thống hoá. Chúng có thể được xác định là những hệ thống tư tưởng phát sinh bởi hệ thống chính trị, và về lý thuyết bởi bất cứ hệ thống nào khác, để hỗ trợ cho sự tồn tại của hệ thống. Chúng được thiết kế để “đánh lừa” hệ thống chính trị, để làm cái đang diễn ra trở nên mơ hồ không chính xác. Ngoài những quan tâm về văn hoá như thế, trường phái phê phán cũng quan tâm tới các actor và ý thức của họ, cái đang xảy ra với họ trong thế giới hiện đại. Ý thức của quần chúng đi đến chỗ bị kiểm soát bởi các lực lượng ngoại vi (như công nghệ văn hoá). Kết quả là quần chúng không phát triển được một ý thức cách mạng. Không may thay, các lý thuyết gia, như phần lớn những người Marxist, và phần lớn các nhà xã hội học, thường là thất bại trong việc phân biệt rõ ràng giữa ý thức cá thể và văn hoá, họ cũng không xác định cụ thể được nhiều nối kết giữa chúng. Trong phần nhiều tác phẩm của họ, họ di động tới lui một cách tự do giữa ý thức và văn hoá với rất ít hoặc không có tí nhận thức nào rằng họ đang thay đổi các cấp độ.

Tầm quan trọng lớn lao ở đây là nỗ lực của các nhà lý thuyết phê phán, đáng chú ý nhất là Marcuse, để hoà hợp các nhận thức của Freud ở cấp độ của ý thức (và vô thức) vào các diễn dịch của các lý thuyết gia phê phán về văn hoá. Friedman lý luận rằng các lý thuyết gia phê phán đã phái sinh ba điều từ tác phẩm của Freud: (1) một cấu trúc tâm lý để vận dụng trong việc phát triển các lý thuyết của họ; (2) một nhận thức về bệnh học tâm lý cho phép họ hiểu thấu cả tác động tiêu cực của xã hội hiện đại và sự thất bại trong việc phát triển ý thức cách mạng; và (3) các khả năng của sự giải phóng tâm linh. Một trong các lợi ích của mối quan tâm tới ý thức cá thể này nó đề ra một sự hiệu chỉnh hữu ích đối với tính chất bi quan chủ nghĩa của trường phái phê phán và tiêu điểm của nó vào các kềm hãm về văn hoá. Dù mọi người bị kiểm soát, chìm trong các nhu cầu sai lạc, trở nên u mê, trong phạm vi của Freud họ cũng được phú cho một libido (được xem một cách rộng rãi là xung năng tính dục), nó cung cấp nguồn năng lượng cơ bản cho hành động sáng tạo được định hướng tới sự lật đổ các hình thức chủ yếu của sự thống trị.

Các mặt biện chứng. Tiêu điểm tích cực chủ yếu thứ hai của lý thuyết phê phán là một quan tâm đến các mặt biện chứng (ý tưởng này bị phê phán từ quan điểm của chủ nghĩa phân tích Marxist ở cuối chương) nói chung, cũng như trong nhiều biểu thị cụ thể khác nhau của nó. Ở cấp độ chung nhất, một tiếp cận biện chứng có nghĩa là một tiêu điểm về tính toàn thể của xã hội. Paul Connerton đưa ra một nhận thức tốt về cách tiếp cận phê phán đối với tổng thể xã hội: “Không khiá cạnh bộ phận nào của đời sống xã hội và không hiện tượng riêng biệt nào có thể được hiểu thấu trừ phi nó có liên quan với tổng thể về mặt lịch sử, với cấu trúc xã hội xem như một thực thể toàn vẹn”. Cách tiếp cận này bao gồm sự chối bỏ một tiêu điểm trên bất kỳ một khiá cạnh cụ thể nào của đời sống xã hội, đặc biệt là hệ thống kinh tế, ở bên ngoài bối cảnh rộng lớn hơn của nó. Cách tiếp cận này cũng có nghĩa là một quan tâm đến mối tương tác của các cấp độ khác nhau của thực tại xã hội -quan trọng nhất là ý thức cá thể, siêu cấu trúc văn hoá, và cấu trúc kinh tế. Biện chứng pháp cũng mang theo với nó một quy định về mặt phương pháp luận: Một thành tố của đời sống xã hội không thể được nghiên cứu tách biệt với phần còn lại.

Ý tưởng này có cả hai thành tố lịch đại (diarchronic) và đồng đại (synchronic). Một quan điểm đồng đại dẫn chúng ta tới quan tâm về mối quan hệ hỗ tương giữa các thành tố của xã hội trong một tổng thể đương thời. Một quan điểm lịch đại mang theo với nó mối quan tâm tới các nguồn gốc lịch sử của xã hội ngày nay cũng như việc nó sẽ có thể đi tới đâu trong tương lai. Sự thống trị con người của các cấu trúc xã hội và văn hoá – xã hội “một chiều”, theo cách dùng từ của Marcuse – là kết quả của một sự phát triển lịch sử cụ thể và không phải là một đặc tính phổ quát của loài người. Viễn cảnh về lịch sử này đối kháng lại quan điểm nhận thức thông thường đã nảy sinh trong chủ nghĩa tư bản rằng một hệ thống là một hiện tượng tự nhiên và không thể tránh khỏi. Theo quan điểm của các lý thuyết gia phê phán (và những người Marxist khác) mọi người đã đi đến chỗ xem xã hội như một “tự nhiên thứ hai”; nó “được nhận thức bởi một trí khôn ngoan mang tính nhận thức thông thường như là một lực lượng xa lạ, không nhân nhượng, đòi hỏi cao và độc đoán – chính xác là giống như một tự nhiên phi con người. Để thi hành đúng các nguyên tắc của lý trí, để hành động hợp lý, để đạt được thành công, để được tự do, con người phải tự điều chỉnh cho hoà hợp với “tự nhiên thứ hai” này”.

Các lý thuyết gia phê phán cũng có định hướng suy nghĩ về tương lai, nhưng theo sự dẫn đường nguyên thủy của Marx, họ từ chối tính không tưởng; đúng hơn, họ tập trung vào sự phê phán và biến đổi xã hội hiện thời. Tuy nhiên, thay vì hướng thẳng quan tâm của họ tới cấu trúc kinh tế như Marx đã làm, họ tập trung vào mặt siêu cấu trúc văn hoá của nó. Cách tiếp cận biện chứng của họ ràng buộc họ phải làm việc với thế giới thực tại. Ở một cấp độ, điều này có nghĩa là họ không thỏa mãn trong việc tìm kiếm sự thật trong các phòng thứ nghiệm. Kiểm nghiệm cuối cùng của ý tưởng của họ là mức độ mà ở đó họ được chấp nhận và được sử dụng trong thực hành. Quá trình này họ gọi là sự chứng minh là xác thực (authentication),diễn ra khi mọi người đã từng là nạn nhân của sự thông tin xuyên tạc  hiểu được các ý tưởng của các lý thuyết gia phê phán và sử dụng chúng để giải phóng bản thân khỏi hệ thống đó. Như vậy, chúng ta đi tới một khiá cạnh khác của các mối quan tâm của những tư tưởng gia phê phán – sự giải phóng loài người.

Trong nhiều phạm vi trừu tượng hơn, các tư tưởng gia phê phán có thể nói là bị xâm chiếm bởi sự ảnh hưởng lẫn nhau và các tương quan giữa lý thuyết và thực hành. Quan điểm của trường phái Frankfurt là hai mặt này rất khắc nghiệt trong xã hội tư bản. Nghĩa là, lý thuyết được thực hiện bởi một nhóm, được ủy thác, hay đúng hơn là nắm lấy quyền này, trong khi thực hành lại được giao cho một nhóm khác, ít quyền lực hơn. Trong nhiều trường hợp, tác phẩm của lý thuyết gia không đầy đủ thông tin về thế giới thực tại, dẫn tới một thể lý thuyết xã hội học và lý thuyết theo Marx nghèo nàn và không tương hợp. Tiêu điểm là hợp nhất lý thuyết và thực hành để duy trì mối tương quan giữa chúng. Lý thuyết do vậy phải được thông tin bởi thực hành, trong khi thực hành phải được định hình bởi lý thuyết. Trong quá trình này, cả lý thuyết và thực hành sẽ được làm phong phú thêm.

Dù có mục tiêu đã thú nhận này, phần lớn các lý thuyết phê phán đã thất bại một cách chua cay trong việc hoà hợp lý thuyết và thực hành. Thực tế, một trong những phê phán thường được nghe về lý thuyết phê phán là nó thường được viết theo một lối hoàn toàn không thể tiếp thu được đối với quần chúng nhân dân. Hơn nữa, trong sự tận tâm của nó để nghiên cứu văn hoá và siêu cấu trúc, lý thuyết phê phán nói tới một số đề tài rất bí ẩn và nói rất ít về các quan tâm thực tế hàng ngày của phần lớn dân chúng.

Một trong các quan tâm biện chứng nổi tiếng của trường phái phê phán là quan tâm của Habermas tới mối tương quan giữa kiến thức và các quan tâm của con người – một ví dụ về quan tâm mang tính biện chứng rộng hơn tới mối tương quan giữa các nhân tố khách quan và chủ quan. Nhưng Habermas đã cẩn thận chỉ ra rằng các nhân tố chủ quan và khách quan không thể được xử lý tách biệt nhau. Đối với ông, các hệ thống kiến thức tồn tại ở cấp độ     khách quan trong khi các quan tâm của con người là một hiện tượng chủ quan hơn.

Habermas phân biệt giữa ba hệ thống kiến thức và các quan tâm tương ứng của chúng. Các quan tâm nằm phiá sau và dẫn dắt mỗi hệ thống kiến thức nói chung không được những người bình thường biết đến, và công việc của các lý thuyết gia phê phán là vạch trần chúng ra. Kiểu kiến thức đầu tiên là khoa học phân tích, hoặc các hệ thống khoa học thực chứng cổ điển. Theo quan điểm của Habermas, các quan tâm tiềm ẩn của một kiến thức như thế được kiểm soát một cách chặt chẽ, có thể áp dụng đối với môi trường, các xã hội khác, hay mọi người trong xã hội. Theo ông, khoa học phân tích có thể dùng một cách dễ dàng để nâng cao sự kiểm soát áp bức. Kiểu hệ thống kiến thức thứ hai là kiến thức thuộc về nhân văn, và mối quan tâm của nó là trong việc nhận thức thế giới. Nó vận hành từ quan điểm chung rằng nhận thức về quá khứ của chúng ta nói chung giúp chúng ta hiểu được cái đang diễn ra hôm nay. Nó có mối quan tâm mang tính thực hành đối với nhận thức chung và tự nhận thức. Nó không có tính áp bức mà cũng không có tính giải phóng. Kiểu thứ ba là kiến thức phê phán, mà Habermas, và trường phái Frankfurt nói chung, tán thành. Mối quan tâm gắn với kiểu kiến thức này là sự giải phóng loài người. Người ta hy vọng rằng kiến thức phê phán do Habermas và những người khác sản sinh ra sẽ nâng cao tính tự giác của quần chúng (thông qua các cơ cấu được nối kết bởi những người theo Freud) và dẫn tới một phong trào xã hội mà kết quả sẽ là sự giải phóng mà người ta từng hy vọng.

Các phê bình về lý thuyết phê phán

Một số phê bình đã được nhắm vào lý thuyết phê phán. Đầu tiên, lý thuyết phê phán đã bị cáo buộc là quá phi lịch sử, là xem xét một loạt sự kiện mà không chú ý nhiều đến các bối cảnh có tính lịch sử và đối chiếu so sánh (ví dụ, chủ nghĩa quốc xã trong những năm 1930, chủ nghĩa chống Xe-mít trong những năm 1940, các cuộc cách mạng sinh viên những năm 1960). Đây là một phê bình chỉ trích đối với bất kỳ lý thuyết theo Marx nào, vốn cần có tính lịch sử và so sánh. Thứ hai, trường phái phê phán, như đã thấy, nói chung đã làm ngơ kinh tế. Cuối cùng, các lý thuyết gia có xu hướng lý luận rằng giai cấp công nhân không còn là lực lượng cách mạng nữa, một lập trường trái hẳn với phân tích truyền thống Marxian.

Các phê bình như thế đã dẫn những nhà Marxist như Bottomore đi đến kết luận, “Trường phái Frankfurt, trong hình thức nguyên thủy của nó, và như là một trường phái của chủ nghĩa Marx về xã hội học, đã chết”. Những tình cảm tương tự cũng đã được thể hiện bởi Greisman, người gọi lý thuyết phê phán là “một mô hình thất bại”. Nếu nó đã chết với ý nghĩa là một trường phái riêng biệt, đó là vì nhiều tư tuởng cơ bản của nó đã tìm được đường vào xã hội học Marxist, xã hội học tân Marxist, và thậm chí cả dòng xã hội học chủ đạo.  Do vậy, như Bottomore kết luận trong trường hợp của Habermas, trường phái phê phán đã thực hiện một cuộc lập lại tình hữu nghị với Chủ nghĩa Marx và xã hội học, và “đồng thời, một số tư tưởng nổi bật của trường phái Frankfurt đã được bảo tồn và phát triển”.

Dù lý thuyết phê phán có thể đang suy tàn, Jurgen Habermas và lý thuyết của ông còn nhiều sức sống. Chúng ta đã tiếp xúc với một vài tư tưởng của ông ở đầu chương này, nhưng chúng tôi khép lại phần này về lý thuyết phê phán với một cái nhìn chi tiết hơn vào các tư tưởng của ông.

Các tư tưởng của Jurgen Habermas

Điểm bắt đầu tốt nhất để thảo luận về các tư tưởng của Habermas là các quan điểm của ông về lý thuyết Marx. Như Habermas làm rõ, mục tiêu của ông trong nhiều năm là “phát triển một chương trình lý thuyết mà tôi hiểu như là một sự tái lập chủ nghĩa duy vật lịch sử”. Habermas lấy điểm khởi đầu của Marx (tiềm năng nhân loại, tồn tại-loài, “hoạt động cảm giác của con người”) làm của chính ông. Tuy nhiên, Habermas lý luận rằng Marx đã thất bại trong việc phân biệt giữa hai thành tố phân tích riêng biệt của tồn tại-loài – sự làm việc (hoặc lao động, hành động hợp lý có mục đích) và tương tác (hoặc hành động thông tin) xã hội (hoặc biểu tượng). Theo Habermas, Marx có xu hướng làm ngơ cái sau và giảm thiểu nó thành công việc. Như Habermas thấy, vấn đề trong tác phẩm của Marx là “sự giảm thiểu hành động tự phát sinh của loài người thành lao động”. Do vậy, ông nói: “ Tôi lấy làm điểm khởi đầu sự phân biệt chủ yếu giữa lao độngtương tác”. Qua các bài viết, tác phẩm của Habermas có tính chất cung cấp tài liệu bởi sự phân biệt này, dù ông thiên về cách sử dụng các thuật ngữ  hành động hợp lý có mục đích (lao động) và hành động thông tin  (tương tác) hơn.

Dưới cái tên “hành động hợp lý có mục đích”, “Habermas phân biệt giữa hành động có tính phương tiện và hành động có tính chiến lược”. Cả  hai đều có liên quan với sự theo đuổi có tính toán của sự tư lợi. Hành động có tính phương tiện (Instrumental action) liên quan tới một hành động riêng lẻ được dự tính một cách hợp lý là phương tiện tốt nhất đối với một mục tiêu đề ra. Hành động có tính chiến lược (strategic action) có liên quan tới hành động hợp lý có mục đích của hai hoặc ba cá thể cùng cộng tác trong việc theo đuổi một mục đích. Đối tượng của cả hai thứ hành động này là sự sử dụng thành thạo phương tiện.

Ở hành động thông tin (communicative action), các hành động của các cơ quan liên quan được kết hợp không phải qua các tính toán tự kỷ trung tâm về thành công mà qua các hành động đi tới sự nhận thức. Trong hành động thông tin, các thành phần tham gia về cơ bản không định hướng tới thành công của riêng họ; họ theo đuổi các mục tiêu cá thể của họ dưới điều kiện mà họ có thể hòa hợp hóa các kế hoạch hành động của họ trên cơ sở của các hoàn cảnh xác định.

Trong khi mục đích của hành động hợp lý có mục đích là đạt được một mục tiêu, đối tượng của hành động thông tin là đạt được sự nhận thức về thông tin.

Rõ ràng, có một thành tố quan trọng bằng lời nói trong hành động thông tin. Tuy nhiên hành động này rộng hơn là chỉ bao gồm “hành động nói hay các diễn đạt không lời tương đương”.

Điểm chủ chốt  của Habermas về xuất phát điểm từ Marx là lý luận rằng hành động thông tin chứ không phải hành động hợp lý có mục đích (lao động), là hiện tượng riêng biệt và có tính chất lan rộng của con người. Nó (chứ không phải lao động) là nền tảng của mọi cuộc sống có cấu trúc xã hội cũng như mọi khoa học của con người. Trong khi Marx dẫn tới một tiêu điểm về lao động, Habermas dẫn tới tiêu điểm về sự thông tin.

Marx không chỉ tập trung vào lao động, ông còn lấy lao động tự do và sáng tạo làm cơ sở cho tác phẩm phân tích phê phán các giai đoạn lịch sử khác nhau, đặc biệt là chủ nghĩa tư bản. Habermas cũng theo một cơ sở, nhưng trong một lĩnh vực mang tính thông tin hơn là hành động hợp lý có mục đích. Cơ sở của Habermas là sự thông tin không bị xuyên tạc,  thông tin không có sự cưỡng bách. Từ cơ sở này, Habermas có khả năng phân tích phê phán thông tin bị xuyên tạc. Ông quan tâm tới các cấu trúc xã hội đã xuyên tạc bóp méo thông tin, như Marx đã xem xét các nguồn xuyên tạc của lao động. Dù họ có những cơ sở khác nhau, cả hai đều có những cơ sở, và chúng cho phép họ thoát khỏi chủ nghĩa tương đối và đưa ra các phán xét  về các hiện tượng lịch sử. Habermas phê phán các lý thuyết gia, đặc biệt là Weber  và các lý thuyết gia phê phán trước đó vì sự thiếu sót của họ đối với một cơ sở như vậy và sự sa vào chủ nghĩa tương đối của họ.

Còn có một sự song hành khác giữa Marx và Habermas cũng như các cơ sở của họ. Đối với cả hai, các cơ sở này thể hiện không chỉ những xuất phát điểm của họ mà cả các đối tượng chính trị của họ. Nghĩa là, trong khi đối với Marx mục tiêu là xã hội cộng sản trong đó các lao động không bị bóp méo lần đầu tiên tồn tại, đối với Habermas mục tiêu chính trị là một xã hội mà thông tin không bị bóp méo. Trong phạm vi các mục tiêu tại chỗ, Marx tìm cách loại trừ các rào cản (tư bản)  đối với lao động không bị bóp méo, còn Habermas quan tâm đến việc loại trừ các rào cản đối với thông tin tự do.

Ở đây, Habermas, như các lý thuyết gia phê phán khác, rút ra từ Freud và thấy có nhiều cái song song giữa cái mà các nhà phân tâm học làm ở cấp độ cá thể và cái mà ông nghĩ là cần được thực hiện ở cấp độ xã hội. Habermas thấy phân tâm học như là một lý thuyết về thông tin bị bóp méo và bị xâm chiếm bởi sự cho phép các cá thể thông tin theo một cách thức không xuyên tạc. Các nhà phân tâm học tìm kiếm các nguồn của sự xuyên tạc trong thông tin cá thể, nghĩa là, các chướng ngại kềm chế sự thông tin. Qua sự phản ánh, nhà phân tâm học nỗ lực giúp đỡ cá thể khắc phục những chưóng ngại này. Tương tự, thông qua phê phán liệu pháp, “một hình thức tranh luận phục vụ cho việc chọn lọc sự tự lừa dối bản thân một cách có hệ thống, lý thuyết gia phê phán nỗ lực trợ giúp mọi người khắc phục các rào cản xã hội đối với thông tin không bị xuyên tạc”. Khi đó, có một sự giống nhau giữa phân tâm học và lý thuyết phê phán. Nhà phân tâm học trợ giúp bệnh nhân theo một cách rất giống với nhà phê phán xã hội giúp đỡ các nhóm bị áp bức trong xã hội.

Đối với Marx, cơ sở của xã hội tương lai lý tưởng của Habermas tồn tại trong thế giới hiện thời. Nghĩa là, đối với Marx các nguyên tố của con người được tìm thấy trong lao động trong xã hội tư bản. Đối với Habermas, các nguyên tố của thông tin không bị xuyên tạc được tìm thấy trong mỗi hành động của thông tin hiện thời.

Điều này đưa chúng ta tới vấn đề trung tâm về sự hợp lý hóa trong tác phẩm của Habermas. Ở đây ông không chỉ chịu ảnh hưởng của marx, mà cả của Weber. Trong tác phẩm của ông về sự hợp lý hóa, sự phân biệt của Habermas giữa hành dộng hợp lý có mục đích và hành động thông tin vẫn có tầm quan trọng trung tâm. Nhiều tác phẩm trước, theo quan diểm của ông, đã tập trung vào sự hợp lý hóa của hành động hợp lý có mục đích, dẫn tới sự tăng trưởng của các lực lượng sản xuất và sự gia tăng sự kiểm soát kỹ thuật lên đời sống. Hình thức hợp lý hóa này, như đối với Marx và Weber, là chủ yếu, có lẽ là vấn đề chủ yếu trong thế giới hiện đại. Sự hợp lý hóa hành động thông tin dẫn tới sự thông tin tự do ra khỏi sự thống trị. Tới một thông tin tự do và mở rộng. Sự hợp lý hóa ở đây liên quan tới sự  giải phóng, “chuyển các giới hạn ra khỏi thông tin”. Đây là chỗ tác phẩm đã nói của Habermas trình bày về sự hợp thức hóa và, nói chung hơn, ý thức hệ gắn vào. Nghĩa là, có hai nguyên nhân chính của thông tin bị xuyên tạc, chúng có thể bị loại trừ nếu chúng ta có một thông tin tự do và mở rộng.

Ở cấp độ các tiêu chí xã hội, một sự hợp lý hóa như vậy bao gồm sự giảm đi các  áp chế và hà khắc chuẫn mực dẫn tới sự phức tạp và tính phản ánh ở cá thể. Sự phát triển của hệ thống chuẫn mực ít hạn chế hay không hạn chế mới này nằm ở trung tâm lý thuyết về tiến hoá xãhội của Habermas. Thay vì là một hệ thống sản xuất mới, sự hợp lý hóa đối với Habermas dẫn tới một hệ thống chuẫn mực mới, ít xuyên tạc hơn. Dù ông xem nó là một sự hiểu  nhầm về quan điểm của ông, nhiều người đã cáo buộc ông vì việc đã cắt bỏ đi các nguồn gốc Marxian của ông trong khi chuyển từ cấp độ vật chất sang cấp độ chuẫn mực.

Điểm kết thúc của sự tiến hóa này theo Habermas là một xã hội hợp lý. Sự hợp lý ở đây có nghĩa là sự  loại bỏ các rào chắn làm xuyên tạc thông tin, nhưng nói chung hơn, nó có nghĩa là một hệ thống thông tin trong đó các ý tưởng được thể hiện một cách rộng mở và được bảo vệ chống lại các phê phán; sự nhất trí không  giới hạn phát triển trong quá trình tranh luận. Để hiểu điều này rõ hơn, chúng ta cần nhiều chi tiết hơn về hệ thống thông tin của Habermas.

Habermas phân biệt giữa hành động thông tin đã thảo luận ở trên và sự chuyện trò, bàn luận. Trong khi hành động thông tin diễn ra trong cuộc sống hàng ngày, sự bàn luận là

hình thức thông tin bị chuyển ra khỏi các ngữ cảnh về kinh nghiệm và hành động và các cấu trúc của nó bảo đảm với chúng ta: rằng các luận điệu có giá trị được đóng ngoặc của các xác quyết, giới thiệu hay cảnh báo là đối tượng riêng biệt của sự thảo luận; rằng các thành viên, các chủ đề, các bài báo không bị hạn chế, trừ phi đối chiếu với mục tiêu kiểm chứng các luận điệu có giá trị liên quan; rằng không có lực lượng nào ngọai trừ sự lập luận tốt hơn được thực hiện; và rằng mọi động cơ ngoại trừ của sự cộng tác nghiên cứu vì chân lý được loại trừ.

Trong thế giới lý thuyết của sự luận bàn, nhưng cũng ẩn mình bên dưới thế giới của các hành động thông tin là “hoàn cảnh phát biểu lý tưởng”, trong đó lực lượng hay quyền lực không quyết định lập luận nào chiến thắng; thay vì thế lập luận khá nhất tự mang lại chiến thắng. Sức nặng của chứng cứ và luận chứng quyết định cái được xem là có giá trị hoặc là chân lý. Các lập luận phát sinh từ một cuộc bàn luận như thế (và các thành viên đã đồng ý) là chân lý. Như vậy, Habermas đi theo một lý thuyết nhất trí về chân lý (đúng hơn là một bản sao, hoặc “thực tiễn” lý thuyết về chân lý). Chân lý này là bộ phận của tất cả các thông tin, và sự thể hiện trọn vẹn của nó là mục tiêu của lý thuyết tiến hóa của Habermas. Như Thomas McCarthy nói, “ý tưởng về chân lý cuối cùng chỉ tới một hình thức tương tác nằm ngoài vòng của mọi ảnh hưởng xuyên tạc. “Cuộc đời tốt đẹp và chân chính, đó là mục tiêu của lý thuyết phê phán vốn đã có trong nhận thức về chân lý; nó đã được báo trước trong mọi hành động phát biểu”.

Sự nhất trí phát sinh mang tính lý thuyết trong bàn luận (và tính tiền lý thuyết trong hành động thông tin) khi bốn kiểu luận điệu có giá trị nảy sinh và được nhận ra bởi các bên tương tác. Đầu tiên, phát biểu của người nói được xem là có thể hiểu thấu được. Thứ hai, các đề xuất đề ra bởi người nói là đúng; nghĩa là, người nói đưa ra kiến thức đáng tin cậy. Thứ ba, người nói chân thật khi đưa ra các đề xuất. Thứ tư, đối với người nói, việc đưa ra những đề xuất đó là đúng đắn và chính xác; anh ta có quyền làm điều đó. Các nhất trí nảy sinh khi mọi luận điệu có giá trị được đưa ra và được chấp nhận; nó bị phá vỡ nếu có một hay nhiều hơn luận điệu bị đặt vấn đề. Quay trở lại điểm nói trước, có những lực lượng trong thế giới hiện tại xuyên tạc quá trình này, ngăn cản sự phát sinh của một sự nhất trí, và có thể  khắc phục được ở xã hội lý tưởng sắp tới của Habermas.

Như vậy, trong phạm vi truyền thống của lý thuyết phê phán, Habermas đã phát triển một biến thể có giá trị của riêng ông. Dù nó vẫn còn nằm trong phạm vi lý thuyết phê phán, và, nói chung hơn, trong các truyền thống theo Marx, nó có một số nguyên tố hoàn toàn khác. Ngoài ra, lý thuyết này tiếp tục phát triển, và trong tác phẩm gần đây, Habermas đã đi theo một số chiều hướng mới thú vị, các chiều hướng mang lý thuyết của ông đi xa khỏi lý thuyết theo Marx và phê phán. Chúng ta sẽ thảo luận các phát triển gần đây trong lý thuyết Habermas ở Chương 9 và 10.

Lý thuyết phê phán ngày nay

Trong khi Habermas là người nổi bật nhất trong các tư tưởng gia xã hội ngày nay, ông ta không đơn độc trong cuộc đấu tranh để phát triển lý thuyết phê phán cho thích ứng tốt hơn với các thực tiễn hiện thời. Để minh họa những nỗ lực liên tục này, tiếp theo là một thảo luận vắn tắt về nỗ lực của Kellner để phát triển một lý thuyết phê phán về cái mà ông gọi là “Chủ nghĩa tư bản-công nghệ” (Techno-capitalism).

Lý thuyết của Kellner dựa trên tiền đề rằng chúng ta sẽ không  đi tới một thời đại hậu hiện đại, hoặc hậu công nghệ, mà đúng hơn là chủ nghĩa tư bản tiếp tục nắm quyền ngự trị tối cao, như nó đã từng nắm trong thời hoàng kim của lý thuyết phê phán. Do vậy, ông cảm thấy rằng các khái niệm cơ bản đã được phát triển để phân tích chủ nghĩa tư bản (ví dụ, sự vật dụng hóa, sự tha hóa) vẫn tiếp tục thích hợp cho việc phân tích chủ nghĩa tư bản kỹ thuật. Kellner xác định chủ nghĩa tư bản công nghệ là:

một hình thể của xã hội tư bản trong đó kiến thức khoa học và công nghệ, sự tự động hóa, các máy tính và công nghệ tiên tiến đóng một vai trò trong quá trình sản xuất song hành với vai trò của lực lượng người lao động, sự cơ giới hóa và các máy móc trong các thời đại sớm hơn của chủ nghĩa tư bản, trong khi đồng thời cũng sản sinh ra các kiểu cấu trúc xã hội, các hình thái văn hóa và cuộc sống đời thường mới mẻ.

Trong phạm vi công nghệ Marxian, trong chủ nghĩa tư bản công nghệ “tư bản bất biến sẽ tiếp nối cho tư bản biến thiên, khi tỷ lệ giữa công nghệ và lao động gia tăng đạt mức chi phí của đầu vào của lực lượng lao động”. Thế nhưng chúng ta không nên bỏ sót sự kiện rằng chủ nghĩa tư bản công nghệ vẫn còn mang hình thái của chủ nghĩa tư bản, mặc dù xã hội mới với một nền công nghệ có tầm quan trọng hơn gấp nhiều lần trước đó.

Kellner đã học được từ những thất bại của những người Marxist khác. Do vậy, ông chống lại ý tưởng rằng công nghệ quyết định “siêu cấu trúc” của xã hội. Nhà nước và văn hóa được xem ít nhất là phần nào có tính tự trị trong chủ nghĩa tư bản công nghệ. Ông cũng từ chối xem chủ nghĩa tư bản công nghệ là một giai đoạn mới trong lịch sử, nhưng xem nó đúng hơn là một hình thể mới trong phạm vi chủ nghĩa tư bản. Kellner cũng không đơn giản tập trung vào các vấn đề gây ra bởi chủ nghĩa tư bản công nghệ, mà còn nhìn vào các khả năng mới của nó đối với tiến trình xã hội và sự giải phóng xã hội. Trong thực tế, một vai trò chủ yếu đối với lý thuyết phê phán, theo quan điểm của Kellner, không chỉ là phê phán nó, mà còn phải “nỗ lực phân tích các khả năng giải phóng được mở ra bởi chủ nghĩa tư bản công nghệ”. Kellner cũng từ chối quay trở lại các giai cấp chính trị cũ, mà nhìn ra các tiềm năng lớn trong các phong trào xã hội khác nhau (phụ nữ, môi trường) đã nảy sinh trong vài thập kỷ qua.

Kellner không tán thành việc phát triển một lý thuyết tầm vĩ mô về chủ nghĩa tư bản công nghệ. Quan điểm chủ yếu của ông là mặc dù nó có biến đổi sâu sắc, chủ nghĩa tư bản vẫn còn thống trị trong thế giới đương thời. Do vậy, các công cụ được cung cấp bởi trường phái phê phán, và lý thuyết Marxian nói chung, tiếp tục thích ứng cho thế giới ngày nay. Chúng ta khép lại phần này với diễn tả của Kellner về “văn hóa-công nghệ” vì một quan tâm đến văn hóa đối với lý thuyết phê phán có tính chất quan trọng trung tâm:

Văn hóa-công nghệ thể hiện một hình thể  của văn hóa quần chúng và xã hội tiêu thụ trong đó các hàng hóa tiêu thụ, phim ảnh, ti-vi, các hình ảnh đại chúng và thông tin máy tính hóa trở thành hình thức thống trị về văn hóa thông qua thế giới đã phát triển (và) đang gia tăng thâm nhập vào các nước đang phát triển. Trong nền văn hóa-công nghệ, hình ảnh, quang cảnh và các tiện nghi thẩm mỹ đi đến chỗ thiết lập các hình thức văn hóa mới nô dịch đô hộ cuộc sống hàng ngày và chuyển biến các nền chính trị, kinh tế, và các quan hệ xã hội. Trong tất cả các lĩnh vực này, công nghệ đóng một vai trò ngày càng chủ yếu.

            Ở đây có nhiều cái sẽ được khám phá bởi các lý thuyết gia phê phán tương lai, như bản chất của bản thân văn hóa-công nghệ, các tiện nghi của nó, sự đô hộ của nó lên thế giới-đời sống, và tác động biện chứng của nó đối với kinh tế và các bộ phận khác trong xã hội. Ở đây có nhiều cái mới, nhưng cũng có nhiều cái dựa vào các tư tưởng chủ yếu của lý thuyết phê phán.

            XÃ HỘI HỌC KINH TẾ TÂN MARXIAN

            Như chúng ta đã thấy xuyên suốt trong chương này, nhiều nhà tân Marxist (ví dụ, các lý thuyết gia phê phán) đã có một số đánh giá tương đối về thể chế kinh tế, phần nào đó như là một phản ứng chống lại sự thái quá của các nhà kinh tế quyết định luận. Tuy nhiên, những phản ứng này tự chúng trong lúc vận động đã tạo ra một loạt các phản ứng chống lại. Trong phần này chúng ta đã xem xét tác phẩm của một vài nhà Marxist đó - những người đã quay lại một tiêu điểm vào phạm vi kinh tế. Tác phẩm của họ không chỉ đơn giản lặp lại lý thuyết theo Marx thời kỳ đầu; nó thiết lập một nỗ lực điều chỉnh lý thuyết theo Marx cho thích ứng với các thực tiễn của xã hội tư bản hiện đại.

            Tất nhiên, có một loạt các tác phẩm xử  lý vấn đề kinh tế từ quan điểm lý thuyết theo Marx. Đa phần chúng chỉ thích ứng trong phạm vi kinh tế, nhưng một ít trong số đó đã có ảnh hưởng đối với xã hội học. Chúng tôi sẽ xử lý hai thể loại tác phẩm trong phần này. Thể loại đầu tiên tập trung vào vấn đề rộng lớn về tư bản và lao động. Thể thứ hai bao gồm một tác phẩm hẹp hơn và có tính đương đại hơn về sự chuyển hóa từ thuyết Ford (Fordism) sang thuyết sau Ford (Post-Fordism).

            Tư bản và lao động

            Tư bản độc quyền.  Cái nhìn nội quan  nguyên thủy của Marx vào các cấu trúc kinh tế và các quá trình dựa trên cơ sở phân tích của ông về chủ nghĩa tư bản thời bấy giờ – cái chúng ta có thể nghĩ là một chủ nghĩa tư bản có tính chất cạnh tranh. Các công nghệ tư bản đó về mặt so sánh là nhỏ, kết quả là không có một nền công nghệ đơn độc, hoặc một nhóm công nghệ nhỏ nào có thể nắm quyền kiểm soát toàn bộ và không có đối kháng trên một thị trường. Phần nhiều các tác phẩm kinh tế của Marx dựa trên tiền đề này, chính xác vào thời của ông, rằng chủ nghĩa tư bản là một hệ thống cạnh tranh. Nói cho chắc, Marx cũng đã dự đoán khả năng của các độc quyền trong tương lai, nhưng ông chỉ đánh giá vắn tắt về chúng. Nhiều lý thuyết gia theo Marx sau này tiếp tục làm việc như thể chủ nghĩa tư bản vẫn còn y nguyên như vào thời của Marx.

          Chính trong bối cảnh như thế, chúng ta phải xem xét tác phẩm của Baran và Sweezy. Họ bắt đầu với một phê phán về khoa học xã hội Marxist vì sự lặp lại các công thức quen thuộc và vì sự thất bại trong việc giải thích các phát triển quan trọng gần đây trong xã hội tư bản. Họ cáo buộc lý thuyết theo Marx về sự đình trệ vì nó tiếp tục dựa vào một giả thiết về một nền kinh tế cạnh tranh. Một lý thuyết theo Marx hiện đại phải, theo quan điểm của họ, nhận ra rằng chủ nghĩa tư bản cạnh tranh đã gần như bị thay thế bời chủ nghĩa tư bản độc quyền.

          Một vấn đề trọng tâm đối với Baran và Sweeze là soi mói tận bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Chủ nghĩa tư bản độc quyền (monopoly Capitalism) có nghĩa là một, hoặc một vài nhà tư bản kiểm soát một bộ phận của nền kinh tế. Rõ ràng, có ít tính cạnh tranh hơn nhiều ở chủ nghĩa tư bản độc quyền so với CNTB cạnh tranh. Trong CNTB cạnh tranh, các tổ chức cạnh tranh trên cơ sở giá cả; nghĩa là, nhà tư bản cố bán nhiều hàng hóa bằng cách đưa ra giá thấp hơn. Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, các hãng không còn cạnh tranh theo lối đó, bởi vì một, hoặc một vài hãng kiểm soát cả một thị trường; sự cạnh tranh chuyển sang lĩnh vực buôn bán. Quảng cáo, bao bì, và các phương pháp khác để thu hút các khách tiêu thụ tiềm năng là các lĩnh vực chính của sự cạnh tranh.

            Sự vận động từ cạnh tranh giá cả sang buôn bán là một phần của một đặc tính quá trình khác của CNTB độc quyền – sự hợp lý hóa tiến trình (progressive rationalization). Sự  cạnh tranh giá cả đi đến chỗ bị xem là phi lý cao độ. Nghĩa là, từ một quan điểm của nhà tư bản độc quyền, đưa ra các giá cả ngày càng thấp có thể dẫn tới rối loạn thị trường, chưa nói đến lợi nhuận thấp đi và thậm chí đến chỗ bị phá sản. Cạnh tranh buôn bán, trái lại, không phải là một hệ thống cạnh tranh khốc liệt; thực tế, nó còn cung cấp công việc cho công nghệ quảng cáo. Hơn nữa, giá cả có thể giữ ở mức cao, với các trị giá bán ra và cổ đông đơn giản được cộng thêm vào giá cả. Nhờ vậy, cạnh tranh buôn bán ít có tính nguy cơ hơn nhiều so với cạnh tranh giá cả.

            Một khía cạnh chủ yếu khác  của chủ nghĩa tư bản độc quyền là sự gia tăng các công ty khổng lồ, với một số công ty lớn hơn kiểm soát phần lớn các bộ phận của nền kinh tế. Trong CNTB cạnh tranh, tổ chức bị kiểm soát bởi một mình ông chủ hãng. Công ty hiện đại bị làm chủ bởi một số lượng lớn cổ đông, nhưng một ít cổ đông lớn nắm giữ phần lớn cổ phần. Dù các cổ đông “làm chủ” công ty, những nhà quản lý thực hiện việc kiểm soát hàng ngày. Nhà quản lý là cốt lõi trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, trong khi các ông chủ hãng là cốt lõi trong chủ nghĩa tư bản cạnh tranh. Các nhà quản lý có quyền lực đáng kể, mà họ tìm cách duy trì. Họ thậm chí còn tìm sự độc lập tài chính đối với hãng của họ bằng cách cố gắng, càng nhiều càng tốt, để làm sản sinh ra bất kỳ khoản ngân quỹ nào họ cần hơn là dựa vào các nguồn ngân quỹ bên ngoài.

            Baran và Sweezy phê phán một cách cực đoan về quan điểm trung tâm của nhà quản lý công ty trong xã hội tư bản hiện đại. Các nhà quản lý được xem là các nhóm hợp lý cao được định hướng để tối đa hóa lợi nhuận của tổ chức. Do đó, họ không có xu hướng đánh liều vốn là đặc điểm của các ông chủ hãng thời trước. Họ có một viễn cảnh dài ngày hơn các ông chũ hãng. Trong khi các nhà tư bản thời sơ khai quan tâm tới lợi nhuận trong vòng luân chuyển ngắn,  các nhà quản lý hiện đại nhận ra rằng các nỗ lực như thế có thể có khả năng dẫn tới sự cạnh tranh giá cả hỗn loạn, có thể có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận lâu dài của hãng. Do vậy, nhà quản lý sẽ từ bỏ một số lợi nhuận ngắn ngày để tăng cường tối đa lợi nhuận dài hạn.

            Vấn đề trung tâm trong chủ nghĩa tư bản độc quyền là khả năng sinh sôi và sử dụng các giá trị thặng dư kinh tế của hệ thống. Giá trị thặng dư kinh tế (economic surplus) được xác định là sự chênh lệch giữa giá trị của sản phẩm mà xã hội sản xuất ra được và chi phí sản xuất nó. Do mối quan tâm của họ tới vấn đề thặng dư, Baran và  Sweezy rời bỏ mối quan tâm của Marx về sự bóc lột lao động và nhấn mạnh vào sự nối kết giữa kinh tế và các thể chế xã hội khác, nói riêng là sự thu hút thặng dư kinh tế của các thể chế này.

            Các nhà quản lý tư bản hiện đại là nạn nhân của chính thành công của họ. Một mặt, họ có khả năng ấn định giá cả một cách tùy tiện vị vị trí độc quyền của họ trong nền kinh tế. Mặt khác, họ tìm cách cắt giảm các chi phí trong tổ chức, đặc biệt là chi phí liên quan tới lao động cổ xanh (lao động phổ thông). Khả năng ấn định giá cao và cắt giảm phí tổn dẫn tới nâng cao giá trị thặng dư kinh tế.

            Vấn đề lúc này là nhà tư bản chạm trán với câu hỏi sẽ làm gì với giá trị thặng dư này. Một khả năng là tiêu thụ nó – trả cho các nhà quản lý các khoản lương khổng lồ và chi các phần cổ tức lớn cho các cổ đông, để số tiền đó biến thành sân vườn, xe Rolls Royces, châu báu nữ trang và trứng cá muối. Điều này được thực hiện tới một mức độ nhất định, nhưng giá trị thặng dư quá lớn đến nổi không bao giờ tiêu thụ được thậm chí một phần nhỏ của nó. Ở bất cứ trường hợp nào, sự tiêu thụ hiển hiện ra trước mắt là đặc tính của các ông chủ hãng cũ hơn là của các nhà quản lý và cổ đông hiện đại.

            Một sự lựa chọn thứ hai là đầu tư giá trị thặng dư vào những việc như cải tiến kỹ thuật và đầu tư nước ngoài. Hành động có vẻ có lý này, do các nhà quản lý tiến hành ở một mức độ nhất định, có một hạn chế chủ yếu là sự đầu tư như thế, nếu thực hiện một cách khôn ngoan, sản sinh ra giá trị thặng dư thậm chí lớn hơn. Điều này chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề sử dụng giá trị thặng dư kinh tế.

            Các nỗ lực gia tăng buôn bán có thể thu hút một số giá trị thặng dư. Các nhà tư bản hiện đại có thể kích thích nhu cầu đối với sản phẩm của họ bằng quảng cáo; bằng cách tạo lập và mở rộng các thị trường cho sản phẩm của họ; và bằng các công cụ như thay đổi kiểu dáng, tạo ra sự lỗi thời có trù tính, và bán hàng trả góp một cách dễ dàng. Tuy nhiên, lựa chọn này cũng có vấn đề. Đầu tiên, nó không thể thu hút hết giá trị thặng dư. Thứ hai, nó có vẻ còn kích thích sự mở rộng hơn nữa công ty, và, tới lượt việc này lại dẫn tới những cấp độ lớn hơn về giá trị thặng dư.

            Theo Baran và Sweezy, chọn lựa duy nhất còn lại là sự tiêu xài hoang phí. Giá trị thặng dư cần được tiêu phí, và có hai cách để làm điều này. Đầu tiên, là sự tiêu dùng của chính phủ phi quân sự trong việc duy trì hàng triệu người lao động trong các công việc của chính phủ và hỗ trợ cho vô số các chương trình của chính phủ. Thứ hai là tiêu dùng vào quân sự, bao gồm các khoản chi quân sự kinh khủng, và ngân sách hàng triệu đô la cho các trang bị đắt tiền nhanh chóng trở nên lỗi thời.

            Quan điểm của Barab và Sweezy có nhiều yếu kém. Chẳng hạn, nó có vẻ như thực sự không có cách nào tốt để rủ bỏ giá trị thặng dư, và có lẽ đó chính là quan điểm mà Baran và Sweetzy muốn thông tin. Nó dẫn tới chúng ta tới một ấn tượng rõ ràng rằng đây là một mâu thuẫn không thể giải quyết trong xã hội tư bản. Hiển nhiên mọi chi phí của các nhà tư bản dẫn tới yêu cầu lớn hơn và dẫn tới giá trị thặng dư lớn hơn. Chính phủ và những người lao công quân sự sử dụng tiền của họ vào nhiều hàng hoá hơn; khi một số trang thiết bị quân sự được sử dụng, sẽ có một nhu cầu đối với trang thiết bị mới và tốt hơn.

            Một phê phán khác có thể đưa ra đối với Baran và Sweetzy là họ đã nhấn mạnh thái quá đến sự hợp lý của các nhà quản lý. Herbert Simon, ví dụ, lập luận rằng các nhà quản lý quan tâm đến việc tìm (và chỉ có thể tìm) ra các giải pháp thoả đáng ở mức tối thiểu hơn là tìm ra các giải pháp hợp lý nhất và có lợi nhất. Một vấn đề khác là các nhà quản lý, trong thực tế, có phải là các nhân vật chủ chốt trong chủ nghĩa tư bản hiện đại không. Nhiều người cho rằng chính lực lượng cổ đông mới thật sự là thành phần kiểm soát hệ thống tư bản.

            Nói tóm lại, Baran và Sweetzy chấp nhận tiêu điểm kinh tế truyền thống của lý thuyết theo Marx và rồi đưa nó tới một hướng mới và quan trọng hơn. Cụ thể, họ chuyển tiêu điểm từ quá trình lao động sang các cấu trúc kinh tế của xã hội tư bản hiện đại. Bây giờ, chúng ta quay sang Braverman, người chịu ảnh hưởng bởi tác phẩm của Baran và Sweetzy nhưng tìm cách quay sang mối quan tâm của truyền thống theo Marx về quá trình lao động.

            Lao động và Tư bản độc quyền.  Harry Braverman coi quá trình lao động và sự bóc lột công nhân là trung tâm của lý thuyết theo Marx. Dù sự nhấn mạnh của ông khác với Baran và Sweetzy, ông xem tác phẩm của mình có mối ràng buộc chặt chẽ với tác phẩm của họ. Tựa đề của sách, Lao động và Tư bản độc quyền, phản ánh tiêu điểm chính của ông, và tiểu tựa của nó, Sự xuống cấp của lao động trong thế kỷ 20, cho thấy mối quan tâm của ông trong việc điều chỉnh viễn cảnh của Marx về các thực tiễn lao động trong thế kỷ 20.

            Braverman không chỉ định cập nhật mối quan tâm của Marx đối với lao động phổ thông, mà còn để kiểm tra cái đã xảy ra đối với các công nhân phục vụ và công nhân cổ áo trắng. Marx ít chú ý đến hai nhóm này, nhưng từ thời của ông đến nay, họ đã trở thành phạm trù nghề nghiệp chủ yếu cần phải chú ý đến một cách nghiêm túc cẩn thận. Liên quan đến tác phẩm của Baran và Sweetzy, có thể nói rằng một trong những phát triển chính trong chủ nghĩa tư bản độc quyền là sự suy tàn của các công nhân cổ áo xanh và sự gia tăng đồng thời của lực lượng công nhân cổ áo trắng và công nhân phục vụ trong việc
tham gia vào các tổ chức mang đặc tính cùa chủ nghĩa tư bản độc quyền.

            Phân tích của Braverman bắt đầu với một xem xét kỹ lưỡng định hướng của Marx. Ông làm rõ rằng các phê phán của ông đối với thế giới lao động đương thời không phản ánh một ao ước quay hiện tại trở về thời quá khứ. Ông nói rằng ông không lãng mạn hóa các nghề nghiệp thủ công thời xa xưa và “ các điều kiện lỗi thời của các kiểu lao động nay đã trở thành xưa cũ”. Cũng như Marx, Braverman, là một nhà phê phán không phải đối với tự thân khoa học và kỹ thuật mà đơn giản là cách thức mà chúng được sử dụng trong chủ nghĩa tư bản “như là thứ vũ khí thống trị trong việc tạo ra, duy trì và đào sâu một ngăn cách giữa các giai cấp trong xã hội”. Trong sự sử dụng của nhà tư bản, khoa học và kỹ thuật đã được vận dụng một cách có hệ thống để tước đoạt lao động từ truyền thống thủ công của nó mà không tạo ra bất cứ cái gì để thế chỗ nó. Braverman tin rằng trong những bàn tay khác (đó là chủ nghĩa xã hội), khoa học và kỹ thuật có thể được sử dụng một cách khác để tạo ra một thời đại nay chưa thành hiện thực, trong đó, đối với người lao động, nghề nghiệp thủ công thoả đáng nảy sinh từ ý thức và tinh thông nghề nghiệp nhiều hữu dụng của quá trình lao động sẽ được kết hợp với sự kỳ diệu của khoa học và sự tinh xảo của máy móc, một thời đại trong đó mọi người sẽ được hưởng phúc lợi, ở một mức độ nhất định, từ sự kết hợp này.

Hướng tới mục tiêu mở rộng phân tích của Marx từ những công nhân cổ áo xanh tới những công nhân cổ áo trắng và công nhân phục vụ, Braverman lý luận rằng khái niệm “giai cấp công nhân” không diễn tả một nhóm người hay nghề nghiệp cụ thể mà đúng hơn, nó là sự thể hiện của một quá trình mua và bán lực lượng lao động. Trong phạm vi quá trình này, Braverman lý luận rằng trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, có thể thấy rõ không một ai làm chủ các phương tiện sản xuất; do đó, nhiều người, trong đó bao gồm phần lớn công nhân cổ áo trắng và công nhân phục vụ, bị buộc phải bán lực lượng lao động của họ cho một ít người. Theo quan điểm của ông, sự kiểm soát và bóc lột tư bản, cũng như các quá trình pháí sinh của sự cơ giới hoá và hợp lý hoá, đang được mở rộng tới các nghề nghiệp cổ áo trắng và phục vụ, dù tác động của họ chúng chưa lớn như đối với các nghề nghiệp cổ áo xanh.

            Braverman đặt cơ sở phân tích của ông trên nhân loại học của Marx, đặc biệt là khái niệm của Marx về tiềm năng của con người. Braverman lý luận rằng mọi hình thức của đời sống cần tự duy trì chúng trong môi trường của chúng, nghĩa là, chúng cần làm cho tự nhiên thích ứng với các như cầu riêng của chúng. Lao động là quá trình qua đó tự nhiên bị biến đổi để nâng cao sự hữu ích của nó. Theo nghĩa này, thú vật cũng có lao động, nhưng cái làm con người trở nên cá biệt là ý thức của họ. Mọi người có một hệ thống các năng lực tinh thần mà các loài thú khác không có. Lao động của con người do vậy được định tính bởi một hợp nhất các khái niệm (tư duy) và sự thực hiện (hành động). Sự hợp nhất này có thể bị phá hủy, và chủ nghĩa tư bản là giai đoạn cốt lõi trong sự phá hủy sự hợp nhất giữa tư duy và hành động trong thế giới lao động.

            Một thành tố chủ yếu trong sự phá hủy này trong chủ nghĩa tư bản là sự mua bán lực lượng lao động. Nhà tư bản có thể mua các dạng lực lượng lao động nhất định chứ không phải là các dạng khác. Ví dụ, họ có thể mua lao động phổ thông và quả quyết rằng lao động trí óc nằm ngoài quá trình này. Dù điều trái ngược có thể xảy ra , nó dường như sẽ không xảy ra. Kết quả là chủ nghĩa tư bản được định tính bởi một sự gia tăng số lượng những lao động phổ thông và ngày càng ít các lao động trí óc. Điều này dường như trái với các số liệu thống kê, đã phản ánh một sự gia tăng lớn về lao động cổ áo trắng, được giả thiết là các nghề nghiệp thuộc về trí óc. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy, Braverman tin rằng nhiều nghề nghiệp cổ áo trắng đang bị vô sản hoá, tạo ra những khả năng phân biệt về nhiều cách với lao động phổ thông.

            Kiểm soát bằng quản trị. Braverman công nhận sự bóc lột kinh tế, tiêu điểm của Marx, nhưng tập trung hơn vào vấn đề kiểm soát. Ông đặt câu hỏi: “Các nhà tư bản kiểm soát lực lượng lao động mà họ thuê mướn ra sao? Một lời đáp là họ thực hiện sự kiểm soát như thế thông qua các nhà quản lý. Thực tế, Braverman mô tả sự quản trị là “một quá trình lao động được thực hiện vì mục đích kiểm soát trong phạm vi công ty”.

            Braverman tập trung vào các phương tiện phi cá nhân hơn được sử dụng bởi các  nhà quản lý để kiểm soát công nhân. Một trong những quan tâm chủ yếu của ông là sự  tận dụng chuyên biệt hoá để kiểm soát công nhân. Ở đây ông cẩn thận phân biệt giữa sự phân loại lao động trong xã hội ở nghĩa một tổng thể với sự chuyên biệt hoá lao động trong phạm vi công ty. Mọi xã hội đã biết đều có một sự phân loại lao động (ví dụ, giữa nam và nữ, nông dân và thợ thủ công vv..), nhưng sự chuyên biệt hoá lao động trong phạm vi tổ chức là một phát triển đặc biệt của chủ nghĩa tư bản, dù nó cũng xuất hiện trong các xã hội xã hội chủ nghĩa đang tồn tại. Braverman tin rằng sự phân loại lao động ở cấp độ xã hội có thể nâng cao cá thể, trong khi sự chuyên biệt hoá trong công xưởng có một ảnh hưởng tai hại đến việc tiểu phân các khả năng của con người: “Sự tiểu phân cá thể, khi thực hiện mà không kể đến các khả năng và nhu cầu của con người, là một tội ác chống lại cá nhân và chống lại nhân loại”.

            Sự chuyên biệt hoá trong công xưởng bao gồm các phân loại và tiểu phân loại công việc hay sự vận hành thành phút và các hoạt động chuyên biệt cao độ, mỗi hành động đó có vẻ được ấn định cho một công nhân khác. Quá trình này thiết lập sự tạo ra cái mà Braverman gọi là “các công nhân chi tiết”. Từ một loạt các khả năng mà bất cứ cá thể nào cũng sở đắc, các nhà tư bản chọn ra một số nhỏ mà công nhân sẽ sử dụng trong công việc. Như Breverman nhận xét, nhà tư bản đầu tiên phá vỡ quá trình lao động và rồi “chia cắt công nhân luôn” bằng cách đòi hỏi người công nhân chỉ sử dụng một bộ phận nhỏ của các kỷ năng và khả năng của họ. Theo cách nói của Braverman, công nhân “không bao giờ tự nguyện biến đổi bản thân họ thành một công nhân chi tiết suốt đời. Đây là đóng góp của chủ nghĩa tư bản”.

            Tại sao nhà tư bản làm như thế? Đầu tiên, nó gia tăng sự kiểm soát điều hành. Nó kiểm soát dễ dàng một công nhân đang làm một công việc cụ thể hơn là một người sử dụng một loạt các kỹ năng khác nhau. Thứ hai, nó gia tăng sức sản xuất. Nghĩa là, một nhóm công nhân thực hiện các công việc chuyên biệt hoá cao có thể sản xuất nhiều hơn số lượng nhân công tương đượng làm theo thủ công, mà trong đó mỗi người có tất cả các kỹ năng và thực hiện tất cả các hoạt động sản xuất. Ví dụ, các công nhân trong một dây chuyền tự động sản xuất nhiều xe hơn hơn một số lượng tương ứng những người làm thủ công khéo léo, mỗi người sản xuất ra chiếc xe của chính họ. Thứ ba, sự chuyên biệt hoá cho phép nhà tư bản trả lương ít nhất đối với lực lượng lao động cần có. Thay vì các công nhân thủ công lành nghề được trả lương cao, nhà tư bản có thể sử dụng các công nhân lương thấp, không lành nghề. Theo logic của chủ nghĩa tư bản, những người sử dụng lao động tìm cách tiếp tục giảm bớt giá trị lao động  của công nhân, mà kết quả là tạo ra một tập hợp lớn không phân biệt cái mà Breverman gọi là “lao động giản đơn”.

          Sự chuyên biệt hoá không phải là phương tiện hoàn hảo để kiểm soát của các nhà tư bản và các nhà quản lý trong việc sử dụng lao động. Một phương tiện quan trọng khác là kỹ thuật khoa học, bao gồm các nỗ lực như  cách quản trị khoa học, là một nỗ lực vận dụng khoa học đối với việc kiểm soát lao động với tư cách sự quản trị. Đối với Braverman, khoa học quản trị là khoa học về “cách thức tốt nhất để kiểm soát lao động bị tha hoá”. Khoa học quản trị được phát hiện ra trong một chuỗi giai đoạn hướng về việc kiểm soát lao động- tập trung nhiều công nhân vào một phân xưởng, áp đặt độ dài của ngày lao động, giám sát công nhân một cách trực tiếp để bảo đảm sự chuyên cần, các quy định bắt buộc chống các sự xao lãng (ví dụ nói chuyện) và thiết lập các cấp độ sản xuất tối thiểu có thể chấp nhận. Khoa học quản trị toàn diện đóng góp cho sự kiểm soát bằng “ sự áp đặt đối với công nhân về cách ứng xử chính xác trong đó công việc được thực hiện”. Ví dụ, Braverman thảo luận về tác phẩm thời đầu của F.W. Taylor về việc xúc than, đã dẫn ông ta tới việc phát triển các nguyên tắc về loại xẻng cần dùng, cách đứng, góc độ chiếc xẻng tiếp xúc với đống than, và lượng than xúc được trong mỗi cử động. Nói cách khác, Taylor phát triển các phương pháp bảo đảm hầu như sự kiểm soát hoàn toàn đối với quá trình lao động. Công nhân càng ít có những quyết định độc lập chừng nào càng tốt chừng ấy; như vậy, nhà quản lý đã đạt được một sự cách ly giữa tinh thần và tay chân. Sự quản trị sử dụng  tính độc quyền của nó về kiến thức lao động liên quan để kiểm soát từng bước của quá trình lao động. Cuối cùng, công việc tự bản thân nó còn lại mà không cần có bất cứ một kỹ năng khéo léo, nội dung hay kiến thức nào. Tính thủ công đã bị tiêu diệt hòan toàn.

            Braverman cũng xem máy móc như là một phương tiện để kiểm soát công nhân. Máy móc hiện đại tồn tại “khi công cụ và/hoặc công việc được giao là một con đường vận động được ấn định bởi cơ cấu của chính chiếc máy”. Kỹ năng được xây dựng cho chiếc máy hơn là để cho người công nhân thủ đắc. Thay vì kiểm soát quá trình lao động, công nhân đi đến chỗ bị kiểm soát bởi máy móc. Hơn nữa, đối với nhà quản trị, kiểm soát các máy móc dễ dàng hơn kiểm sóat công nhân nhiều.

            Braverman lý luận rằng thông qua các cơ cấu chuyên biệt hóa lao động, khoa học quản trị và các máy móc, khoa quản trị có khả năng mở rộng sự kiểm sóat của nó đối với những công nhân phổ thông. Dù đây là một nhận thức hữu ích, đặc biệt là sự nhấn mạnh vào kiểm sóat, đóng góp nổi bật của Braverman là nỗ lực của ông để mở rộng dạng phân tích này đối với các bộ phận của lực lượng lao động không được phân tích trong phần phân tích nguyên thủy của Marx về quá trình lao động. Braverman lý luận rằng các công nhân cổ áo trắng và công nhân phục vụ giờ đây đang trải qua các quá trình kiểm soát tương tự từng được sử dụng với những công nhân chân tay ở thế kỷ trước.

            Một trong những ví dụ của Braverman là các công nhân cổ áo trắng thư ký. Ở một giai đoạn, những người này được xem là một nhóm khác biệt với những công nhân cổ áo xanh bởi những thứ như trang phục, kỹ năng, sự đào tạo, các thành đạt nghề nghiệp. Tuy nhiên, ngày nay cảhai nhóm đều chịu cùng các phương tiện kiểm soát. Do vậy, việc phân biệt giữa nhà máy và văn phòng giống như nhà máy hiện đại trở nên khó khăn, khi các công nhân ở các văn phòng đang dần dần bị vô sản hóa. Chẳng hạn, công việc của công nhân thư ký trở nên ngày càng chuyên môn hóa. Điều này có nghĩa là, trong nhiều cái khác, các khía cạnh tinh thần và chân tay của công việc văn phòng đã bị cách biệt. Các nhà quản trị văn phòng, các kỹ sư, kỹ thuật viên giờ đây thực hiện các công việc tinh thần, trong khi đó các thư ký “chuyên ngành” không làm gì hơn ngoài các công việc chân tay như đánh máy, sắp xếp hồ sơ, bấm lỗ hồ sơ. Kết quả là cấp độ của các kỹ năng cần thiết cho các công việc đó đã bị hạ thấp hơn, và các công việc này đòi hỏi ít, hoặc không cần có sự đào tạo.

            Khoa học quản trị giờ đây cũng được xem là đang xâm lấn vào văn phòng. Các công việc thư ký đã được nghiên cứu một cách khoa học, và kết quả là chúng bị đơn giản hóa, thủ tục hóa và tiêu chuẩn hóa. Cuối cùng, sự cơ giới hóa bắt đầu tạo ra một sự thâm nhập quan trọng vào văn phòng, cơ bản là thông qua máy vi tính và các trang thiết bị gắn liền với máy vi tính.

            Bằng cách áp dụng các cơ cấu này vào công việc thư ký, các nhà quản lý thấy dễ dàng hơn trong việc kiểm soát những công nhân như thế. Có vẻ như các cơ cấu kiểm soát này không mạnh mẽ và hiệu quả bằng ở các nhà máy; nhưng xu hướng đang nghiêng về phía sự phát triển của “nhà máy” cổ áo trắng.

            Nhiều phê phán có thể đưa ra đối với Braverman. Chẳng hạn, ông đã dự báo một cách thái quá về mức độ giống nhau giữa công việc thư ký và công việc chân tay. Mặt khác, nỗi ám ảnh của ông về sự kiểm soát đã dẫn ông tới chỗ dành ít chú ý cho các động lực của sự bóc lột trong chủ nghĩa tư bản. Dù sao, ông đã làm phong phú thêm nhận thức của chúng ta về quá trình lao động trong xã hội tư bản hiện đại.

            Tác phẩm khác về lao động và tư bản.  Dù Braverman công nhận sự bóc lột kinh tế, vốn là tiêu điểm của Marx, ông đã tập trung, như chúng ta thấy, vào vấn đề kiểm soát bằng quản trị đối với công nhân. Vấn đề về kiểm soát thậm chí còn có tính chất trọng tâm hơn trong tác phẩm của Richard Edwards, cuốn Tranh chấp địa vị: Sự chuyển hóa vị trí lao động trong thế kỷ 20. Đối với Edwards, sự kiểm soát nằm ở trung tâm của sự chuyển hóa về vị trí lao động ở thế kỷ 20. Đi theo Marx, Edwards xem vị trí làm việc, cả ở quá khứ và hiện tại, như là một đấu trường của xung đột giai cấp, theo từ của ông dùng là “tranh chấp địa vị”. Trong phạm vi đấu trường này, các biến đổi sâu sắc đã diễn ra theo cách thức trong đó những người ở đỉnh kiểm soát những người ở đáy. Trong chủ nghĩa tư bản cạnh tranh thế kỷ 19, sự kiểm soát “giản đơn” được sử dụng, trong đó “các ông chủ thực hiện quyền lực về mặt cá nhân, sự can thiệp vào quá trình lao động thường thúc đẩy công nhân, ức hiếp và đe dọa họ, tưởng thưởng cho việc thực hiện tốt, thuê và đuổi việc ngay tại chỗ, cổ vũ các lao công trung thành, và nói chung hành động như là các bạo chúa hoặc kẻ nhân từ  hay cách khác”. Dù hệ thống kiểm soát này còn tiếp diễn trong nhiều  doanh nghiệp nhỏ, nó đã được chứng minh là quá thô thiển trong các tổ chức hiện đại, tầm cỡ lớn. Trong những tổ chức như thế, sự kiểm soát giản đơn có xu hướng bị thay thế bởi sự kiểm soát quan liêu, kỹ thuật, phi cá nhân và phức tạp hơn nhiều. Các công nhân hiện đại có thể bị kiểm soát bởi các kỹ thuật mà họ làm việc với chúng. Ví dụ cổ điển cho điều này là dây chuyền sản xuất tự động, trong đó hành động của người công nhân được quyết định bởi các yêu cầu không ngớt của dây chuyền. Một ví dụ khác là máy vi tính hiện đại, có thể lưu giữ các theo dõi cẩn thận bao nhiêu công việc đã được người công nhân thực hiện, và bao nhiêu lỗi anh ta đã phạm phải. Các công nhân hiện đại cũng bị kiểm soát bởi các nguyên tắc phi cá nhân của chế độ quan liêu bàn giấy hơn là sự kiểm soát cá nhân của các giám sát viên. Chủ nghĩa tư bản đang biến đổi không ngừng và mang theo cùng với nó các phương tiện để kiểm soát công nhân.

            Tác phẩm khác đáng chú ý là cuốn Thỏa thuận sản xuất: các biến đổi trong quá trình lao động dưới CNTB độc quyền của Michael Burawoy. Burawoy quan tâm đến vấn đề tại sao các công nhân trong một hệ thống tư bản làm việc quá vất vả. Ông phản đối sự giải thích của Marx rằng những công việc vất vả đó là kết quả của sự áp bức. Sự ra đời của các công đoàn lao động và các biến đổi khác đã loại bỏ một cách rộng rãi sự tùy tiện của lực lượng quản trị. “Sự áp bức riêng nó không còn có thể lý giải điều công nhân đã làm một khi họ đã tới khu sản xuất hàng hóa”. Đối với Burawoy, các công nhân, ít nhất là một bộ phận, thỏa thuận lao động năng nhọc trong hệ thống tư bản, và ít nhất là một phần của sự thỏa thuận đó được sản sinh ra trong nơi sản xuất.

            Chúng ta có thể minh họa cách tiếp cận của Burawoy bằng một khía cạnh của khảo sát của ông, các trò chơi mà công nhân chơi trên công việc, và nói chung hơn, các hoạt động phi thể thức mà họ phát triển. Phần đông các nhà phân tích xem đây là các nỗ lực của công nhân để giảm đi sự tha hóa và các bất mãn có liên quan đến công việc khác. Ngoài ra, các hành vi này thường được xem là các cơ cấu xã hội mà công nhân phát triển để cưỡng kháng lại sự quản trị. Ngược lại, Burawoy kết luận rằng những trò chơi này “thường là không độc lập mà cũng không chống đối lại sự quản trị”. Thực tế, “sự quản trị, ít nhất ở các cấp độ thấp, thực sự tham gia không chỉ vào việc tổ chức trò chơi, mà cả vào tính chất bắt buộc của các nguyên tắc của nó”. Thay vì cạnh tranh thách thức với sự quản trị, tổ chức, hoặc cuối cùng là hệ thống tư bản, các trò chơi này thực sự hỗ trợ chúng. Chẳng hạn, chơi trò chơi tạo ra sự nhất trí giữa các công nhân về các luật chơi, và nói chung hơn, với hệ thống của các quan hệ xã hội (ông chủ - nhà quản lý - công nhân) đã xác định các luật chơi. Hoặc là, vì các nhà quản lý và công nhân đều liên quan tới trò chơi, hệ thống các quan hệ xã hội đối kháng mà trò chơi được cho là phản ứng lại rất mơ hồ.

            Burawoy lý luận rằng các phương pháp tạo ra các cộng tác hành động và sự nhất trí như thế đạt hiệu quả trong việc lôi kéo sự cộng tác của công nhân trong việc theo đuổi lợi nhuận cao hơn nhiều so với sự áp bức (như đuổi việc những người không hợp tác). Cuối cùng, Burawoy tin rằng các trò chơi và các hoạt động phi thể thức khác đều là các phương pháp để lôi kéo công nhân chấp nhận hệ thống và khêu gợi sự cống hiến của họ để có lợi nhuận cao hơn.

            Tóm lại, các tác phẩm của Baran và Sweetzy, Braerman, Edwards và Burawoy thể hiện một sự quay trở lại tiêu điểm truyền thống theo Marx về bộ phận kinh tế.  Ở một cấp độ lý thuyết, chúng có giá trị trong việc phục hồi mối quan tâm vào nhân tố kinh tế cũng như việc cải tiến và làm cho nhận thức của chúng ta gần với thời đại hơn ở chiều kích này. Ngoài ra, họ là những nguồn quan trọng cho tư duy xã hội học và sự khảo sát các khía cạnh khác nhau của lao động và công nghiệp.

            Thuyết Ford và Thuyết Sau Ford

            Một trong những mối quan tâm nhất gần đây về định hướng kinh tế của các nhà Marxist là vấn đề chúng ta có đã chứng kiến, hoặc đang chứng kiến, một sự chuyển biến từ thuyết Ford sang thuyết Sau Ford không. Điều này có liên quan tới vấn đề rộng hơn là chúng ta có thực hiện một cuộc chuyển biến từ một xã hội hiện đại sang một xã hội hậu hiện đại không. Chúng tôi sẽ thảo luận vấn đề lớn này một cách khái quát (Chương 12), cũng như  cách thức trong đó nó được nói tới bởi các nhà  lý thuyết gia theo Marx đương thời (ở cuối chương này). Trong khi bạn đọc có thể muốn đọc tới các phần phù hợp, thảo luận  này có thể được đọc và hiểu mà không cần phải làm như thế.  Nói chung, thuyết Ford gắn liền với thời hiện đại, trong khi thuyết Sau Ford kết nối với một thời đại hậu hiện đại gần đây hơn. (Mối quan tâm của những người theo Marx đối với thuyết Ford  không mới, Gramsci đã xuất bản một tiểu luận về nó năm 1931).

            Thuyết Ford, tất nhiên, chỉ các tư tưởng, nguyên tắc và các hệ thống do Henry Ford sáng tạo ra. Ford nói chung được được ghi nhận cùng với sự phát triển của hệ thống sản xuất khổng lồ hiện đại, cơ bản thông qua sự tạo ra dây chuyền sản xuất tự động. Các đặc điểm sau đây có thể gắn liền với thuyết Ford:

·      Sự sản xuất đại trà các sản phẩm đồng nhất.
·      Sự sử dụng các kỹ thuật cứng nhắc như dây chuyền sản xuất.
·      Sự đi theo các chuỗi công việc được tiêu chuẩn hóa.
·      Các gia tăng về sản phẩm phát sinh từ “các phương pháp tiết kiệm thao tác cũng như sự giảm thiểu kỹ năng, sự  sâu sắc hóa và sự đồng nhất hóa về lao động”.
·      Sự ra đời  tất yếu của các tập hợp công nhân lớn và các công đoàn bàn giấy hóa.
·      Sự đàm phán của các công đoàn về các khoản lương không đổi gắn liền với sự gia tăng lợi nhuận và sản phẩm.
·      Sự tăng trưởng của một thị trường đối với các sản phẩm đồng nhất của các công nghệ sản xuất đại trà và sự đồng nhất tất yếu các kiểu mẫu tiêu dùng.
·      Một sự gia tăng lương, nhờ sự tổ chức công đoàn, dẫn tới một đòi hỏi tăng cao đối với sự gia tăng nguồn cung ứng các sản phẩm được sản xuất đại trà.
·      Một thị trường cho các sản phẩm được điều hành bởi các chính sách kinh tế vĩ mô của Keynesian, và một thị trường cho lao động được giải quyết bởi sự mặc cả tập thể do nhà nước giám thị.
·      Các thể chế giáo dục đại trà cung cấp các công nhân đại trà được nền công nghiệp đòi hỏi.

          Trong khi thuyết Ford tăng trưởng xuyên suốt thế kỷ 20, đặc biệt là ở Mỹ, nó lên tới đỉnh cao và bắt đầu suy tàn vào những năm 1970, nhất là sau cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973 và hệ quả là sự suy tàn của công nghiệp chế tạo xe hơi Mỹ và sự ra đời của đối thủ Nhật. Kết quả là người ta lý luận rằng chúng ta đang chứng kiến sự suy tàn của thuyết Ford và sự ra đời của thuyết Sau Ford, được định tính bởi những điều sau:

·      Sự giảm sút mối quan tâm vào các sản phẩm đại trà đi liền với sự gia tăng mối quan tâm vào các sản phẩm chuyên biệt hơn, đặc biệt là những thứ có kiểu dáng và chất lượng cao.
·      Nhiều sản phẩm chuyên biệt hơn đòi hỏi sự sản xuất ngắn hạn hơn, kết quả là tạo ra những hệ thống nhỏ hơn và có hiệu quả sản xuất hơn.
·      Nhiều nền sản xuất linh hoạt hơn tạo ra khả năng sinh lợi hơn bởi sự ra đời của các kỹ thuật mới.
·      Các kỹ thuật mới đòi hỏi rằng các công nhân, tới lượt họ, phải có nhiều kỹ năng khác nhau và được đào tạo tốt hơn, có tính trách nhiệm cao hơn và tự trị hơn.
·      Sự sản xuất phải được kiểm soát thông qua các hệ thống linh hoạt hơn.
·      Các chế độ quan liêu bàn giấy cứng nhắc, to lớn cần được thay đổi một cách sâu sắc để vận hành một cách linh hoạt hơn.
·      Các công đoàn quan liêu (và các đảng phái chính trị) không còn là đại diện thích hợp cho các quan tâm của lực lượng lao động mới, có tính phân biệt cao hơn.
·      Sự mặc cả tập thể phân tán thế chỗ cho các đàm phán tập trung.
·      Những người công nhân trở nên phân biệt hơn như mọi người và đòi hỏi các tiện nghi, phong thái sống, phương tiện hưởng thụ văn hóa khác biệt hơn.
·      Phúc lợi nhà nước phân tán không còn gặp các nhu cầu (ví dụ, sức khỏe, phúc lợi, giáo dục) của một cộng đồng dân cư khác nhau, và người ta đòi hỏi phải các thể chế khác biệt nhau, linh hoạt hơn.

Nếu cần phải tóm tắt sự chuyển biến từ thuyết Ford sang thuyết Sau Ford, có thể diễn tả nó như là sự chuyển dịch từ  tính đồng nhất sang tính hỗn tạp. Ở đây có hai vấn đề chung có liên quan. Đầu tiên, một sự chuyển biến từ thuyết Ford sang thuyết Sau Ford đã thực sự diễn ra. Thứ hai, thuyết Sau Ford có chối bỏ niềm hy vọng giải quyết các vấn đề gắn liền với thuyết Ford hay không?

Trước hết, tất nhiên, không có một sự thay đổi lịch sử rõ ràng giữa thuyết Ford và thuyết Sau Ford. Ngay cả khi chúng ta sẵn sàng thừa nhận rằng các nguyên tố của thuyết Sau Ford đã nảy sinh trong thế giới hiện đại, cũng rõ ràng không kém rằng các nguyên tố của thuyết Ford vẫn còn và chưa có dấu hiệu gì biến mất. Ví dụ, một thứ mà chúng ta vẫn gọi là “Chủ nghĩa Mac Donald”, một hiện tượng có rất nhiều điểm chung với thuyết Ford, đang tăng trưởng ở một tốc độ đáng ngạc nhiên trong xã hội đương thời.  Trên cơ sở của kiểu mẫu của nhà hàng ăn liền, ngày càng nhiều các bộ phận của xã hội tới đó để tận dụng các nguyên tắc của chủ nghĩa McDonald. Chủ nghĩa McDonald có nhiều đặc tính của thuyết Ford - các sản phẩm đồng nhất, các kỹ thuật cứng nhắc, các tập quán lao động tiêu chuẩn hóa, sự giảm thiểu kỹ năng, sự đồng nhất hóa lao động (và khách hàng), công nhân đại trà, sự đồng nhất hóa việc tiêu dùng, vv… Như vậy, thuyết Ford vẫn còn sống và sống tốt trong thế giới hiện đại, dù nó đã được biến hóa một cách kỳ ảo thành chủ nghĩa McDonald. Hơn nữa, thuyết Ford cổ điển, ví dụ, dưới hình thức của dây chuyền sản xuất - vẫn còn là một hiện diện quan trọng trong nền kinh tế Mỹ.

Thứ hai, ngay khi chúng ta chấp nhận ý tưởng rằng thuyết Sau Ford đang đi cùng với chúng ta, nó có đề ra một giải pháp cho các vấn đề của xã hội hiện đại không? Một số nhà tân Marxist (và nhiều người ủng hộ của hệ thống tư bản) không chối bỏ niềm hy vọng đối với nó: “Thuyết Sau Ford chủ yếu là một thể hiện niềm hy vọng rằng tương lai phát triển của tư bản sẽ là sự cứu vớt của xã hội dân chủ”. Tuy nhiên, đây chỉ đơn giản là một niềm hy vọng, và trong bất cứ trường hợp nào, đã có sẵn một chứng cứ rằng Thuyết Sau Ford có thể không phải là niềm hy vọng đến cõi niết bàn của một số nhà quan sát.

            Kiểu của người Nhật được tin một cách rộng rãi là cơ sở của thuyết Sau Ford. Tuy nhiên, khảo sát về công nghệ Nhật và các công nghệ Mỹ sử dụng các kỹ thuật quản trị của Nhật cho thấy rằng có những vấn đề lớn đối với các hệ thống này, rằng chúng thậm chí còn đẩy cao thêm mức độ bóc lột công nhân. Paker và Slaughter gọi hệ thống của Nhật như được sử dụng ở Mỹ (và hẵn là nó còn tệ hơn thế ở Nhật) là “sự quản trị bằng sức ép” :  “Mục tiêu là dán lại hệ thống như một miếng băng cao su đắp lên chỗ bị vỡ”. Trong những điều khác, lao động bị đẩy nhanh tốc độ thậm chí còn hơn nhiều so với truyền thống dây chuyền sản xuất của Mỹ, đặt những kềm hãm kinh khủng lên những người công nhân, những kẻ cần lao động một cách anh dũng để theo kịp dây chuyền. Tổng quát hơn, Levidow mô tả các công nhân mới thời thuyết Sau Ford là “ bị gây áp lực một cách tàn nhẫn để gia tăng sức sản xuất của họ, và thường là đổi lại bằng các khoản lương thực sự thấp - họ là những công nhân nhà máy, người làm việc ở nhà trong ngành may mặc, các lao cộng giúp việc tư nhân hay thậm chí cả các giảng viên kỹ thuật”. Như vậy, rất có thể là thay vì đưa ra một giải pháp đối với các vấn đề của chủ nghĩa tư bản, thuyết Sau Ford chỉ đơn giản có thể là một giai đoạn mới, xảo quyệt hơn trong việc nâng cao sự bóc lột công nhân của các nhà tư bản.

            CHỦ NGHĨA MARX ĐỊNH HƯỚNG LỊCH SỬ

            Nhiều nhà Marxist có định hướng nghiên cứu lịch sử. Trong việc đi theo định hướng này, họ lý luận rằng họ theo đúng mối quan tâm của thuyết Marxian đối với tính chất lịch sử của sự kiện. Đáng chú ý nhất về nghiên cứu lịch sử của Marx là một nghiên cứu về các hình thái kinh tế tiền tư bản. Có nhiều tác phẩm mang tính lịch sử sau này từ một viễn cảnh theo Marx. Trong phần này, chúng tôi điểm qua một thể loại tác phẩm đã phản ánh một định hướng lịch sử - tác phẩm của Immanuel Wallerstein, khảo sát về hệ thống thế giới hiện đại. Dù ở nhiều mặt không mang tính điển hình của một học thuật lịch sử Marxian, tác phẩm này có một vài ảnh hưởng quan trọng trong xã hội học đương thời.

Hệ thống thế giới hiện đại

Wallerstain chọn một đơn vị phân tích không giống như phần lớn các tư tưởng gia Marxian khác thường dùng. Ông không nhìn vào công nhân, các giai cấp, hay thậm chí các nhà nước, vì ông thấy phần lớn chúng quá hẹp đối với mục đích của ông. Thay vì thế, ông nhìn vào một thực thể kinh tế rộng hơn với một sự phân chia lao động không bị giới hạn bởi các biên giới chính trị hay văn hóa. Ông tìm ra đơn vị đó trong khái niệm của mình về hệ thống thế giới hiện đại, là một hệ thống xã hội độc lập trên quy mô lớn với một tập hợp các ranh giới và một vòng đời có thể xác định được; nghĩa là, nó không tồn tại mãi mãi. Nó bao gồm bên trong một loạt các cấu trúc xã hội và các nhóm thành viên. Tuy nhiên, Wallerstein không có xu hướng xác định hệ thống này trong phạm vi một sự liên ứng đã kết nối nó lại. Hơn thế, ông xem hệ thống được nối kết với nhau bởi nhiều lực lượng khác nhau mà đặc tính cố hữu là sự căng thẳng. Các lực lượng này luôn luôn có tiềm năng để xé lẻ hệ thống thành từng phần.

          Hệ thống thế giới là một khái niệm rất trừu tượng; thực tế, Wallerstein chỉ đưa ra nó ở cuối cuốn sách đầu tiên của ông, sau khi ông đã thảo luận mọi chi tiết lịch sử cần thiết cho sự trình bày nó. Ông lý luận rằng cho tới nay chúng ta chỉ có hai kiểu hệ thống thế giới. Một là đế quốc thế giới, mà La Mã cổ đại là một ví dụ. Kiểu kia là một nền kinh tế tư bản thế giới hiện đại. Một đế quốc thế giới dựa trên nền tảng thống trị về chính trị (và quân sự), trong khi một nền kinh tế tư bản thế giới hiện đại dựa trên sự thống trị về kinh tế. Một nền kinh tế tư bản thế giới được xem là có tính bền vững hơn một đế quốc thế giới vì nhiều lý do. Chẳng hạn, nó có một cơ sở rộng hơn, vì nó bao gồm nhiều nhà nước. Hoặc là, nó có một quá trình xây dựng về kinh tế mang tính bền vững. Các thực thể chính trị cách biệt trong kinh tế tư bản thế giới thẩm thấu bất kỳ sự mất mát nào xảy ra, trong khi thành tựu kinh tế được phân phối tới những bàn tay riêng. Wallerstein dự kiến khả năng của một hệ thống thế giới thứ ba, một chính phủ thế giới xã hội chủ nghĩa (socialist world government). Trong khi hệ thống tư bản thế giới hiện đại cách ly chính trị khỏi kinh tế, một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thế giới có thể tái hòa hợp chúng.

            Để định hướng bạn đọc về thảo luận lịch sử sau đây, chúng tôi xin giới thiệu các khái niệm Wallerstein đã phát triển, diễn tả các phân bố địa lý của lao động trong hệ thống thế giới-là mối quan tâm lớn nhất của ông: nền kinh tế tư bản thế giới (the capitalist world-economy) - trung tâm (the core); vùng ngoại biên (periphery) và bán ngoại biên (semiperiphery). Nói chung, khu vực địa lý trung tâm thống trị nền kinh tế thế giới và bóc lột phần còn lại của hệ thống. Vùng ngoại biên bao gồm các khu vực cung cấp các chất liệu sống cho trung tâm và bị nó bóc lột nặng nề. Vùng bán ngoại biên là một phạm trù thặng dư bao gồm một tập hợp các khu vực nằm đâu đó giữa cái bóc lột và cái bị bóc lột. Điểm chủ chốt ở đây là đối với Wallerstein, sự phân bố quốc tế về bóc lột được xác định không phải bởi các biên giới nhà nước mà bởi sự sự phân bố lao động trên thế giới.

            Trong tập đầu tiên về hệ thống thế giới, Wallerstein xử lý nguồn gốc của hệ thống thế giới ước chừng vào khoảng giữa năm 1450 và năm 1640. Tầm quan trọng của sự phát triển này là sự chuyển từ sự thống trị về chính trị (và do đó về quân sự) sang thống trị về kinh tế. Wallerstein xem kinh tế là phương tiện thống trị hữu hiệu và ít sơ khai hơn chính trị rất nhiều. Các cấu trúc chính trị rất nặng nề, trong khi sự bóc lột kinh tế “làm trở thành khả dĩ việc gia tăng dòng chảy giá trị thặng dư từ tầng lớp thấp lên tầng lớp cao, từ vùng ngoại biên về trung tâm, từ vùng thứ yếu về vùng chủ yếu”. Trong kỷ nguyên hiện đại, chủ nghĩa tư bản cung cấp một nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển một nền kinh tế thế giới; điều này đã thành tựu mà không cần sự trợ giúp của một cấu trúc chính trị hợp nhất. Chủ nghĩa tư bản có thể xem như là một sự thay thế về kinh tế cho sự thống trị về chính trị. Nó có khả năng tốt hơn để tạo ra giá trị thặng dư kinh tế hơn là các kỹ thuật sơ khai được sử dụng trong bóc lột bằng chính trị.

          Wallerstein lý luận rằng ba việc cần thiết cho sự ra đời của kinh tế tư bản thế giới từ “đống đổ nát” của đế quốc chủ nghĩa là: sự mở rộng về địa lý thông qua bóc lột và thực dân, sự phát triển các phương pháp khác nhau về kiểm soát lao động đối với các khu vực (ví dụ, trung tâm, ngoại biên)  của kinh tế thế giới, và sự phát triển của các nhà nước hùng mạnh sẽ trở thành các nhà nước trung tâm của kinh tế tư bản thế giới đang nảy sinh. Chúng ta hãy lần lượt nhìn vào các việc này.

            Sự mở rộng về địa lý. Wallerstein lý luận rằng sự mở rộng địa lý bởi các quốc gia là một tiền đề cho hai giai đoạn khác. Bồ Đào Nha nắm vai trò dẫn đầu trong khai thác trên biển, và các quốc gia Châu Âu khác theo sau. Wallerstein thận trọng khi nói về các quốc gia cụ thể hay về Châu Âu trong phạm vi chung. Ông thích xem sự mở rộng trên vùng biển được gây ra bởi một nhóm người hành động vì các mối quan tâm ngay tức thời của họ. Các nhóm ưu tú, như  các tầng lớp quý tộc, cần có sự mở rộng trên vùng biển vì các lý do khác nhau. Chẳng hạn, họ đang đối mặt với một cuộc chiến tranh giai cấp nảy sinh do sự sụp đổ giai cấp phong kiến. Sự buôn bán nô lệ cung cấp cho họ một lực lượng lao động có thể truy nguyên gốc tích để từ đó xây dựng một hệ thống tư bản. Sự mở rộng cũng cung cấp cho họ nhiều tiện nghi cần thiết để phát triển nó - vàng thoi, thực phẩm, những loại nguyên vật liệu.

            Sự phân bố lao động trên toàn thế giới.  Một khi thế giới đã thực hiện mở rộng về địa lý, nó được chuẩn bị cho giai đoạn kế tiếp, sự phát triển của một phân bố lao động trên phạm vi toàn thế giới. Ở thế kỷ 16, chủ nghĩa tư bản thay thế cho chủ nghĩa quốc gia như là kiểu thống trị chủ yếu của thế giới, nhưng chủ nghĩa tư bản không phát triển một cách đồng đều khắp thế giới. Thực tế, Wallerstein lý luận, sự thống nhất của hệ thống tư bản cuối cùng là dựa vào sự phát triển không đồng đều của nó. Đưa ra định hướng theo Marx của mình, Wallerstein không nghĩ về nó như là một sự cân bằng liên ứng mà đúng hơn là một cân bằng chất chứa xung đột ngay từ đầu. Các bộ phân khác nhau của hệ thống tư bản thế giớiđi đến chỗ chuyên biệt hóa các chức năng riêng biệt - lực lượng lao động chăn nuôi, trồng trọt thức phẩm, cung cấp nguyên vật liệu, và công nghiệp tổ chức. Hơn nữa, các khu vực khác nhau đi đến chỗ bị chuyên biệt hóa trong việc sản sinh ra các kiểu lao động đặc thù. Ví dụ, Châu Phi sản xuất nô lệ; Tây Âu và Nam Âu có nhiều tiểu nông; Tây Âu cũng là trung tâm của lao động ăn lương, giai cấp cầm quyền, các tổ chức giám sát và tổ chức kỹ năng khác.

            Nói chung hơn, từng bộ phận của phân bố lao động quốc tế có xu hướng khác biệt trong phạm vi kiểu kiểm soát lao động. Vùng trung tâm có lao động tự do; vùng ngoại biên được định tính bởi lao động cưỡng bức; và vùng bán ngoại biên là trung tâm của sự lĩnh canh. Thực tế, Wallerstein lý luận rằng điều chủ chốt đối với chủ nghĩa tư bản nằm ở một trung tâm được thống trị bởi một thi trường lao động tự do đối với các công nhân lành nghề và một thị trường lao động cưỡng bức đối với các công nhân kém lành nghề hơn ở vùng ngoại biên. Một sự kết hợp như thế là bản chất của chủ nghĩa tư bản. Nếu một thị trường lao động tự do phát triển khắp thế giới, chúng ta sẽ có chủ nghĩa xã hội.

          Một số khu vực của thế giới bắt đầu với những thuận lợi nhỏ bé ban đầu, được lấy làm cơ sở để phát triển các thuận lợi lớn hơn sau đó. Khu vực trung tâm ở thế kỷ 16, cơ bản là Tây Âu, nhanh chóng mở rộng các thuận lợi của nó khi các thị trấn phồn thịnh, các công nghệ phát triển, và cơ khí bắt đầu quan trọng. Nó cũng vận động để mở rộng lãnh địa của nó bằng cách phát triển một loạt các hoạt động khác nhau. Cùng lúc đó, mỗi một hoạt động của nó trở nên chuyên biệt hóa để sản xuất hiệu quả hơn. Trái lại, vùng ngoại biên vẫn đình trệ và đi về phía cái mà Wallerstein gọi là một “nền văn hóa một chiều” hay một xã hội đơn điệu, không có gì nổi bật.

            Sự phát triển của các nhà nước trung tâm.  Giai đọan thứ ba của sự phát triển của hệ thống thế giới có liên quan đến phần chính trị: cách thức các nhóm kinh tế khác nhau sử dụng các cấu trúc nhà nước để bảo vệ và tăng tiến các mối quan tâm của chúng. Các chế độ quân chủ tuyệt đối tăng lên ở Châu Âu đồng thời với sự phát triển của tư bản chủ nghĩa. Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, các nhà nước là các tác nhân hành động kinh tế trọng tâm của Châu Âu, dù trung tâm này sau đó chuyển sang các tập đoàn kinh tế. Các nhà nước hùng mạnh ở các khu vực trung tâm đóng vai trò chủ yếu trong sự phát triển tư bản chủ nghĩa và cuối cùng cung cấp một cơ sở kinh tế cho tiền đề riêng của chúng. Các nhà nước Châu Âu tự củng cố trong thế kỷ 16 bằng cách, trong những chuyện khác, phát triển và mở rộng các hệ thống quan liêu và tạo ra sự độc quyền về lực lượng trong xã hội, cơ bản bằng cách phát triển quân đội và thể chế hóa các hoạt động của họ để họ có thể bảo đảm sự bền vững nội bộ. Trong khi các nhà nước phát triển các hệ thống chính trị vững mạnh, vùng ngoại biên phát triển một cách tương ứng các nhà nước yếu kém.

            Trong cuốn Hệ thống thế giới hiện đại II, Wallerstein chọn ra giai đoạn củng cố kinh tế-thế giới giữa 1600 và 1750. Đây không phải là thời kỳ của một sự mở rộng quan trọng của kinh tế-thế giới Châu Âu, nhưng có một số biến đổi quan trọng trong hệ thống đó. Ví dụ, Wallerstein thảo luận về sự ra đời và sự sụp đổ sau đó trong trung tâm của Hà Lan. Sau đó, ông phân tích sự xung đột giữa hai nhà nước trung tâm, Anh và Pháp, cũng như chiến thắng sau cùng của Anh. Ở vùng ngoại biên, các mô tả chi tiết của Wallerstein bao gồm chu kỳ may mắn của vùng Châu Mỹ thuộc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Ở vùng bán ngoại biên, chúng ta chứng kiến, trong những chuyện khác, sự sụp đổ của Tây ban Nha và sự ra đời của Thụy Điển. Wallerstein tiếp tục phân tích lịch sử của mình từ một quan điểm theo Marx về các vai trò khác nhau của nhiều xã hội khác nhau trong phạm vi phân bố lao động của nền kinh tế thế giới. Dù ông có sự chú ý gần gũi vào các yếu tố chính trị và xã hội, tiêu điểm chính của ông vẫn là vai trò của các yếu tố kinh tế trong lịch sử thế giới.

            Trong tác phẩm gần đây nhất của ông, Wallerstein đưa phân tích lịch sử của ông tới những năm 1840. Wallerstein nhìn vào ba phát triển lớn trong thời kỳ từ 1730 tới 1840-Cuộc cách mạng công nghệ (chủ yếu ở Anh), cách mạng Pháp, và sự độc lập của các thuộc địa Châu Âu trước đây ở Mỹ. Theo quan điểm của ông, không có biến đổi nào trong số này là các thách thức đối với hệ thống tư bản hiện đại; thay vì vậy, chúng thể hiện “sự củng cố và cố thủ hơn nữa” của nó.

          Wallerstein tiếp tục phân tích cuộc đấu tranh giữa Anh và Pháp để thống trị trung tâm.  Trong khi hệ thống thế giới bị trì trệ trong thời kỳ trước của phân tích, giờ đây nó mở rộng, và Anh Quốc có khả năng công nghiệp hóa nhanh chóng hơn và đi đến chỗ thống trị các công nghệ vĩ mô. Sự chuyển quyền thống trị sang Anh đã diễn ra mặc dù sự kiện là trong thế kỷ 18 Pháp đã thống trị lĩnh vực kinh tế. Cách mạng Pháp đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của hệ thống tư bản thế giới, đặc biệt bằng cách giúp mang các tàn dư văn hóa đã lung lay của chủ nghĩa phong kiến đến điểm kết thúc và mang hệ thống ý thức hệ-văn hóa vào cùng hàng với các thực thể kinh tế và chính trị. Tuy nhiên, cách mạng đã giới hạn sự phát triển công nghệ ở Pháp, kế tiếp là chế độ Napoleon và các cuộc chiến xảy ra. Vào lúc kết thúc thời kỳ này, “Anh Quốc cuối cùng đã thực sự lãnh đạo hệ thống thế giới”.

            Giai đoạn giữa 1750 và 1850 được đánh dấu bởi sự sáp nhập của hai khu vực lớn mới (tiểu lục địa Ấn Độ, đế quốc Ottoman và Nga, và Tây Phi) vào vùng ngoại biên của nền kinh tế-thế giới. Các khu vực này là một bộ phận của cái mà Wallerstein gọi là “khu vực bên ngoài” của hệ thống thế giới và do vậy đã được nối kết, nhưng không nằm trong hệ thống đó. Các khu vực bên ngoài là các khu vực mà từ đó nền kinh tế tư bản thế giới muốn các hàng hóa nhưng có thể cản trở sự  xuất nhập khẩu qua lại của những hàng hóa sản xuất từ các quốc gia trung tâm. Kết quả là có sự sáp nhập của các khu vực bên ngoài này, các quốc gia ngay sát bên các quốc gia trước kia từng là khu vực bên ngoài cũng được rút vào hệ thống thế giới. Như vậy, sự sáp nhập của Ấn Độ làm cho Trung Quốc trở nên một bộ phận của vùng ngoại biên. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 10, tốc độ sáp nhập tăng nhanh, và “toàn cầu, ngay cả các khu vực chưa hề là bộ phận của thậm chí khu vực bên ngoài của kinh tế-thế giới cũng được kéo vào trong hệ thống”.

            Áp lực của sự hợp nhất vào kinh tế thế giới đến không phải từ các quốc gia được hợp nhất, nhưng “ đúng hơn là từ  nhu cầu của kinh tế-thế giới để mở rộng các biên giới của nó, một nhu cầu tự bản thân nó là hậu quả của áp lực nội tại đối với kinh tế-thế giới”. Hơn nữa, quá trình hợp nhất không phải là một quá trình đột ngột mà nó diễn ra từ từ.

            Phản ánh tiêu điểm theo Marx của ông về kinh tế, Wallerstein lý luận rằng việc trở thành bộ phận của kinh tế-thế giới “nhất thiết” phải có nghĩa là các cấu trúc chính trị của các quốc gia liên quan phải trở nên bộ phận của hệ thống liên nhà nước. Như vậy, các nhà nước trong các khu vực hợp nhất phải hoặc là tự chyển hóa thàn bộ phận hệ thống chính trị liên nhà nước đó, hoặc là bị thay thế bởi các hình thái chính trị mới sẵn sàng chấp nhận vai trò này. Các nhà nước nảy sinh ở cuối quá trình hợp nhất phải không chỉ là bộ phận của hệ thống liên nhà nước mà còn phải đủ mạnh để bảo vệ nền kinh tế của chúng khỏi sự can thiệp bên ngoài. Tuy nhiên, chúng không được mạnh quá; nghĩa là, chúng không được trở nên hùng mạnh đủ để có thể từ chối hành động theo mệnh lệnh của nền kinh tế tư bản thế giới.

            Cuối cùng, Wallerstein kiểm chứng sự độc lập của Châu Mỹ giữa 1750 và 1850. Nghĩa là ông liệt kê các sự kiện rằng Châu Mỹ đã tự giải phóng khỏi vòng kiểm soát của Anh, Pháp, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha. Sự độc lập này, đặc biệt là ở Mỹ, tất nhiên, đã có ảnh hưởng lớn đến các phát triển sau này trong hệ thống tư bản thế giới.

            Lý thuyết hệ thống thế giới ngày nay.  Các nhà Marxist đã phê phán viễn cảnh hệ thống thế giới vì sự thất bại của nó trong việc nhấn mạnh một cách tương xứng các mối quan hệ giữa các giai cấp. Theo quan điểm của họ, Wallerstein đã tập trung vào vấn đề không đúng. Đối với những người Marxist, vấn đề chính yếu không phải là sự phân bố lao động quốc tế ở vùng trung tâm-ngoại biên, mà đúng hơn là các mối tương quan giai cấp trong lòng các xã hội đưa ra. Bergesen tìm cách điều hòa các quan điểm này bằng cách lý luận rằng có những chỗ mạnh và chỗ yếu của cả hai phía. Quan điểm trung lập của ông là cho rằng các quan hệ trung tâm-ngoại biên không chỉ là các quan hệ trao đổi bất bình đẳng mà còn là các quan hệ giai cấp toàn cầu. Quan điểm chính của ông là các quan hệ trung tâm-ngoại biên là quan trọng, không chỉ ở ý nghĩa các quan hệ trao đổi, mà quan trọng hơn, ở cả ý nghĩa là các quan hệ phụ thuộc về lực lượng, tức đó là các quan hệ giai cấp.

            Gần đây hơn, các lý thuyết gia hệ thống-thế giới đã đẩy lý thuyết về phía trước để xử lý vấn đề thế giới ngày nay và trong những năm sắp tới., cũng như  kéo lùi lại trước kỷ nguyên hiện đại. Chúng ta hãy khép lại phần này với một vài ý tưởng của Wallerstein về  quá khứ và tương lai gần đây.

          Ông lý luận rằng Mỹ là lực lượng lãnh đạo trong hệ thống-thế giới từ 1945 cho tới 1990. Mỹ đạt được quyền lãnh đạo với kết thúc của Thế chiến II nói chung, và cụ thể hơn với Hội nghị Yalta và chính sách cấm vận của Liên Xô. Trong khi chính sách cấm vận dẫn tới một quân đội còn nguyên hiện trạng trong 45 năm kế tiếp, nó cũng có những quan hệ mật thiết đối với hệ thống kinh tế thế giới. Liên Xô chấp nhận ý tưởng rằng nó đã không đòi hỏi, mà cũng không nhận sự  hỗ trợ kinh tế của Mỹ. Do vậy, Liên Xô trở nên lực lượng kinh tế thứ hai, và trong quá trình này, lại trợ giúp cho vị trí kinh tế của Mỹ theo nhiều cách (ví dụ, Mỹ không phải rót tiền cho Liên Xô).

            Một ẩn ý khác trong quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô là cả hai phía đều được phép lớn tiếng chỉ trích nhau. Sự chỉ trích đa phương này, tới lượt nó, cho phép cả hai phía sử dụng sự kiểm soát nội bộ  mạnh mẽ, đặc biệt đối với “cánh tả”, hay, “tất cả những ai muốn đặt vấn đề một cách nhanh chóng về trật tự thế giới đang tồn tại, về nền kinh tế tư bản thế giới  đang hồi sinh và hưng thịnh dưới sự lãnh đạo của Mỹ với sự câu kết của cái có thể gọi là đại diện tiểu đế quốc của nó, Liên Xô”.

            Một ẩn ý thứ ba của “quan hệ” giữa hai siêu lực lượng là các sự kiện trong Thế giới thứ ba không được phép quấy nhiễu  hiện trạng về kinh tế và chính trị của thế giới.

            Trước 1960, Mỹ có vẻ đã đạt được các đối tượng của nó và đang đứng dạng chân trên hệ thống thế giới, nhưng các dấu hiệu rắc rối cũng bắt đầu tăng lên— đẩy lên nhận thức về khoảng cách giữa giàu và nghèo cả ở Mỹ và phần còn lại của thế giới, các dấu hiệu đầu tiên là Tây Âu và Nhật đã bắt kịp Mỹ về kinh tế, sự gia tăng các cuộc nổi loạn ở Thế giới thứ ba (và sự gia tăng giá phải trả), giá phải trả về kinh tế cho chiến tranh Việt Nam, vv…

            Wallerstein xem những biến đổi này lên đến tột điểm vào năm 1968, trong một loạt các cuộc khởi nghĩa khắp toàn thế giới: “Sự bùng nổ trên phạm vi toàn thế giới năm 1968… tiếp tục khoảng ba năm hơn hoặc kém cho tới khi ngọn lửa cuồng nhiệt đã bị đặt dưới vòng kiểm soát bởi các lực lượng duy trì hệ thống thế giới”. Nhưng đó là một thắng lợi phải trả giá đắt, và cái giá của nó bị phóng đại lên bởi sự đình trệ kéo dài của nền kinh tế-thế giới. Mỹ bị đẩy lên tàu trong một cuộc suy thoái dài 20 năm mà nó chỉ có thể là nguồn gốc một phần nào. Về phần mình, Liên Xô tự nó thấy không thể duy trì “đế chế giả tạo” của nó thêm nữa và buộc phải bắt đầu phá hủy nó. Do vậy, Wallerstein kết luận, “Những ngày hoàng kim của Mỹ đã qua. Những giàn giáo cột trụ đã bị phá hủy”.

            Còn tương lai ra sao? Trong khi kinh tế Mỹ đang xuống dốc, “có quá nhiều mỡ trong một lực lượng thống trị, và người ta có thể sống bên ngoài lớp mỡ đó trong 50-100 năm”. Wallerstein nhìn thấy sự nảy sinh một đại tập đoàn kinh tế Mỹ-Nhật, nhưng nó là một đại tập đoàn trong đó Mỹ sẽ là thành viên thứ yếu. Mỹ sẽ tái khôi phục quyền lực chính trị và kinh tế của nó, nhưng “về mặt tâm lý học cuộc suy thoái sẽ rất kinh khủng”. Nghĩa là, người Mỹ đã quen với việc đứng đầu trong hệ thống thế giới, và họ sẽ trải qua một thời gian khó khăn để điều chỉnh lại với một vị trí ít được đề cao hơn.

            Trông về phía trước, Wallerstein thấy có một sự tái cơ cấu chủ yếu của hệ thống thế giới trong 50 năm tới. Sự căng thẳng sẽ là giữa Bắc bán cầu ăn nên làm ra và Nam bán cầu ngày càng có nhiều bất lợi, và sự lựa chọn sẽ là tái cấu trúc theo hướng áp bức hoặc tái cấu trúc theo hướng quân bình (sẽ đòi hỏi một sự phân phối lại của cải thế giới từ Mỹ). Trong trường hợp nào thì kết quả cũng sẽ là một hệ thống thế giới khác biệt về căn bản.

            LÝ THUYẾT HẬU MARXIST

            Những năm 1980 và 1990 đã mang lại nhiều biến đổi sâu sắc đối với lý thuyết tân Marxian. Các dạng khác nhau gần đây nhất của lý thuyết tân Marxian đang phản đối nhiều tiền đề cơ bản của lý thuyết Marx nguyên thủy, cũng như của các lý thuyết tân Marxian đã được thảo luận ở đầu chương này. Từ đó những cách tiếp cận mới đã đi vào tư duy với ý nghĩa là lý thuyết hậu Marxian. Trong khi các lý thuyết này chối bỏ các nguyên tố cơ bản của lý thuyết theo Marx, chúng vẫn có sự giống nó về cấu trúc một cách đầy đủ để có thể xem chúng là một bộ phận của lý thuyết tân Marxian. Các lý thuyết hậu Marxian được thảo luận ở đây vì chúng thường bao gồm sự tổng hợp của lý thuyết Marxian với các lý thuyết, tư tưởng, phương pháp khác. Làm sao chúng ta có thể giải thích những biến đổi sâu sắc này ở lý thuyết tân Marxian? Có hai tập hợp nhân tố có liên quan, một cái nằm ngoài lý thuyết và liên quan đến các biến đổi trong thế giới xã hội và cái kia nằm trong lòng của chính bản thân lý thuyết.

            Đầu tiên, và ở bên ngoài lý thuyết Marxian, là sự kết thúc của chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của thế giới cộng sản. Liên Xô đã ra đi, và Nga đang tiến tới một dạng kinh tế thị trường, ít nhất là phần nào, giống như nền kinh tế tư bản. Đông Âu đang chuyển biến, thường là nhanh hơn cả Nga, theo hướng một nền kinh tế kiểu tư bản. Trung Quốc, sau vụ phản ứng bạo lực  đối với cuộc khởi nghĩa ở Thiên An Môn, đã phá sản ở ý nghĩa là phần còn lại của thế giới, dù nó vẫn đeo bám vào chủ nghĩa cộng sản. Cuba đang bị cô lập, chỉ còn chờ cái chết hay sự thoái vị của Fidel Castro để đi theo hướng tư bản. Như vậy, sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản ở phạm vi toàn thế giới làm cho những người Marxist tất yếu phải xem xét lại và cấu trúc lại các lý thuyết của họ.

          Những biến đổi này trên thế giới có liên hệ tới một tập hợp các biến đổi thứ hai, nằm trong chính bản thân các lý thuyết, chuỗi biến đổi trí thức mà, tới lượt nó, đã ảnh hưởng tới lý thuyết tân Marxian. Các dòng lý thuyết mới như thuyết chức năng cấu trúc và thuyết hậu hiện đại (xem chương 12) có một ảnh hưởng sâu sắc đến lý thuyết tân Marxian. Ngoài ra, một phong trào được biết đến như  là chủ nghĩa Marx phân tích đã tạo được nền tảng; nó được đặt tiền đề trên cơ sở niềm tin rằng các lý thuyết Marxian cần sử dụng các phương pháp giống như bất cứ một môn khoa học nào khác. Cách tiếp cận này dẫn tới sự diễn dịch lại về Marx trong phạm vi đậm chất truyền thống trí thức hơn, các nỗ lực để áp dụng lý thuyết chọn lựa hợp lý vào các vấn đề theo Marx, và các cố gắng để nghiên cứu các đề tài theo Marx vận dụng các phương pháp và kỹ thuật của khoa học thực chứng. Như Mayer đặt vấn đề một cách cụ thể, “sự thấp kém tăng lên đối với các tiêu chí truyền thống trùng khớp với sự trung thành giảm sút đối với bản thân lý thuyết Marxist”.

            Như vậy, một sự kết hợp các biến đổi tri thức và xã hội đã làm thay đổi sâu sắc bối cảnh của lý thuyết tân Marxist trong những năm 1990. Trong khi các lý thuyết được thảo luận bên trên vẫn còn quan trọng, phần lớn năng lượng của lý thuyết tân Marxian ngày nay tập trung vào các lý thuyết sẽ được thảo luận trong phần này.

            Chủ nghĩa Marx phân tích
           
            Perry Anderson cho rằng trung tâm lý thuyết Marxian đã chuyển khỏi Đức và Châu Âu La-tinh (đặc biệt là Pháp và Ý), và điều này không đâu rõ ràng bằng trong trường phái được biết như là chủ nghĩa Marx phân tích, hay như Callinicos gọi: “Chủ nghĩa Marx Anglo”. Đây là cách một trong những nhà lãnh đạo của chủ nghĩa Marx phân tích, John Roemer, xác định nó:

Trong thập kỷ vừa qua, cái mà nay đã xuất hiện như là một loại mới trong lý thuyết xã hội đã được hình thành: chủ nghĩa Marx được phân tích một cách phức tạp. Các nhà thực hành của nó cảm thấy hứng thú với các vấn đề theo Marx, mà họ theo đuổi với các công cụ hiện thời về logic, toán học và xây dựng mô hình. Đặc điểm phương pháp luận của họ mang tính truyền thống. Những người này là, với sự tự ý thức của họ, các sản phẩm của cả hai truyền thống Marxian (theo Marx) và tân Marxian.

Như vậy, những nhà Marxist phân tích mang xu hướng chủ đạo, các phương pháp “trạng thái của nghệ thuật” của triết học phân tích và khoa học xã hội để xử lý các vấn đề trọng yếu theo Marx. Chủ nghĩa Marx phân tích được thảo luận trong chương này vì nó “dứt khoát đề xuất việc tổng hợp các phương pháp phi Marxist và lý thuyết Marx”.

          Chủ nghĩa Marx phân tích nó theo một cách tiếp cận phi giáo điều đối với lý thuyết của Marx. Nó không tán thành một cách mù quáng và hời hợt lý thuyết của Marx, nó không từ chối các sự kiện lịch sử để ủng hộ cho lý thuyết Marx, cũng không hoàn toàn phản đối lý thuyết Marx là sai lầm về cơ bản. Đúng hơn, nó nhìn lý thuyết Marx như là một hình thái của khoa học xã hội thế kỷ 19 với nguồn năng lượng lớn và một cốt lõi có giá trị nhưng cũng có sự yếu kém trầm trọng. Lý thuyết Marx cần được khai thác, nhưng nó đòi hỏi việc tận dụng những phương pháp và kỹ thuật đã phát triển trong cuối thế kỷ 20. Nó chối bỏ ý tưởng rằng có một phương pháp luận Marxian riêng biệt và chỉ trích những người cho rằng một phương pháp như thế đang tồn tại và có giá trị:

Tôi không nghĩ  là có một hình thức đặc thù của luận lý hay giải thích Marxist. Rất thường là chính sách ngu dân tự bảo vệ nó dưới một thuật yoga[1] của các thuật ngữ đặc biệt và một logic mang tính đặc quyền. Thuật yoga của chủ nghĩa Marx là “biện chứng pháp”. Logic biện chứng dựa trên cơ sở nhiều định đề mà có thể có một sức hấp dẫn nhất định, nhưng còn xa để trở thành các nguyên tắc để tham chiếu: rằng các sự vật biến thành cái đối nghịch với nó (tức phủ định của phủ định), và số lượng chuyển hóa thành chất lượng. Trong khoa học xã hội theo Marx, biện chứng pháp thường được dùng để biện hộ cho một loại nguyên nhân mục đích luận biếng nhác. Các phát triển diễn ra vì chúng phải tuân theo trình tự lịch sử để được đưa ra như được dự định.

            Tương tự, Elster nói: “Không có một hình thức phân tích Marxist riêng biệt… Không có một sự ủy thác đối với bất kỳ một phương pháp phân tích đặc thù nào, ngoài những phương pháp định tính khoa học xã hội tốt nói chung”. Theo cùng một đường lối, các nhà Marxist phân tích phản đối ý tưởng rằng sự kiện và giá trị không thể cách biệt nhau, rằng chúng có mối quan hệ biện chứng. Họ tìm cách, theo những quy tắc của tư duy khoa học xã hội và triết học, để cách ly sự kiện và giá trị, và xử lý sự kiện một cách vô tư thông qua phân tích lý thuyết, khái niệm, và thực nghiệm.

            Người ta có thể hỏi tại sao chủ nghĩa Marx phân tích nên gọi là Marxist. Roemer trả lời câu hỏi này như  sau: “Tôi không chắc là nên như thế”. Tuy nhiên, ông đưa ra nhiều lý do tại sao chúng ta có thể coi nó là một lý thuyết (tân) Marxian. Đầu tiên, nó xử lý các đề tài truyền thống Marxian như sự bóc lột và giai cấp. Thứ hai, nó tiếp tục xem chủ nghĩa xã hội là hay hơn chủ nghĩa tư bản. Thứ ba, nó tìm cách nhận thức và giải thích các vấn đề gắn liền với chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, trong khi nó là Marxist ở các ý nghĩa đó, nó cũng “sẵn sàng và dễ dàng vay mượn từ các quan điểm khác”. Thêm nữa, chủ nghĩa phân tích Marxist rất chung đường với sự vận động theo hướng các tổng hợp lý thuyết được thảo luận xuyên suốt cuốn sách này.

Ba thể khác nhau của chủ nghĩa Marx phân tích sẽ được thảo luận, ít nhất là vắn tắt, trong phần này. Trước hết, chúng ta sẽ thảo luận nỗ lực phân tích lại tác phẩm của Marx bằng cách tận dụng các công cụ tri thức theo xu hướng chủ đạo. Thứ hai, chúng ta sẽ xem xét chủ nghĩa Marx về sự chọn lựa hợp lý và lý thuyết trò chơi. Cuối cùng, chúng ta sẽ tiếp xúc với khảo sát thực nghiệm từ một viễn cảnh Marxian tận dụng các công cụ phương pháp luận trạng thái của nghệ thuật.

Tái phân tích Marx.  Như chỉ ra bên trên, các nhà phân tích Marxist phản đối sử dụng các khái niệm đặc thù như biện chứng và thay vào đó tìm cách phân tích Marx (cũng như thế giới xã hội) bằng các khái niệm là bộ phận truyền thống tri thức rộng hơn. Ví dụ chủ yếu cho việc này, và một trong những tư liệu chủ chốt trong chủ nghĩa Marx phân tích là cuốn thuyết Karl Marx về lịch sử: Một sự tự vệ của G.A. Cohen. Thay vì diễn dịch Marx như một nhà biện chứng ngoại lai, Cohen lý luận rằng ông sử dụng hình thức giải thích chức năng tầm thường trong tác phẩm của mình nhiều hơn. Ông đưa ra các ví dụ sau về giải thích chức năng trong tác phẩm của Marx:

·      Các quan hệ sản xuất tương ứng với các lực lượng sản xuất.
·      Các siêu cấu trúc chính trị và pháp lý ra đời từ nền tảng thực tiễn.
·      Quá trình xã hội, chính trị và tri thức được quyết định bởi kiểu sản xuất của đời sống vật chất.
·      Ý thức được quyết định bởi thực tiễn xã hội.

            Trong mỗi một ví dụ trên, khái niệm thứ hai giải thích khái niệm thứ nhất. Bản chất của giải thích là có tính chức năng, theo quan điểm của Cohen, vì “đặc tính của cái được giải thích được quyết định bởi ảnh hưởng của nó trên cái mà nó giải thích”. Như vậy, trong trường hợp ví dụ cuối cùng, đặc tính của ý thức được giải thích bởi sự ảnh hưởng của nó đến, cụ thể hơn là xu hướng của nó để duy trì, thực tiễn xã hội. Nói chung hơn, hiện tượng xã hội được giải thích trong phạm vi của các hậu quả của nó đối với các hiện tượng xã hội khác. Quan điểm của Cohen là Marx thực hành tư duy chức năng ở ví dụ trên, và trong suốt cuốn sách của ông, vì ông tìm cách giải thích các hiện tượng xã hội và kinh tế theo cách thức này. Như vậy, Marx không phải là một nhà biện chứng; ông là một tư  tưởng gia chức năng. Trong việc đi theo một viễn cảnh như vậy, Cohen tái diễn dịch Marx bằng các sử dụng các tư tưởng triết học dòng chủ đạo và xem Marx như là một bộ phận của dòng này.

            Cohen bỏ công sức để phân biệt tư duy  chức năng với các thuyết chức năng (cấu trúc) khác nhau của xã hội học đã thảo luận trong chương 3. Cohen xem thuyết chức năng (cấu trúc) bao gồm ba luận đề. Đầu tiên, mọi nguyên tố của thế giới xã hội là liên nối kết. Thứ hai, mọi thành tố của xã hội thúc đẩy tới từng thành tố khác cũng như tới xã hội với nghĩa một tổng thể. Thứ ba, mỗi khía cạnh của xã hội là như nó vốn thế vì sự đóng góp của nó đối với xã hội lớn. Các luận đề này phản đối các nhà Marxist vì nhiều lý do, đặc biệt là vì chủ nghĩa bảo thủ của họ. Tuy nhiên, các giải thích chức năng đã nói có thể được sử dụng bởi các nhà Marxist dù họ không chấp nhận bất kỳ nguyên lý nào của thuyết chức năng. Như vậy, giải thích chức năng không nhất thiết có tính bảo thủ; thực ra nó có thể hoàn toàn có tính cách mạng.

Chủ nghĩa Marx chọn lựa hợp lý.  Nhiều nhà Marxist phân tích đã nhờ tới các môn kinh tế học tân-cổ điển, đặc biệt là lý thuyết chọn lựa hợp lý và lý thuyết trò chơi (xem chương 7.  Thảo luận về việc sử dụng thuyết lựa chọn hợp lý trong lý thuyết xã hội học chủ đạo), Roemer lý luận rằng “phân tích Marxian đòi hỏi các nền tảng vi mô”, đặc biệt là lý thuyết chọn lựa hợp lýlý thuyết trò chơi. Trong việc nhờ tới các cách tiếp cận như thế, lý thuyết Marxian đình chỉ các nguyện vọng được phân biệt và đang tận dụng các các tiếp cận đã được sử dụng một cách rộng rãi trong các môn khoa học xã hội. Nhưng trong khi lý thuyết tân Marxian có thể và nên dựa vào các môn kinh tế học tân-cổ điển, nó vẫn còn khác với cái nói sau. Ví dụ, nó duy trì một mối quan tâm vào hành động tập thể đối với sự biến đổi xã hội và chấp nhận ý tưởng rằng chủ nghĩa xã hội là một hệ thống không công bằng.

          John Elster là một người đề xướng chủ yếu, cùng với John Roemer, về chủ nghĩa Marx phân tích. Elser tin rằng lý thuyết tân Marxian đã bị cản trở bởi việc đi theo loại lý luận chức năng mà Cohen đã thảo luận. Ông cũng tin rằng lý thuyết Marxian nên sử dụng nhiều hơn lý thuyết trò chơi, là một dạng khác của lý thuyết chọn lựa. Lý thuyết trò chơi, như các kiểu khác của lý thuyết chọn lựa, giả thiết rằng tác nhân hành động là hợp lý và rằng họ tìm cách tối đa hóa cái họ đạt được. Dù nó nhận ra các hạn chế về mặt cấu trúc, nó không cho rằng chúng hoàn toàn qyết định các chọn lựa của các actor. Cái có thể phân biệt lý thuyết trò chơi như  là một dạng của lý thuyết lựa chọn hợp lý là việc nó cho phép sự phân tích đi ra ngoài các chọn lựa hợp lý của một actor đơn lẻ và xử lý sự  phụ thuộc lẫn nhau của các quyết định và các hành động của một số actor. Elster nhận dạng ba loại tương thuộc giữa các actor có liên quan trong một trò chơi. Thứ nhất, phần thưởng cho mỗi actor tùy thuộc vào sự chọn lựa của tất cả mọi actor. Thứ hai, phần thưởng cho mỗi actor tùy thuộc vào phần thưởng cho tất cả. Thứ ba, sự chọn lựa của mỗi actor tùy thuộc vào sự chọn lựa của tất cả. Phân tích các “trò chơi” (như trò chơi nổi tiếng “tình trạng khó xử của người tù nhân” , trong đó các actor sẽ kết thúc tồi nếu họ theo các lợi ích riêng của bản thân hơn là hy sinh các lợi ích riêng đó) giúp cho việc giải thích các chiến lược của các actor khác nhau và sự nảy sinh của các tập thể như giai cấp xã hội. Như vậy, chủ nghĩa Marx chọn lựa hợp lý tìm kiếm các nền tảng vi mô của lý thuyết Marx, dù actor hợp lý của lý thuyết này rất khác với actor của lý thuyết phê phán (đã thảo luận trong chương này), được phái sinh từ lý thuyết của Freud.

            Định hướng chọn lựa hợp lý của Elster cũng biểu thị trong Nhận thức về Marx. Trong cuốn này Elster lý luận rằng phương pháp cơ bản của Marx để giải thích các hiện tượng xã hội là một quan tâm tới các hậu quả ngoài dự tính của hành động con người. Đối với Elster, và trái với phần lớn các nhà Marxist - những người xem Marx là “chỉnh thể phương pháp luận” liên quan tới các cấu trúc vĩ mô, Marx đã thực hành “phương pháp luận cá nhân chủ nghĩa”, hoặc, “chủ nghĩa mà mọi hiện tượng xã hội-cấu trúc và biến đổi của chúng - là có thể giải thích được về nguyên tắc, theo các cách thức chỉ có liên quan đến các cá thể- các thuộc tính của họ, các mục tiêu của họ, niềm tin và hành động của họ”. Đối với Elster, Marx quan tâm tới các tác nhân hành động, tới mục tiêu, dự tính và các chọn lựa hợp lý của họ. Elster sử dụng một viễn cảnh chọn lựa hợp lý như thế để chỉ trích định hướng của các nhà Marxist cấu trúc: “các ông chủ hãng buôn tư bản là các đại diện theo nghĩa thật sự tích cực. Họ không thể bị giảm trừ thành các người giữ chỗ trong hệ thống sản xuất tư bản”. Chủ nghĩa Marx chọn lựa hợp lý tập trung vào các đại diện hợp lý này (nhà tư bản và người vô sản) và các tương quan giữa họ.

            Roemer đã ở tiền tiêu của sự phát triển của một cách tiếp cận trong phạm vi chủ nghĩa Marx phân tích đối với sự bóc lột. Roemer đã rời khỏi tư duy về sự bóc lột như  là sự diễn biến ở điểm sản xuất (và do đó khỏi lý thuyết giá trị lao động có tính mơ hồ cao độ) và hướng tới tư duy về sự bóc lột như là mối quan hệ với sự áp bức gắn liền với quyền sở hữu về của cải. Như  Mayer xác nhận, “sự bóc lột có thể nảy sinh từ sự sở hữu bất bình đẳng về các tiềm năng sản xuất thậm chí dù không có một quá trình sản xuất mang tính áp bức”. Trong số nhiều điều khác, viễn cảnh này cho phép chúng ta nhận thức về sự bóc lột trong các xã hội xã hội chủ nghĩa cũng như tư bản chủ nghĩa. Quan điểm về sự bóc lột này cũng liên quan đến lý thuyết chọn lựa hợp lý ở ý nghĩa, ví dụ, rằng những người mà sự bóc lột của họ nảy sinh từ sự phân bố không đồng đều về tài sản có thể tham gia vào các phong trào được thiết lập để phân phối lại tài sản một cách đồng đều hơn. Loại định hướng này cũng cho phép chủ nghĩa Marx phân tích khôi phục lại các mục tiêu chính trị và đạo đức của nó trong khi đi vào một định hướng chủ đạo như lý thuyết lựa chọn hợp lý.

Chủ nghĩa Marx định hướng kinh nghiệm. Nhân vật dẫn đầu có liên quan tới sự  tiếp nhập và áp dụng các phương pháp chính xác đối với nghiên cứu thực nghiệm về các khái niệm theo Marx là Erik Olin Wright. Wright dứt khoát gắn mình vào chủ nghĩa Marx phân tích nói chung và tác phẩm của John Roemer nói riêng. Tác phẩm của Wright liên quan đến ba thành tố cơ bản: trước hết, sự gạn lọc các khái niệm cơ bản Marxian như giai cấp; thứ hai, các nghiên cứu thực nghiệm về các khái niệm đó; thứ ba, sự phát triển của một lý thuyết mạch lạc hơn trên cơ sở các khái niệm đó (đặc biệt là giai cấp).

            Trong cuốn Các giai cấp, Wright tìm cách trả lời câu hỏi Marx đã đặt ra, nhưng chưa hề tự trả lời: “Cái gì đã thiết lập giai cấp?” Ông làm rõ rằng câu trả lời của mình sẽ đúng với lịch đại của định hướng lý thuyết nguyên thủy của Marx. Tuy nhiên sẽ có thể không như câu trả lời của Marx, nếu như ông đưa ra, bởi vì từ thời của Marx đến nay đã hơn 100 năm về cả mặt tác phẩm lý thuyết và lịch sử. Như vậy, chúng ta đã có sự phức tạp hơn về lý thuyết, và thời đại đã biến đổi. Kết quả là, Wright, như các nhà phân tích Marxist khác, khởi sự với Marx nhưng không chấp nhận quan điểm của ông như là một giáo điều và cố gắng đoán xem ông sẽ xác định giai cấp như thế nào. Vì Marx và các tác phẩm lý thuyết đã được thực hiện từ thời của ông, các nhà Marxist đương thời có một quan điểm tốt hơn để đi đến một định nghĩa như vậy, thậm chí dù chúng ta có thể đoán ra, nó cũng rất có thể không thích hợp với xã hội hiện đại.

            Vì đây là một cuốn sách về lý thuyết, chúng ta không cần đi vào chi tiết về nghiên cứu của Wright hay của bất kỳ nhà Marxist có định hướng thực nghiệm nào khác. Tuy nhiên, sẽ có ích để nói một đôi điều về đóng góp khái niệm nổi tiếng nhất của ông- ý tưởng về “các vị trí mâu thuẫn trong các quan hệ giai cấp”. Tiền đề cơ bản của ông là một vị trí được đưa ra không cần, như người ta thường giả thiết, được đặt trong một giai cấp được đưa ra; vì có thể có hơn một giai cấp trong cùng một lúc. Như vậy, một vị trí có thể đồng thời là tư sản và vô sản. Ví dụ, các nhà quản lý là tư sản ở ý nghĩa rằng họ giám sát các thuộc cấp, nhưng họ cũng là vô sản vì họ cũng bị giám sát bởi những người khác. Ý tưởng về các vị trí giai cấp mâu thuẫn phát sinh thông qua phân tích khái niệm cẩn trọng và được nghiên cứu thực nghiệm.

            Chủ nghĩa Marx phân tích ngày nay. Trong khi, như đã thấy, các nhà Marxist phân tích tự coi họ là những người Marxist, có những người (ví dụ, Callinois) tự hỏi sự chú ý của họ đối với các khái niệm và các phương pháp có xu hướng chủ đạo có làm cho sự chỉ định này thành ra vô nghĩa không. Để phản ứng lại, Elster quả quyết: “Phần lớn các quan điểm mà tôi giữ là chân thực và quan trọng, tôi có thể truy nguyên lại tới Marx”.

            Mayer đã đưa ra một cái nhìn tổng quát về chủ nghĩa Marx phân tích, đó là các nỗ lực, trong số nhiều điều khác, để xem xét lại và phản đối những điều mà ông xem là sáu phê phán chủ yếu về cách tiếp cận. Tuy nhiên, trước khi chúng ta thảo luận các phê phán đó, có một bài chỉ trích bắt nguồn từ chính bản thân tác phẩm của Mayer: “Chủ nghĩa Marx phân tích không phải là một thể thống nhất hay thậm chí một thể nhất quán về mặt nội tại của tư duy”. Các khác biệt giữa ba nhà thực hành chủ yếu được thảo luận ở đây (Cohen, Roemer, và Wright) chưa nói tới những người khác mà có thể bao gồm dưới cái tên chung này (đặc biệt là Adam Przeworski và tác phẩm của ông về nhà nước), là rất lớn và gây khó khăn cho việc thảo luận về các cá nhân trong cùng một ngữ cảnh. Các khác biệt đó có thể phá vỡ chủ nghĩa Marx phân tích trước khi nó có cơ hội phát triển tới một viễn cảnh cố kết hơn.

            Phê phán đầu tiên mà Mayer điểm lại là rằng Chủ nghĩa Marx phân tích có tính chất nguyên tử và tập trung vào các actor hợp lý. Ong đáp lại rằng các nhà Marxist phân tích không coi xã hội là bao gồm các cá thể biệt lập, rằng họ công nhận mọi người không phải lúc nào cũng có cư xử hợp lý. Thứ hai, các nhà Marxist phân tích bị cáo buộc là có tính chất kinh tế quyết định luận, câu trả lời là các vị trí chiếm ưu thế là các yếu tố cơ bản, chứ không phải là các yếu tố quyết định. Phê phán thứ ba là các nhà Marxist phân tích có tính chất phi lịch sử, nhưng Mayer không xem đặc tính này là cái cố hữu của cách tiếp cận. Đúng hơn, nó có thể truy nguyên tới tính cách mới mẻ của nó và tới sự thật rằng không có thời gian để xử lý các vấn đề lịch sử. Thứ tư, và có liên quan, các nhà Marxist phân tích bị cáo buộc vì đã đưa ra các tiếp cận tĩnh tại nên khó mà xử lý sự biến đổi. Trong khi Mayer thừa nhận điều này, ông lý luận rằng rõ ràng mọi nhà khoa học xã hội đều có tình huống khó xử này. Thứ năm, có một cáo buộc về tính lặp thừa- “các giả thiết cần được chứng minh”. Mayer xem điều này là một vấn đề cố hữu trong mọi cách tiếp cận có tính chất suy diễn. Cuối cùng, chủ nghĩa Marx phân tích được coi là thiếu nhiệt tình về đạo đức, nhưng Mayer phản đối, “Các nhà Marxist phân tích hoàn toàn có nhiệt tình đạo đức, và sự phê phán về đạo đức của họ đối với sự thiếu nhiệt tình đạo đức của chủ nghĩa tư bản nhiều hơn là những cáo buộc và những đánh giá nhận được”.

            Mayer kết luận với một thảo luận về sáu thách thức đang đối mặt với các nhà phân tích Marxist, các thách thức phải chạm trán nếu như chủ nghĩa Marx phân tích trở thành lực lượng quan trọng trong các môn khoa học xã hội. Thứ nhất, chủ nghĩa Marx phân tích phải phát triển một cách tiếp cận năng động hơn. Mayer xác định, “Phiên bản bất kỳ nào của chủ nghĩa Marxist không có khả năng giải thích các động lực xã hội thì không thể mong rằng nó hưng thịnh”. Thứ hai, các lý thuyết của các nhà Marxist phân tích phải thực hiện tốt hơn  công việc có liên quan tới các sự kiện và hoàn cảnh đặc thù. Thứ ba, các nhà thực hành cách tiếp cận này phải sửa lại cho đúng dòng chảy mất cân bằng ở hướng lý thuyết và tiến hành nhiều khảo sát thực nghiệm hơn. Thứ tư, các nhà Marxist phân tích phải mở rộng ra từ nền tảng của họ về các nhân tố kinh tế và xử lý một dãy rộng hơn các yếu tố xã hội. Thứ năm, họ cũng phải rời bỏ một tiêu điểm tập trung vào các quốc gia tư bản tiến bộ và xử lý các quốc gia ít phát triển hơn. Cuối cùng, các nhà Marxist phân tích phải chứng minh sự  tồn tại của các khả năng lựa chọn có thể có đối với chủ nghĩa tư bản.

            Lý thuyết Marxian hậu hiện đại

          Lý thuyết Marxian đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của các phát triển lý thuyết trong thuyết cấu trúc, hậu cấu trúc, và của thuyết được đặc biệt chú ý ở đây, thuyết hậu hiện đại. (xem chương 12)

            Một tác phẩm tiêu biểu chủ yếu của chủ nghĩa Marxian hậu hiện đại là cuốn Quyền lãnh đạo và chiến lược xã hội của Ernesto Laclau và Chantal Mouffe. Theo quan điểm của Ellen Wood, tác phẩm này, thừa nhận tiêu điểm về ngôn ngữ học, các văn bản và các diễn ngôn trong thuyết hậu hiện đại, tách rời ý thức hệ ra khỏi cơ sở duy vật của nó và cuối cùng phân hủy “mọi mặt của xã hội thành ý thức hệ hay “sự trình bày””. Khái niệm về quyền lãnh đạo, điểm trung tâm quan trọng đối với Laclau và Mouffe, được phát triển bởi Gramsci để tập trung vào sự lãnh đạo về văn hóa hơn là ảnh hưởng áp bức của sự thống trị nhà nước. Sự chuyển biến về tiêu điểm này, tất nhiên, dẫn chúng ta xa rời quan tâm truyền thống Marxian với thế giới vật chất và đi theo hướng của các tư tưởng và đàm luận. Như Wood xác định, “Nói vắn tắt, lý luận của Laclau-Mouffe là: không có cái gì gọi là các quan tâm duy vật mà chỉ có các ý tưởng được thiết lập một cách rời rạc về chúng mà thôi”.

            Ngoài các ý tưởng thay chỗ cho các quan tâm duy vật, Laclau và Mouffe cũng trình bày giới vô sản từ  vị trí đặc quyền của nó trong trung tâm của lý thuyết Marxian. Như Wood lý luận, Laclau và Mouffe đặt vấn đề giai cấp trong phạm vi chủ quan và rời rạc. Thế giới xã hội được định tính bởi vô số các vị trí và đối kháng. Kết quả là, không thể đi đến một dạng “trình bày thống nhất” mà Marx đã mường tượng xung quanh giới vô sản. Sự trình bày phổ quát về giới vô sản “đã bị thay thế bởi một sự hòa âm các giọng điệu, mỗi một giọng thiết lập một nét riêng không thể giảm trừ và rời rạc”. Như vậy, thay vì tập trung vào sự trình bày đơn lẻ về giới vô sản, các lý thuyết gia Marxian bị thôi thúc tập trung vào vô số các trình bày linh tinh khác nhau bắt nguồn từ một dãy rộng các giọng điệu bị tước đọat quyền chiếm hữu, như của những người phụ nữ, những người da đen, các nhà sinh thái học, các người dân nhập cư, những người tiêu thụ, vv…. Kết quả là lý thuyết Marxian đã bị lệch khỏi trung tâmbị phân tán vì nó không còn tập trung vào mỗi một giới vô sản và không còn xem các vấn đề của giới vô sản là vấn đề xã hội.

            Từ bỏ một tiêu điểm và các yếu tố duy vật và một quan tâm tập trung vào giới vô sản, Laclau và Mouffe tiếp tục chối bỏ mục tiêu của lý thuyết Marxian, chủ nghĩa cộng sản và sự giải phóng giai cấp vô sản. Thay vì thế, họ đề  xuất một hệ thống gọi là “dân chủ cấp tiến”. Thay vì tập trung vào các quyền  dân chủ của cá thể, họ đề xuất “sáng tạo ra một sự lãnh đạo mới, sẽ là hệ quả của sự  kết hợp của số lượng lớn nhất các cuộc đấu tranh dân chủ”. Cái cần thiết trong quyền lãnh đạo mới này là “một sự lãnh đạo của dân chủ, các giá trị, và điều này đòi hỏi một sự nhân rộng các thực hành dân chủ, thể chế hóa chúng thành các quan hệ xã hội thậm chí nhỏ nhặt hơn”.

            Nền dân chủ cấp tiến tìm cách gom tụ lại dưới một chiếc dù rộng lớn của các cuộc đấu tranh dân chủ - chống phân biệt chủng tộc, chống phân biệt giới tính, chống tư bản, chống bóc lột tự nhiên và nhiều thứ khác. Như vậy, đây là một “nền dân chủ cấp tiến và đa diện”. Cuộc đấu tranh của một nhóm không được tiến hành từ chi phí của các nhóm khác; mọi đấu tranh dân chủ phải được xem là các cuộc đấu tranh đồng đẳng. Như vậy, cần phải kết hợp chúng lại với nhau bằng cách bổ sung cho các đặc tính của chúng, để các nhóm xem họ là một bộ phận của cuộc đấu tranh lớn lao vì dân chủ cấp tiến. Như Laclau và Mouffe lý luận:

Sự thế chỗ của cánh Tả cần bao gồm sự định vị bản thân nó một cách trọn vẹn trong lĩnh vực cách mạnh dân chủ và mở rộng mối dây đồng đẳng giữa các cuộc đấu tranh chống áp bức khác nhau. Công việc của cánh Tả do đó không thể từ bỏ lý tưởng tự do dân chủ, mà trái lại, đào sâu và mở rộng nó theo hướng một nền dân chủ cấp tiến đa phương… Nó không từ bỏ địa thế dân chủ, mà trái lại, đang trong quá trình mở rộng phạm vi các cuộc đấu tranh với toàn thể xã hội văn minh và nhà nước, mà khả năng có thể thuộc về một chiến lược lãnh đạo của cánh Tả.

            Trong khi dân chủ cấp tiến khôi phục lại đối tượng về sự thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, nó nhận ra rằng sự thủ tiêu này sẽ không loại trừ được các bất bình đẳng khác trong xã hội. Xử lý mọi bất bình đẳng xã hội đòi hỏi một phong trào rộng lớn hơn nhiều so với tiên đoán của các nhà Marxist truyền thống.

            Một đột nhập khác của thuyết Marxian vào lý thuyết hậu hiện đại (xem chương 12 về một thảo luận khác, tác phẩm của Fredric Jameson) là cuốn Điều kiện của thời đại hậu hiện đại của David Harvey. Trong khi Harvey thấy có nhiều giá trị trong tư duy hậu hiện đại, ông cũng thấy sự yếu kém nghiêm trọng trong đó từ một quan điểm Marxian. Lý thuyết hậu hiện đại bị cáo buộc là nhấn mạnh thái quá các vấn đề của thế giới hiện đại và nhấn mạnh dưới mức cần thiết các thành tựu vật chất của nó. Quan trọng hơn, dường như nó chấp nhận thời đại hậu hiện đại và các vấn đề gắn liền với nó hơn là đề ra các cách thức khắc phục các khó khăn này: “ sự hùng biện khoa trương của thuyết hậu hiện đại có tính chất nguy hiểm vì nó tránh đối đầu với các thực tiễn chính trị kinh tế và các hoàn cảnh của lực lượng toàn cầu”. Cái lý thuyết hậu hiện đại cần đối đầu là nguồn của các tư tưởng của nó- sự chuyển hóa chính trị và kinh tế của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ 20.

            Trung tâm của hệ thống chính trị kinh tế là sự kiểm soát các thị trường và quá trình lao động (hai lĩnh vực này liên quan tới vấn đề tích lũy của chủ nghĩa tư bản). Trong khi thời hậu chiến giữa 1945 và 1973 được định tính bởi một quá trình tích lũy cứng nhắc, từ 1973 chúng ta đã đi tới một quá trình năng động hơn. Harvey gắn thời kỳ trước với thuyết Ford (cũng như kinh tế học của Keynesian) và thời kỳ sau với thuyết Sau Ford, nhưng chúng ta không cần thảo luận các vấn đề đó ở đây, vì chúng đã được bao quát trong chương này. Trong khi thuyết Ford có tính cứng nhắc, Harvey thấy thuyết Sau Ford gắn liền với sự tích lũy năng động dựa vào “sự năng động liên quan tới các quá trình lao động, các thị trường lao động, các sản phẩm, và các kiểu tiêu thụ. Nó được định tính bởi sự nảy sinh của các bộ phận mới hoàn toàn của nền sản xuất, các phương pháp cung cấp dịch vụ tài chính mới, các thị trường mới, và trên tất cả, là các tỷ lệ tăng trưởng lớn lao của nền thương mại, sự cải tiến kỹ thuật và tổ chức.

            Trong khi Harvey nhìn thấy những biến đổi lớn lao, và lý luận rằng chúng nằm ở nền tảng của tư duy hậu hiện đại, ông tin rằng có nhiều sự tiếp nối giữa các kỷ nguyên thuộc thuyết Ford và thuyết Sau Ford. Kết luận chính của ông là trong khi “ hẳn nhiên có một biến đổi rộng lớn trên bề mặt của chủ nghĩa tư bản từ 1973… logic ẩn chìm bên dưới của tích lũy tư bản và các xu hướng khủng hoảng của nó vẫn còn như cũ”.

          Trung tâm của cách tiếp cận của Harvey là ý tưởng về sức ép của thời gian-không gian. Ông tin rằng chủ nghĩa hiện đại đã phục vụ cho sức ép của thời gian-không gian và rằng quá trình đó đang tăng tốc trong kỷ nguyên hậu hiện đại, dẫn tới một “thời kỳ căng thẳng về sức ép thời gian-không gian, có một tác động gây mất định hướng và phá hủy lên các thực hành chính trị-kinh tế, lên cán cân lực lượng giai cấp, cũng như  lên đời sống văn hóa và xã hội”. Nhưng sức ép thời gian-không gian về cơ bản không khác với các giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản: “Chúng ta, nói vắn tắt, đã chứng kiến một khía cạnh khắc nghiệt khác trong quá trình hủy diệt không gian thông qua thời gian đó, nó đã luôn luôn nằm ngay ở trung tâm của động lực của tư bản chủ nghĩa”. Để đưa ra một ví dụ về sự hủy diệt không gian thông qua thời gian đó, phó mát trước kia chỉ có bán ở Pháp nay được bán rộng rãi khắp nước Mỹ vì sự vận chuyển nhanh chóng, giá rẻ. Hay, trong cuộc chiến tranh năm 1991 với Iraq, ti-vi đã đưa chúng ta ngay lập tức từ cuộc không kích ở Baghdad tới những cuộc tấn công “vũ bão” ở Tel Aviv tới những chỉ thị quân sự  ở Riyadh.

            Như vậy, đối với Harvey, thuyết hậu hiện đại không gián đoạn với thuyết hiện đại; chúng là những phản ánh của cùng một động lực tiềm ẩn của chủ nghĩa tư bản. Cả thuyết hiện đại và hậu hiện đại, thuyết Ford và thuyết Sau Ford, cùng tồn tại trong thế giới ngày nay. Điểm nhấn mạnh của thuyết Ford và thuyết Sau Ford sẽ “thay đổi từ lúc này sang lúc khác và từ nơi này sang nơi khác, tùy thuộc vào hình thể nào có lợi và hình thể nào không có lợi”. Một quan điểm như thế phục vụ cho việc mang lại vấn đề của thời hậu hiện đại dưới chiếc dù của lý thuyết tân Marxian, mặc dù là tới lượt mình, nó cũng được bổ sung bởi các phát triển trong tư duy hậu hiện đại.

            Cuối cùng, Harvey nhận thức rõ về các biến đổi và các xung đột trong thời hậu hiện đại, chỉ ra rằng chúng ta có thể đang trên đường đi tới một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên mà lý thuyết tân Marxian phải được chuẩn bị để lý thuyết hóa, có lẽ bằng sự hòa hợp các hệ thống tư tưởng khác đang tồn tại.


            Sau chủ nghĩa Marx

            Với những người Marxist ở mọi kiểu dạng đang thu nhặt các quan điểm mới dưới ánh sáng của sự sụp đổ của Liên Xô, có vô số quan điểm hậu Marxist có thể được thảo luận trong phần này. Tuy nhiên, để tạo cho bạn đọc một nhận thức về các giới hạn ở đây, tôi sẽ khép lại với một trong những quan điểm cực đoan nhất về vấn đề này.

            Tựa đề cuốn sách của Ronald Aronson, Sau chủ nghĩa Marx, kể nhiều về nội dung của nó. Aronson, một nhà Marxist tự thừa nhận, làm rõ rằng chủ nghĩa Marx đã hết thời và rằng các nhà Marxist giờ đây tự  họ xử lý thế giới xã hội và các vấn đề của nó. Quan điểm này dựa trên ý tưởng rằng “dự án Marxian” bao gồm sự hòa hợp giữa lý thuyết và thực hành. Trong khi một số nhà Marxist có thể tiếp tục vay mượn các bộ phận của lý thuyết Marxian, dự án Marxian về sự chuyển hóa từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội đã chết, vì rõ ràng nó đã thất bại ở các đối tượng của nó. Đó là lịch sử, chứ không phải Aronson, đã đưa ra phán xét rằng dự án Marxian đã thất bại. Như vậy, các nhà Marxist tiếp tục vay mượn lý thuyết này đang hủy diệt tổng thể biện chứng về lý thuyết và thực hành đã thiết lập nên dự án Marxian. Sự vỡ vụn này có tính chất nguy hiểm vì cái tạo ra sức hấp dẫn của chủ nghĩa Marx là sự thật rằng nó đã thể hiện một “dự án độc lập có cố kết mạch lạc giữa lý thuyết và thực hành”.

            Nhưng làm sao dự án Marxian có thể qua đời nếu chủ nghĩa tư bản tiếp tục tồn tại và có thể, với cái chết của chủ nghĩa cộng sản, sẽ hùng mạnh hơn bao giờ hết? Thực tế, Aronson nhận ra rằng có nhiều lý luận khác nhau đã được tạo ra với tư cách của ý tưởng rằng chủ nghĩa Marx vẫn còn thích ứng. Ví dụ, ông nhận ra rằng phần lớn mọi người trên khắp thế giới ngày nay trở nên tồi tệ hơn thời kỳ bình minh của chủ nghĩa tư bản và rằng mặc dù có một số biến đổi, cơ cấu bóc lột cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi. Dù cho có những thực tại đó, Aronson lý luận rằng một loạt các chuyển hóa khác nhau phải dẫn chúng ta tới một kết luận rằng các khía cạnh cốt lõi của lý thuyết Marxian đã lỗi thời:

·      Giai cấp công nhân không ngày càng trở nên bần cùng hóa.
·      Cấu trúc giai cấp không đơn giản là hai giai cấp đối cực nhau (tư sản và vô sản).
·      Vì sự chuyển biến của các quá trình sản xuất, con số các công nhân công nghiệp đã bị suy sút, giai cấp công nhân trở nên tản mạn. Và ý thức của họ về hoàn cảnh đã bị xói mòn.
·      Sự hao hụt toàn diện của giai cấp công nhân dẫn tới sự suy tàn trong sức mạnh của nó, trong ý thức giai cấp của nó, và trong khả năng của nó để tiến hành đấu tranh giai cấp.
·      Những người công nhân tự bản thân họ ngày càng ít có các đặc tính của công nhân; họ có các đặc tính đa phương và cạnh tranh nhau, thế nên ngày nay là một công nhân chỉ là một trong nhiều nét đặc tính.

Trong khi chủ nghĩa Marx đã chết như Aronson quan tâm, ông lý luận rằng chúng ta không nên hối tiếc về sự tồn tại của nó, ngay cả với những cái cực đoan nhất (ví dụ, chủ nghĩa Stalin – như đã được ghi nhận ngay trong cái tên của nó). Chủ nghĩa Marx:

đưa tới niềm hy vọng, nó tạo ra nhận thức về thế giới; nó đưa ra hướng đi và ý nghĩa với vô số kiếp người. Khi thế kỷ 20 vĩ đại kêu gọi cầm vũ khí, nó đã thôi thúc nhiệt huyết của hàng triệu người để đứng lên và chiến đấu, để tin rằng nhân loại có thể một ngày kia sắp đặt cuộc đời và thế giới của họ phù hợp với các nhu cầu của họ.

Ngoài các thất bại của chủ nghĩa Marx trong thế giới thực tiễn, Aronson truy tới tiền đề của Marx đối với các vấn đề trong lòng của bản thân lý thuyết. Các vấn đề này ông truy tới sự thật rằng lý thuyết Marx nguyên thủy được tạo ra trong những ngày đầu của thế giới hiện đại và kết qủa là nó chứa đựng một hỗn hợp không thuận lợi các tư tưởng hiện đại và tiền hiện đại. Vấn đề này đã gây khó khăn  cho lý thuyết Marxian suốt lịch sử của nó. Ví dụ, niềm tin mang tính tiên đoán thời tiền hiện đại về sự giải phóng đồng tồn tại với một niềm tin hiện đại vào khoa học và việc tìm kiếm các sự thật: “Bên dưới cái vẻ ngoài khoa học của nó, sự tiên tri có tính giáo điều như thế bộc lộ mối quan hệ tiền hiện đại và sâu thẳm hơn của nó với các tiên đoán có tính chất tôn giáo về một thế giới được cứu chuộc bởi một lực lượng thiêng liêng nằm ngoài sự kiểm soát của chúng ta”. Để lấy một ví dụ khác, chủ nghĩa Marx có xu hướng nhấn mạnh các quá trình khách quan và giảm nhẹ các quá trình chủ quan.

            Aronson bắt đầu một trong các chương của ông với câu phát biểu khiêu khích sau: “Thuyết nữ quyền đã hủy diệt chủ nghĩa Marx”. Ông nhanh chóng làm rõ rằng thuyết nữ quyền không tự chính nó hoàn thành chiến công này. Tuy nhiên, nó đã góp phần vào sự sụp đổ của chủ nghĩa Marx bằng cách đòi hỏi một lý thuyết tập trung vào “sự áp bức phụ nữ  với tư cách là phụ nữ”. Tiêu điểm này rõ ràng đã xói mòn lý thuyết Marxian, mà mục đích là đề ra một lý thuyết có thể áp dụng cho toàn thể nhân loại. Thuyết nữ quyền cũng đã mở ra giai đoạn phát triển của các nhóm khác với đòi hỏi các lý thuyết tập trung vào cảnh ngộ cụ thể của chúng hơn là vào các vấn đề phổ quát của nhân loại.

            Aronson diễn tả các lý thuyết Marxist, như chủ nghĩa Marx phân tích đã thảo luận, là chủ nghĩa Marx mà không có chủ nghĩa Marx. Nghĩa là, chúng là những lý thuyết suông, thiếu sự thực hành, và do đó, theo quan điểm của ông, không nên gọi là chủ nghĩa Marx:

Họ có thể xác quyết cái tên, như chủ nghĩa Marx phân tích đã làm, nhưng họ làm như thế cũng giống như nhiều chủ nghĩa Marx mà không có tính chất chủ nghĩa Marx. Họ đã trở nên bị chuyển hóa quá mức, quá hạn chế, quá hẹp hòi về lý thuyết đến nỗi ngay cả khi những lời và những cam kết của họ có vẻ thật họ cũng chỉ viện dẫn đến tinh hoa của chủ nghĩa Marx, chứ không có gì hơn. Nhưng dù có khơi gợi thế nào, các ý tưởng này không thể làm cho xuất hiện thực tiễn đang tàn phai.
           
            Các lý thuyết Marxian đó sẽ sống sót, nhưng chúng sẽ chiếm một vị trí khá khiêm tốn trong thế giới. Chúng sẽ tiêu biểu cho một tiếng nói lý thuyết trong cả một biển tiếng nói như thế.

            Đưa ra tất cả những điều này, Aronson kết luận rằng các phân tích phê phán về thế giới hiện đại là của chính chúng chứ không phải trên cơ sở xây dựng từ một dự án Marxian. Tuy nhiên, đây là một phúc lành hỗn hợp. Trong khi dự án Marxian có những năng lực khổng lồ, nó cũng là một chiếc vòng kim cô bao quanh cổ của những nhà phân tích phê phán. Những người trước đây từng là người Marxist có nên tìm một Marx mới không? Hoặc là một dự án Marxian mới? Dưới ánh sáng của các phát triển trong xã hội và trong lý thuyết, Aronson cảm thấy rằng câu trả lời cho các câu hỏi trên là không, vì chúng ta đã di động ra “ngoài sự khả dĩ của một dạng chỉnh thể luận, sự hòa hợp, sự cố kết và sự tự tin mà chủ nghĩa Marx đã biểu hiện. Như vậy, ví dụ, thay vì một phong trào cấp tiến riêng lẻ, cái chúng ta phải tìm kiếm ngày nay là một sự liên minh các nhóm và các ý tưởng. Mục tiêu của một liên minh như thế là sự giải phóng thời hiện đại ra khỏi các căng thẳng nội tại đang âm ỉ và các hình thức áp bức khác nhau của nó.

            Một vấn đề đối mặt với các phong trào cấp tiến như thế là không còn niềm hy vọng được chở đi bởi một viễn tượng hấp dẫn về một xã hội không tưởng nào đó ở tương lai. Thế nhưng, phải có một loại chất hàn gắn tình cảm nào đó để kết giữ nó lại và giữ cho nó chuyển động về phía trước. Phong trào phải có một cơ sở đạo đức, một nhận thức về cái gì đúng và cái gì sai. Nó cũng cần có hy vọng, dù là một hy vọng khiêm tốn hơn so với niềm hy vọng mà dự án Marxian đã dựng nên. Mặc dù khiêm tốn, các hy vọng như thế dường như sẽ dẫn tới sự  tỉnh ngộ sâu sắc để định tính dự án Marxian khi nó thất bại trong việc đạt tới các đối tượng xã hội của nó.
           
Các phê phán chủ nghĩa hậu Marx

Trước khi khép lại phần này, cần lưu ý rằng nhiều lý thuyết gia Marxian không vui sướng gì với các phát triển hậu Marxist này (ví dụ, Burawoy, Wood). Ví dụ như Burawoy, tấn công vào các nhà Marxist phân tích vì đã loại trừ vấn đề lịch sử và vì đã tạo ra một sự mê tín vào sự trong lành và sức sống. Weldes phê phán chủ nghĩa Marx phân tích vì đã tự cho phép nó lệ thuộc vào kinh tế học xu hướng chủ đạo, đi theo một cách tiếp cận kỹ thuật, giải quyết vấn đề một cách thuần túy, trở nên ngày càng có tính chất hàn lâm và ít tính chính trị, và nhiều tính chất bảo thủ hơn. Wood chọn ra vấn đề chính trị và phê phán chủ nghĩa Marx phân tích (cũng như chủ nghĩa Marx hậu hiện đại) vì chủ nghĩa ẩn dật chính trị của nó và “chủ nghĩa chủ bại yếm thế, khi mọi chương trình cấp tiến về biến đổi bị kết án là thất bại” của nó. Ngay cả những người ủng hộ của một nhánh của chủ nghĩa Marx phân tích, nghiên cứu thực nghiệm về các tư  tưởng Marxian, cũng bị phê phán vì người anh em của họ về lý thuyết chọn lựa hợp lý, sai lầm trong quan điểm của họ, đi theo một lập trường phương pháp luận chủ nghĩa cá nhân.

            Tác phẩm của Laclau và Mouffe đã chịu sự tấn công đặc biệt nặng nề. Ví dụ, Allen Hunter phê phán họ vì sự tận tụy toàn diện của họ đối với chủ nghĩa duy tâm và, cụ thể hơn, vì “tự đặt họ ở phía cực đoan của phân tích trình bày, xem tất cả mọi thứ  như  sự trình bày”. Tương tự, Geras tấn công Laclau và Mouffe vì chủ nghĩa duy tâm của họ, nhưng ông ta cũng xem họ là ngông cuồng, phóng  đãng, phi logic và theo chính sách ngu dân. Nội dung chính của đáp từ của Laclau và Mouffe cho Geras gắn liền với cái tên của nó “Chủ nghĩa hậu Marxist không có lời xin lỗi”. Burawoy tấn công Laclau và Mouffe  vì “lạc lối trong mạng nhện của lịch sử, nơi mọi thứ đều quan trọng và sự giải thích do đó là không thể được”.

            Cuối  cùng, trái với Aronson, Burawoy tin rằng chủ nghĩa Marx vẫn còn hữu ích trong việc nhận thức các động lực và các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Do vậy, với tiền đề của chủ nghĩa cộng sản và uy thế của chủ nghĩa tư bản toàn cầu, “chủ nghĩa Marx sẽ… một lần nữa, trở lại là chính nó”.

            Có vẻ như chủ nghĩa hậu Marxist sẽ tiếp tục gây ra tranh luận ở cả giới trí thức Marxist và trong cộng đồng trí thức lớn hơn.

TÓM TẮT

            Trong chương này chúng ta đã xem xét một dãy rộng các tiếp cận có thể xếp phân loại là các lý thuyết xã hội học tân Marxian. Tất cả các lý thuyết này đều lấy tác phẩm của Marx làm điểm xuất phát của chúng, nhưng chúng thường đi theo những hướng khác nhau. Dù các phát triển đa dạng đem lại cho lý thuyết tân Marxian một sức sống đáng kể, chúng cũng tạo ra ít nhất một số sự phân biệt và tranh luận không cần thiết và phản chức năng ở tầm mức lớn. Do vậy, công việc của nhà lý thuyết xã hội học Marxian là hòa hợp dãy lý thuyết rộng này trong khi công nhận giá trị của các tác phẩm đặc thù khác nhau.

            Lý thuyết tân Marxian đầu tiên có tính chất lịch sử, nhưng ít có tầm quan trọng ở hiện tại, đặc biệt đối với nhà tư tưởng có định hướng xã hội học, là kinh tế quyết định luận. Nó chống lại quan điểm hạn chế của lý thuyết Marxian rằng các khác biệt đã phát triển. Chủ nghĩa Marx-Hegel, đặc biệt trong tác phẩm của Georg Lukács, là một trong những phản ứng đó. Cách tiếp cận này tìm cách khắc phục các giới hạn trong kinh tế quyết định luận bằng cách quay lại các nguồn gốc chủ quan có tính chất Hegelian của lý thuyết Marxian. Chủ nghĩa Marx-Hegel cũng chỉ có giá trị đương thời, tầm quan trọng của nó chủ yếu nằm trong tác động của nó lên các lý thuyết tân Marxian sau này.

            Trường phái phê phán, là người kế thừa của truyền thống chủ nghĩa Marx-Hegel. Có tầm quan trọng đương thời đối với xã hội học. Các đóng góp lớn lao của các lý thuyết gia phê phán (Marcuse, Habermas, vv..) là những nhận thức nhìn vào văn hóa, ý thức, và các quan hệ hỗ tương của chúng. Các lý thuyết gia này đã nâng cao nhận thức của chúng ta về các hiện tượng văn hóa như sự hợp lý mang tính phương tiện, “nền văn hóa công nghệ”, “công nghệ kiến thức”, hành động thông tin, sự thống trị, và sự chính thống hóa. Họ bổ sung một quan tâm đến ý thức, cơ bản trong hình thức của một sự hòa hợp lý thuyết Freud trong tác phẩm của họ. Tuy nhiên, lý thuyết phê phán đã đi quá xa trong các nỗ lực của nó để bù đắp cho các hạn chế  của kinh tế quyết định luận; nó cần phải khôi phục lại mối quan tâm đối với kinh tế học, thực sự là, đối với các lực lượng xã hội vĩ mô nói chung.

            Kế tiếp chúng tôi đưa ra các thảo luận về hai dòng tác phẩm trong xã hội học kinh tế tân Marxian. Dòng đầu xử lý mối quan hệ giữa tư bản và lao động, đặc biệt là trong các tác phẩm của Baran và Sweetzy và của Braverman. Dòng thứ hai quan tâm đến sự chuyển dịch từ thuyết Ford sang thuyết Sau Ford. Cả hai tập hợp tác phẩm thể hiện các nỗ lực để quay lại một số quan tâm kinh tế truyền thống của xã hội học Marxian. Công việc này có tầm quan trọng vì nó nỗ lực cập nhật xã hội học kinh tế Marxian bằng cách quan tâm đến các thực thể đang nổi lên trong xã hội tư bản đương thời.

            Một quan tâm khác là chủ nghĩa Marx định hướng lịch sử, đặc biệt là tác phẩm của Immanuel Wallerstein và các ủng hộ viên của ông về hệ thống thế giới hiện đại. Chương này khép lại với một phần dành cho cái, mà dưới ánh sáng hứa hẹn của chủ nghĩa cộng sản, có thể được gọi là các lý thuyết hậu chủ nghĩa Marx. Bao gồm dưới cái tên này là nhiều kiểu chủ nghĩa Marx phân tích và lý thuyết Marxian hậu hiện đại. Cũng nằm trong phần này là thảo luận về một ví dụ của kiểu quan điểm của những người Marxist, những kẻ đã buộc phải rời bỏ dự án Marxian dưới ánh sáng của các phát triển trên thế giới.

*******







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét