Thứ Ba, 24 tháng 3, 2020

LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC - GEORGE RITZER - PART 2 - 5




CHƯƠNG 7:
CÁC LÝ THUYẾT TRAO ĐỔI, MẠNG LƯỚI VÀ
CHỌN LỰA HỢP LÝ

LÝ THUYẾT TRAO ĐỔI
Chủ nghĩa hành vi
Lý thuyết chọn lựa hợp lý
Tâm lý học xã hội của nhóm
Lý thuyết trao đổi của George Homans
Lý thuyết trao đổi của Peter Blau
Tác phẩm của Richard Emerson và các môn đồ của ông
LÝ THUYẾT MẠNG LƯỚI
LÝ THUYẾT CHỌN LỰA HỢP LÝ
Sự hợp lý và xã hội
Các nền tảng của Lý thuyết xã hội
Các phê phán


            Trong chương này chúng tôi sẽ tập trung vào ba lý thuyết có liên quan - lý thuyết trao đổi, lý thuyết chọn lựa hợp lý và lý thuyết mạng lưới. Lý thuyết chọn lựa hợp lý là một trong các ảnh hưởng tri thức đã giúp định hình sự phát triển của lý thuyết trao đổi, đặc biệt là xu hướng của nó về giả thiết một actor hợp lý. Tuy nhiên, trong khi lý thuyết trao đổi đương thời tiếp tục chứng tỏ tầm ảnh hưởng của lý thuyết chọn lựa hợp lý, nó cũng chịu ảnh hưởng của các dòng tri thức khác và đã đi theo một chuỗi chiều hướng hợp nhất. Như vậy, các lý thuyết trao đổi và chọn lựa hợp lý không có cùng một nghĩa. Một khác biệt cơ bản là là trong khi các lý thuyết gia chọn lựa hợp lý tập trung vào sự quyết định của cá thể, đơn vị phân tích cơ bản đối với lý thuyết gia trao đổi là mối quan hệ xã hội. Gần đây, các lý thuyết gia trao đổi đã dành nhiều chú ý cho các quan hệ mạng lưới hay xã hội, và tiêu điểm này có xu hướng nối kết chúng với bản thân lý thuyết mạng lưới. Nói tổng quát, không giống như các lý thuyết đã thảo luận ở hai chương trước, các lý thuyết này có cùng một định hướng thực chứng luận.

LÝ THUYẾT TRAO ĐỔI

            Chúng tôi bắt đầu, đi theo Molm và Cook, với một cái nhìn tổng quát lịch sử phát triển của lý thuyết trao đổi, khởi đầu với các nguồn gốc từ chủ nghĩa hành vi của nó.

Chủ nghĩa hành vi

Chủ nghĩa hành vi được phổ biến nhất trong tâm lý học, nhưng trong xã hội học nó vừa có ảnh hưởng trực tiếp tới xã hội học hành vi, vừa có những ảnh hưởng gián tiếp, đặc biệt là đối với lý thuyết trao đổi. Các nhà xã hội học hành vi quan tâm đến mối quan hệ giữa các ảnh hưởng của hành vi của một actor lên môi trường và tác động của chúng đối với hành vi sau đó của actor. Mối quan hệ này là cơ sở của điều kiện tác động có hiệu lực (operant conditioning), hay quá trình học hỏi qua đó “hành vi được bổ sung bởi các hệ quả của nó”. Người ta có thể hầu như nghĩ về hành vi này ít nhất là nó khởi nguồn từ đứa bé sơ sinh, như là một hành vi ngẫu nhiên. Môi trường trong đó hành vi tồn tại, về mặt vật chất hay xã hội, chịu ảnh hưởng bởi hành vi này, và tới lượt nó, lại “hành động” đáp trả theo nhiều cách khác nhau. Phản ứng đó - tích cực, tiêu cực hay trung tính - ảnh hưởng lên hành vi sau đó của actor. Nếu phản ứng đó gây đau đớn hay có tính chất trừng phạt, hành vi có vẻ sẽ không xảy ra trong tương lai nữa. Nhà xã hội học hành vi nói rằng các hệ quả quá khứ của một hành vi đưa ra điều khiển trạng thái hiện tại của nó. Nhờ biết được cái đã gợi ra một hành vi nhất định trong quá khứ, chúng ta có thể dự đoán một actor có tạo ra một hành vi tương tự trong hoàn cảnh tương lai hay không.

            Quan tâm lớn nhất của các nhà hành vi học là các tưởng thưởng đền bù và giá phải trả (hay những sự trừng phạt). Các tưởng thưởng được xác định bởi khả năng của chúng trong việc củng cố (nghĩa là, thúc đẩy) hành vi, trong khi giá phải trả giảm thiểu khả năng tồn tại của hành vi. Như chúng ta sẽ thấy, chủ nghĩa hành vi nói chung, và các ý tưởng về các tưởng thưởng, giá phải trả nói riêng, đã có một tác động mạnh mẽ đến lý thuyết trao đổi thời kỳ đầu.

     Lý thuyết chọn lựa hợp lý

            Các nguyên tắc cơ bản của lý thuyết chọn lựa hợp lý phát sinh từ kinh tế học tân cổ điển (cũng như chủ nghĩa tiện ích và lý thuyết trò chơi), Dựa vào một loạt các kiểu mẫu khác nhau, Friedman và Hechter đã xếp chung cái mà họ diễn tả như    một mô hình “bộ xương” của lý thuyết chọn lựa hợp lý (CLHL).

            Tiêu điểm của thuyết CLHL là các actor. Các actor được xem là có các mục đích hay mục tiêu về cái mà hành động của họ hướng tới. Các actor cũng được xem là có các sở thích (như các giá trị, các tiện ích). Thuyết CLHL không quan tâm đến tính chất các sở thích này, hay các nguồn của chúng. Cái quan trọng là hành động được thực hiện để đạt được các đối tượng phù hợp với hệ thống sở thích của actor.

            Mặc dù thuyết CLHL bắt đầu với các mục đích hay dự định của actor, nó phải quan tâm đến  ít nhất là hai sự kềm hãm đối với hành động. Đầu tiên là sự hiếm hoi của các tiềm năng. Các actor có các tiềm năng khác nhau cũng như các cách thâm nhập khác nhau vào các tiềm năng khác. Đối với những người có nhiều tiềm năng, thành quả cuối cùng có thể tương đối dễ. Tuy nhiên, đối với những người có ít tiềm năng, sự đạt được mục đích có thể khó khăn hoặc là bất khả.

            Liên quan tới sự  hiếm hoi các tiềm năng là ý tưởng về các giá phải trả của cơ hội, hay “các giá đó gắn liền với chuỗi hành động lôi cuốn nhất kế tiếp”. Trong việc theo đuổi một mục đích đưa ra, các actor phải để mắt tới cái giá của hành động lôi cuốn nhất kế tiếp của họ. Một actor có thể, chọn cách không theo đuổi mục đích có giá trị cao nhất nếu tiềm năng của cô ta không đáng kể, nếu kết quả là các cơ may để đạt được mục đích đó quá mỏng manh, và nếu trong việc cố gắng để đạt tới mục đích đó cô ta hủy hoại các cơ may đạt được mục đích giá trị nhất kế tiếp của mình. Các actor được xem là cố gắng tối đa hóa các điều lợi của họ, và mục tiêu đó có thể bao gồm việc đánh giá mối quan hệ giữa các cơ may đạt được một mục đích sơ khởi, và điều mà thành tựu đó thực hiện đối với các cơ may để đạt được đối tượng giá trị nhất thứ hai.

            Một nguồn kềm hãm thứ hai lên hành động của cá thể là các thể chế xã hội. Như Friedman và Hechter xác định, một cá thể sẽ một cách khuôn sáo

tìm ra các hành động của anh ta được kiểm lại từ  đầu đến cuối bởi các nguyên tắc gia đình và trường học; các luật lệ và các mệnh lệnh; các chính sách cứng rắn: các nhà thờ, giáo đường Do Thái, nhà thờ Hồi Giáo; và các bệnh viện và các nhà mai táng. Bằng cách hạn chế tập hợp các hành động có sẵn cho các cá thể, các luật chơi có tính cưỡng ép - bao gồm các tiêu chí, các quy luật, các lịch trình, các nguyên tắc bầu chọn - ảnh hưởng một cách có hệ thống tới các kết quả xã hội.

Các kềm hãm có tính thể chế này đưa ra  cả các hình phạt tích cực và tiêu cực giúp cho việc động viên các hành động nhất định và khước từ các hành động khác.

            Friedman và Hechter liệt kê hai ý tưởng khác mà họ coi là cơ sở cho thuyết CLHL. Đầu tiên là một tập hợp cơ cấu, hay quá trình qua đó “các hành vi cá thể riêng biệt được kết hợp để tạo ra kết quả xã hội”. Thứ hai là nhận thức đang lớn dần về tầm quan trọng của thông tin trong việc thực hiện các chọn lựa hợp lý. Ở mỗi thời điểm, giả sử rằng các actor có các thông tin hoàn hảo, hay tối thiểu là đầy đủ để thực hiện các chọn lựa theo mục đích giữa các chuỗi hành động có thể thế nhau bỏ ngõ cho anh ta. Tuy nhiên, có một nhận thức lớn dần rằng phẩm chất hay số lượng của các thông tin có sẵn rất khác biệt đa dạng và sự đa dạng có một ảnh hưởng sâu sắc tới các chọn lựa của actor.

            Điều này, như Friedman và Hechter làm rõ, không là gì khác hơn một phác họa cốt lõi của thuyết CLHL, nhưng nó sẽ đáp ứng đủ cho các mục đích hiện tại của chúng tôi. Ít nhất là ở các thông tin đầu tiên của nó, thuyết trao đổi chỉ chịu ảnh hưởng của một thuyết hợp lý sơ khai, ở cuối chương này, khi xử lý sâu hơn với thuyết CLHL, chúng tôi sẽ xử lý một số phức tạp lớn hơn gắn liền với nó.

            Tâm lý xã hội của nhóm

            Mặc dù tác phẩm của Thibaut và Keeley chỉ được xuất bản  một năm sau khi George Homans (người sáng lập ra thuyết trao đổi hiện đại)  xuất bản tiểu luận “Hành vi xã hội với ý nghĩa là sự trao đổi” của ông, và hai năm trước khi cuốn sách có cùng tên của Homans được công bố, nó đã  không nhận được một chú ý cỏn con nào so với mức độ chào đón tác phẩm của Homans của các nhà xã hội học. Theo quan điểm của Molm và Cook, sự thiếu quan tâm tới tác phẩm của Thibaut và Kelley có thể truy nguyên tới nguồn gốc tâm lý học của nó, dù họ cũng coi tác phẩm tác phẩm của Thibaut và Kelley ít nhất theo một số cách thức nào đó có tính chất xã hội học nhiều hơn thuyết trao đổi của Homas.

            Phần lớn phần Tâm lý học xã hội của nhóm dành cho các quan hệ nhóm hai người. Thibaut và Kelley tập trung chú ý vào sự tương tác và tầm quan trọng của nó đối với các thành viên trong nhóm hai người. Như trong chủ nghĩa hành vi (dù tác phẩm của họ cho thấy ít có ảnh hưởng trực tiếp của chủ nghĩa hành vi) và thuyết trao đổi, các tưởng thưởng và sự trả giá là trung tâm đối với phân tích của Thibaut và kelley về các quan hệ hai người:

Các vị trí tưởng thưởng-trả giá mà các thành viên của một nhóm đôi có thể đạt được trong mối quan hệ sẽ tốt hơn, nếu (1) hành vi mỗi người có thể tạo ra nhiều tưởng thưởng hơn cho người kia là (2) một hành vi như thế có thể được tạo ra với mức trả giá ít hơn. Nếu cả hai người đều có thể tạo ra sự tưởng thưởng tối đa cho người kia ở mức giá thấp nhất cho bản thân họ, mối quan hệ không chỉ cung cấp cho mỗi người các vị trí tưởng thưởng-trả giá xuất sắc mà còn có thêm một thuận lợi là cả hai người sẽ có thể đạt được các vị trí tốt nhất của họ cùng một lúc.

Molm và Cook lý luận rằng ba khía cạnh của lý thuyết Thibaut và Kelley có tầm quan trọng cụ thể đối với sự phát triển của thuyết trao đổi. Trước hết là quan tâm của họ vào quyền lực và sự phụ thuộc, một vấn đề đã trở thành trung tâm đối với Emerson và môn đồ của ông. Thibaut và Kelley xem quyền lực phát sinh từ  khả năng của một actor trong một nhóm đôi trong việc ảnh hưởng đến phẩm chất của kết quả đạt được bởi người kia. Họ phân biệt hai kiểu quyền lực. Thứ nhất là sự kiểm soát mang tính định mệnh, xảy ra khi actor A có thể ảnh hưởng đến kết quả của actor B, “bất kể B làm cái gì”. Thứ hai là sự kiểm soát hành vi: “Nếu, bằng cách thay đổi hành vi của mình, A có thể làm cho B cũng muốn thay đổi hành vi của anh ta, khi đó A có sự kiểm soát hành vi đối với B”. Trong một nhóm đôi, cả hai thành viên đều phụ thuộc vào mối quan hệ. Kết quả là, mỗi người có quyền lực đối với người kia ở một mức độ nhất định Sự đồng phụ thuộc này hạn chế tổng số quyền lực một người có thể thực hiện đối với người kia.

            Quan tâm chủ yếu thứ hai có liên quan đến ý tưởng về cấp độ so sánh (Comparison Level -CL) và cấp độ so sánh đối với các lựa chọn (Comparison Level for alternatives - CL-alt). Cả hai đều là tiêu chuẩn để đánh giá kết quả của các mối quan hệ. CL là tiêu chuẩn qua đó một actor  quyết định một quan hệ có thu hút hay thỏa đáng không. Tiêu chuẩn này thường dựa trên cái mà actor nghĩ là mình xứng đáng từ quan hệ đó. Các mối quan hệ  nằm bên trên CL được cho là thỏa mãn; rơi xuống dưới CL là không thỏa mãn. Sự quyết định vị trí của CL tùy thuộc vào kinh nghiệm cá nhân hay kinh nghiệm biểu tượng với tổng thể các kết quả mà actor biết. CL-alt là tiêu chuẩn được sử dụng bởi một actor để quyết định nên hay không nên giữ nguyên một quan hệ. Khi kết quả rơi xuống dưới CL-alt, actor sẽ từ bỏ mối quan hệ.  Sự quyết định cấp độ của CL-alt tùy thuộc vào cái tốt nhất - nghĩa là các lựa chọn có tưởng thưởng cao nhất và ít trả giá nhất đối với một actor. Molm và Cook lý luận rằng loại tư duy này cung cấp cơ sở cho một số tư tưởng của Emerson về mạng lưới xã hội: “Dù Thibaut và Kelley tập trung cơ bản trên nhóm đôi và không bao giờ phát triển khái niệm về các lựa chọn vào ý tưởng về các mạng lưới xã hội, trong đó các actor có các đối tác trao đổi lựa chọn, khái niệm về CL-alt đặt nền tảng cho Emerson làm điều đó sau này”.

            Đóng góp quan trọng thứ ba của Thibaut và Kelley đối với thuyết trao đổi là nhận thức của họ về “ma trận kết quả”, một phương cách để phác họa một cách hiển hiện “mọi sự kiện khả dĩ có thể xảy ra trong tương tác giữa A và B”. Hai cạnh của ma trận là mọi mục trong mục lục hành vi của A và B. Trong mỗi ô của ma trận được cho vào “các kết quả, theo nghĩa các tưởng thưởng đạt được và các trả giá đối với mỗi cá nhân của bộ phận cụ thể đó của tương tác”. Ma trận này được sử dụng trong những năm 1960 và 1970 trong nghiên cứu  những thứ như sự trả giá và sự hợp tác để xử lý các khuôn mẫu phụ thuộc lẫn nhau, và khảo sát này, tới lượt nó, “cung cấp sự thúc đẩy cho các nghiên cứu phức tạp hơn về trao đổi xã hội sau này”.

            Trong khi tác phẩm của Thibaut và Kelley quan trọng ở thời đại của nó, và có lẽ thậm chí còn có tầm quan trọng lâu dài, chính tác phẩm của Homans và sau đó của Peter Blau thực sự giúp cho việc xác định thuyết trao đổi trong nhiều thập kỷ.

            Thuyết trao đổi của George Homans

Trung tâm của thuyết trao đổi Homans nằm trong một tập hợp các định đề chủ yếu. Dù một số định đề của Homans xử lý ít nhất là hai cá thể tương tác, ông cẩn thận chỉ ra rằng các định đề này dựa trên cơ sở các nguyên tắc tâm lý học. Theo Homans, chúng có tính chất tâm lý học vì hai lý do. Thứ nhất, “chúng thường được phát biểu và được kiểm chứng bằng thực nghiệm bởi những người tự gọi họ là các nhà tâm lý học”. Thứ hai, và quan trọng hơn, chúng có tính chất tâm lý học vì cấp độ mà chúng xử lý cá thể trong xã hội: “Chúng là các định đề về hành vi của cá thể con người hơn là các định đề về các nhóm hay các xã hội; và hành vi của những con người, với tư cách những con người, nói chung là được xem là lĩnh vực của tâm lý học”. Kết quả của lập trường này là Homans thừa nhận là “cái mà người ta đã gọi là - và nó là một cụm từ  khó chịu - một nhà giản hóa luận tâm lý”. Giản hóa luận, theo Homans là “quá trình chỉ ra các định đề của một khoa học được mệnh danh (trong trường hợp này là xã hội học) xét về mặt logic  xuất phát từ các định đề tổng quát hơn của một khoa học được mệnh danh khác (trong trường hợp này là tâm lý học).

            Dù Homans đặt vấn đề về các nguyên tắc tâm lý học, ông không nghĩ về các cá thể như  là bị cách biệt. Ông nhận ra rằng mọi người có tính chất xã hội và dành một phần đáng kể thời gian của họ cho việc tương tác với những người khác. Ông cố gắng giải thích hành vi xã hội với các nguyên tắc tâm lý học: “cái mà quan điểm (của Homans) giả đoán là các định đề chung của tâm lý học, là các định đề về các ảnh hưởng lên hành vi con người của các kết quả theo đó, không biến đổi khi các kết quả đến từ những người khác hơn là từ môi trường vật chất”. Homas không phủ nhận lập trường của Durkheim rằng có một cái gì đó mới nảy sinh từ sự tương tác. Thay vì thế, ông lý luận rằng các thuộc tính của những cái nảy sinh đó có thể được giải thích bởi các nguyên tắc tâm lý học; không cần phải có các định đề xã hội học mới để giải thích các sự kiện xã hội. Ông sử dụng khái niệm cơ bản của xã hội học về một tiêu chí như sự minh họa sau đây:

Ví dụ lớn về một sự kiện xã hội là một tiêu chí xã hội, và các tiêu chí của các nhóm tất nhiên kềm hãm sự tuân thủ về hành vi của nhiều cá thể thuộc vào các nhóm đó. Vấn đề không phải là sự tồn tại của kềm hãm, nhưng là việc giải thích nó...Tiêu chí không kềm hãm một cách tự động: các cá thể tuân thủ bởi vì họ nhận thức rằng họ tuân thủ là vì sự thuận lợi của hệ thống của họ, và chính tâm lý học xử lý sự ảnh hưởng lên hành vi của thuận lợi được nhận thức đó.

            Trong nhiều ấn phẩm, Homans kê chi tiết một chương trình để, theo cách nói của ông “mang con người trở lại” xã hội học, nhưng ông cũng cố gắng phát triển một lý thuyết tập trung vào tâm lý học, mọi người và “các hình thái nguyên sơ của đời sống xã hội”. Theo Homans, lý thuyết này “đối diện với hành vi xã hội như là một sự trao đổi hoạt động, hữu hình hoặc vô hình, và ít hay nhiều có tính chất tưởng thưởng hay trả giá, giữa ít nhất là hai cá nhân”.

            Ví dụ, Homans tìm cách lý giải sự phát triển máy truyền động trong công nghệ dệt, và theo đó là cuộc cách mạng công nghệ, thông qua nguyên tắc tâm lý học rằng mọi người có vẻ như hành động theo một cách thức nào đó để gia tăng sự tưởng thưởng của họ. Nói chung hơn, trong phiên bản thuyết trao đổi của ông, ông tìm cách giải thích hành vi xã hội nguyên thủy trong phạm vi các tưởng thưởng và các trả giá. Ông bị thôi thúc một phần bởi các lý thuyết CNCT của Talcott Parsons, người “bạn bè và đồng nghiệp” của ông. Ông lý luận rằng các lý thuyết đó “có mọi đức tính ngoại trừ việc giải thích bất cứ cái gì”. Đối với Homans, các nhà CNCT không làm gì hơn ngoài việc sáng tạo ra các lược đồ và các phạm trù khái niệm. Homans thừa nhận rằng một môn xã hội học khoa học cần có các phạm trù đó, nhưng xã hội học “cũng cần một tập hợp các định đề tổng quát về các quan hệ giữa  các phạm trù, vì không có các định đề đó, không thể có sự lý giải. Không có sự lý giải nếu không có các định đề!”. Do đó, Homans tự  đặt cho mình nhiệm vụ phát triển các định đề tập trung ở cấp độ tâm lý học;  các định đề này tạo thành nền tảng cho lý thuyết trao đổi.

            Trong cuốn Hành vi xã hội: Các hình thái nguyên sơ của nó, Homans cho biết lý thuyết trao đổi của ông phát sinh từ cả tâm lý học hành vi và kinh tế học sơ khai (thuyết CLHL). Thực tế, Homans tiếc rằng lý thuyết của ông bị đặt tên là “thuyết trao đổi” vì ông xem nó như là một môn tâm lý học hành vi được áp dụng vào các hoàn cảnh cụ thể. Homans bắt đầu với một thảo luận về một bản mẫu của nhà mô hình hành vi, B.F. Skinner, nói riêng là nghiên cứu của Skinner về loài chim bồ câu:

Vậy, giả sử rằng một con chim câu mới hay còn ngây ngô đang ở trong lồng của nó trong phòng thí nghiệm. Một trong những mục trong mục lục hành vi bẩm sinh của nó mà nó sử dụng để khám phá môi trường là chiếc mỏ. Khi nó đi lại trong lồng và mổ lung tung, có thể  nó mổ nhằm một vòng hồng tâm mà ở điểm đó, nhà tâm lý học, hoặc một máy tự động, đưa vào hạt thức ăn cho nó, Chứng cứ là khả năng của con chim để phát lộ hành vi một lần nữa -khả năng, về việc nó không chỉ mổ lung tung mà mổ vào hồng tâm - tăng lên. Theo cách nói của Skinner, hành vi mổ vào hồng tâm của con chim bồ câu là một tác động có hiệu lực (operant), tác động có hiệu lực đã được củng cố; hạt ngũ cốc là cái củng cố; và con chim đã thực hiện một điều kiện tác động có hiệu lực (operant conditioning). Nếu chúng ta thích ngôn ngữ của chúng ta  là thứ tiếng Anh thông thường, chúng ta có thể nói rằng con chim đã hiểu việc mổ vào hồng tâm sẽ được tưởng thưởng.

Trong ví dụ này, Skinner chú ý đến chim bồ câu; còn quan tâm của Homans là về con người. Theo Homans, những con chim của Skinner không thực hiện một quan hệ trao đổi thực sự với nhà tâm lý học. Nó chỉ thực hiện một cuộc trao đổi một chiều, trong khi các trao đổi của con người ít nhất là hai chiều. Con chim được động viên bởi những hạt ngũ cốc, nhưng nhà tâm lý học không thực sự được động viên gì bởi các cú mổ của con chim. Con chim đang thực hiện cùng một loại quan hệ với nhà tâm lý học như nó thực hiện với môi trường vật chất. Vì không có sự trao đổi qua lại, Homans xác định đây là hành vi cá thể. Homans dường như  loại trừ kiểu nghiên cứu hành vi này ở nhà tâm lý học, trong khi ông kêu gọi nhà xã hội học nghiên cứu hành vi xã hội “nơi mà hoạt động của mỗi một trong ít nhất là hai cá thể thúc đẩy (hay trừng trị) hoạt động của cá thể kia, và do đó có ảnh hưởng tới nhau”. Tuy nhiên, quan trọng là, theo Homans, không cần phải có các định đề mới để lý giải hành vi xã hội ở nghĩa ngược lại với hành vi cá thể. Các quy luật của hành vi cá thể được phát triển bởi Skinner trong nghiên cứu loài chim câu của ông cũng giải thích cho hành vi xã hội miễn là chúng ta quan tâm tới những phức tạp của sự thúc đẩy đa phương. Homans thừa nhận rằng cuối cùng ông đã đi ra ngoài các nguyên tắc phát sinh bởi Skinner, nhưng chỉ là bất đắc dĩ.

            Trong tác phẩm lý thuyết của ông, Homans hạn chế bản thân với sự tương tác xã hội hàng ngày. Tuy nhiên, rõ ràng rằng ông tin rằng một xã hội học xây dựng theo các nguyên tắc của ông cuối cùng sẽ có thể giải thích mọi hành vi xã hội. Đây là trường hợp Homans sử dụng để minh họa cho kiểu quan hệ trao đổi mà ông chú ý:

Giả sử rằng hai người đang làm bài tập trong một văn phòng, Theo các nguyên tắc văn phòng, mỗi người phải tự làm công việc của mình, hoặc nếu cần giúp đỡ, anh ta phải tham khảo ý kiến người giám thị. Một trong hai người, chúng ta sẽ gọi là Person, không giỏi lắm và chỉ làm tốt và nhanh hơn nếu được giúp đỡ liên tục. Dù các nguyên tắc, anh ta miễn cưỡng đi tới người giám thị để thú nhận sự bất tài của anh ta có thể làm anh ta mất cơ may được thăng cấp. Thay vì anh ta tìm một người khác, mà ta gọi tắt là Other để nhờ giúp đỡ. Other có nhiều kinh nghiệm về công việc này hơn Person, anh ta có thể làm tốt và nhanh chóng và còn thừa thời gian trống, và anh ta có lý do để cho rằng người giám thị sẽ không đi ra khỏi chỗ để tìm một sự vi phạm. Other giúp đỡ Person và đổi lại, Person cám ơn Other và thể hiện sự bằng lòng. Hai người này đã trao đổi nhau sự giúp đỡ và sự bằng lòng.

            Dù Homans cuối cùng xử lý hành vi xã hội phức tạp hơn, lúc đầu ông hướng thuyết trao đổi của mình tới cấp độ này. Tập trung vào loại hoàn cảnh này, và dựa các ý tưởng của ông vào các phát hiện của Skinner, Homas đã phát triển nhiều định đề. Đó là cơ sở của thuyết trao đổi của ông về hành vi xã hội.

            Định đề Thành công

Đối với mọi hành động do các cá nhân thực hiện, một hành động cụ thể của một cá nhân càng được tưởng thưởng nhiều, càng có khả năng cá nhân sẽ thực hiện hành vi đó.

            Trong phạm vi ví dụ của Homans về Person-Other trong hoàn cảnh một văn phòng, định đề này có nghĩa là một cá nhân có vẻ sẽ yêu cầu mọi người khác khuyên bảo nếu anh ta đã được tưởng thưởng trong quá khứ vì một lời khuyên có ích. Hơn nữa, một cá nhân càng thường nhận được lời khuyên có ích trong quá khứ, anh ta càng thường yêu cầu thêm nhiều lời khuyên. Tương tự, một cá nhân khác sẽ sẵn lòng đưa ra lời khuyên và đưa ra thường xuyên hơn nếu anh ta thường nhận được tưởng thưởng là sự bằng lòng trong quá khứ. Nói chung, hành vi  đi cùng với định đề thành công bao gồm ba giai đoạn: đầu tiên, một hành động của cá nhân; kế tiếp, một kết quả tưởng thưởng; và cuối cùng, một sự lặp lại hành động nguyên thủy hay ít nhất một hành động tương tự ở một vài khiá cạnh nào đó.

            Homans cụ thể hoá một số điều về định đề thành công. Trước hết, dù nhìn chung đúng là các tưởng thưởng gia tăng một cách thường xuyên dẫn tới sự gia tăng các hành động thường xuyên, sự trao đổi qua lại này không diễn tiến một cách vô hạn định. Ở một điểm nào đó, các cá thể đơn giản là không thể hành động theo cách đó một cách thường xuyên. Thứ hai, khoảng cách giữa sự tưởng thưởng và hành vi càng ngắn, càng có khả  năng là cá nhân lặp lại hành vi đó. Đảo lại, các  khoảng cách dài giữa hành vi và sự tưởng thưởng giảm đi khả năng lặp lại của hành vi. Cuối cùng, quan điểm của Homans là các tưởng thưởng gián đoạn có khả năng gợi ra hành vi lặp lại hơn là các tưởng thưởng thường xuyên. Các tưởng thưởng thường xuyên dẫn tới sự chán nản và thoả mãn, trong khi các tưởng thưởng đôi khi bị gián đoạn (như trong trò cờ bạc) lại rất có khả năng gợi ra sự lặp lại hành vi.

            Định đề Kích thích

Nếu trong quá khứ sự xảy ra của một kích thích cụ thể, hay tập hợp các kích thích, đã là cơ hội trên đó hành động của một cá nhân  được sự tưởng thưởng, thì kích thích hiện tại càng giống với kích thích quá khứ, càng có khả năng cá nhân sẽ thực hiện hành động đó, hay một hành động tương tự.

Một lần nữa chúng ta nhìn vào ví dụ văn phòng của Homans: Nếu, trong quá khứ, Person và Other thấy việc cho và nhận lời khuyên được tưởng thưởng, thì họ có khả năng sẽ thực hiện các hành động tương tự  trong các hoàn cảnh tương tự trong tương lai. Homans đưa ra một ví dụ trần tục hơn: “Một người đánh cá ném chài xuống một cái ao tối và đã bắt được một con cá trở nên có xu hướng đánh cá ở các ao tối lần nữa”.

            Homans chú ý đến quá trình khái quát hoá, nghĩa là xu hướng mở rộng hành vi tới các hoàn cảnh tương tự. Ở ví dụ đánh cá, một khiá cạnh của sự khái quát hoá là đi từ đánh cá ở các ao tối sang đánh cá ở bất kỳ cái ao nào với một mức độ bóng râm bất kỳ nào. Tương tự, sự thành công trong đánh cá sẽ dẫn từ một kiểu đánh cá  này sang một kiểu đánh cá khác (ví dụ từ nước ngọt sang nước mặn) hay thậm chí từ đánh cá sang săn bắn. Nghĩa là, actor chỉ có thể đánh cá dưới các hoàn cảnh cụ thể đã chứng tỏ rằng có thành công trong quá khứ. Nếu các điều kiện dưới đó sự thành công xảy ra quá phức tạp, khi đó các điều kiện tương tự có thể không kích thích hành vi. Nếu các kích thích chủ yếu xảy ra quá lâu trước khi hành vi được đòi hỏi, vậy nó có thể không thực sự kích thích hành vi đó. Một actor có thể trở nên  nhạy cảm thái quá đối với kích thích, đặc biệt khi chúng rất có giá trị đối với actor. Thực tế, actor có thể phản ứng với các kích thích không thích hợp, ít nhất cho tới khi hoàn cảnh được điều chỉnh bởi các sai sót  lặp lại. Tất cả  những điều này bị ảnh hưởng bởi sự nhanh nhẹn hay sự chú ý của actor đối với các kích thích.

            Định đề Giá trị

Kết quả của hành động của một cá nhân càng có giá trị đối với anh ta, càng có khả năng anh ta sẽ thực hiện hành động đó.

            Trong ví dụ ở văn phòng nói trên, nếu sự tưởng thưởng mỗi người đem lại cho người    kia được coi là có giá trị, khi đó các actor có vẻ sẽ muốn thực hiện những hành vi được kỳ vọng hơn nếu nó vô giá trị. Ở điểm này, Homans giới thiệu các khái niệm về sự tưởng thưởng và sự trừng trị. Các tưởng thưởng là các hành động có các giá trị tích cực. Các sự trừng trị là các hành động có các giá trị tiêu cực; sự gia tăng các trừng trị có nghĩa là actor ít có khả năng biểu lộ các hành vi được kỳ vọng. Homans thấy các trừng trị là một phương tiện không hoàn hảo để làm cho mọi người thay đổi hành vi của họ, vì mọi người có thể phản ứng theo những cách thức không được mong đợi đối với sự trừng trị. Đơn giản hơn là không tưởng thưởng cho hành vi không mong đợi; khi đó hành vi như thế cuối cùng sẽ bị  loại trừ. Các tưởng thưởng rõ ràng được thích hơn, nhưng chúng có thể ít được cung ứng hơn. Homans làm rõ rằng lý thuyết của ông không phải là một thứ khoái lạc chủ nghĩa; các tưởng thưởng có thể hoặc là về vật chất ( ví dụ tiền) hoặc là có tính vị tha (sự giúp đỡ người khác).

            Định đề Thiếu thốn-Thỏa mãn

Một cá nhân càng thường nhận được một tưởng thưởng cụ thể trong một quá khứ gần, tưởng thưởng đó càng trở nên có ít giá trị đối với anh ta.     

Trong văn phòng, Person và Other có thể tưởng thưởng lẫn nhau rất thường để cho và nhận lời khuyên đến nỗi các tưởng thưởng không còn giá trị đối với họ nữa. Ở đây, thời gian là điều chủ yếu; mọi người có vẻ trở nên thoả mãn nếu các tưởng thưởng kéo dài trong suốt một quảng thời gian lâu.

            Ở điểm này, Homans xác định hai khái niệm phê phán: giá phải trả và mối lợi. Giá phải trả (cost) của một hành vi bất kỳ là các tưởng thưởng bị đánh mất trong các tuyến hành động chọn lựa đang diễn tiến. Mối lợi (profit) trong trao đổi xã hội được xem là con số lớn hơn của các tưởng thưởng có được so với các trả giá phải chịu. Khái niệm nói sau dẫn Homans tới chỗ viết lại định đề thiếu thốn-thoả mãn là “Mối lợi mà một cá nhân nhận được như là kết quả của hành động của anh ta càng lớn, càng có khả năng anh ta anh ta sẽ thực hiện hành động”.

Các định đề Gây hấn-Bằng lòng

Định đề A: Khi hành động của một cá nhân không nhận được tưởng thưởng mà anh ta mong đợi, hay lại nhận được sự trừng trị mà anh ta không mong đợi, anh ta sẽ nổi giận; anh ta  trở nên có khả năng thực hiện hành vi gây hấn và các kết quả của hành vi đó có giá trị hơn đối với anh ta.

            Trong trường hợp ở văn phòng, nếu Person không nhận được lời khuyên anh ta mong đợi và Other không nhận được lời ca ngợi anh ta chờ đón, khi đó cả hai sẽ có khả năng nổi giận. Chúng ta ngạc nhiên khi thấy các khái niệm về thất vọng và giận dữ trong tác phẩm của Homans, vì chúng dường như chỉ các trạng thái tinh thần. Thực tế, Homans thừa nhận rằng: “Khi một cá nhân không có được cái anh ta mong đợi, anh được cho là bị thất vọng. Một người thuần túy chủ nghĩa hành vi sẽ không nói gì tới sự kỳ vọng gì cả, vì từ này dường như chỉ tới một trạng thái tinh thần”. Homans đi tới lý luận rằng sự thất vọng về các kỳ vọng như thế không cần phải nói tới “duy nhất” một trạng thái nội tại. Nó cũng có thể chỉ tới “các sự kiện ngoại vi tổng thể”, có thể quan sát thấy không chỉ bởi Person mà cả những người ngoài.

            Định đề A về gây hấn-bằng lòng chỉ tới duy nhất các cảm xúc tiêu cực, trong khi định đề B xử lý các cảm xúc tích cực hơn:

Định đề B: Khi hành động của một cá nhân nhận được tưởng thưởng anh ta kỳ vọng; đặc biệt là một tưởng thưởng lớn hơn anh ta mong đợi, hoặc không nhận một sự trừng trị anh ta mong đợi, anh ta sẽ hài lòng; anh ta trở nên có khả năng hơn để thực hiện hành vi bằng lòng, và các kết quả của hành vi đó trở nên có giá trị hơn đối với anh ta.

Ví dụ, ở văn phòng, khi Person nhận được lời khuyên mà anh ta mong đợi và Other nhận được lời ca ngợi mà anh ta mong đợi, cả hai đều bằng lòng và có vẻ sẽ nhận và cho lời khuyên nhiều hơn. Lời khuyên và lời ca ngợi trở nên có giá trị hơn đối với mỗi người.

            Định đề Hợp lý

Trong việc chọn lựa giữa các hành động có thể lựa chọn, một cá nhân sẽ chọn cái mà, theo nhận thức của anh ta vào lúc đó, giá trị (value), V, của kết quả, được nhân lên bởi khả năng (probability), p, của việc nhận kết quả, là lớn nhất.

Trong khi các định đề trước dựa vào chủ nghĩa hành vi, định đề sự hợp lý chứng tỏ rõ ràng nhất ảnh hưởng của thuyết CLHL lên cách tiếp cận của Homans. Trong phạm vi kinh tế, các actor hành động theo định đề hợp lý để tối đa hoá các lợi ích của họ.

            Về cơ bản, mọi người kiểm tra và tính toán về các hành động có thể chọn lựa khác nhau bỏ ngõ đối với họ. Họ so sánh số lượng tưởng thưởng gắn liền với mỗi chuỗi hành vi. Họ cũng tính toán khả năng họ sẽ thật sự nhận được tưởng thưởng. Các tưởng thưởng giá trị cao sẽ bị giảm giá trị nếu các actor nghĩ là họ không có khả năng đạt được chúng. Mặt khác, các tưởng thưởng kém giá trị hơn sẽ được nâng cao nếu chúng được coi là có khả năng cao để đạt tới. Như vậy, có một sự tương tác giữa giá trị của sự tưởng thưởng và khả năng để đạt được. Các tưởng thưởng đáng ao ước nhất là những cái vừa có giá trị cao và có khả năng đạt được cao. Các tưởng thưởng ít được ao ước là những cái không có giá trị lắm và có vẻ như không thể đạt được.

            Homans quan hệ định đề hợp lý với các định đề thành công, kích thích và giá trị. Định đề hợp lý bảo cho chúng ta mọi người sẽ thực hiện một hành động hay không dựa vào các nhận thức của họ về khả năng thành công. Nhưng cái gì quyết định các nhận thức này? Homans lý luận rằng các nhận thức rằng các cơ hội thành công là cao hay thấp được định hình bởi các thành công trong quá khứ và tính chất tương tự của hoàn cảnh hiện tại đối với các hoàn cảnh thành công trong quá khứ. Định đề hợp lý cũng không bảo cho ta biết tại sao một actor định giá trị của một tưởng thưởng hơn các cái khác; điều này phải cần đến định đề giá trị. Theo những cách này, Homans liên kết nguyên tắc hợp lý của ông với các định đề có tính chất hành vi luận.

            Cuối cùng, lý thuyết Homans có thể được cô đọng lại thành một quan điểm về actor như là một kẻ tìm kiếm mối lợi một cách hợp lý. Tuy nhiên, lý thuyết Homans yếu về các trạng thái tinh thần và các cấu trúc vĩ mô. Ví dụ, về ý thức Homans thừa nhận sự cần thiết đối với một “môn tâm lý học phát triển toàn diện hơn”.

            Dù có những yếu kém đó, Homans vẫn là một nhà hành vi học làm việc một cách cương quyết ở cấp độ hành vi cá thể. Ông lý luận rằng các cấu trúc vĩ mô có thể nhận thức được nếu chúng ta nhận thức một cách thích đáng nguyên tố hành vi xã hội. Ông cho rằng các quá trình trao đổi là “đồng dạng” ở cấp độ cá thể và các cấp độ xã hội, dù ông thừa nhận ở cấp độ xã hội “cách thức các quá trình chủ yếu được kết hợp phức tạp hơn nhiều”.

            Lý thuyết trao đổi của Peter Blau

Mục tiêu của Peter Blau là một nhận thức về cấu trúc xã hội trên cơ sở một phân tích về các quá trình xã hội điều hành các mối quan hệ giữa các cá thể và các nhóm. Vấn đề cơ bản là “đời sống xã hội được tổ chức vào các cấu trúc ngày càng phức tạp của các tổ chức giữa con người.” Dự định của Blau, như đã nói, là vượt ra khỏi quan tâm của Homans về các hình thái nguyên sơ của đời sống xã hội để đi tới một phân tích về các cấu trúc phức tạp. Homans dự tính làm việc ở cấp độ hành vi, nhưng Blau xem công việc đó chỉ là một phương tiện cho một mục đích lớn hơn: “Mục đích xã hội học chính của việc nghiên cứu các quá trình tương tác mặt đối mặt là đặt nền tảng cho một nhận thức về các cấu trúc xã hội làm tiến hóa và nảy sinh các lực lượng xã hội đã định tính sự phát triển của chúng”.

Blau tập trung vào quá trình trao đổi, mà, theo ông, điều khiển nhiều hành vi con người và các quan hệ tiềm ẩn giữa các cá thể cũng như  các nhóm. Hậu quả là Blau hình dung ra một chuỗi bốn giai đoạn đi từ sự trao đổi liên nhân vị tới cấu trúc xã hội và tới sự biến đổi cấu trúc:

Bước 1: Các giao dịch trao đổi cá nhân giữa mọi người làm phát sinh…
Bước 2: Sự phân biệt về địa vị và quyền lực, dẫn tới…
Bước 3: Sự chính thống hóa và sự tổ chức, đã gieo hạt giống của…
Bước 4:  Sự đối lập và biến đổi

Ở cấp độ cá thể, Blau và Homans đều chú ý tới các quá trình tương tự nhau. Tuy nhiên, khái niệm của Blau về trao đổi xã hội hạn chế đối với các hành động ngẫu nhiên, phụ thuộc vào các phản ứng đền bù từ  những người khác -  các hành động bị ngưng lại khi các phản ứng được mong đợi không xảy ra. Mọi người thu hút lẫn nhau vì nhiều lý do khác nhau đã thúc đẩy họ thiết lập nên các tổ chức xã hội. Một khi các mối ràng buộc ban sơ đã thắt chặt, các tưởng thưởng mà họ cung cấp lẫn nhau giúp duy trì và nâng cao những mối dây liên hệ. Hoàn cảnh đối lập cũng có thể xảy ra; với các đền bù không thỏa đáng, một sự  liên kết sẽ yếu đi hay bị phá vỡ. Các tưởng thưởng được trao đổi có thể là ở bên trong (ví dụ tình yêu, lòng thương mến, sự tôn trọng) hoặc ở bên ngoài (ví dụ, tiền bạc, lao động vật chất). Các bên không thể luôn đền bù cho bên kia một cách bình đẳng; khi có sự bất bình đẳng trong trao đổi, một khác biệt về quyền lực sẽ nảy sinh trong lòng một tổ chức.

Khi một bên cần gì đó từ bên khác nhưng không có gì so sánh được để đổi lại, có sẵn bốn khả năng lựa chọn đặt ra. Thứ nhất, mọi người có thể ép buộc người khác giúp họ. Thứ hai, họ có thể tìm một nguồn khác để đạt được điều họ muốn. Thứ ba, họ có thể cố gắng  tiếp tục mà không có cái mà họ cần ở người khác. Cuối cùng, và quan trọng nhất, họ có thể tự hạ thấp bản thân với những người khác, từ đó trao cho những người khác “uy tín khái quát hóa” trong mối quan hệ giữa họ; những người kia có thể rút ra thứ uy tín này khi muốn họ làm một điều gì đó. (Lựa chọn cuối cùng này, dĩ nhiên, là đặc tính cơ bản của quyền lực).

Cho tới điểm này, quan điểm của Blau tương tự như quan điểm của Homans, nhưng Blau mở rộng lý thuyết của mình tới cấp độ các sự kiện xã hội. Ong lưu ý, ví dụ, rằng chúng ta không thể phân tích các quá trình tương tác xã hội tác biệt với cấu trúc xã hội vây quan chúng. Cấu trúc xã hội nảy sinh từ tương tác xã hội, nhưng một khi điều này xảy ra, các cấu trúc xã hội có một sự tồn tại riêng biệt ảnh hưởng lên quá trình tương tác.

            Tương tác xã hội tồn tại trước hết trong các nhóm xã hội. Mọi người  bị thu hút tới một nhóm khi họ cảm thấy rằng các quan hệ đề ra nhiều đền bù hơn ở các nhóm khác. Vì họ bị thu hút vào nhóm, họ muốn được chấp  nhận. Để được chấp nhận, họ phải đưa ra cho các thành viên nhóm các đền bù. Điều này bao gồm việc gây ấn tượng với các thành viên nhóm bằng cách chỉ ra rằng sự liên kết với người mới sẽ được đền bù. Quan hệ với các thành viên nhóm sẽ được củng cố khi người mới tới đã gây ấn tượng lên nhóm- khi các thành viên đã chấp nhận các đền bù họ mong đợi. Các nỗ lực của thành viên mới để gây ấn tượng nói chung dẫn tới sự gắn bó, nhưng sự cạnh tranh, và cuối cùng, sự phân biệt xã hội có thể xảy ra khi có quá nhiều người chủ động tìm cách gây ấn tượng lẫn nhau với các khả năng đền bù của họ.

            Nghịch lý ở đây là dù các thành viên nhóm với khả năng gây ấn tượng có thể hấp dẫn sự nối kết, các đặc tính ấn tượng của họ cũng có thể gây nên nỗi sợ hãi bị phụ thuộc ở các thành viên nhóm khác  và làm cho họ nhận ra rằng sự hấp dẫn của họ chỉ là bất đắc dĩ. Trong các giai đoạn đầu của việc hình thành nhóm, sự cạnh tranh đối với nhận thức xã hội giữa các thành viên nhóm thực sự  hoạt động như là một sự kiểm tra sàng lọc cho các người lãnh đạo chủ chốt của nhóm. Những người có khả năng đền bù tốt nhất sẽ có khả năng nhất để kết thúc ở các vị trí lãnh đạo. Những thành viên nhóm ít khả năng đền bù hơn muốn tiếp tục nhận được sự đền bù từ các lãnh đạo chủ yếu của nhóm, và điều này thường hơn là các các khoản đền bù cho nỗi sợ trở nên phụ thuộc. Cuối cùng, những cá thể với khả năng đền bù lớn nhất nổi lên như là các nhà lãnh đạo, và nhóm bị phân biệt.

            Sự phân biệt bất khả kháng của nhóm thành những nhà lãnh đạo và những người đi theo tạo ra một nhu cầu mới đối với sự tương tác. Một khi họ đã nhận thức về địa vị của nhà lãnh đạo, những người đi theo thậm chí có một nhu cầu  tương tác lớn hơn. Trước kia, họ phô trương các phẩm chất có ấn tượng nhất của họ. Nay để đạt được tương tác với các người đi theo cùng lứa, họ bộc lộ các yếu kém của họ. Hậu quả  là một sự  tuyên bố công cộng rằng họ không cần các nhà lãnh đạo nữa. Sự  tự  khẩn nài này dẫn tới sự thông cảm và chấp nận xã hội từ những người không có thành tích khác. Nhà (hay các nhà) lãnh đạo cũng thực hiện một sự  tự  khẩn nài vào lúc này, để nâng cao sự hòa hợp tòan thể nhóm. Bằng cách thừa nhận rằng những người cấp dưới là thượng đẳng ở một số lĩnh vực, nhà lãnh đạo giảm thiểu sự  đau đớn gắn liền với sự  phụ thuộc và phát biểu rằng anh ta không tìm cách kiểm soát  lên mọi lĩnh vực của đời sống nhóm. Những kiểu nguồn lực này giúp tái hòa hợp nhóm dù có tình trạng mới, bị phân cách của nó.

            Tất cả những điều  này có xu hướng hồi tưởng tới thảo luận của Homans về thuyết  trao đổi. Tuy nhiên, Blau đi tới cấp độ xã hội và phân biệt giữa hai kiểu tổ chức xã hội. Các  lý thuyết gia trao đổi và các nhà xã hội học hành vi cũng công nhận sự nảy sinh của tổ chức xã hội, nhưng, như chúng ta sẽ thấy,  có một khác biệt cơ bản giữa Blau và các nhà xã hội hành vi luận thuần túy về vấn đề này. Kiểu đầu tiên, trong đó Blau nhận ra các thuộc tính nổi bật của các nhóm xã hội, nảy sinh từ các quá trình trao đổi và cạnh tranh đã thảo luận ở trên. Kiểu thứ hai của tổ chức xã hội không nổi bật nhưng được thiết lập một cách rõ ràng để đạt được các đối tượng cụ thể - ví dụ, các hàng hoá sản phẩm có thể bán để kiếm lời, tham dự vào các giải bowling, thực hiện các cuộc trả giá, thắng lợi trong chính trị.Trong thảo luận hai kiểu  tổ chức này, Blau  rõ ràng đã đi ra khỏi các “hình thái nguyên sơ của hành vi xã hội” là mối quan tâm điển hình của các nhà hành vi học.

            Ngoài việc quan tâm tới các tổ chức này, Blau chú ý tới các nhóm nhỏ trong nó. Ví dụ, ông lý luận rằng các nhóm lãnh đạo và các nhóm đối lập được tìm thấy ở cả hai kiểu tổ chức. Ở kiểu thứ nhất, hai nhóm này nảy sinh từ quá trình tương tác. Ở kiểu thứ hai, các nhóm lãnh đạo và đối lập được xây dựng thành cấu trúc của tổ chức. Trong trường hợp nào, sự khác biệt giữa các nhóm là không thể tránh khỏi và đặt cơ sở cho sự đối kháng và xung đột trong lòng tổ chức giữa các nhà lãnh đạo và những người đi theo.

            Đi ra khỏi các hình thái hành vi nguyên sơ của Homans và đi vào các cấu trúc xã hội phức tạp, Blau biết rằng ông phải điều chỉnh thuyết trao đổi tới cấp độ xã hội. Blau nhận ra sự khác biệt chủ yếu giữa các nhóm nhỏ và các tập thể lớn, trong khi Homans tối thiểu hoá sự khác biệt này trong nỗ lực của ông để lý giải mọi hành vi xã hội trong phạm vi các nguyên tắc tâm lý học cơ bản.

Các cấu trúc xã hội phức tạp định tính các tập thể lớn khác biệt một cách cơ bản với các cấu trúc đơn giản hơn của các nhóm nhỏ. Một cấu trúc của các quan hệ xã hội phát triển trong một nhóm nhỏ trong quá trình tương tác xã hội giữa các thành viên của nó. Vì không có tương tác xã hội trực tiếp giữa phần lớn thành viên của một cộng đồng lớn hay tổng thể xã hội, một cơ cấu khác phải làm trung gian để xếp đặt cấu trúc của các quan hệ xã hội giữa chúng.

            Phát biểu này đòi hỏi sự khảo sát cẩn thận. Một mặt, Blau rõ ràng bác bỏ chủ nghĩa hành vi xã hội như là một mô hình thích hợp để xử lý các cấu trúc xã hội phức tạp (xem Phụ lục). Mặt khác, ông bác bỏ mô hình định nghĩa xã hội, vì ông lý luận rằng tương tác xã hội và các định nghĩa xã hội đi cùng với nó không xảy ra một cách trực tiếp trong một tổ chức vĩ mô. Như vậy, khởi đầu từ mô hình hành vi xã hội, Blau điều chỉnh bản thân cùng tuyến với mô hình các sự kiện xã hội trong việc xử lý các cấu trúc xã hội phức tạp hơn.

            Đối với Blau, các cơ cấu trung gian giữa các cấu trúc xã hội phức tạp là các tiêu chí và giá trị (giá trị liên ứng) tồn tại trong lòng xã hội:

Nói chung là nhất trí với các giá trị và tiêu chí ở ý nghĩa trung gian của đời sống xã hội và là các liên kết trung gian cho các giao dịch xã hội. Chúng làm cho sự trao đổi xã hội gián tiếp có thể xảy ra, và chúng điều hành các quá trình hoà hợp xã hội và phân biệt xã hội trong các cấu trúc xã hội phức tạp cũng như sự phát triển của tổ chức và tái tổ chức xã hội bên trong chúng.

            Các cơ cấu khác làm trung gian giữa các cấu trúc xã hội, nhưng Balu tập trung vào sự liên ứng giá trị. Nhìn vào trước hết vào các tiêu chí xã hội, Blau lý luận rằng chúng thay thế sự trao đổi trực tiếp bằng sự trao đổi gián tiếp. Một  thành viên tuân thủ tiêu chí của nhóm, và nhận sự bằng lòng vì sự tuân thủ đó và sự bằng lòng tiềm ẩn vì sự kiện rằng sự tuân thủ đó đóng góp vào sự duy trì và bền vững của nhóm. Nói cách khác, nhóm hay tập thể thực hiện một quan hệ trao đổi với cá thể. Điều này trái với nhận thức đơn giản của Homans, chỉ tập trung vào sự trao đổi liên nhân vị. Balu  đưa ra một số ví dụ về các trao đổi tập thể-cá thể thay cho các trao đổi cá thể-cá thể:

Các quan chức lãnh đạo không hỗ trợ cho các quan chức tác nghiệp trong công việc của họ trong sự trao đổi sự tưởng thưởng nhận được từ họ, nhưng cung cấp cho sự hỗ trợ này là nghĩa vụ của các thành viên lãnh đạo, và để đổi lại cho việc thực hiện các nghĩa vụ này họ nhận được các tưởng thưởng tài chính từ công ty.

Phúc lợi tổ chức cung cấp một ví dụ khác cho sự trao đổi xã hội gián tiếp. Trái với một phu nhân hào phóng lỗi thời đem những túi nhỏ đến cho người nghèo và tiếp nhận lòng biết ơn và cảm kích của họ, không có sự tiếp xúc trực tiếp và sự trao đổi giữa người cho và người nhận trong các tổ chức từ thiện ngày nay. Các nhà doanh nghiệp giàu có và các thành viên của các tần lớn trên đóng góp từ thiện để tuân thủ theo các kỳ vọng chuẩn mực phổ biến trong giai cấp xã hội của họ và để tìm sự bằng lòng xã hội từ bạn hữu của họ, chứ không phải để đạt được sự biết ơn của những cá thể được hưởng lợi từ sự từ thiện của họ.

            Khái niệm tiêu chí trong trình bày của Blau đưa ông tới cấp độ trao đổi giữa cá thể và tập thể, nhưng khái niệm các giá trị đưa ông tới cấp độ xã hội vĩ mô và tới sự phân tích về mối quan hệ giữa các tập thể. Blau nói:

Các giá trị chung các kiểu có thể được xem là sự trung gian của các giao dịch xã hội đã mở rộng phạm vi của tương tác xã hội và cấu trúc của các quan hệ xã hội thông qua không gian và thời gian xã hội. Sự liên ứng về các giá trị xã hội là cơ sở để mở rộng dãy giao dịch xã hội ra ngoài phạm vi hạn chế của các tiếp xúc xã hội trực tiếp và để duy trì các cấu trúc xã hội ở bên ngoài quảng đời của loài người. Các tiêu chuẩn giá trị có thể được xem là trung gian của đời sống xã hội theo hai ý nghĩa của từ này; bối cảnh giá trị là vật trung gian đã đúc nên tiêu chí của các quan hệ xã hội; và các giá trị chung là các liên kết trung gian đối với các tổ chức xã hội và các giao dịch xã hội trên một tầm rộng lớn.

Theo Blau, có bốn kiểu giá trị cơ bản, mỗi kiểu thực hiện các chức năng khác nhau. Trước hết là các giá trị đặc thù, là trung gian của sự hoà hợp và củng cố. Các giá trị này giúp hợp nhất các thành viên của một nhóm quanh những thứ như lòng ái quốc, thanh danh của trường học hay của công ty. Chúng được xem là tương tự nhau ở cấp độ tập thể đối với các tình cảm hay sự chú ý cá nhân hợp nhất các cá thể trên một cơ sở mặt đối mặt. Tuy nhiên, họ mở rộng các mối liên hệ hoà hợp ra ngoài sự chú ý cá nhân đơn giản. Các giá trị đặc thù cũng phân biệt giữa ở trong nhóm với ở ngoài nhóm, do đó nâng cao chức năng hợp nhất của chúng.

            Kiểu giá trị thứ hai là các giá trị phổ quát. Chúng là những tiêu chuẩn qua đó giá trị tương đối của những thứ có thể trao đổi khác nhau được xác định. Sự tồn tại của các tiêu chuẩn này cho phép các trao đổi gián tiếp có khả năng xảy ra. Một cá thể có thể đóng góp vào một bộ phận của cộng đồng, và các giá trị phổ quát cho phép cộng đồng đánh giá giá trị của sự đóng góp đó và tưởng thưởng cá thể theo một cung cách thích hợp (ví dụ, bằng một địa vị cao hơn).

            Kiểu thứ ba là các giá trị chính thống hoá thẩm quyền. Hệ thống giá trị giao cho một số người (ví dụ, các ông chủ, các chủ tịch) nhiều quyền lực hơn những người khác  để mở rộng phạm vi sự kiểm soát xã hội một cách có tổ chức. Nó có quan hệ tới kiểu thứ tư, các giá trị đối lập. Đó là các giá trị cho phép sự trải rộng của một cảm giác hay một nhu cầu thay đổi vượt xa khỏi khả năng đơn giản bởi sự tiếp xúc cá nhân giữa những người chống lại một trật tự đã được thiết lập. Các giá trị này (ví dụ, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa phong kiến trong một xã hội tư bản) chính thống hoá sự đối lập đối với những người mà quyền lực của họ được chính thống hoá bởi các giá trị thẩm quyền.

            Bốn kiểu giá trị của Blau đã mang chúng ta đi xa khỏi phiên bản của Homans về thuyết trao đổi. Cá thể và hành vi cá thể, cái tối cao đối với Homans, hầu như biến mất khỏi khái niệm của Blau. Sự tham dự của cá thể là một sự đa dạng của các sự kiện xã hội. Ví dụ, Blau thảo luận về các nhóm, các tổ chức, các tập thể, các xã hội, các tiêu chí, và các giá trị. Phân tích của Blau trong đó quan tâm đến cái đã nối kết các đơn vị xã hội vĩ mô lại với nhau và cái đã xé lẻ chúng ra, rõ ràng là những mối quan tâm của nhà thực tế xã hội.

            Dù Blau lý luận rằng ông chỉ đơn giản mở rộng thuyết trao đổi tới cấp độ xã hội, trong khi làm điều này ông đã đẩy lý thuyết trao đổi ra ngoài nhận thức. Ông thậm chí buộc phải nhận rằng các quá trình ở cấp độ xã hội về cơ bản khác với ở cấp độ cá thể. Trong nỗ lực mở rộng thuyết trao đổi, Blau chỉ xoay xở để chuyển biến nó thành một lý thuyết vĩ mô khác. Blau dường như nhận ra rằng thuyết trao đổi cơ  bản là quan tâm đến các quan hệ mặt đối mặt. Kết quả là, nó cần được hoàn chỉnh bởi các định hướng lý thuyết khác tập trung chủ yếu vào các cấu trúc vĩ mô. Blau giờ đây đã đi tới chỗ thừa nhận rõ ràng điều này, và tác phẩm gần đây hơn của ông tập trung vào các hiện tượng cấu trúc và cấp độ vĩ mô.

            Tác phẩm của Richard Emerson và các môn đồ của ông

            Trong khi Richard Emerson đã xuất bản một tư liệu về các quan hệ phụ thuộc vào quyền lực trước đó, chính hai tiểu luận có liên quan được viết năm 1972 đã “đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn mới trong sự phát triển của thuyết trao đổi xã hội”. Molm và Cook thấy có ba yếu tố cơ bản là sức thúc đẩy cho thể tác phẩm mới này. Thứ nhất, Emerson chú ý đến thuyết trao đổi với ý nghĩa là một hệ thống rộng hơn cho quan tâm trước đây của ông về sự phụ thuộc vào quyền lực. Hầu như rõ ràng đối với Emerson rằng quyền lực là trung tâm của viễn cảnh lý thuyết trao đổi. Thứ hai, Emerson cảm thấy rằng ông có thể sử dụng chủ nghĩa hành vi (tâm lý học vận hành) làm cơ sở cho thuyết trao đổi của ông, nhưng lại tránh được một số vấn đề mà Homans vướng phải. Chẳng hạn, Homans và các thuyết trao đổi khác đã bị  cáo buộc về sự giả đoán một hình ảnh hợp lý thái quá về con người, nhưng Emerson cảm thấy ông có thể sử dụng chủ nghĩa hành vi mà không cần giả thiết về một actor  hợp lý. Mặt khác, Emerson tin rằng ông có thể tránh khỏi vấn đề lặp thừa đã đánh bẫy Homans:

Homans dự báo về hành vi trao đổi cá thể từ sự củng cố được cung cấp bởi một actor khác, nhưng các phản ứng hành vi và sự củng cố  không có ý nghĩa độc lập trong tâm lý học vận hành. Một tác nhân củng cố, theo định nghĩa, là một kích thích gia tăng hay duy trì phản ứng một cách thường xuyên.

            Ngoài ra, Emerson cảm thấy ông có thể tránh được gánh nặng của giản hoá luận (cái mà Homans đã mải mê) bởi có thể phát triển một viễn cảnh trao đổi có khả năng giải thích các hiện tượng vĩ mô. Thứ ba, không như  Blau, người đã phải viện tới một sự lý giải dựa trên các hiện tượng chuẩn mực. Emerson muốn xử lý cấu trúc xã hội và biến đổi xã hội bằng cách sử dụng “các quan hệ xã hội và các mạng lưới xã hội như là những vật liệu xây dựng nối liền các cấp độ phân tích khác nhau.” Ngoài ra, các actor trong hệ thống của Emerson có thể là những cá thể hoặc là những cấu trúc kết hợp lớn (mặc dù, các cấu trúc hoạt động thông qua các tác nhân). Như vậy, Emerson đã dùng các nguyên tắc của tâm lý học vận hành để phát triển một lý thuyết về cấu trúc xã hội.

            Trong hai tiểu luận xuất bản năm 1972, Emerson đã phát triển nền tảng của lý thuyết trao đổi hoà hợp của ông. Ở tiểu luận thứ nhất, Emerson xử lý cơ sở tâm lý học đối với trao đổi xã hội, trong khi ở tiểu luận thứ hai, ông quay sang cấp độ vĩ mô, các quan hệ trao đổi và các cấu trúc mạng lưới. Sau đó, Emerson làm cho mối liên kết  vi mô-vĩ mô hiển hiện hơn: “Tôi đang cố gắng mở rộng thuyết trao đổi và khảo sát từ các phân tích cấp độ vi mô tới các cấp độ vĩ mô hơn thông qua sự nghiên cứu về các cấu trúc trao đổi mạng lưới”. Như Karen Cook, môn đồ quan trọng nhất của Emerson chỉ ra, chính ý tưởng về các cấu trúc mạng lưới trao đổi là trung tâm của liên kết vi mô-vĩ mô: “Công dụng của nhận thức về các mạng lưới trao đổi cho phép sự phát triển của lý thuyết nối liền khoảng cách về khái niệm giữa các cá thể biệt lập hay các nhóm đôi và các tập hợp lớn hơn hoặc các tập thể  (ví dụ, các nhóm chính thức hay các hiệp hội, các tổ chức, các láng giềng, các đảng phái chính trị).

            Cả Emerson và Cook đều thừa nhận và bắt đầu với các tiền đề  cơ bản ở cấp độ vi mô của thuyết trao đổi. Emerson, ví dụ, nói rằng: “Các tiếp cận trao đổi đặt tiêu điểm đầu tiên của nó vào sự chú ý các mối lợi mà mọi người thủ đắc được từ, và đóng góp cho, quá trình tương tác xã hội”. Cụ thể hơn, Emerson thừa nhận các nguyên tắc hành vi luận như là điểm khởi sự của ông. Emerson phác họa ba giả thiết chủ yếu của thuyết trao đổi:

1.      Đối với các sự kiện có lợi, mọi người thường có xu hướng hành động “một cách hợp lý”, để cho các sự kiện đó xảy ra.
2.      Vì mọi người cuối cùng trở nên thoả mãn với các sự kiện hành vi, các sự kiện như thế đi đến chỗ giảm đi lợi ích.
3.      Các lợi ích mọi người đạt được thông qua các quá trình xã hội phụ thuộc vào các lợi ích họ có thể cung cấp trong trao đổi, đưa tới lý thuyết trao đổi mà “tiêu điểm của nó tập trung vào lưu lượng của các lợi ích thông qua các tương tác xã hội”

Những điều này rất quen thuộc, nhưng Emerson bắt đầu chỉ ra một thuyết trao đổi có định hướng hành vi luận theo một chiều hướng khác, ở phần kết thúc tiểu luận đầu tiên, có định hướng vi mô của ông năm 1972: “Mục đích của chúng tôi trong chương này là hợp nhất các nguyên tắc vận hành vào một cơ cấu có thể xử lý các hoàn cảnh phức tạp hơn các hoàn cảnh mà vận hành tâm lý học đương đầu”.

            Chủ đề này mở ra tiểu luận thứ hai năm 1972: “Mục đích của tiểu luận này là bắt đầu thiết lập một lý thuyết về trao đổi xã hội trong đó cấu trúc xã hội được xem là có tính biến thiên phụ thuộc”. Trong khi ở tiểu luận thứ nhất Emerson quan tâm tới một actor đơn lẻ có liên quan tới một quan hệ trao đổi với môi trường của anh ta (ví dụ, một cá nhân đánh cá ở một cái hồ), trong tiểu luận thứ hai Emerson quay sang các quan hệ trao đổi-xã hội cũng như các mạng lưới trao đổi.

            Các actor trong thuyết trao đổi vĩ mô của Emerson có thể là các cá thể hoặc các tập thể. Emerson quan tâm tới quan hệ trao đổi giữa các actor. Một mạng lưới trao đổi (exchange network) có các thành tố sau:

·      Có một tập hợp các cá thể hay tập thể các actor.
·      Các tiềm năng có giá trị được phân bố giữa các actor.
·      Có một tập hợp các cơ hội trao đổi giữa tất cả các actor trong mạng lưới.
·      Các quan hệ trao đổi, hay các cơ hội trao đổi, tồn tại giữa các actor.
·      Các quan hệ trao đổi nối liền giữa người này với người khác trong một cấu trúc mạng lưới đơn.

Nói tóm là, “một mạng lưới trao đổi là một cấu trúc xã hội đặc biệt được tạo thành bởi hai hay nhiều quan hệ trao đổi kết nối nhau giữa các actor”.
           
            Sự nối kết giữa các quan hệ trao đổi có tầm quan trọng to lớn trong việc liên kết sự   trao đổi giữa hai actor (trao đổi song phương) tới các hiện tượng cấp độ vĩ mô hơn. Điều chính yếu là mối quan hệ ngẫu nhiên giữa các trao đổi song phương. Do vậy, chúng ta có thể nói rằng hai quan hệ trao đổi song phương, A-B và A-C tạo thành một mạng lưới tối thiểu (A-B-C) khi sự trao đổi ở một người lại có tính chất trao đổi ngẫu nhiên (hay phi trao đổi) ở người kia. A, B, và C không có một quan hệ thành viên chung đối với một mạng lưới trao đổi đủ để nó phát triển; phải có một quan hệ ngẫu nhiên giữa các trao đổi giữa A-B và B-C.

Mỗi quan hệ trao đổi gắn vào một mạng lưới trao đổi lớn bao gồm hai hoặc nhiều hơn các quan hệ như thế. Nếu sự trao đổi ở một quan hệ ảnh hưởng tới sự trao đổi ở một quan hệ khác, có thể nói là chúng có sự liên kết. Mối liên kết này có thể là tích cực - khi sự trao đổi ở một quan hệ ảnh hưởng tích cực đến quan hệ kia (ví dụ, tiền thu  được ở quan hệ này có thể đạt được một địa vị xã hội ở quan hệ kia); hoặc tiêu cực, khi một quan hệ hạn chế sự trao đổi ở quan hệ kia (ví dụ, thời gian dành để kiếm tiền trong một quan hệ làm giảm khả năng sử dụng thời gian với bạn bè ở quan hệ kia); hoặc hỗn hợp cả hai.

Emerson định nghĩa quyền lực là “cấp độ của tiềm năng trả giá mà một acotr có thể buộc một actor khác chấp nhận”, trong khi sự phụ thuộc bao gồm  “cấp độ của tiềm năng trả giá một actor sẽ chấp nhận trong một quan hệ”. Các định nghĩa này dẫn Emerson tới lý thuyết quyền lực-sự phụ thuộc, mà Yamagishi, Gillmore và Cook tóm tắt theo cách sau: “Quyền lực của một bên đối với bên khác trong một quan hệ trao đổi là một chức năng nghịch đảo của sự phụ thuộc của anh ta vào một bên khác”. Sự bất bình đẳng giữa quyền lực và sự phụ thuộc dẫn tới sự mất cân bằng trong các quan hệ, nhưng theo thời gian chúng chuyển động tới một quan hệ quyền lực-phụ thuộc cân bằng hơn.

Molm và Cook xem sự phụ thuộc là khái niệm có tính chất đáng phê phán trong tác phẩm của Emerson. Như Mom nói: “Những phụ thuộc lẫn nhau của  các actor là nhân tố cấu trúc quyết định chủ yếu của tương tác của họ và của quyền lực đối với nhau của họ”. Đây là cách thức nguyên thủy của Emerson để xử lý vấn đề: “Sự phụ thuộc của actor A vào actor B là (1) tỷ lệ thuận với sự đầu tư có tính động cơ vào các mục tiêu do B làm trung gian, và (2) tỷ lệ nghịch với khả năng của các mục tiêu đó đối với A ở ngoài quan hệ A-B”. Do vậy, một nhận thức về sự phụ thuộc được liên kết với định nghĩa của Emerson về quyền lực, “quyền lực của A đối với B tương đương với, và dựa vào, sự phụ thuộc của B vào A “. Có một sự cân bằng trong quan hệ giữa A và B khi sự phụ thuộc của A vào B bằng với sự phụ thuộc của B vào A. Ở đâu có một sự mất cân bằng trong các quan hệ phụ thuộc, actor phụ thuộc ít hơn sẽ có thuận lợi theo nghĩa quyền lực. Do vậy, quyền lực là một tiềm năng nằm trong cấu trúc của mối quan hệ giữa A và B. Quyền lực cũng có thể được sử dụng để đạt được những tưởng thưởng từ quan hệ đó. Ngay cả trong các quan hệ cân bằng, quyền lực vẫn tồn tại, dù trong một hình thức có tính chất cân bằng.

            Các  nghiên cứu về quyền lực-sự phụ thuộc tập trung vào các kết quả tích cực- khả năng tưởng thưởng cho những người khác. Tuy nhiên, trong một loạt nghiên cứu, Molm đã nhấn mạnh vai trò của các kết quả tiêu cực - quyền lực trừng trị - trong các quan hệ quyền lực-phụ thuộc. Nghĩa là, quyền lực có thể được phát sinh từ cả khả năng tưởng thưởng và khả năng trừng trị kẻ khác. Nói chung lại, Molm đã thấy rằng quyền lực trừng trị yếu kém hơn quyền lực tưởng thưởng, một phần vì các hành động trừng trị có vẻ gợi ra các phản ứng tiêu cực. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu gần đây của bà, Molm đã đề xuất rằng sự yếu kém tương đối của quyền lực trừng trị có thể do sự kiện rằng nó không được sử dụng một cách rộng rãi, chứ không phải vì nó ít có tính hiệu quả hơn quyền lực tưởng thưởng. Molm, Quist và Wisely thấy rằng việc sử dụng quyền lực trừng trị có khả năng được xem là công bằng hơn nếu nó được sử dụng bởi những người cũng có cả quyền lực tưởng thưởng.

            Trong việc giải thích quyền lực-phụ thuộc, thuyết mạng lưới (xem bên dưới) nhìn vào các sự vật như  là tâm điểm về mặt cấu trúc, trong khi thuyết trao đổi tập trung vào quan hệ đôi giữa các actor. Nghiên cứu của Cook và những người khác có xu hướng tìm sự hỗ trợ cho tầm quan trọng của quan hệ trao đổi và các yếu kém đồng dạng trong cách tiếp cận mạng lưới. Tuy nhiên, Cook và những người khác cũng nhận thức rõ về các xu hướng vi mô của thuyết trao đổi và nhu cầu hòa hợp nó, nâng cao nó tới cấp độ vĩ mô.

            Để đi từ cách tiếp cận của thuyết trao đổi đối với nhóm đôi sang một tiêu điểm vào quyền lực của một vị trí trong cấu trúc, Cook và Emerson lý luận rằng cái quyết định đối với quyền lực của một vi trí dựa trên cơ sở lượng phụ thuộc của toàn thể cấu trúc vào vị trí đó. Sự phụ thuộc ở phạm vi hệ thống như thế sẽ, theo quan điểm của họ, là một chức năng của cả tâm điểm về mặt cấu trúc của vị trí và bản chất của quan hệ quyền lực-phụ thuộc. Họ lý luận rằng họ đi theo “một cách tiếp cận dễ bị tấn công đối với vấn đề  nâng cao lý thuyết quyền lực-phụ thuộc từ cấp độ nhóm đôi tới một cấp độ phân tích cấu trúc vĩ mô hơn”. Sự dễ bị tấn công bao gồm sự phụ thuộc cấp độ toàn mạng lưới lên một vị trí cấu trúc cụ thể. Cook và những người khác kết luận:

Rõ ràng rằng sự hòa hợp của các nguyên tắc cấu trúc mạng lưới với lý thuyết trao đổi mạng lưới cung cấp các nhận thức nội quan hữu ích đối với các động năng của quyền lực trong các mạng lưới của các quan hệ trao đổi liên kết với nhau… Trình bày lý thuyết này đề ra một phương thức rõ ràng đối với sự kết nối hành vi trao đổi của actor với các thuộc tính của mạng lưới… và đề xuất các cơ cấu có thể mang tới “các khả năng chuyển biến” của các mạng lưới này như là kết quả của các động năng quyền lực hay các biến đổi trong bản chất của các liên kết trao đổi.

            Yamagishi, Gillmore và Cook đi xa hơn trong việc nối kết thuyết trao đổi và thuyết mạng lưới. Họ lý luận rằng quyền lực (và sự phụ thuộc) là trung tâm đối với thuyết trao đổi, nhưng quyền lực đó không thể được nghiên cứu một cách đầy đủ trong nhóm đôi. Hơn thế, quyền lực “về cơ bản là một hiện tượng xã hội có tính cấu trúc”. Họ có thể tạo ra các dự đoán về sự phân phối quyền lực trong tất cả ba kiểu mạng lưới  trao đổi-tích cực, tiêu cực và hỗn hợp, và hỗ trợ các dự đoán này bằng các thực nghiệm và các giả cách trên máy vi tính”. Một phân tích hoàn toàn tương ứng phải bao gồm cả thuyết trao đổi truyền thống với mối quan tâm vào các quá trình bên trong các quan hệ trao đổi cũng như thuyết mạng lưới truyền thống với quan tâm vào các liên kết giữa các quan hệ trao đổi.

            Ở đây nảy ra một vấn đề trung tâm: Sự khác biệt là gì, nếu có, giữa một mạng lưới trao đổi và loại mạng lưới gây chú ý cho các lý thuyết gia mạng lưới” Theo Cook và Whitmayer, “các mạng lưới trao đổi được xem là các tập hợp nối kết của các quan hệ trao đổi”. Nhà lý thuyết trao đổi, theo định nghĩa, quan tâm đến “các khía cạnh trao đổi của mọi lien hệ và cho rằng mạng lưới thích hợp trong bất kỳ phân tích nào là mạng lưới chứa đựng tất cả các quan hệ trao đổi thích ứng”. Trái lại, các lý thuyết gia mạng lưới được diễn tả là có tính chất “công giáo” trong cách tiếp cận của họ đối với nội dung của các liên hệ đó. Trong khi các lý thuyết gia trao đổi chấp nhận nhiều kiểu liên hệ được xử lý bởi các lý thuyết gia mạng lưới, họ từ chối những cái khác. Ví dụ, ở các nghiên cứu mạng lưới tập trung vào “xu hướng tâm điểm” hay “sự thuận lợi của vị trí được ban trong mạng lưới”, Cook và Whitmaeyer lý luận rằng khi sự trao đổi bị làm ngơ hay che đậy, “các quá trình nguyên nhân liên quan đến xu hướng tâm điểm sẽ rất có thể bị che giấu. Khi các quan hệ trao đổi bị loại bỏ, các kết quả có khả năng không xác thực nếu không bị sai sót”. Dù có những khác biệt như thế, Cook và Whitmeyer xem thuyết trao đổi và thuyết mạng lưới là tương thích với nhau, và họ lý luận rằng một sự tổng hợp hai cách tiếp cận này có khả năng mạnh mẽ hơn là riêng rẻ từng cách.

            Cook, O’brien và Kollock xác định lý thuyết trao đổi trong phạm vi tính hòa hợp vốn có là có mối quan tâm đến các trao đổi ở nhiều cấp độ phân tích, bao gồm các cá thể có quan hệ hỗ tương, các công ty, các bang của quốc gia. Họ nhận diện hai dòng tác phẩm trong lịch sử thuyết trao đổi - một ở cấp độ vi mô, tập trung vào hành vi xã hội như sự trao đổi, và dòng kia ở cấp độ vĩ mô hơn, xem cấu trúc xã hội như sự trao đổi. Họ thấy sức mạnh của thuyết trao đổi trong mối hòa hợp vi mô-vĩ mô, vì “nó bao gồm bên trong một cơ cấu lý thuyết riêng biệt các định đề vận dụng cho các actor cá thể cũng như cho cấp độ vĩ mô (hay cấp độ hệ thống) và các nỗ lực của nó để trình bày một cách rõ ràng, có hệ thống các hệ quả của các biến đổi ở một cấp độ đối với các cấp độ phân tích khác”.

            Cook, O’Brien và Koolock nhận diện ba khuynh hướng đương thời, tất cả đều hướng tới một thuyết trao đổi hòa hợp hơn. Đầu tiên là việc sử dụng đang tăng dần sự khảo sát lĩnh vực tập trung vào các vấn đề có tính vĩ mô hơn, có thể hoàn chỉnh cho sự sử dụng theo truyền thống các thực nghiệm trong phòng lab đối với các vấn đề vi mô. Thứ hai, họ chú ý đến bước chuyển biến, đã thảo luận bên trên, ở các tác phẩm từ một tiêu điểm vào các nhóm đôi tới các mạng lưới trao đổi lớn hơn. Thứ ba, và quan trọng nhất, là nỗ lực đang diễn tiến, cũng đã thảo luận bên trên, để tổng hợp thuyết trao đổi và các môn xã hội học cấu trúc, đặc biệt là lý thuyết mạng lưới ( Chúng tôi sẽ nói thêm một  ít về lý thuyết mạng lưới).

            Cook, O’Brien và Kollock thảo luận các lợi ích đạt được từ việc hòa hợp các nhận thức nội quan từ nhiều lý thuyết vi mô khác nhau. Lý thuyết quyết định (decision theory) đề ra “một nhận thức tốt hơn về cách thức các actor chọn lựa một cách phù hợp với các giao dịch”. Nói chung hơn, khoa học nhận thức (bao gồm nhân loại học nhận thức và tri thức nhân tạo) “ soi sáng nhiều hơn cho con đường trong đó actor nhận thức, xử lý và truy cập thông tin”. Thuyết tương tác biểu tượng đưa ra kiến thức về cách thức các actor thể hiện dấu hiệu các chú ý của họ cho nhau, và điều này quan trọng trong sự phát triển lòng tin và sự tận tụy trong các quan hệ trao đổi. Tổng quát hơn hết, họ xem phiên bản tổng hợp của họ về thuyết trao đổi được trang bị tốt để xử lý vấn đề quan yếu trọng tâm mối quan hệ cơ quan-cấu trúc. Theo quan điểm của họ, “thuyết trao đổi là một trong số giới hạn các định hướng lý thuyết trong các môn khoa học xã hội đã khái niệm hóa một cách rõ ràng các actor trong mối quan hệ với các cấu trúc”.

            Có một số các ví dụ gần đây về các nỗ lực của các lý thuyết gia trao đổi đối với sự tổng hợp hóa cách tiếp cận của họ với các định hướng lý thuyết khác. Ví dụ, Yamagishi và Cook đã tìm cách hòa hợp thuyết trao đổi với lý thuyết tình trạng khó xử xã hội (social dilemma theory), một dạng của thuyết chọn lựa hợp lý. Cách tiếp cận này phát sinh từ khái niệm đôi nổi tiếng về tình trạng khó xử của tù nhân và cuộc khảo sát về nó. “Một tình trạng khó xử xã hội được xác định như là một hoàn cảnh bao gồm một kiểu đặc thù của cấu trúc động cơ, như  (1) nếu tất cả các thành viên nhóm cùng cộng tác, tất cả đều có lợi, trong khi (2) đối với mỗi cá thể không cộng tác thì sẽ có lợi nhiều hơn”. Không đi sâu chi tiết vào các nghiên cứu của họ, Yamagishi và Cook thấy rằng bản chất của quan hệ và cấu trúc trao đổi ảnh hưởng đến cách thức mọi người xử lý các tình trạng khó xử.

            Trong một nỗ lực khác, Hegtvedt, Thompson và Cook tìm cách hòa hợp thuyết trao đổi và một cách tiếp cận để xử lý các quá trình nhận thức, lý thuyết quy kết (attribution theory). Sự hòa hợp với lý thuyết này cung cấp cho thuyết trao đổi một cơ cấu để xử lý cách thực mọi người nhận thức và có những quy kết, trong khi thuyết trao đổi bù đắp cho sự yếu kém trong thuyết quy kết bằng cách xử lý “ những cái có trước về mặt cấu trúc xã hội và các hệ quả về mặt hành vi của sự quy kết”. Do vậy, ví dụ các tác giả tìm được sự hỗ trợ đối với giả thuyết rằng quyền lực được nhận thức có quan hệ với vị trí quyền lực về mặt cấu trúc của một người và rằng những người “tự nhận thức về bản thân là có quyền lực lớn hơn có khả năng quy kết các kết qủa trao đổi của họ cho các hành động và các tương tác cá nhân”. Trong khi không được sự hỗ trợ đầy đủ của các giả thuyết của các tác giả, sự nghiên cứu này chỉ ra tầm quan trọng của việc nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu  trúc xã hội, các quá trình nhận thức (sự nhận thức và sự quy kết) và hành vi.

            LÝ THUYẾT MẠNG LƯỚI (Network theory)

            Các nhà phân tích mạng lưới (ví dụ, White) bỏ công sức để phân biệt cách tiếp cận của họ khỏi cái mà Ronald Burt gọi là các tiếp cận xã hội học “theo thuyết nguyên tử” và “có tính chuẩn mực”. Các định hướng xã hội học nguyên tử (atomistic sociological orientations) tập trung vào các actor ra quyết định trong sự cách ly với các actor khác. Nói chung hơn, họ tập trung vào các “quy kết cá nhân” của các actor. Các tiếp cận nguyên tử  bị phản đối vì chúng quá có tính vi mô và làm ngơ mối quan hệ giữa các actor. Như Barry Wellman nói, “ Việc giải thích các động cơ cá thể là một công việc tốt hơn nên để cho các nhà tâm lý học”. Dĩ nhiên, điều này tạo ra một sự phản kháng của một số các lý thuyết xã hội học theo cách này hay cách khác có mối quan tâm sâu sắc đến các động cơ.

            Theo quan điểm của các lý thuyết gia mạng lưới, các tiếp cận chuẩn mực tập trung vào văn hóa và quá trình xã hội hóa thông qua đó các tiêu chí và giá trị được chủ quan hóa trong các actor. Trong định hướng chuẩn mực, cái giữ mọi người với nhau là các tập hợp ý tưởng chung. Các lý thuyết gia mạng lưới phản đối một quan điểm như thế và lý luận rằng người ta nên tập trung vào khuôn mẫu khách quan của các mối dây liên kết các thành viên trong xã hội. Đây là cách Wellman phát biểu quan điểm này:

Các nhà phân tích mạng lưới muốn nghiên cứu tính quy tắc trong cách thức mọi người và các tập thể cư xử hơn là các tính quy tắc trong những niềm tin về cách thức mọi người nên cư xử. Từ đó các nhà phân tích mạng lưới cố tránh né các lý giải có tính chuẩn mực về hành vi xã hội. Họ loại trừ bất kỳ lý giải phi cấu trúc nào coi quá trình xã hội là tổng số của các quy kết cá nhân và các tiêu chí chủ quan hoá của cá thể các actor.

            Sau khi làm rõ nó không phải là cái gì, thuyết mạng lưới xác định quan tâm chính yếu của nó - các khuôn mẫu khách quan của các liên hệ nối kết các thành viên (cá thể và tập thể) của xã hội. Chúng ta hãy nhìn xem Wellman phát biểu tiêu điểm này ra sao:

Các nhà phân tích mạng lưới bắt đầu với nhận thức đơn giản nhưng thuyết phục, rằng công việc cơ bản của nhà xã hội học là nghiên cứu cấu trúc xã hội... Cách thức trực tiếp để nghiên cứu một cấu trúc xã hội là phân tích khuôn mẫu của các liên hệ nối kết các thành viên của nó. Các nhà phân tích mạng lưới tìm kiếm các cấu trúc sâu - các khuôn mẫu mạng lưới có tính quy tắc nằm phiá sau bề mặt thường là phức tạp của các hệ thống xã hội... Các actor và hành vi của họ được xem là bị kềm hãm bởi các cấu trúc đó. Do vậy, tiêu điểm không phải là hướng vào các actor chủ động mà là sự kềm hãm về mặt cấu trúc.

            Một khía cạnh riêng biệt của thuyết mạng lưới là nó tập trung vào một dãy rộng các cấu trúc từ vi mô tới vĩ mô. Nghĩa là, đối với thuyết trao đổi, các actor có thể là mọi người, nhưng họ cũng có thể là các nhóm, các công ty, và các xã hội. Những nối kết xảy ra ở cấp độ cấu trúc xã hội vĩ mô cũng như ở các cấp độ vi mô hơn. Mark Granovetter diễn tả các nối kết vi mô như thế như là hành động “gắn vào” các quan hệ cá nhân cụ thể và các cấu trúc (hay các “mạng lưới”) của các quan hệ đó”. Cái cơ bản đối với các nối kết đó là ý tưởng rằng bất kỳ actor nào (cá thể hay tập thể) cũng có thể có những lối vào riêng biệt tới các tiềm năng giá trị (tài sản, quyền lực, thông tin). Kết quả là các hệ thống cấu trúc có xu hướng bị phân tầng, với một số thành tố phụ thuộc vào một số khác.

            Một khía cạnh chủ yếu của phân tích mạng lưới là nó có xu hướng đưa các nhà xã hội học ra khỏi việc nghiên cứu các nhóm xã hội và các phạm trù xã hội để đi tới việc nghiên cứu các liên hệ giữa các actor mà “không được ràng buộc đầy đủ và không đan bện chặt chẽ để có thể gọi là các nhóm”. Một ví dụ tốt về điều này là tác phẩm của Granovetter về “sức mạnh của các liên hệ yếu”. Granovetter phân biệt giữa các “liên hệ vững” ví dụ, các nối kết giữa mọi người và bạn bè thân hữu của họ, và các “liên hệ yếu”, ví dụ, các nối kết giữa mọi người và những người quen biết bình thường. Các nhà xã hội học có xu hướng tập trung vào mọi người có các liên hệ vững trong các nhóm xã hội. Họ có xu hướng xem các liên hệ vững là cái cơ bản, trong khi các liên hệ yếu được cho là không có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội học. Đóng góp của Granovetter là làm rõ rằng các liên hệ yếu cũng có thể rất quan trọng. Ví dụ, các liên hệ yếu giữa hai actor có thể tạo thành một cầu nối giữa hai nhóm có các liên hệ nội bộ vững. Không có một liên hệ yếu như thế, hai nhóm này có thể biệt lập với nhau. Sự biệt lập này, tới lượt nó, có thể dẫn tới một hệ thống xã hội phân tán hơn. Một cá thể không có các liên hệ yếu có thể tự thấy mình bị biệt lập trong một nhóm đan kết chặt chẽ và có thể thiếu thông tin về cái đang diễn ra trong các nhóm khác cũng như trong xã hội lớn. Các liên hệ yếu do đó ngăn ngừa sự biệt lập và cho phép các cá thể hoà hợp tốt hơn với xã hội lớn. Dù Granovetter nhấn mạnh tầm quan trọng của các liên hệ yếu, ông cũng nhanh chóng làm rõ rằng “các liên hệ vững cũng có thể có giá trị”. Ví dụ, mọi người có các liên hệ vững sẽ có động cơ lớn hơn để giúp đỡ người khác và sẵn lòng hơn đối với nhau.

            Thuyết mạng lưới tương đối mới và không phát triển. Như Burt nói, “Hiện thời, có một tập hợp các các tiếp cận lỏng lẻo được nói tới như là phép phân tích mạng lưới”. Nhưng nó đang tăng trưởng, bằng chứng là con số các bài viết và sách được công bố từ một viễn cảnh mạng lưới và sự kiện rằng hiện nay có một tờ báo (Các mạng lưới xã hội) dành cho nó. Dù nó có thể là một sự kết hợp lỏng lẻo, lý thuyết mạng lưới dường như dựa trên một tập hợp các nguyên tắc có cấu kết chặt chẽ.

            Thứ nhất, các liên hệ giữa các actor thường có tính đối xứng về cả nội dung và cường độ. Các actor cung ứng cho nhau những thứ khác nhau, và họ làm như thế với cường độ mạnh hoặc yếu hơn. Thứ hai, các liên hệ giữa các cá thể phải được phân tích trong bối cảnh cấu trúc của các mạng lưới lớn. Thứ ba, tính cấu trúc của các liên hệ xã hội dẫn tới nhiều loại mạng lưới xác định khác nhau.  Một mặt, các mạng lưới có tính chất chuyển dịch: nếu có một liên hệ giữa A và B và giữa B và C, có khả năng là có một liên hệ giữa A và C. Kết quả là có khả năng có một mạng lưới bao gồm A, B và C. Mặt khác, có sự hạn chế về số lượng bao nhiêu liên hệ có thể tồn tại và cường độ của chúng ra sao. Kết quả là có khả năng để phát triển các cụm mạng lưới (network cluster) với các ranh giới riêng biệt phân cách giữa cụm này và cụm khác. Thứ tư, sự tồn tại của các cụm dẫn tới sự kiện rằng có thể có các liên kết chéo giữa các cụm cũng như giữa các cá thể. Thứ năm, có các liên hệ phi cân xứng giữa các nguyên tố trong một hệ thống, mà kết quả là các tiền năng hiếm hoi được phân bố một cách không đồng đều. Cuối cùng, sự phân bố không đồng đều các tiềm năng hiếm hoi dẫn tới cả sự cộng tác và sự cạnh tranh. Một số nhóm liên kết với nhau để thủ đắc các tiềm năng hiếm hoi, trong khi các nhóm khác cạnh tranh và xung đột với nhau vì các tiềm năng đó. Như vậy, thuyết mạng lưới có một phẩm chất mang tính động năng, với cấu trúc của hệ thống biến đổi theo các khuôn mẫu chuyển biến của các liên minh và xung đột.

            Một ví dụ khác, là sự quan tâm của Mizruchi vào vấn đề cấu kết của các tập đoàn công ty và mối quan hệ của nó đối với quyền lực. Ông lý luận rằng về mặt lịch sử cấu kết đã được xác định theo hai cách khác nhau. Đầu tiên, hay theo quan điểm chủ quan, là “sự cấu kết là một chức năng cảm tính của các thành viên nhóm về sự đồng nhất với nhóm, nói riêng là cảm giác của họ rằng các quan tâm cá thể của họ bị ràng buộc vào các quan tâm của nhóm”. Sự nhấn mạnh ở đây là vào hệ thống chuẩn mực, và sự cấu kết được tạo thành hoặc bởi sự chủ quan hoá của hệ thống chuẩn mực, hay bởi áp lực của nhóm. Thứ hai, hay theo quan điểm khách quan, là “sự củng cố có thể được xem như một quá trình khách quan, quan sát được, phụ thuộc vào các tình cảm của các cá thể”. Không cần phải nói, đưa ra sự chỉnh đốn của ông đối với thuyết mạng lưới, Mizruchi nghiêng về mặt cách tiếp cận khách quan đối với sự cấu kết.

            Mizruchi thấy có sự tương đồng giữa hành vi như là một kết quả của không chỉ sự cấu kết mà còn của cái mà ông gọi là sự đồng đẳng về cấu trúc (Structural equipvalence): “ Các actor đồng đẳng về cấu trúc là những người có các quan hệ đồng nhất với các actor khác trong cấu trúc xã hội”. Như vậy, sự đồng đẳng về cấu trúc tồn tại trong, ví dụ, các tập đoàn, mặc dù có thể không có sự liên lạc thông tin giữa chúng. Chúng cư xử theo cùng một cách, vì chúng đứng trong cùng một quan hệ đối với một thực thể nào đó khác trong cấu trúc xã hội. Mizruchi kết luận rằng sự đồng đẳng về cấu trúc đóng một vai trò quan trọng như là sự cấu kết trong việc lý giải sự tương đồng của hành vi, Mizruchio xác nhận tầm quan trọng của sự đồng đẳng về cấu trúc, mà nói cho cùng, là ngụ ý tới một mạng lưới các quan hệ xã hội.

            Ronald Burt đã đứng trong mặt trận của các nhà lý thuyết mạng lưới để tìm cách phát triển một cách tiếp cận hoà hợp thay vì là một hình thức khác của cấu trúc quyết định luận. Burt bắt đầu với phát biểu về một sự phân ly trong lý thuyết hành động giữa các định hướng “nguyên tử” và “chuẩn mực”. Định hướng nguyên tử “giả thiết rằng các hành động có tính chọn lựa được đánh giá một cách độc lập bởi các actor phân biệt để sự đánh giá được thực hiện mà không có tham chiếu tới các actor khác”, trong khi “viễn cảnh chuẩn mực được xác định bởi các actor riêng biệt có các quan tâm tương hỗ trong một hệ thống như là các tiêu chí xã hội được phát sinh bởi sự xã hội hoá lẫn nhau của các actor”.

            Burt phát triển một viễn cảnh về “các sự phá vỡ phân ly giữa hành động nguyên tử luận và hành động chuẩn mực”, mà, “nó ít có tính tổng hợp đối với sự tồn tại của hai viễn cảnh đối với hành động, đúng hơn nó là một quan điểm thứ ba, nối liền một cách xuất sắc hai quan điểm kia”. Dù ông thừa nhận các vay mượn từ hai viễn cảnh kia, Burt phát triển cái mà ông gọi là một viễn cảnh cấu trúc, khác biệt với hai viễn cảnh kia “ở tiêu chuẩn đối với định đề về sự định giá ngoài lề. Tiêu chuẩn giả đoán bởi một viễn cảnh cấu trúc theo đề xuất là tập hợp vai trò của một actor nảy sinh bởi sự phân bố lao động. Một actor định giá các lợi ích của các hành động có thể chọn lựa một phần là chiếu theo các điều kiện cá nhân và một phần là chiếu theo các điều kiện của những người khác”. Ông xem cách tiếp cận này của mình là một sự mở rộng về mặt logic đối với cách tiếp cận nguyên tử luận và một “sự giới hạn chính xác mang tính thực nghiệm” đối với lý thuyết chuẩn mực.

            Sơ đồ 7.1 diễn tả thuyết cấu trúc về hành động của Burt. Theo mô tả của Burt về tiền đề của một lý thuyết cấu trúc về hành động, “các actor được cho là nằm dưới các kềm hãm của cấu trúc xã hội”. Theo ông:

Các actor tìm thấy bản thân họ trong cấu trúc xã hội. Cấu trúc xã hội đó xác định các tương đồng xã hội của họ, mà tới lượt chúng, lại định khuôn mẫu cho nhận thức của họ về các thuận lợi sẽ có bằng cách thực hiện một trong các hành động có thể lựa chọn. Cùng lúc đó, cấu trúc xã hội kềm hãm một cách riêng biệt khả năng thực hiện hành động của các actor. Các hành động được thực hiện đó cuối cùng là một chức năng nối kết của các actor trong việc theo đuổi các quan tâm của họ đối với khả năng hạn chế của họ, khi mà cả các quan tâm và khả năng đều được định khuôn bởi cấu trúc xã hội. Cuối cùng, các hành động được thực hiện dưới sự kềm hãm của cấu trúc xã hội có thể sửa đổi chính bản thân cấu trúc, và các sửa đổi này có tiềm năng tạo ra các kềm hãm mới mà các actor phải đối phó trong lòng cấu trúc”. (Burt)

                     


                                                   Sơ đồ 7.1:  Mô hình Hoà hợp của Burt

            LÝ THUYẾT CHỌN LỰA HỢP LÝ

            Dù nó có ảnh hưởng tới sự phát triển của thuyết trao đổi, thuyết chọn lựa hợp lý (CLHL) nói chung là nằm ngoài lề dòng lý thuyết xã hội học chủ đạo.  Hầu như thông qua nỗ lực của một người, James S. Coleman, mà thuyết CLHL đã trở nên một trong các lý thuyết “nóng” của xã hội học đương thời. Chẳng hạn, năm 1989, Coleman đã sáng lập một tờ báo, Sự hợp lý và xã hội (Rationality and Society), dành cho sự phổ biến các tác phẩm theo một viễn cảnh chọn lựa hợp lý. Ví dụ khác, Coleman xuất bản một cuốn sách có tầm ảnh hưởng sâu rộng, cuốn Các nền tảng của lý thuyết xã hội, dựa trên viễn cảnh này. Cuối cùng, Coleman trở thành chủ tịch của Hiệp hội xã hội học Mỹ năm 1992 và dùng diễn đàn này  để thúc  đẩy thuyết CLHL cũng như đưa ra một tên gọi: “Sự tái thiết xã hội một cách hợp lý”.
           
Sự hợp lý và xã hội

            Vì trước đây chúng tôi đã phác họa các nguyên lý cơ bản của thuyết CLHL, có ích nhất là bắt đầu với những nhận  định giới thiệu của Coleman đối với ấn bản đầu tiên của tờ Sự hợp lý và xã hội. Tờ báo bao gồm nhiều ngành học thuật vì thuyết CLHL (hay, như Coleman gọi nó, “mô hình của hành động hợp lý”) là lý thuyết duy nhất có khả năng tạo ra một mô hình hoà hợp. Coleman không ngần ngại lý luận rằng cách tiếp cận này vận hành từ một nền tảng trong phương pháp luận của chủ nghĩa cá nhân và sử dụng lý thuyết CLHL như là cơ sở ở cấp độ vi mô để lý giải các hiện tượng vĩ mô. Điều thú vị là cách tiếp cận của Coleman không thấy là “thích hợp” với:

các tác phẩm về mặt phương pháp có tính chỉnh thể luận, bấp bênh ở cấp độ hệ thống mà không cầu viện đến các actor, những người mà hành động của họ đã tạo ra hệ thống..quan điểm về hành động là có tính thể hiện thuần túy, quan điểm về hành động là có tính phi lý, và quan điểm về hành động là một cái gì đó hoàn toàn bị gây ra bởi lực lượng bên ngoài, không có mối trung gian liên lạc của dự định hay mục đích. Nó loại trừ tác phẩm thực nghiệm đã được thực hiện một cách rộng rãi trong khoa học xã hội trong đó hành vi cá thể được “lý giải” bởi các yếu tố xác định hay các yếu tố quyết định mà không cần tới bất kỳ một kiểu mẫu hành động nào. (Coleman)

            Như vậy, một phần lớn của các tác phẩm trong xã hội học đã bị loại trừ khỏi các trang của tờ báo. Tuy nhiên, các quan tâm cấp độ vĩ mô và các  nối kết của nó với hành động hợp lý không bị loại trừ. Ngoài các quan tâm có tính hàn lâm trên, Coleman muốn tác phẩm được thực hiện từ một  viễn cảnh chọn lựa hợp lý phải có tính thích ứng về mặt thực hành đối với sự biến đổi thế giới xã hội của chúng ta.

            Sự hợp lý và xã hội tới nay đã tồn tại nhiều năm, và đã công bố các ứng dụng của thuyết CLHL tới các hiện tượng khác nhau như Hamlet, cách tiếp cận hiện tượng luận của Alfred Schutz, sự phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giống và lao động, các cuộc cách mạng ở Đông Âu, cách mạng văn hoá ở Trung Quốc. Chúng tôi không thể khảo sát thể tác phẩm đang tăng trưởng này ở đây, nhưng chúng tôi có thể thảo luận chi tiết tác phẩm lý thuyết chủ yếu của Coleman phát sinh từ truyền thống lý thuyết CLHL.

Các nền tảng của lý thuyết xã hội

            Coleman lý luận rằng xã hội học phải tập trung vào các hệ thống xã hội, nhưng các hiện tượng vĩ mô như thế phải được lý giải bởi các yếu tố nội tại của chúng, nguyên mẫu là các cá thể. Ông ủng hộ các tác phẩm ở cấp độ này vì nhiều lý do, bao gồm sự kiện rằng các dữ liệu thường được tập hợp ở cấp độ cá thể và rồi mới được kết hợp và bao gồm lại để đem lại cấp độ hệ thống. Một trong các lý do ủng hộ một tiêu điểm ở cấp độ cá thể là vì nó chính là nơi “các sự can thiệp” thường được thực hiện để tạo ra các biến đổi xã hội. Như chúng ta sẽ thấy, trung tâm của viễn cảnh của Coleman là ý tưởng rằng lý thuyết xã hội không đơn thuần là một hoạt động hàn lâm học thuật mà cần ảnh hưởng tới thế giới xã hội thông qua những “sự can thiệp” như thế.

            Đưa ra tiêu điểm vào cá thể, Coleman nhận thấy rằng ông là một nhà cá thể phương pháp luận, dù ông xem viễn cảnh riêng biệt của mình như là một “dạng đặc biệt của định hướng đó. Quan điểm của ông đặc biệt theo nghĩa là nó chấp nhận ý tưởng về sự phát sinh và là trong khi nó tập trung vào các yếu tố nội tại của hệ thống, các yếu tố đó không nhất thiết phải là các hành động và định hướng cá thể. Nghĩa là, tiêu điểm phân tích của ông là các hiện tượng cấp độ vi mô hơn là các cá thể.

            Định hướng chọn lựa hợp lý của Coleman rõ ràng trong ý tưởng cơ bản của ông rằng “hành động có mục đích của cá nhân hướng tới một mục tiêu; mục tiêu đó (và do đó cả hành động) định hình bởi các giá trị hay các sở thích”. Nhưng Coleman sau đó đi tới lý luận rằng đối với phần lớn các mục đích về mặt lý thuyết, ông sẽ cần một sự khái quát hoá chính xác hơn nữa về actor hợp lý phát sinh từ kinh tế học, một khoa học thấy các actor chọn lựa các hành động đó sẽ tối đa hoá các lợi ích hay các sự thoả mãn các nhu cầu và mong muốn của họ.

            Có hai nguyên tố chủ chốt trong lý thuyết của ông-các actor và các tiềm năng. Các tiếm năng là những cái mà trên chúng các actor kiểm soát và họ có một quan tâm nhất định đối với chúng. Sau khi đưa ra hai nguyên tố này, Coleman trình bày chi tiết sự tương tác của chúng dẫn tới cấp độ hệ thống ra sao:

Một nền tảng tối thiểu đối với một hệ thống xã hội là hai actor, mỗi actor kiểm soát các tiềm năng về mối quan tâm của actor kia. Chính mối quan tâm của từng actor tới các tiềm năng dưới sự kiểm soát của actor còn lại dẫn tới việc cả hai, với tư cách là các actor có mục đích, thực hiện các hành động bao gồm ... một hệ thống hành động...Chính cấu trúc này, cùng sự kiện rằng các actor có tính mục đích, mỗi actor có mục tiêu để tối đa hoá nhận thức về các quan tâm của hắn đã đưa tới sự phụ thuộc lẫn nhau, hay đặc tính hệ thống, cho các hành động của họ. (Coleman)

            Dù đặt lòng tin vào thuyết CLHL, Coleman không tin rằng viễn cảnh này, ít nhất là cho tới đó, có tất cả mọi câu trả lời. Nhưng rõ ràng là ông tin rằng nó có thể đi theo chiều hướng đó, vì ông lý luận rằng “sự thành công của một lý thuyết xã hội dựa vào sự hợp lý nằm trong sự giảm trừ một cách thành công lĩnh vực hoạt động xã hội không thể giải thích bằng lý thuyết đó”.

            Coleman nhận ra rằng trong thế giới thực tiễn mọi người không luôn luôn cư xử một cách hợp lý nhưng ông cảm thấy điều này gây rất ít khác biệt trong lý thuyết của ông: “Giả thiết có ngụ ý của tôi là các dự đoán về lý thuyết thực hiện ở đây cũng sẽ là như thế dù các actor hành động một cách chính xác theo sự hợp lý như thường thấy hoặc  sai lệch theo các cách thức đã từng quan sát được”.

            Đưa ra định hướng của ông đối với hành động hợp lý cá thể, kế tiếp trong phạm vi vấn đề vi mô-vĩ mô Coleman tập trung vào các mối liên kết vi mô-vĩ mô, hay cách thức kết hợp của các hành động cá thể đưa tới hành vi của hệ thống. Trong khi ông xác định trước vấn đề này, Coleman ở đây cũng chú ý tới mối liên kết vĩ mô-vi mô, hoặc cách thức hệ thống kềm hãm các định hướng của các actor. Cuối cùng, ông tỏ ra có sự quan tâm vào khiá cạnh vi mô-vi mô của mối quan hệ, hay tác động của các  hành động của cá thể lên các hành động của cá thể khác.

            Dù dường như có sự cân bằng như thế, ít nhất cũng có ba yếu kém chủ yếu trong cách tiếp cận của Coleman. Đầu tiên, ông xác nhận tính có trước chiếm ưu thế của vấn đề vi mô-vĩ mô, do đó đưa ra một phủ nhận vắn tắt các quan hệ khác. Thứ hai, ông làm ngơ vấn đề vĩ mô-vĩ mô. Cuối cùng, những mũi tên nguyên nhân luận của ông chỉ đi theo một hướng duy nhất; nói cách khác, ông làm ngơ mối quan hệ biện chứng giữa các hiện tượng vi mô và vĩ mô.

            Vận dụng cách tiếp cận chọn lựa hợp lý của mình, Coleman lý giải một loạt hiện tượng cấp độ vĩ mô. Quan điểm cơ bản của ông là các lý thuyết gia không cần giữ các khái niệm của họ về actor là bất biến và nảy sinh từ các hình ảnh bất biến vi mô của các hiện tượng cấp độ vĩ mô. Theo cách này, những khác biệt trong các hiện tượng vĩ môcó thể truy nguyên tới các cấu trúc khác nhau của các quan hệ ở cấp độ vĩ mô chứ không phải ở các dạng khác nhau của cấp độ vi mô.

            Một bước chủ yếu trong sự vận động từ vi mô tới vĩ  mô là việc ban thẩm quyền và các quyền lợi thuộc sở hữu của một cá thể cho cá thể khác. Hành động này có xu hướng dẫn tới sự phụ thuộc của một actor vào một actor khác. Quan trọng hơn, nó tạo ra một hiện tượng vĩ mô cơ bản nhất - một đơn vị hành động bao gồm hai người, hay đúng hơn là hai actor độc lập. Các cấu trúc có tính chất kết quả thực hiện chức năng một cách độc lập với các actor. Thay vì tối đa hoá các quan tâm riêng của mình, trong trường hợp này một actor tìm cách nhận ra các quan tâm của actor khác, hay của đơn vị tập thể độc lập. Đây không chỉ là một thực tại xã hội khác biệt, nó còn là một thực tại “có các thiếu sót đặc biệt và làm phát sinh ra các vấn đề đặc biệt”. Đưa ra định hướng đã được vận dụng này, Coleman quan tâm tới sự chẩn đoán và giải pháp đối với các vấn đề này.

            Một ví dụ về cách tiếp cận của Coleman để xử lý các hiện tượng vĩ mô là trường hợp của hành vi tập thể. Ông chọn xử lý hành vi tập thể vì đặc tính không bền vững và vô trật tự của nó thường được nghĩ là khó mà phân tích từ một viễn cảnh chọn lựa hợp lý. Nhưng quan điểm của Coleman là thuyết CLHL có thể lý giải mọi kiểu hiện tượng vĩ mô, chứ không chỉ các hiện tượng có trật tự  và bền vững. Điều có quan hệ tới việc đi từ actor hợp lý tới các chức năng hệ thống rối rắm hỗn loạn gọi là hành vi tập thể là một sự chuyển giao đơn giản (và hợp lý)  sự kiểm soát các hành động của một actor cho một actor khác... được thực hiện một cách đơn phương, chứ không phải là bộ phận của một trao đổi”.

            Tại sao mọi người chuyển giao một cách đơn phương sự kiểm soát các hành động của họ cho người khác? Câu trả lời từ một viễn cảnh chọn lựa hợp lý là, họ làm như thế  trong một một  nỗ lực tối đa hoá các lợi ích của họ. Thông thường, sự tối đa hoá của cá thể bao gồm một sự cân bằng về kiểm soát giữa nhiều actor, và điều này tạo ra sự cân bằng trong xã hội. Tuy nhiên, trong trường hợp hành vi tập thể, vì có một sự chuyển giao sự kiểm soát đơn phương, sự tối đa hoá cá thể không nhất thiết phải đưa tới sự cân bằng hệ thống. Thay vì thế, hành vi tập thể có một đặc tính phi cân bằng.

            Các hiện tượng vĩ mô khác nằm dưới sự khảo sát của Coleman là các tiêu chí. Trong khi phần lớn các nhà xã hội học coi các tiêu chí là có sẵn và dùng chúng để lý giải hành vi cá thể, họ không giải thích các tiêu chí này hình thành ra sao. Coleman tự hỏi, tại sao, trong một nhóm các actor hợp lý, các tiêu chí có thể nảy sinh và được duy trì. Coleman lý luận rằng các tiêu chí được phát sinh và duy trì bởi một số người nhìn thấy các lợi ích được đem lại từ việc quan sát các tiêu chí và sự nguy hại bắt nguồn từ sự vi phạm các tiêu chí đó. Mọi người sẵn sàng từ bỏ một số kiểm soát lên hành vi của chính họ, nhưng trong quá trình này họ thủ đắc được một số kiểm soát (thông qua các tiêu chí) lên hành vi của những actor khác. Coleman tóm tắt quan điểm của ông về các tiêu chí:

Nguyên tố trung tâm của sự lý giải này... là sự từ bỏ một phần các quyền kiểm soát hành động của bản thân một người, và sự tiếp nhận một phần các quyền kiểm soát các hành động của những người khác, nghĩa là, sự phát sinh của một tiêu chí. Kết quả cuối cùng là sự kiểm soát đó... được nắm giữ bởi từng người riêng lẻ, trở nên được phân bố rộng rãi cho toàn thể tập hợp các cá thể, những người thực hiện sự kiểm soát đó.

            Một lần nữa, mọi người được xem là tối đa hoá các lợi ích của họ bằng cách từ  bỏ một phần quyền kiểm soát chính bản thân họ và có được một phần quyền kiểm soát đối với những người khác. Vì sự chuyển giao việc kiểm soát không đơn phương, ở trường hợp các tiêu chí có tính chất cân bằng.

            Nhưng cũng có các hoàn cảnh trong đó các tiêu chí tạo thuận lợi cho một số người và bất lợi cho một số khác. Trong một số trường hợp, các actor từ bỏ quyền kiểm soát các hành động của chính họ cho những người làm nảy sinh và duy trì các tiêu chí. Các tiêu chí như thế trở nên có hiệu quả khi có một sự liên ứng nảy sinh để một số người có quyền kiểm soát (thông qua các tiêu chí) các hành động của những người khác. Hơn nữa, tính hiệu quả của các tiêu chí tùy thuộc vào khả năng thúc đẩy sự liên ứng đó. Chính sự liên ứng và sự động viên đã ngăn ngừa loại đặc tính không cân bằng của hành vi tập thể.

            Coleman nhận thấy rằng các tiêu chí trở nên có quan hệ hỗ tương với nhau, nhưng ông thấy một vấn đề vĩ mô như thế nằm ngoài phạm vi tác phẩm của ông về các nền tảng của lý thuyết xã hội. Mặt khác, ông sẵn sàng xử lý vấn đề vi mô về sự chủ quan hóa các tiêu chí. Ông cũng nhận rằng khi thảo luận về sự chủ quan hóa, ông đã đi vào “các lĩnh vực không chắc chắn đối với một lý thuyết dựa trên nền tảng  sự chọn lựa hợp lý”. Ông xem sự chủ quan hóa các tiêu chí như là sự thiết lập một hệ thống trừng phạt nội bộ, mọi người tự trừng phạt bản thân khi họ vi phạm một tiêu chí. Coleman nhìn vào điều này trong phạm vi ý tưởng rằng một actor hay một tập hợp các actor đang nỗ lực kiểm soát những người khác bằng cách chủ quan hóa các tiêu chí trong họ. Do vậy, các quan tâm của một tập hợp các actor chính là việc có một tập hợp các tiêu chí chủ quan hóa khác và bị kiểm soát bởi chúng. Ông cảm thấy điều này hợp lý “khi các nỗ lực như thế có thể có hiệu quả ở một cái giá hợp lý”.

            Coleman nhìn vào các tiêu chí từ quan điểm của ba nguyên tố chủ chốt của lý thuyết của ông-từ vi mô tới vĩ mô, hành động có mục đích ở cấp độ vi mô, và từ vĩ mô tới vi mô. Các tiêu chí là những hiện tượng vĩ  mô hình thành trên cơ sở của hành động có mục đích ở cấp độ vi mô. Một khi đã tồn tại,  các tiêu chí, thông qua các hình phạt hay mối đe dọa về các hình phạt, ảnh hưởng lên các hành động của những cá thể. Các hành động nhất định có thể có tính động viên, trong khi một số khác có tính gây chán nản.

            Với trường hợp các tiêu chí, Coleman đã đi tới cấp độ vĩ mô, và ông tiếp tục phân tích của mình ở cấp độ này trong một thảo luận về actor đoàn thể. Trong phạm vi một tập thể như thế, các actor có thể không hành động trong phạm vi những quan tâm của bản thân họ mà phải hành động theo mối quan tâm của tập thể.

            Có nhiều nguyên tắc và cơ cấu đối với đi từ sự chọn lựa cá thể đến sự chọn lựa tập thể (xã hội). Đơn giản nhất là trường hợp bầu cử và các phương thức đối với việc lập danh sách cá thể bầu cử và đi tới một quyết định tập thể. Điều này có chiều kích từ vi mô tới vĩ mô, trong khi những việc như  sự đề cử ứng cử viên được tập thể chuẩn y bao gồm mối liên kết từ vĩ mô tới vi mô.

            Coleman lý luận rằng cả các actor đoàn thể và các actor con người đều có các mục đích. Hơn nữa, trong phạm vi một cấu trúc đoàn thể như một tổ chức, các actor con người có thể theo đuổi các mục đích của chính họ, khác xa với các mục đích của đoàn thể. Mối xung đột này về các quan tâm giúp chúng ta hiểu các nguồn phản kháng chống lại thẩm quyền của đoàn thể. Ở đây mối liên kết vi mô-vĩ  mô bao gồm các cách thức trong đó mọi người tước đoạt thẩm quyền từ cấu trúc đoàn thể và trao lại quyền chính thức cho những ai thực hiện cuộc phản kháng. Nhưng cũng có một liên kết từ vĩ mô tới vi mô trong đó các điều kiện cấp độ vĩ mô dẫn mọi người tới những hành động tước đoạt và trao trả như thế.

            Vớ tư cách một nhà lý thuyết chọn lựa, Coleman khởi sự với cá thể và ý tưởng rằng tất cả quyền lợi và các tiềm năng đều tồn tại ở cấp độ đó. Mối quan tâm của các cá thể quyết định quá trình của các sự kiện. Tuy nhiên, điều này không đúng,  đặc biệt là ở xã hội hiện đại, nơi mà “một phần lớn các quyền và tiềm năng, và từ đó là chủ quyền, có thể tập trung vào các actor đoàn thể”. Trong thế giới hiện đại các actor đoàn thể đang ngày càng trở nên quan trọng. Actor đoàn thể có thể hành động để đem tới lợi ích hay gây hại cho cá thể. Chúng ta làm sao phán xét actor đoàn thể về mặt này?  Coleman cho rằng “chỉ với sự  khởi sự về mặt khái niệm từ một điểm nơi tất cả các chủ quyền dành cho các cá nhân là khả năng nhìn thấy các quan tâm chung cuộc của họ được nhìn nhận ra sao bởi một hệ thống xã hội đang tồn tại. Giả định rằng các cá nhân có chủ quyền cung cấp một cách thức trong đó các nhà xã hội học có thể định giá chức năng của các hệ thống xã hội”.

            Đối với Coleman, biến đổi xã hội chủ yếu đã nảy sinh từ các actor đoàn thể để hoàn thành các actor “cá nhân theo nghĩa tự nhiên”. Cả hai đều được xem là các actor vì chúng có “sự kiểm soát lên các tiềm năng và các sự kiện, các quan tâm vào các tiềm năng và sự kiện, và khả năng thực hiện các hành động để nhận thức các quan tâm đó thông qua sự kiểm soát”. Tất nhiên, luôn luôn có các actor đoàn thể, nhưng những kiểu củ, như gia đình, đang dần dần được thay thế bởi các actor đoàn thể mới có cấu trúc mang tính mục đích, độc lập. Sự tồn tại của các actor đoàn thể mới này làm phát sinh vấn đề làm thế nào để bảo đảm nghĩa vụ xã hội của chúng. Coleman cho rằng chúng ta có thể làm điều này bằng cách tiến hành các cải cách nội bộ hay thay đổi cấu trúc ngoại vi như các luật lệ có ảnh hưởng đến các actor đoàn thể như thế hay các cơ quan quy định chúng.

            Coleman phân biệt giữa các cấu trúc cơ bản dựa trên gia đình như các bạn bè láng giềng, các nhóm tôn giáo, và các cấu trúc có mục đích, như các tổ chức kinh tế và các nhà nước. Ông thấy có một sự “tháo gỡ” đang tiến triển của các hoạt động trước kia đã từng bị ràng buộc trong phạm vi gia đình. Các cấu trúc cơ bản đang bị tách ra khi các chức năng của chúng bị phân cách và chiếm đoạt bởi một loạt các actor đoàn thể. Coleman quan tâm tới sự phân tách này cũng như sự kiện rằng hiện nay chúng ta buộc phải xử lý các  vị trí trong các cấu trúc có mục đích hơn là những người cư ngụ trong các cấu trúc cơ bản. Từ đó, ông kết luận rằng mục tiêu của tác phẩm của ông là “cung cấp nền tảng cho việc xây dựng một cấu trúc xã hội có khả năng đứng vững, khi cấu trúc cơ bản mà từ đó các cá nhân từng phụ thuộc đã biến mất”.

            Coleman chỉ trích phần lớn lý thuyết xã hội vì sự đi theo một quan điểm mà ông gọi là có tính chất xã hội học con người (homo sociologicus). Viễn cảnh này nhấn mạnh quá trình xã hội hó và sự gắn bó gần gũi giữa cá thể và xã hội. Do đó, homo sociologicus không thể xử lý sự tự do của cá thể để hành động như họ muốn dù là có những kềm hãm đặt lên trên họ. Hơn nữa, viễn cảnh này thiếu khả năng định giá các hành động của hệ thống xã hội. Trái lại, tính chất kinh tế học con người (homo economicus), theo quan điểm của Coleman, có tất cả các khả năng đó. Ngoài ra, Coleman  tấn công lý thuyết xã hội truyền thống vì nó không làm gì hơn là tụng niệm các câu thần chú lý thuyết xưa cũ, vì nó không thích hợp với những biến đổi diễn ra trong xã hội, và vì nó không có khả năng giúp chúng ta biết xã hội tiến tới nơi nào. Lý thuyết xã hội học (cũng như khảo sát xã hội học) phải có một mục đích, một vai trò trong việc thực hiện chức năng của xã hội. Coleman ủng hộ lý thuyết xã hội quan tâm đến không chỉ  kiến thức vì chính kiến thức mà còn đến “một sự tìm kiếm kiến thức cho sự tái thiết lập xã hội”.

            Các quan điểm của Coleman về lý thuyết xã hội gắn kết  chặt chẽ với quan điểm của ông về bản chất biến đổi của xã hội. Sự ra đi của các cấu trúc cơ bản và sự thay thế chúng bởi các cấu trúc có mục đích đã để lại một loạt các khoảng trống chưa được phủ đầy một cách tương ứng bởi các tổ chức xã hội mới. Lý thuyết xã hội, và các khoa học xã hội nói chung, được tạo ra một cách tất yếu bởi nhu cầu xây dựng lại một xã hội mới. Mục tiêu không phải là phá hủy các cấu trúc có mục đích mà đúng hơn là nhận ra các cơ hội và tránh đi các vấn đề của các cấu trúc như thế. Xã hội mới đòi hỏi một nền khoa học mới. Các liên kết giữa các lĩnh vực thể chế đã biến đổi, và kết quả là các môn khoa học  xã hội  phải sẵn sàng cắt ngang qua các ranh giới bộ môn truyền thống.

            Các phê phán

            Không cần phải nói, tác phẩm của Coleman nói riêng, và lý thuyết CLHL nói chung đã chịu sự tấn công nặng nề trong xã hội học. Nhiều phê phán đến từ những người ủng hộ cho các vị trí có thể lựa chọn trong lý thuyết xã hội học. Ví dụ, từ quan điểm thuyết nữ quyền, England và Kilbourne đã phê phán giả thiết về tính  ích kỷ trong thuyết CLHL; từ viễn cảnh của họ, sự  ích kỷ – vị tha phải được xem xét như là một điều có tính biến thiên. Giả thiết về tính ích kỷ thể hiện một xu hướng nam giới. Họ nhận ra rằng phản đối giả thiết này, và nhìn vào nó như  là một điều có tính biến thiên có thể làm giảm đi “tính chất quyết định  theo suy diễn” của thuyết CLHL, nhưng họ nghĩ rằng các lợi ích của một định hướng thực tế, ít có xu hướng lý thuyết sẽ lớn hơn cái giá sẽ phải trả.

            Từ viễn cảnh của nhà tương tác biểu tượng học, Denzin (xem chương 5) đưa ra một phê phán mà người ta có thể chờ đợi từ một định hướng lý thuyết hoàn toàn đối lập như thế:

Thuyết CLHL… thất bại trong việc đưa ra một câu trả lời thuyết phục cho câu hỏi: Xã hội có khả năng như thế nào?… các tiêu chí lý tưởng của nó về sự hợp lý không thích ứng với cuộc sống đời thường và các tiêu chí của sự hợp lý và tình cảm tổ chức nên các hoạt động thực tế của sự tương tác giữa các cá thể.
Thuyết CLHL có lợi ích hạn chế đối với lý thuyết xã hội đương thời. Lược đồ của nó về đời sống nhóm, và hình ảnh của nó về con người, về hành động, sự tương tác, bản ngã, giống, tình cảm, quyền lực, ngôn ngữ, kinh tế chính trị của cuộc sống đời thường, và về lịch sử - có tính chất hẹp hòi một cách đáng buồn và hoàn toàn không thích ứng với các mục đích diễn dịch.

            Phần lớn những người hoạt động trong một viễn cảnh diễn dịch rộng  lớn sẽ chấp nhận những phê phán nặng lời của Denzin đối với thuyết CLHL.

            Cuối cùng, dù có thể mô tả thêm các phê phán khác, chúng tôi muốn lưu ý đến lý luận của Smelser rằng giống như nhiều viễn cảnh lý thuyết khác, thuyết CLHL đã suy tàn như là kết quả  của sự tiến hóa nội tại hoặc các phản ứng đối với các phê phán bên ngoài. Như vậy, thuyết CLHL đã trở nên có tính lặp thừa và không thể tránh khỏi bị xuyên tạc, vá quan trọng hơn, nó đã phát triển “một khả năng lý giải mọi sự việc và do đó chả lý giải được gì”.

TÓM TẮT

Chương này xử lý ba lý thuyết có quan hệ hỗ tương nhau, mà trong số các điều khác, có cùng một định hướng thực chứng luận. Thuyết trao đổi hiện đại đã tiến triển từ một loạt các ảnh hưởng tri thức, đặc biệt là chủ nghĩa hành vi và thuyết CLHL. Tác phẩm của Thibaut và Kelley, Tâm lý học xã hội của nhóm, trong khi nằm ngoài xã hội học, là một tiền thân quan trọng cho các phát triển trong lòng xã hội học. Người sáng lập thuyết trao đổi hiện đại là George Homans. Lý thuyết giản hóa luận, định hướng có tính quyết định vi mô của ông được tóm tắt trong một số định đề nhỏ. Blau tìm cách mở rộng thuyết trao đổi tới cấp độ vĩ mô, cơ bản là bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của các tiêu chí. Phần nhiều các tác phẩm đương thời về thuyết trao đổi chịu ảnh hưởng của nỗ lực có tính chất cấu trúc hơn của Richard Emerson để phát triển một cách tiếp cận hòa hợp vi mô-vĩ mô đối với sự trao đổi. Các môn đồ của Emerson và những người khác, bận rộn mở rộng viễn cảnh lý thuyết của ông vào nhiều lĩnh vực mới khác nhau.

            Một trong những quan tâm của Emerson là các mạng lưới, cũng là một quan tâm của những người gắn kết với lý thuyết mạng lưới. Trong khi có nhiều sự trùng lặp giữa thuyết trao đổi và thuyết mạng lưới, nhiều lý thuyết gia mạng lưới hoạt động ra phía ngoài một cơ cấu trao đổi. Thuyết mạng lưới được phân biệt bởi tiêu điểm của nó vào khuôn mẫu khách quan của các liên hệ giữa các cấp độ vi mô-vĩ mô của thực tại xã hội.

            Nhờ ở các nỗ lực to lớn của James Coleman, thuyết CLHL, từng đóng một vai trò trong sự phát triển của thuyết trao đổi, đã quay trở lại với chính nó như là một viễn cảnh lý thuyết. Vận dụng một số nguyên tắc cơ bản xuất phát từ kinh tế học, thuyết CLHL ngụ ý có thể xử lý các vấn đề cấp độ vi mô và vĩ  mô, cũng như vai trò của các yếu tố cấp độ vi mô trong sự hình thành các hiện tượng cấp độ vĩ mô. Con số các người ủng hộ thuyết CLHL đang gia tăng trong xã hội học, nhưng sự phản kháng của những người ủng hộ cho các viễn cảnh lý thuyết khác cũng đang gia tăng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét