Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013

Phúc lành của đất - Quyển I - Chương 11

 
 
Knut Hamsun 
Giải Nobel văn chương 1920 
 
Markens Grøde
 
Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
  
 
 
 
Quyển I
CHƯƠNG XI

Isak đánh xe đi cho đến lúc anh tới một cái ao giữa rừng hoang, và anh dừng lại ở đó. Một cái ao giữa cánh đồng thạch nam, đen, sâu, và mặt nước nhỏ hoàn toàn tĩnh lặng; Isak biết nó tốt cho việc gì; gần như anh không dùng tới loại gương soi nào ngoài một mặt nước nhỏ giữa đồng hoang như thế. Để coi hôm nay trông anh gọn gàng xinh đẹp thế nào, với một chiếc sơ mi đỏ, anh lấy ra một chiếc kéo và tỉa gọn bộ râu của mình. Một việc làm vô ích; phải chăng anh sắp làm cho mình trở nên đẹp trai ngay tức khắc khi cắt sạch bộ râu đã mọc suốt năm năm qua? Anh tỉa đi tỉa lại, ngắm nhìn mình trong tấm gương mặt nước. Lẽ ra anh có thể làm tất cả những việc này ở nhà, nhưng anh mắc cỡ khi thực hiện nó trước mặt Oline; thật quá sức chịu đựng khi đứng đó trước mũi bà và khoác vào một chiếc sơ mi đỏ. Anh tỉa đi tỉa lại, một số râu rơi xuống tấm gương rõ ràng của anh. Cuối cùng con ngựa trở nên nôn nóng và bước về phía trước; Isak đành tạm bằng lòng với chính mình như thế, và lại đứng lên. Thật sự, vì lý do nào đó, anh cảm thấy mình trẻ hơn ra – có quỷ sứ biết thế là thế nào, nhưng theo cách nào đó trông thanh mảnh hơn. Isak đánh xe xuôi xuống làng. 
Hôm sau con tàu đưa thư tới. Isak trèo lên một tảng đá cạnh cầu tàu của người chủ tiệm, nhìn ra, nhưng vẫn không thấy Inger đâu cả. Có nhiều hành khách, những người lớn và lũ trẻ con đi cùng họ – Lạy Trời! Nhưng không có Inger. Anh đã lui về phía sau, ngồi trên tảng đá, nhưng không cần thiết phải ở phía sau thêm nữa; anh trèo xuống và đi tới chỗ con tàu hơi nước. Những thùng hàng hóa đang được lăn lên bờ, mọi người và những túi thư, nhưng Isak vẫn thiếu thứ mà vì nó anh đã tới đây. Có gì đó đằng kia – một phụ nữ với một bé gái, đã lên tới chỗ bến tàu; nhưng trông người phụ nữ đó xinh đẹp hơn Inger – dù Inger cũng rất dễ coi. Cái gì – sao vậy – nhưng đó chính là Inger! “Ừm,” Isak tự nhủ, và bươn tới để đón họ. Những lời chào hỏi: “Chào ngày lành,” Inger nói, và chìa tay ra; hơi lạnh, hơi xanh xao sau chuyến đi, và do bị ốm trên đường. Isak cứ đứng ngẩn ra đó; cuối cùng anh nói: 
“Ừm. Hôm nay trời đẹp nhỉ.” 
“Tôi đã thấy anh đi xuống,” Inger nói. “Nhưng tôi không muốn lên bờ cùng với số đông kia. Vậy là anh vừa xuống làng hôm nay hả?” 
“Ờ, vâng. Ừm.” 
“Và ở nhà mọi người vẫn khỏe, mọi thứ vẫn ổn?” 
“Phải, cám ơn.” 
“Đây là Leopoldine; nó chịu đựng chuyến đi tốt hơn tôi. Leopoldine, đây là cha của con; hãy đến bắt tay thật ngoan ngoãn đi nào.” 
“Ừm,” Isak nói, cảm thấy rất lạ lùng – phải, anh giống như một người xa lạ với họ. 
Inger nói: “Nếu anh tìm thấy một cái máy may ở chỗ con tàu, đó là của tôi. Và cả một cái rương nữa.” 
Isak bước đi, hơn cả sẵn lòng, để tìm cái rương; những người trên tàu chỉ cho anh nó là cái nào. Cái máy may lại là một chuyện khác; Inger phải tự đi xuống và tìm nó. Nó là một cái hộp xinh đẹp, có hình thù kỳ lạ, với một cái nắp tròn bên trên, và một cái tay xách – một cái máy may ở những vùng này! Isak nhấc cái rương và cái máy may lên vai, rồi quay sang vợ và con: 
“Tôi sẽ mang những thứ này lên ngay rồi trở lại lo cho nó.” 
“Trở lại vì ai?” Inger hỏi, với một nụ cười. “Một bé gái lớn như thế, anh nghĩ là nó không tự đi được à?” 
Họ đi lên chỗ Isak để lại cỗ xe và con ngựa. 
“Anh đã mua một con ngựa mới?” Inger hỏi. “Và đó là thứ mà anh đã có, một cỗ xe với một chỗ ngồi bên trong?” 
“Đó là điều tự nhiên,” Isak nói. “Cái tôi muốn nói là: cô có muốn ăn chút gì đó không? Tôi có mang theo sẵn tất cả các thứ.” 
“Hãy chờ tới khi chúng ta đi được một lúc đã,” nàng nói. “Leopoldine, con có thể leo lên ghế không?” 
Nhưng cha nó không để nó làm thế; nó có thể rơi xuống dưới bánh xe. “Cô hãy ngồi với nó và tự đánh xe.” 
Thế là họ đánh xe lên đường, Isak đi bộ theo sau. 
Anh nhìn hai người ngồi trên xe trong lúc bước đi. Đó là Inger, ăn mặc một cách lạ lùng, trông kỳ lạ và xinh đẹp, giờ thì không còn cái môi sứt mà chỉ là một cái sẹo nhỏ xíu ở môi trên. Không còn tiếng xì xào khi nói chuyện; nàng nói rõ ràng mọi thứ, và đó là điều kỳ diệu hơn hết thảy. Một chiếc khăn choàng len xám và đỏ với một đường viền tuyệt diệu trùm lên mái tóc đen của nàng. Nàng quay lại và gọi anh: 
“Thật đáng tiếc khi anh không mang theo một tấm mền da; con bé sẽ thấy lạnh khi đêm xuống, tôi ngờ thế.” 
“Nó có thể mặc cái áo khoác của tôi,” Isak nói. “Và khi chúng ta lên tới chỗ cánh rừng, tôi đã để sẵn một tấm mền da trên đường ở đó.” 
“Ồ, anh đã để một tấm mền trong rừng à?” 
“Phải, tôi không muốn mang nó theo suốt cả chặng đường, vì có khi cô không đến hôm nay.” 
“Ừm. Lúc nãy anh nói gì nhỉ, hai đứa bé vẫn khỏe mạnh?” 
“Phải, cám ơn cô.” 
“Tôi cho rằng giờ đây chúng đã là những anh chàng to lớn?” 
“Phải, đúng thế. Chúng vừa mới trồng khoai xong đó.” 
“Ồ,” người mẹ nói, mỉm cười, và lắc đầu. “Chúng đã có thể trồng khoai rồi sao?” 
“Sao chứ, Eleseus, nó giúp một tay trong chuyện này, và nhóc Sivert thì giúp trong chuyện khác,” Isak nói một cách tự hào. 
Bé Leopoldine đang đòi có thứ gì đó để ăn. Ồ, một sinh vật bé nhỏ xinh đẹp; một con bọ rùa trên một cỗ xe ngựa! Nó nói chuyện với một giọng ngân nga như hát, một giọng nói lạ lùng, như nó đã học ở Trondhjem. Thỉnh thoảng Inger phải phiên dịch. Nó có những đặc điểm của các anh nó, đôi mắt nâu và đôi má bầu dục, tất cả đều thừa hưởng từ mẹ chúng; phải, chúng là con của mẹ chúng, và việc đó thật là tuyệt! Isak hơi mắc cỡ với cô con gái bé bỏng của anh, mắc cỡ với đôi giày nhỏ xíu và đôi tất len dài, mỏng và chiếc váy ngắn của nó; khi nó đến gặp người cha xa lạ của mình, nó đã khẽ nhún gối chào và đưa bàn tay nhỏ xíu ra cho anh. 
Họ đi vào rừng và dừng lại để nghỉ ngơi và ăn một bữa. 
Con ngựa được cho ăn cỏ khô; Leopoldine chạy tung tăng trên cánh đồng thạch nam, vừa ăn vừa đi. 
“Anh không thay đổi nhiều lắm,” Inger nói, nhìn chồng mình. 
Isak liếc mắt về một phía và nói, “Không nhiều, cô nghĩ thế à? Nhưng cô đã trở nên rất tuyệt các thứ.” 
“Ha ha! Không. Giờ tôi là một bà già rồi,” nàng nói với vẻ đùa cợt. 
Chẳng ích gì khi che giấu sự thật: giờ Isak không chắc ăn chút nào về bản thân anh. Anh không tìm thấy sự bình tĩnh mà vẫn giữ vẻ xa cách, mắc cỡ, như thể hổ thẹn về chính mình. Làm sao bây giờ vợ anh lại có thể già đi được? Nàng không thể ít hơn ba mươi – nói thế có nghĩa là nàng không thể nhiều hơn, tất nhiên. Và Isak, với tất cả những gì anh vừa ăn xong, chợt kéo một nhánh thạch nam lên và cắn vào nó. 
“Gì thế, anh đang ăn thạch nam à?” Inger kêu lên và cười rộ. 
Isak ném nhánh cây xuống, tọng đầy một miệng thức ăn, và đi lên chỗ con đường, nắm lấy hai chân trước của con ngựa và nhấc bổng phần trước của nó lên cho tới lúc con vật đứng trên hai chân sau. Inger nhìn anh với sự ngạc nhiên. 
“Anh làm thế chi vậy?” nàng hỏi. 
“Ồ, nó rất thích đùa,” Isak nói, và thả con ngựa xuống lại. 
Nào, anh đã làm thế vì lý do gì? Chỉ là một thôi thúc đột ngột; có lẽ anh làm thế để che đậy nỗi bối rối của mình. 
Họ lại khởi hành, và cả ba đi bộ một chặng. Họ tới một nông trại mới. 
“Cái gì ở kia vậy?” Inger hỏi. 
“Đó là chỗ ở của Brede, anh ta đã mua nó.” 
“Brede?” 
“Anh ta gọi nó là Breidablik. Có đồng cỏ rộng, nhưng ít gỗ.” 
Họ nói về cái nông trại mới khi đi ngang qua nó. Isak nhận thấy cỗ xe của Brede vẫn còn để ngoài trời. 
Lúc này đứa bé bắt đầu buồn ngủ, và Isak nhẹ nhàng bế nó trên tay. Họ tiếp tục đi. Chẳng bao lâu Leopoldine ngủ thiếp đi, và Inger nói: 
“Chúng ta sẽ lấy tấm mền trùm nó lại và nó có thể nằm trong xe ngủ bao lâu tùy ý.” 
“Nó sẽ bị lắc vỡ thành từng mảnh mất,” Isak nói, và tiếp tục bế nó. Họ băng qua những cánh đồng thạch nam và lại đi vào rừng. 
“Xùy, đứng lại!” Inger nói, và con ngựa dừng lại. Nàng bế lấy đứa bé từ tay Isak, bảo anh dời chỗ cái rương và chiếc máy may để chừa một chỗ cho Leopoldine ở cuối xe. “Lắc ư? Không lắc chút nào đâu!” 
Isak sắp xếp lại các thứ, quấn đứa bé trong tấm mền và gấp chiếc áo khoác lại, đặt dưới đầu nó. Rồi họ lại lên đi tiếp. 
Người đàn ông và vợ anh tán gẫu về chuyện này chuyện nọ. Mặt trời  vẫn còn treo cao cho tới tận xế chiều, và thời tiết khá ấm áp. 
“Oline ngủ ở đâu?” Inger hỏi. 
“Trong căn phòng nhỏ.” 
“Thế à! Còn bọn nhóc?” 
“Chúng ngủ trên giường chúng trong phòng lớn. Trong đó có hai cái giường, ngay sau khi cô đi khỏi.” 
“Nhìn anh bây giờ xem,” Inger nói, “tôi có thể thấy anh chẳng khác gì lúc trước. và đôi vai của anh nữa, chúng đã vác hàng trăm gánh nặng trên con đường này, nhưng có vẻ chúng chưa trở nên yếu đi vì chuyện đó.” 
“Ừm. Có thể. Điều tôi muốn nói là: Suốt những năm ở đó cô sống ra sao? Có chịu được không?” Ồ, lúc này lòng Isak đang trở nên mềm dịu; anh hỏi nàng câu đó, và tự hỏi trong đầu mình. 
Và Inger đáp” “Phải, không có gì để than phiền cả.” 
Họ trò chuyện với nhau một cách xúc động, và Isak hỏi nàng đi bộ có mệt không, có muốn trở lên xe ngồi một khúc đường không. “Không, cám ơn,” nàng nói. “Nhưng tôi không biết chuyện gì xảy ra với mình hôm nay nữa; sau khi bị ốm trên tàu, tôi cứ thấy đói bụng suốt.” 
“Sao, cô muốn ăn gì đó không?” 
“Có, nếu anh không ngại phải dừng lại quá lâu.” 
Ôi chao, cái cô nàng Inger đó, có lẽ việc đó không phải là vì bản thân nàng mà vì Isak. Nàng muốn anh ăn thêm lần nữa, anh đã làm hỏng bữa ăn cuối của mình với việc nhấm nháp nhánh thạch nam. 
Buổi chiều còn sáng và ấm áp, và họ chỉ phải đi thêm vài dặm nữa; họ ngồi xuống và ăn thêm lần nữa. 
Inger lấy từ rương ra một cái gói và bảo: 
“Tôi có mang theo vài thứ cho hai đứa con trai. Chúng ta hãy đi đến bụi cây phía trước, ở đó ấm hơn.” 
Họ đi tới chỗ bụi cây, và nàng khoe với Isak các thứ; những sợi dây đeo quần có khóa cho hai đứa con trai, những cuốn sách vở tập viết với các mẫu chữ ở đầu trang, một cây bút chì cho mỗi đứa, một con dao nhíp cho mỗi đứa. Và nàng cũng có một cuốn sách tuyệt vời cho chính mình. “Nhìn này, có tên tôi trong đó. Một cuốn kinh cầu nguyện.” Đó là một món quà kỷ niệm của viên giám đốc. 
Isak tán thưởng từng vật một trong im lặng. Nàng lôi ra một mớ cổ áo, chúng là của Leopoldine. Và nàng trao cho Isak một cái khăn quàng cổ bóng láng như lụa. 
“Cái này là cho tôi?” anh hỏi. 
“Vâng, cho anh.” 
Anh cẩn thận cầm nó trên tay và vuốt ve nó. 
“Anh nghĩ nó có đẹp không?” 
“Đẹp, sao chứ, tôi có thể đi khắp thế giới với một chiếc khăn như thế này.” 
Nhưng những ngón tay của Isak khá thô kệch; chúng dính chặt vào thứ vải lụa lạ lùng đó. 
Bây giờ Inger không còn món gì để khoe nữa. Nhưng khi nàng đã gói tất cả các thứ lại, nàng ngồi im ở đó; và theo cách nàng ngồi, anh có thể trông thấy đôi chân và đôi tất viền đỏ của nàng. 
“Ừm,” anh nói. “Tôi cho là các thứ đó được làm ở thị trấn?” 
“Tôi mua len ở thị trấn, nhưng tôi tự đan lấy chúng. Chúng khá dài, lên tới trên đầu gối, xem này…” 
Một lát sau nàng nghe thấy tiếng mình thì thầm: 
“Ồ, anh… anh cũng vẫn y hệt, y hệt như hồi nào!” 
*** 
 Sau lần tạm dừng đó họ lại đi tiếp, Inger ngồi lên, nắm lấy dây cương. “Tôi cũng có mua một gói cà phê,” nàng nói. “Nhưng tối nay anh không thể nếm được, vì nó chưa được rang lên.” 
“Chưa cần tới nó tối nay đâu,” anh nói. 
Một giờ sau mặt trời lặn xuống, và trời trở lạnh hơn. Inger xuống xe đi bộ. Họ cùng quấn chặt hơn tấm mền quanh Leopoldine, và mỉm cười khi thấy nó có thể ngủ ngon đến thế. Hai vợ chồng lại trò chuyện với nhau trên đường. Nghe thấy giọng nói của Inger thật là một niềm vui thú; giờ đây không ai có thể nói rõ ràng hơn nàng được. 
“Có phải chúng ta đã có bốn con bò cái?” Inger hỏi. 
“Nhiều hơn,” Isak đáp một cách tự hào. “Chúng ta có tám con.” 
“Tám con bò cái!” 
“Nghĩa là tính cả con bò đực.” 
“Anh có bán được chút bơ nào không?” 
“Có, và trứng nữa.” 
“Cái gì, giờ chúng ta có cả gà nữa à?” 
“Phải, tất nhiên là chúng ta có. Và một con heo nữa.” 
Inger ngạc nhiên với tất cả những chuyện này đến nỗi nàng hoàn toàn quên mất bản thân mình, và dừng lại một lúc. “Xùy, đứng lại!” Và Isak rất tự hào, nói tiếp, cố áp đảo nàng hoàn toàn. 
“Cái ngài Geissler đó,” anh nói, “cô nhớ ông ta chứ? Gần đây ông ta đã quay lại.” 
“Ồ?” 
“Tôi đã bán cho ông ta một mỏ đồng.” 
“Thế sao! Cái gì chứ, một mỏ đồng?” 
“Phải, đồng. Ở trên đồi, nằm ở phía bắc dòng nước.” 
“Anh… anh không có ý nói là ông ta đã trả tiền cho anh để mua nó chứ?” 
“Phải, ông ta đã làm thế. Geissler không phải là người mua mà không trả tiền.” 
“Vậy anh đã có bao nhiêu?” 
“Ừm. Chà, cô không tin nổi đâu, tới hai trăm Daler.” 
“Anh có hai trăm Daler!” Inger kêu lên, một lần nữa dừng xe lại với một tiếng “Xùy!” 
“Vâng, tôi có. Và tôi đã trả hết tiền mua đất từ lâu rồi,” Isak nói. 
“Chà, anh thật là một điều kỳ diệu, đúng vậy!” 
Thật sự, việc trông thấy Inger hoàn toàn kinh ngạc và biến nàng thành một người vợ giàu có là một niềm vui thú. Isak không quên nói thêm rằng anh không mắc nợ ở cửa tiệm hay bất kỳ chỗ nào khác. Và anh không chỉ có hai trăm Daler của Geissler chưa đụng đến, mà còn nhiều hơn thế – thêm một trăm sáu mươi Daler nữa. Phải, họ nên biết ơn Thượng đế! 
Họ lại trò chuyện về Geissler; Inger có thể kể ông ta đã giúp nàng được trả tự do như thế nào. Nói cho cùng, dường như đó không phải là một công việc dễ dàng cho ông ta; ông đã mất một thời gian dài để tiến hành công việc và đã tới gặp viên giám đốc rất nhiều lần. Geissler cũng đã viết thư cho một người nào đó trong số ủy viên Hội đồng Nhà nước, hoặc ai đó khác có quyền cao chức trọng; nhưng ông đã làm việc này sau lưng viên giám đốc, và khi nghe thấy chuyện này viên giám đốc đã nổi cơn thịnh nộ, không có gì phải ngạc nhiên về điều đó. Nhưng Geissler không hề e sợ; ông yêu cầu xem xét lại vụ án, một phiên tòa mới, một cuộc kiểm tra mới, và mọi thứ. Và sau đó đức vua phải ký. 
Vị cựu Lensmand Geissler luôn là một người bạn tốt với cả hai vợ chồng họ, và họ thường tự hỏi vì sao; ông ta chẳng nhận được thứ gì từ điều đó ngoài lời cám ơn nghèo nàn của họ – đó là điều mà họ không thể hiểu nổi. Inger đã nói chuyện với ông ta ở Trondhjem, và không thể hiểu được ông ta. “Có vẻ như ông ta không quan tâm chút nào tới bất kỳ một ai trong làng trừ chúng ta ra,” nàng giải thích. 
 “Ông ta đã nói thế sao?” 
“Phải. Ông ta nổi giận với dân làng ở đây. Ông ta sẽ chỉ cho họ thấy, ông ta bảo thế.” 
“Thế à!” 
“Và một ngày nào đó họ sẽ hiểu ra, và thấy tiếc nuối vì đã đánh mất ông ta, ông ta bảo thế.” 
Họ đã tới chỗ bìa rừng, và đã nhìn thấy ngôi nhà của mình. Ở đó có nhiều tòa nhà hơn trước, và tất cả đều được sơn phết một cách đẹp đẽ. Inger gần như biết lại nơi chốn này lần nữa, và đứng lặng người đi. 
“Anh, anh không nói rằng đó là chỗ của chúng ta chứ, tất cả các thứ đó?” Nàng cảm thán. 
Cuối cùng bé Leopoldine đã thức giấc và ngồi dậy, lúc này đã nghỉ ngơi đầy đủ; họ bế nó ra và để cho nó đi bộ. 
“Bây giờ chúng ta lên chỗ đó phải không?” Nó hỏi. 
“Phải. Nó là một nơi xinh đẹp, phải không?” 
Có những hình thù bé nhỏ đang chuyển động ở cạnh ngôi nhà; đó là Eleseus và Sivert, đang tiếp tục dõi nhìn. Lúc này chúng đang chạy ùa tới. Inger bị xâm chiếm bởi một cơn lạnh đột ngột – một cơn lạnh đáng sợ trong đầu, với tiếng khụt khịt và tiếng ho – thậm chí đôi mắt nàng đỏ tấy lên và rưng lệ. Đi tàu luôn khiến cho người ta mắc phải một cơn cảm cúm đáng sợ – khiến mắt người ta ướt đẫm các thứ! 
Nhưng khi hai cậu con trai chạy đến gần, chúng đột ngột dừng lại và nhìn chòng chọc. Chúng đã quên mẹ chúng trông như thế nào, và chúng chưa hề nhìn thấy cô em gái nhỏ của mình. Nhưng cha chúng – chúng không hề nhận ra anh cho tới khi anh tới thật gần. Anh đã cắt sạch bộ râu rậm của mình.

Phúc lành của đất - Quyển I - Chương 10

 
 
Knut Hamsun 
Giải Nobel văn chương 1920 
 
Markens Grøde
 
Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
  
 
 
 
Quyển I
CHƯƠNG X
Ngày hôm sau, vận mệnh đã an bày một sự kiện lớn. Một vị khách tới trại – Geissler. Trên những cánh đồng hoang không còn là mùa hè, nhưng Geissler không lưu tâm tới tình trạng của đất đai; ông đi bộ đến, chân mang một đôi ủng cao sang trọng với những miệng ủng rộng bóng loáng; và còn mang một đôi găng tay màu vàng trông thật lịch sự; một người đàn ông trong làng vác theo các vật dụng của ông. 
Thật ra, ông đến để mua một miếng đất của Isak, ở trên đồi – một mỏ đồng. Và giá cả thì sao? Nhân tiện, ông cũng có một tin nhắn từ Inger – nàng sống ổn, mọi người đều thích nàng; ông đã tới Trondhjem và gặp nàng. “Isak, anh đã làm được một việc gì đó ở đây rồi!” 
“Phải, tôi cho là thế. Và ngài đã gặp Inger?” 
“Anh có cái gì ở đó vậy? Dựng một chiếc cối xay của riêng mình, phải không? Để xay lúa của chính anh? Tuyệt. Và anh đã khai khẩn được khá nhiều đất từ khi tôi ở đây lần trước.” 
“Cô ấy khỏe không?” 
“Hử? Ồ, vợ anh! Vâng, cô ta mạnh khỏe. Chúng ta hãy vào phòng kế bên. Tôi sẽ kể cho anh nghe.” 
“Phòng đó không ngăn nắp,” Oline xen vào. Oline có lý do riêng của bà để không muốn họ vào đó. Dù sao thì họ cũng đi vào căn phòng nhỏ, và đóng cửa lại. Oline đứng trong bếp và không nghe được gì. 
Geissler ngồi xuống, đưa bàn tay mạnh mẽ vỗ lên đầu gối. Ông – vị chủ nhân số phận của Isak. 
“Anh có bán cái lô đất có đồng đó chưa?” ông hỏi. 
“Chưa.” 
“Tốt. Tôi sẽ mua nó. Vâng, tôi đã gặp Inger và cả vài người khác. Cô ấy sẽ sớm được thả ra, nếu như tôi không lầm, vụ án đã được trình lên đức vua.” 
“Đức vua?” 
“Vâng, đức vua. Tôi đi vào và nói chuyện với vợ anh, họ lo liệu cho tôi chuyện đó, tất nhiên, không có gì khó khăn trong chuyện đó, và chúng tôi nói chuyện khá lâu. ‘Chà, Inger, cô thế nào rồi? Tốt đẹp hử?’ ‘Sao, tôi không có gì để than phiền.’ ‘Muốn trở về nhà không?’ ‘Vâng, tôi sẽ không nói là không.’ ‘Và cô sẽ sớm về thôi,’ tôi nói. Và tôi phải nói với anh điều này, Isak ạ, Inger là một cô gái tốt. Không khóc lóc, chẳng có tới một giọt nước mắt mà chỉ mỉm cười và cười to… họ đã chữa cho miệng cô ấy, bằng cách giải phẫu, may nó lại. ‘Tạm biệt,’ tôi nói. ‘Cô sẽ không còn ở đây lâu đâu, tôi hứa với cô điều đó.’ 
“Khi tôi tới gặp ngài giám đốc, ông ta tiếp tôi, tất nhiên, không khó khăn gì trong việc đó. ‘Ở đây có một phụ nữ nên được thả ra và cho trở về nhà, Inger ở Sellanraa,’ tôi nói. ‘Inger hả?’ Ông ta nói. ‘Sao, phải. Cô ta là một người tốt, tôi ước gì có thể giữ cô ta lại hai mươi năm,’ ‘Chà, ông sẽ không làm thế đâu,’ tôi nói. ‘Cô ấy đã ở đây khá lâu rồi.’ ‘Khá lâu?’ Ông ta nói. ‘Ông có biết vì sao cô ta bị nhốt không? Tôi biết hết mọi chuyện về nó,’ tôi nói, ‘khi còn là Lensmand ở huyện đó.’ ‘Ồ,’ ông ta nói, ‘sao ông không ngồi xuống đi,’  Đó là một câu nói rất đúng, tất nhiên. ‘Sao,’ vị giám đốc nói, ‘ở đây chúng tôi làm những gì có thể cho cô ta, và cả con gái bé bỏng của cô ta nữa. Vậy là  cô ta đến từ vùng của ông, phải không? Chúng tôi đã giúp cho cô ta có một cái máy may riêng; cô ta đã vươn lên đứng đầu trong xưởng, và chúng tôi đã dạy cô ta nhiều thứ, dệt, công việc nội trợ, nhuộm vải, cắt may. Ông nói đã ở đây quá lâu à? Vâng, tôi đã có câu trả lời của chính mình cho chuyện đó, nhưng có thể đợi, vì thế tôi chỉ nói vụ của cô ta đã bị làm rối tung lên, và phải xem xét lại; bây giờ, sau khi tu chỉnh hình luật, có lẽ cô ta sẽ được ân xá hoàn toàn.’ Và tôi kể cho ông ta nghe về con thỏ rừng. ‘Một con thỏ?’ Vị giám đốc nói. ‘Phải, một con thỏ,’ tôi nói. ‘Và đứa bé chào đời với một cái môi sứt.’ ‘Ồ,’ ông ta nói, mỉm cười, ‘tôi hiểu. Và ông nghĩ họ nên giảm án nhiều hơn vì chuyện đó?’ ‘Họ không hề giảm chút nào,’ tôi nói, “vì nó không được nhắc tới.’ ‘Thôi được, tôi dám nói rằng nói cho cùng bản án cũng không tệ lắm.’ ‘Dù sao thì cũng khá tệ đối với cô ấy.’ ‘Ông có tin rằng một con thỏ thể tạo ra những điều mầu nhiệm không?’ Ông ta hỏi. ‘Về chuyện đó tôi không bàn tới việc một con thỏ có tạo ra những điều mầu nhiệm hay không ngay bây giờ. Vấn đề là, tác động có thể xảy ra của việc nhìn thấy một con thỏ đối với một phụ nữ bị khiếm khuyết, trong tình trạng của cô ấy.’ ‘Ồ,’ ông ta suy nghĩ một lúc rồi cuối cùng nói, ‘Ừm, có thể, có thể. Dù sao, chúng tôi không quan tâm tới con thỏ đó. Tất cả những gì chúng tôi phải làm là đón nhận những người họ gửi tới cho chúng tôi chứ không phải sửa đổi hình phạt của họ. Và theo hình phạt của Inger, cô ta chưa hoàn thành thời hạn.’ 
“Vâng, lúc đó tôi bắt đầu nói điều mà tôi muốn nói cho hết. ‘Trước tiên, có một sơ sót nghiêm trọng trong việc đưa cô ta tới đây,’ tôi nói. ‘Một sơ sót?’ ‘Vâng. Ngay từ đầu không bao giờ nên chuyển cô ta tới đây trong tình trạng của cô ta lúc đó.’ Ông ta nhìn tôi trân trân. ‘Đúng, điều đó hoàn toàn đúng,’ ông ta nói. ‘Nhưng nó không dính dáng gì tới chúng tôi ở đây, ông biết đó.’ ‘Và thứ hai,’ tôi nói, ‘chắc chắn là cô ta sẽ không bị giam suốt hai tháng mà không có một lưu ý nào tới tình trạng của cô ta từ các quan chức ở đây.’ Câu đó đã đốn gục ông ta, tôi có thể thấy; ông ta không nói gì một lúc lâu. ‘Ông được chỉ thị làm đại diện cho cô ấy?’ Cuối cùng ông ta hỏi. ‘Phải, là tôi,” tôi đáp. Ồ, lúc đó ông ta bắt đầu kể họ đã hài lòng về cô ấy như thế nào, và kể cho tôi nghe một lần nữa những gì họ đã dạy cô ấy và làm cho cô ấy ở đó – ‘ngay cả dạy cho cô ta viết’, ông ta nói. ‘Và đứa bé được đưa ra cho những người đàng hoàng nuôi dưỡng, vân vân’. Rồi tôi nói với ông ta mọi chuyện ở nhà ra sao khi Inger đi khỏi. Hai đứa con nhỏ bị bỏ lại, và chỉ có một phụ nữ làm thuê chăm sóc chúng, và mọi chuyện còn lại. ‘Tôi có một tờ đơn của chồng cô ta,’ tôi nói, ‘mà tôi có thể nộp nếu vụ án được lấy lên xem xét lại, hoặc sẽ làm một lá đơn xin ân xá. ‘Tôi muốn xem lá đơn đó,’ vị giám đốc nói. ‘Được,’ tôi đáp. ‘Ngày mai tôi sẽ mang nó tới vào giờ thăm viếng.’” 
Isak ngồi lắng nghe – thật xúc động khi nghe một câu chuyện kỳ diệu từ một miền đất xa xôi. Anh dõi theo miệng của Geissler với đôi mắt mù quáng. 
Geissler nói tiếp: “Tôi đi thẳng về khách sạn và viết một lá đơn; tự tôi làm toàn bộ mọi thứ, anh hiểu không, và ký tên ‘Isak ở Sellanraa.’ Tuy nhiên, đừng nghĩ rằng tôi nói lời nào chống lại cách thức họ quản lý các thứ trong nhà tù. Không một lời nào. Hôm sau tôi tới với tờ đơn. ‘Mời ông ngồi.’ viên giám đốc nói khi tôi bước vào cửa. Ông ta đọc kỹ những gì tôi viết, gật đầu ở đoạn này đoạn khác, rồi cuối cùng bảo: ‘Rất tốt, thật sự rất tốt. Có lẽ khó mà đưa vụ án lên để xử lại, nhưng…’ ‘Chờ chút đã,’ tôi nói. ‘Tôi còn có một hồ sơ khác mà tôi nghĩ sẽ làm rõ vấn đề.’ Lại tóm được ông ta, anh thấy đó. ‘Ờ,’ ông ta vội vàng nói, ‘tôi đã suy nghĩ kỹ về vấn đề này từ hôm qua, và tôi cho rằng có những cơ sở tốt và đầy đủ để xin ân xá.’ ‘Và lá đơn sẽ nhận được sự hỗ trợ của ngài giám đốc?’ tôi hỏi. ‘Tất nhiên, vâng, tôi sẽ đưa ra lời tư vấn tốt nhất của mình.’ Thế là tôi cúi chào và nói: ‘Xin cám ơn ông, với tư cách một phụ nữ đau khổ và một gia đình tan nát.’ Sau đó ông ta nói: ‘Tôi nghĩ không cần có thêm bất cứ lời khai nào, ý tôi là từ huyện, về vụ án của cô ấy. Chính ông biết người phụ nữ này, thế là quá đủ rồi.’ Tất nhiên là tôi biết vì sao ông ta muốn giải quyết vụ việc càng êm thắm càng tốt, vì thế tôi đồng ý: nói về chuyện đó chỉ trì hoãn tiến trình thu thập thêm các tư liệu… 
“Và anh đã nghe hết toàn bộ câu chuyện, Isak ạ.” Geissler nhìn đồng hồ của mình. “Còn giờ thì hãy chuyển sang công việc. Anh có thể đi với tôi lên miếng đất đó lần nữa không?” 
Isak là một sinh vật nặng nề, một con người chậm chạp; anh không dễ dàng thay đổi đề tài ngay tức khắc; anh hoàn toàn chìm đắm trong những ý nghĩ và thắc mắc, và bắt đầu hỏi về chuyện này chuyện nọ. Anh biết được rằng đơn thỉnh nguyện đã được trình lên đức vua, và có thể được quyết định vào một trong những cuộc họp đầu tiên của Hội đồng Nhà nước. “Tất cả những chuyện này đúng là một phép mầu,” anh nói. 
Sau đó họ đi lên đồi; Geissler, người giúp việc của ông và Isak, và họ đi ra ngoài khoảng vài giờ. Chỉ trong một thời gian rất ngắn Geissler đã đi theo mạch quặng qua một mảnh đất rộng và đánh dấu các giới hạn của khu đất ông muốn có. Ông ta đi tới chỗ này, chỗ nọ, khắp mọi nơi. Nhưng trong mọi cử động vội vã của ông không hề có gì thái quá; phán xét nhanh, nhưng khá tốt cho tất cả mọi chuyện. 
Một lần nữa, họ quay về nông trại với một bao tời đầy các mẫu quặng – ông móc giấy bút ra và ngồi xuống để viết. Tuy vậy, ông không đặt hoàn toàn tâm trí vào việc viết lách mà thỉnh thoảng vẫn trò chuyện. “Chà, Isak, lần này thì không phải là một món tiền to tát lắm cho miếng đất, nhưng dù thế nào đi nữa, tôi có thể trả ngay tại chỗ cho anh hai trăm Daler.” Sau đó ông lại tiếp tục viết. “Nhớ nhắc tôi trước khi tôi đi, tôi muốn xem cái cối xay của anh,” ông nói. Rồi ông bắt gặp những dấu hiệu xanh đỏ gì đó trên khung cửi và hỏi, “Ai vẽ mấy hình đó vậy?” Đó là hình một con ngựa và một con dê do Eleseus vẽ; nó đã dùng cây bút chì màu trên khung cửi và những thứ đồ gỗ ở khắp chốn trong nhà vì không có giấy. “Không tệ chút nào,” Geissler nói, và cho Eleseus một đồng tiền. 
Geissler tiếp tục viết thêm một lát, rồi ngẩng lên. “Chẳng bao lâu nữa sẽ có thêm người mua đất quanh chỗ anh.” 
Nghe thấy thế Isak đáp: “Đã có người rồi.” 
“Thế à! Ai vậy?” 
“Ồ, trước tiên là người ở Breidablik, như họ gọi, ông Brede, ở Breidablik.” 
“Anh ta ư? Xì!” Geissler khịt mũi với vẻ coi thường. 
“Ngoài ra cũng có thêm một hai người nữa đã mua.” 
“Tôi ngờ là họ chả tốt chút nào, bất kỳ ai trong số họ,” Geissler nói. Và đồng thời nhận ra cả hai đứa bé trai đang có mặt trong phòng, ông nắm tay nhóc Sivert và cho nó một đồng tiền. Geissler là một người khác thường. Nhân tiện, đôi mắt ông đã bắt đầu có vẻ bị đau; có màu đỏ ở các khóe mắt. Có thể là do thiếu ngủ; hoặc cũng có thể do uống rượu. Nhưng trông ông không có vẻ gì là chán nản; và trong lúc nói chuyện này chuyện khác, không còn ngờ gì rằng ông cũng đang suy nghĩ về hồ sơ của mình, vì đột nhiên ông cầm bút lên và viết thêm gì đó. 
Cuối cùng dường như ông đã hoàn tất. 
Ông quay sang Isak: “Ờ, như tôi đã nói, vụ thỏa thuận này không biến anh thành người giàu có ngay lập tức. Nhưng có thể sẽ có nhiều hơn nữa. Chúng tôi sẽ xác định để sau này anh nhận được thêm. Dù sao đi nữa, bây giờ tôi có thể đưa cho anh hai trăm.” 
Isak không hiểu lắm toàn bộ chuyện này, nhưng hai trăm Daler ở bất cứ giá nào cũng vẫn là một phép mầu khác, và là một khoản tiền phi lý. Tất nhiên anh có thể nhận nó trên giấy chứ không phải tiền mặt, nhưng sao cũng được. Ngay lúc này Isak chỉ nghĩ tới một chuyện khác. 
“Và ngài nghĩ là cô ấy sẽ được ân xá?” Anh hỏi. 
“Hử? Ồ, vợ anh! Được, nếu trong làng có một phòng điện tín, tôi sẽ đánh điện tới Trondhjem để hỏi xem cô ấy đã được thả ra chưa.” 
Isak đã nghe mọi người nói về điện tín; một điều kỳ diệu, một sợi dây treo trên mấy chiếc cột cao, một cái gì đó hoàn toàn vượt khỏi mặt đất bình thường. Việc nhắc tới nó lúc này dường như làm lung lay niềm tin của anh vào những lời to tát của Geissler, và anh nôn nóng hỏi: “Nhưng giả sử đức vua nói không?” 
Geissler nói: “Trong trường hợp đó, tôi sẽ gửi tư liệu bổ sung của tôi, một lý giải đầy đủ cho toàn bộ vụ việc. Và rồi họ phải trả tự do cho cô ấy. Không có gì phải ngờ vực cả.” 
Sau đó ông đọc lại những thứ đã ghi; bản hợp đồng mua đất. Trao tay ngay hai trăm Daler tiền mặt, và sau đó là một tỷ lệ phần trăm cao từ những thu nhập hoặc chuyển nhượng sau đó của mảnh đất có mỏ đồng. “Ký tên của anh ở đây,” Geissler nói. 
Isak có thể ký một cách dễ dàng, nhưng anh không phải là một học giả; trong suốt đời mình anh không đi xa hơn việc khắc những chữ viết tắt tên họ lên gỗ. Nhưng cái mụ Oline đáng ghét ấy đang nhìn; anh cầm lấy cây bút máy – một vật quá nhẹ đối với tay anh, quay đầu có ngòi xuống và viết – viết tên của anh. Geissler viết thêm vào gì đó, có thể đoán là một lời giải thích, và người đàn ông đi cùng ông ký tên với tư cách một nhân chứng. 
Mọi việc xong xuôi. 
Nhưng Oline vẫn ở đó, đứng bất động – thật sự lúc này bà thấy cứng cả thân người. Chuyện gì sẽ xảy ra. 
“Dọn bữa tối lên bàn đi, dì Oline,” Isak nói, có thể với đôi chút nghiêm trang, sau khi ký tên lên một tờ giấy. “Chúng tôi có thể mời ngài một bữa ăn,” anh nói thêm với Geisller. 
“Mùi thơm lắm,” Geissler nói. “Thịt và thức uống ngon. Đây, tiền của anh đây, Isak!” Geissler móc ví tiền ra – nó dầy cộm – rút ra từ đó hai xấp bạc giấy và đặt chúng xuống. “Hãy tự mình đếm lại.” 
Không một cử động, không một âm thanh. 
“Isak,” Geissler nhắc lại. 
“À, phải,” Isak đáp, và lẩm bẩm, thấy choáng ngợp, “Tôi đã không đòi hỏi điều này, cũng sẽ không, sau những gì ngài đã làm.” 
“Trong xấp đó là mười tờ mười đồng, còn xấp này là hai mươi tờ năm đồng,” Geissler nói vắn tắt. “Và tôi hy vọng về lâu dài phần của anh sẽ còn nhiều hơn nữa.” 
Và chính lúc đó Oline hồi phục lại từ trạng thái thôi miên. Rốt cuộc điều kỳ diệu đã xảy ra. Bà dọn thức ăn lên bàn. 
Sáng hôm sau Geissler ra chỗ con sông để ngắm cái cối xay. Nó khá nhỏ, và được xây dựng một cách thô kệch; phải, một cái cối xay cho những chú lùn, những người tí hon, nhưng mạnh mẽ và hữu ích cho công việc của một người. Isak dẫn vị khách của mình lên phía trên dòng sông một đoạn, chỉ cho ông thấy con thác nhỏ mà anh đã thực hiện được một ít, để làm quay một cái máy cưa, nếu Thượng đế cho anh sức khỏe. “Điều duy nhất,” anh nói, “là đường đến trường học quá xa: tôi sẽ phải gửi hai đứa nhỏ ở lại dưới làng.” Nhưng Geissler, luôn nhanh chóng tìm ra một cách, thấy không có gì phải lo về chuyện đó. “Sẽ có thêm nhiều người mua đất và đến định cư ở đây,” ông nói. “Không bao lâu nữa sẽ có đủ người để bắt đầu một ngôi trường.” 
“Phải, có thể, nhưng không phải trước lúc hai đứa con tôi đã lớn.” 
“Chà, sao không cho chúng sống ở một trang trại trong làng? Anh có thể chở chúng và một ít thức ăn xuống, rồi lại đưa chúng về sau ba tuần, sáu tuần; chuyện đó khá dễ với anh mà, phải không?” 
“Phải, có thể,” Isak nói. 
Vâng, mọi chuyện sẽ khá dễ dàng, nếu như Inger trở về nhà. Anh đã có đủ nhà cửa, đất đai, thức ăn và những thứ tuyệt vời, cả một số tiền lớn, cộng thêm sự khỏe mạnh và sức lực của anh; anh rắn như thép. Sự khỏe mạnh và sức lực – phải, tràn trề và còn nguyên vẹn, theo mọi cách, sự khỏe mạnh và sức lực của một người đàn ông. 
Khi Geissler đã đi khỏi, Isak bắt đầu suy nghĩ tới nhiều điều táo bạo. Vâng, chẳng phải Geissler, con người đầy phúc lành đối với tất cả bọn họ, đã nói lúc chia tay rằng ông sẽ sớm gửi một tin nhắn – sẽ gửi một bức điện tín ngay khi có thể hay sao. “Anh có thể ghé tới bưu điện trong thời gian nửa tháng,” ông đã nói thế. Và bản thân điều đó đã là một chuyện khá diệu kỳ. Isak bắt tay làm một cái ghế ngồi cho cỗ xe. Tất nhiên là một cái ghế có thể tháo rời khi dùng xe để chở phân bón, nhưng khi cần chở bất kỳ ai sẽ có thể gắn nó vào trở lại. Và khi anh đã làm xong cái ghế, trông nó trắng toát và mới toanh đến nỗi cần phải sơn nó tối đi. Về chuyện sơn, có đủ các thứ cần thực hiện! Toàn bộ trang trại cần được sơn lại. Và suốt bao năm qua anh luôn nghĩ tới việc xây một căn nhà kho đàng hoàng, có cả một chiếc cầu để chở mùa màng thu hoạch vào trong. Anh cũng đã nghĩ tới việc lắp dựng và hoàn tất cái máy cưa đó; tới việc rào lại tất cả đất trồng trọt của anh; việc đóng một con thuyền trên cái hồ trên đồi. Anh đã nghĩ tới việc thực hiện nhiều thứ. Nhưng dù anh làm việc một cách cần cù – cần cù đến vô lý – nó có tác dụng gì so với thời gian? Thời gian – chính thời gian là thứ quá ngắn. Trước khi anh biết đã tới ngày Chủ nhật, và ngay sau đó đã lại là Chủ nhật! 
Trong bất kỳ trường hợp nào, anh cũng sẽ sơn nhà cửa; điều đó đã được quyết định và nhấn mạnh. Nhà cửa đứng đó xám xịt và trần trụi – như những ngôi nhà chỉ  mặc đôi ống tay áo. Vẫn còn có thời gian trước khi tới mùa bận rộn; mùa xuân gần như sắp tới; những chồi nhỏ đã nhú lên, nhưng trên mặt đất vẫn còn băng giá. 
Isak đi xuống làng, mang theo vài chục trứng để bán, và mang sơn trở về. Có đủ sơn cho một công trình, cho cái nhà kho, và nó được sơn đỏ. Anh mang về thêm nhiều sơn, lần này là màu vàng nhạt, cho chính ngôi nhà. “Phải, đúng như tôi đã nói, ở đây sẽ đẹp đẽ và tuyệt vời,” Oline lầm bầm hàng ngày. Phải, không còn ngờ gì nữa, Oline có thể đoán được, rằng thời gian của bà ở Sellanraa sẽ sớm kết thúc; bà khá cứng cỏi để chịu đựng nó, dù không phải không cay đắng. Còn về phần mình, giờ đây Isak không còn tìm cách trả mối thù xưa với bà nữa, dù bà vẫn cứ hay ăn cắp vặt và vứt bỏ các thứ một cách khá hoang toàng cho tới cùng. Anh tặng bà một con cừu thiến non để làm quà; nói cho cùng, bà đã ở với anh một thời gian dài, và làm việc với khoản trả công ít ỏi. Và Oline cũng không xử tệ lắm với bọn trẻ; bà không nghiêm khắc và công bằng mấy, nhưng có sở trường riêng trong việc xử lý với bọn trẻ: lắng nghe những điều chúng nói, và ít nhiều để mặc cho chúng làm gì tùy thích. Nếu chúng tới gần trong lúc bà đang làm pho mát, bà sẽ cho chúng một chút để nhấm nháp; nếu chúng xin phép được miễn rửa mặt vào một Chủ nhật nào đó, bà sẽ cho phép chúng. 
Sau khi đã khoác lên những bức tường của mình lớp áo đầu tiên, Isak lại đi xuống làng và mang về tất cả lượng sơn mà anh có thể vác theo. Anh quét lên tổng cộng ba lớp sơn, và sơn trắng các khung cửa sổ cùng các góc tường. Giờ đây, khi trở về và nhìn lên ngôi nhà của mình trên sườn đồi, anh thấy nó giống như một cung điện thần tiên. Chốn hoang vu đã có người cư ngụ và không còn có thể nhận ra được nữa, một phúc lành đã đến với nó, cuộc sống đã mọc lên ở đó từ một giấc mơ dài, những con người sinh sống ở đó, trẻ con nô đùa quanh những ngôi nhà. Và cánh rừng trải xa, rộng lớn và tốt bụng, hướng thẳng lên bầu trời cao xanh thẳm. 
Nhưng lần cuối cùng khi Isak xuống làng để mua sơn, người chủ tiệm trao cho anh một phong thư màu xanh biển trên có đóng dấu triện và anh phải trả năm xu. Đó là một bức điện tín được chuyển tới qua đường bưu điện. Cầu Trời ban phúc cho ngài Geissler đó, ông đúng là một con người kỳ diệu! Ông đã đánh điện vài lời, rằng Inger đã được tự do, “Sẽ về tới nhà trong thời gian sớm nhất có thể: Geissler.” Và lúc này cái cửa tiệm bắt đầu xoay tròn một cách lạ lùng; cái quầy tính tiền và những người trong tiệm đột nhiên lùi ra xa. Isak cảm thấy hơn là nghe thấy mình đang nói, “Trời đất ơi!” và “Xin ca tụng và cám ơn Thượng đế!” 
“Có thể cô ấy sẽ có mặt ở đây không muộn hơn ngày mai,” người chủ tiệm nói, “nếu như cô ấy rời Trondhjem đúng lúc.” 
“Thế à!” Isak nói. 
Anh đợi cho tới ngày hôm sau. Người bưu tá đến với những lá thư, từ bến tàu nơi con tàu hơi nước ghé vào, nhưng không có Inger. “Vậy là cô ấy sẽ không có mặt ở đây cho tới tuần sau,” người chủ tiệm nói. 
Nói cho cùng, cũng tốt thôi, khi có thời gian chờ đợi – Isak còn có nhiều việc cần làm. Làm sao anh có thể hoàn toàn quên đi bản thân mình, và bỏ qua đất đai của anh? Anh lên đường trở về nhà và bắt đầu chở phân bón ra đồng. Chẳng bao lâu việc đó đã xong xuôi. Anh cắm một chiếc xà beng xuống đất để quan sát băng giá tan đi từ ngày này sang ngày khác. Lúc này mặt trời to và mạnh mẽ, tuyết đã tan, cây lá xanh mơn mởn khắp nơi; lũ gia súc ra đồng để gặm cỏ. Isak cày suốt một ngày, và mấy hôm sau anh gieo lúa, trồng khoai. Và cả hai đứa trẻ nữa, cũng ra trồng khoai như những thiên thần; chúng có những bàn tay bé nhỏ được ban phúc lành, và cha chúng còn có thể làm gì hơn ngoài việc ngắm nhìn? 
Sau đó Isak mang cỗ xe ra sông rửa sạch, rồi gắn cái ghế vào. Anh trò chuyện với lũ nhóc về chuyến du hành nhỏ; anh phải có một chuyến du hành nhỏ xuống làng. 
“Nhưng cha sẽ không đi bộ sao?” 
“Hôm nay thì không. Cha đã quyết định hôm nay đi xuống làng với xe và ngựa.” 
“Bọn con có thể đi cùng không?” 
“Các con phải là những đứa trẻ ngoan, và ở nhà lần này. Mẹ của các con sẽ sớm về nhà, và bà sẽ dạy cho các con nhiều điều.” 
Eleseus rất nôn nóng học hỏi các thứ; nó hỏi: “Cha à, khi cha viết chữ lên tờ giấy đó, cảm giác nó như thế nào?” 
“Sao, gần như không có cảm giác gì, chỉ như không có cái gì trong bàn tay.” 
“Nhưng nó có trượt như ở trên băng hay không?” 
“Cái gì trượt?” 
“Cái cây bút máy mà cha dùng để viết?” 
“Phải, có cây bút máy. Nhưng con phải học cách dẫn dắt nó, con sẽ thấy.” 
Nhưng nhóc Sivert lại là một kiểu đầu óc khác, và nó không nói gì về những cây bút máy; nó muốn được ngồi trên xe, chỉ cần ngồi lên ghế trước khi thắng ngựa vào, và cứ thế mà lái, lái thật nhanh trong một cỗ xe không ngựa. Và chính nhờ ý kiến đó, người cha đã cho phép cả hai đứa được ngồi trên xe cùng đi với anh một chặng dài xuôi con đường.  

Phúc lành của đất - Quyển I - Chương 9


 
 
Knut Hamsun 
Giải Nobel văn chương 1920 
 
Markens Grøde
 
Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
  
 
 
 
Quyển I
CHƯƠNG IX

Những năm trôi qua. 
Một lần nữa có nhiều khách tìm đến Sellanraa; một viên kỹ sư, với một người đốc công và hai người thợ, lại đánh dấu những đường dây điện thoại trên những ngọn đồi. Theo tuyến đường mà lúc này họ đang làm, đường dây có thể đi ngang qua bên trên ngôi nhà chút ít, và một con đường thẳng sẽ cắt ngang qua khu rừng. Không có hại gì trong chuyện đó. Nó có thể khiến cho chỗ này bớt quạnh quẽ đi, một thoáng nhìn của thế gian sẽ làm cho nó sáng sủa hơn. 
“Chỗ này,” viên kỹ sư nói, “sẽ là chặng giữa của hai đường dây băng qua các thung lũng ở cả hai phía. Có khả năng họ sẽ đề nghị anh nhận công việc bảo dưỡng đường dây cho cả hai.” 
“Thế à,” Isak nói. 
“Mỗi năm anh sẽ có hai mươi lăm Daler đút túi.” 
“Ừm, vậy tôi sẽ làm gì để có số tiền đó?” Isak hỏi. 
“Bảo trì đường dây, sửa những dây điện khi cần, dọn quang những cây rừng trên tuyến đường khi chúng mọc cao. Họ sẽ gửi tới đây một cái máy nhỏ trong nhà để treo trên tường, nó sẽ báo cho anh biết khi nào họ cần anh. Và khi đó, anh phải rời bất kỳ công việc gì đang làm để lên đường.” 
Isak suy nghĩ thật kỹ. “Tôi có thể làm tốt việc đó vào mùa đông,” anh nói. 
“Thế không được, công việc phải kéo dài suốt cả năm, mùa hè cũng như mùa đông.” 
“Không thể làm được,” Isak nói. “Mùa xuân, hè và thu tôi còn có công việc đất đai và không còn thời gian cho những việc khác.” 
Viên kỹ sư nhìn anh một lúc, rồi đặt một câu hỏi lạ lùng: “Anh có thể kiếm ra tiền theo cách đó không?” 
“Kiếm ra tiền?” Isak hỏi. 
“Anh có thể kiếm tiền trong một ngày bằng cách làm việc trên đất nhiều hơn so với làm cho chúng tôi không?” 
“Sao, về chuyện đó tôi không thể nói được,” Isak nói. “Chỉ là thế này, ông thấy đó, tôi ở đây chính vì mảnh đất này. Tôi có nhiều người và còn có nhiều súc vật hơn phải nuôi sống, và chính mảnh đất nuôi dưỡng chúng tôi. Đây là cuộc sống của chúng tôi.” 
“Nếu anh không nhận, tôi có thể tìm một người khác,” viên kỹ sư nói. 
Nhưng dường như Isak chỉ nhẹ nhõm hơn với lời đe dọa. Anh không muốn làm phật lòng nhân vật lớn này, và cố giải thích: “Chỉ là vầy,” anh nói, “tôi có một con ngựa và năm con bò cái, và thêm một con bò đực. Tôi có hai mươi con cừu và mười sáu con dê. Những con thú cho chúng tôi thức ăn, len và da; chúng tôi phải cho chúng thức ăn.” 
“Phải, phải, tất nhiên,” người kia nói ngắn gọn. 
“Phải, vì thế tôi mới nói, làm sao tôi cho chúng ăn khi phải chạy đi xa nhiều lần trong mùa bận rộn để làm việc trên tuyến đường điện thoại.” 
“Khỏi nói thêm gì nữa,” viên kỹ sư nói. “Tôi sẽ lấy người đàn ông mé dưới chỗ anh, Breder Olsen; anh ta sẽ vui mừng nhận nó.” Ông ta quay sang người của mình với một lời vắn tắt: “Nào, các cậu, chúng ta tiếp tục.” 
Lúc này Oline cảm thấy từ cách nói của Isak rằng anh cứng cổ và không biết điều, và bà sẽ chấn chỉnh nó. 
“Anh đã nói gì vậy Isak? Mười sáu con dê? Không có hơn mười lăm con,” bà nói. 
Isak nhìn Oline, và bà nhìn lại anh, nhìn thẳng vào mặt. 
“Không phải là mười sáu con dê sao?” Anh hỏi. 
“Không,” bà đáp, nhìn một cách bất lực về phía những người lạ, như thể muốn bảo rằng anh thật không biết phải trái gì sất. 
“Thế à,” Isak khẽ nói. Anh dúi một chỏm râu vào giữa hai hàm răng và đứng nhấm nhấm nó. 
Viên kỹ sư và người của ông ta đi làm công việc của họ. 
Bây giờ, nếu như Isak muốn bày tỏ sự không hài lòng với Oline, có lẽ còn đập cho bà một trận nữa vì những việc làm của bà, thì đây là cơ hội của anh – một cơ hội Trời cho để làm chuyện đó. Họ chỉ còn lại một mình trong nhà; lũ trẻ đã đi theo những người đàn ông khi họ lên đường, và Oline đang ngồi cạnh bếp lò. Isak đằng hắng lấy giọng một hai lần, chỉ để cho thấy rằng anh sắp nói một điều gì đó nếu muốn. Nhưng anh không nói gì cả. Đó là sức mạnh tâm hồn của anh. Cái gì chứ, chẳng lẽ anh lại không biết số dê của mình như biết rõ những ngón tay trên hai bàn tay hay sao – người phụ nữ này có điên không? Có thể nào một trong số dê lại bị đếm nhầm, khi anh biết tường tận từng con một trong số chúng và trò chuyện với chúng mỗi ngày – mười sáu con dê của anh? Hẳn là Oline đã bán bớt một con vào hôm trước, khi người đàn bà từ Bredablik lên đây để nhìn trang trại. “Ừm,” Isak nói, và lần này lời lẽ đã tuôn tới đầu lưỡi của anh. Oline đã làm gì với nó? Không chính xác là giết chết, có lẽ, mà là một điều gì gần như thế. Anh có thể nói một cách nghiêm chỉnh chết người như thế về con dê thứ mười sáu đó. 
Nhưng anh không thể đứng đó mãi, ngay giữa phòng, không nói lời nào. “Ừm,” anh nói. “Thế sao! Vậy là bây giờ chỉ có mười lăm con dê, dì nói thế?” 
“Đó là tất cả con số tôi đã đếm,” Oline nhẹ nhàng trả lời. “Nhưng tốt hơn anh nên tự mình đếm lại xem sao.” 
Bây giờ là thời điểm của anh – anh có thể làm việc đó ngay bây giờ: đưa đôi tay ra và làm cho Oline thay đổi hình dạng một cách đáng kể, với chỉ một cú kẹp duy nhất. Anh có thể làm điều đó. Nhưng anh không làm, mà chỉ nhấn mạnh khi tiến về phía cửa: “Bây giờ tôi sẽ không nói gì nữa.” Và anh đi ra, như thể đã chứng tỏ một cách thẳng thắn rằng, lần sau, anh sẽ có những lời chính xác để nói, đừng lo. 
“Eleseus,” anh gọi to. 
Eleseus ở đâu, lũ trẻ ở đâu? Cha chúng có chuyện cần hỏi chúng; giờ chúng đã là những cu cậu lớn, với đôi mắt biết nhìn ngó quan sát. Anh tìm thấy chúng bên dưới sàn kho thóc; chúng đã bò vào sâu hết mức cho phép, trốn kỹ và không thể nhìn thấy, nhưng lại tự phản bội mình bởi những tiếng xì xào lo lắng. Giờ thì chúng bò ra như hai tội phạm. 
Sự thật là thế này: Eleseus đã tìm thấy một mẩu bút chì màu mà viên kỹ sư bỏ lại, và đã chạy theo ông ta để trả lại, nhưng những người đàn ông to lớn với sải bước dài đã đi xa vào rừng. Eleseus dừng lại. Nó chợt nghĩ ra một ý rằng nó có thể giữ mẩu bút chì – ước gì nó có thể! Nó đi lùng nhóc Sivert, để ít nhất cả hai cùng chia chung tội lỗi này, và cả hai đứa đã bò xuống sàn kho thóc với vật mà chúng nhặt được. Ôi chao, cái mẩu bút chì đó – nó là một sự kiện trong cuộc đời chúng, một vật diệu kỳ! Chúng tìm thấy những mẩu dăm bào và tô đầy lên đó những dấu hiệu; mẩu bút chì, chúng khám phá ra, có một đầu tạo ra những vết màu xanh trời và đầu kia là màu đỏ, và chúng thay nhau sử dụng nó. Khi cha chúng gọi chúng quá to và dứt khoát, Eleseus thầm thì: “Họ đã trở lại để tìm cây bút chì!” Trong khoảnh khắc, tất cả niềm hân hoan của chúng biến mất, bị quét sạch khỏi tâm trí chúng, và trái tim nhỏ bé của chúng bắt đầu đập thình thịch một cách kinh khủng. Hai anh em bò ra. Eleseus chìa cây bút chì ra, nó đây, chúng chưa làm gãy nó; chỉ ước gì chúng chưa bao giờ trông thấy nó. 
Không thấy viên kỹ sư đâu hết. Tim chúng đã trở lại một nhịp đập lặng lẽ hơn; thật nhẹ nhõm khi thoát khỏi sự căng thẳng đáng sợ đó. 
“Hôm qua có một phụ nữ ở đây?” cha chúng hỏi. 
“Vâng.” 
“Người phụ nữ từ chỗ dưới kia. Các con có thấy bà ta đi không?” 
“Vâng.” 
“Bà ta có đem theo một con dê không?” 
“Không,” hai đứa bé nói. “Một con dê?” 
“Khi rời khỏi đây bà  ta có mang theo con dê nào không?” 
“Không. Dê nào?” 
Isak tự hỏi nhiều lần. Vào xế chiều, khi đàn gia súc về nhà, anh đếm qua đàn dê – có mười sáu con. Anh đếm lại lần nữa, đếm năm lần. Có mười sáu con. Không mất con nào hết. 
Isak thở đều trở lại. Nhưng tất cả những chuyện này có nghĩa là gì, Oline, con người khốn khổ đó, chẳng lẽ bà ta không thể đếm tới số mười sáu? Anh giận dữ hỏi bà: “Tất cả những chuyện vô lý này là gì? Có mười sáu con dê.” 
“Có mười sáu con à?” Bà hỏi với vẻ ngây thơ vô tội. 
“Phải.” 
“Ồ, vậy thì tốt.” 
“Bà đếm giỏi lắm.” 
Oline lặng lẽ trả lời bằng một giọng bị tổn thương, “Vì tất cả số dê có ở đó, sao chứ, tạ ơn Trời, vậy thì anh không thể nói Oline đã ăn tươi nuốt sống chúng. Và tốt cho nó nữa, con vật tội nghiệp.” 
Oline đã hoàn toàn cho anh vào bẫy với trò xỏ lá của bà; anh hài lòng, tưởng tượng rằng tất cả đều tốt. Anh không hề nghĩ tới, chẳng hạn, việc đếm những con cừu. Anh không bận tâm tới việc đếm số gia súc nữa. Nói cho cùng, Oline không xấu như anh tưởng, bà coi sóc nhà cửa cho anh theo một cách thức riêng, và đã chăm sóc gia súc của anh; bà chỉ đơn giản là một kẻ ngốc nghếch, và đó là điều tệ nhất ở bà. Cứ để bà ở lại, để bà sống – không đáng bận tâm tới bà. Nhưng cuộc sống lúc này với Isak là một cuộc sống u ám và không có niềm vui. 
Nhiều năm trôi qua. Cỏ đã mọc đầy trên mái nhà, thậm chí trên mái kho thóc, mới hơn vài năm, cũng xanh ngắt cỏ. Lũ chuột hoang, cư dân của rừng xanh, từ lâu đã tìm được lối vào nhà kho. Chim sẻ ngô và đủ loại chim nhỏ khác kéo tới đó từng đàn; trên sườn đồi có nhiều chim hơn; ngay cả lũ quạ cũng đã tới. Và kỳ diệu nhất là, vào mùa hè trước, những con mòng biển đã xuất hiện. Đàn mòng biển bay suốt chặng đường từ bờ biển để tới đó cư ngụ trên những cánh đồng giữa chốn hoang vu. Tất cả  những sinh vật hoang dã gần xa đều biết rất rõ về nông trại của Isak. Và Eleseus cùng nhóc Sivert đã nghĩ gì khi nhìn thấy những con chim biển? Ồ, đó là những con chim đến từ một chốn xa xôi; không nhiều lắm, chỉ có sáu con chim trắng, tất cả đều giống hệt nhau, núng nính đi qua đi lại khắp những cánh đồng, thỉnh thoảng mổ một ngọn cỏ. 
“Cha à, chúng tới để làm gì?” Hai cậu bé hỏi. 
“Ở ngoài biển đang có thời tiết xấu,” cha chúng đáp. Ồ, việc nhìn thấy những con mòng biển này thật là một điều lớn lao và bí ẩn! 
Và Isak đã dạy cho hai đứa con trai của anh biết nhiều điều tốt và hữu ích. Chúng đang ở tuổi đến trường, nhưng ngôi trường lại ở dưới làng cách xa nhiều dặm, ngoài tầm với. Isak tự mình dạy cho lũ trẻ học đánh vần vào những ngày Chủ nhật, nhưng không phải anh, không phải gã nông phu bẩm sinh của đất đai này là người có thể mang tới cho chúng một trình độ giáo dục cao hơn; cuốn sách vấn đáp giáo lý và cuốn Thánh kinh nằm lặng lẽ trên kệ với những thỏi pho mát. Rõ ràng từ cái cách anh xử lý với lũ trẻ, Isak đã nghĩ rằng đối với đàn ông tốt hơn nên trưởng thành mà không cần tới kiến thức sách vở. Chúng là niềm vui và hạnh phúc đối với anh, cả hai đứa; nhiều lần anh nghĩ tới cái ngày chúng còn là những sinh vật bé tí teo, và mẹ chúng không cho anh dạy dỗ chúng vì tay anh dính đầy nhựa thông. Thế đấy, nhựa thông, thứ sạch nhất trên đời! Nhựa đường và sữa dê và tủy, chẳng hạn, tất cả đều là những thứ tuyệt vời, nhưng nhựa thông, thứ nhựa sạch chảy ra từ cây thông thì không còn lời để tả! 
Hai đứa trẻ cứ thế lớn lên trong một thiên đường bẩn thỉu và dốt nát, nhưng chúng đều là những đứa trẻ xinh xắn khi đã tắm rửa, một chuyện thỉnh thoảng xảy ra; nhóc Sivert là một cậu bé tuyệt vời, dù Eleseus có phần xinh đẹp và sâu sắc hơn. 
 “Làm thế nào lũ mòng biển biết về thời tiết?” Nó hỏi. 
“Chúng bị ốm theo thời tiết,” cha nó đáp. “Nhưng về chuyện đó chúng không hơn gì lũ ruồi. Chuyện xảy ra thế nào với lũ ruồi cha không thể nói, chúng bị đông máu hay chóng mặt hay gì đó. Nhưng đừng bao giờ đập một con ruồi, vì điều đó chỉ khiến nó tệ hơn, hãy nhớ điều đó, các con! Con mòng là một loại khác, nó tự chết đi. Một ngày hè nào đó nó đột nhiên xuất hiện, và ở đó; rồi một ngày đột nhiên nó biến mất, và đó là kết cục của nó.” 
“Nhưng nó chết như thế nào?” Eleseus hỏi. 
“Mỡ trong người nó cứng lại, và nó nằm đó chết.” 
Mỗi ngày chúng lại học một điều gì đó mới. Ví dụ, khi nhảy từ những tảng đá cao xuống phải ngậm lưỡi trong miệng và không được đặt nó giữa hai hàm răng. Khi chúng lớn hơn và muốn được thơm tho khi đi lễ nhà thờ, vấn đề là phải chà xát người với một loại hoa cúc ngải nhỏ mọc trên sườn đồi. Người cha này có đầy hiểu biết khôn ngoan. Anh dạy cho hai cậu bé về những tảng đá, về đá lửa, vì sao mà đá trắng lại cứng hơn đá xám. Anh có thể tạo ra lửa từ đá. Anh dạy chúng về mặt trăng, rằng khi phía lõm của trăng ở bên tay trái thì trăng đang tròn dần, và khi nó ở bên tay phải thì trăng đang khuyết dần; hãy nhớ điều đó, các con! Thỉnh thoảng, Isak nói về những việc khá xa vời và trở nên bí ẩn; một thứ Sáu nọ anh tuyên bố rằng việc một con lạc đà được lên thiên đàng còn khó hơn là việc một người xỏ chỉ qua lỗ kim. Một lần khác, trong lúc nói với chúng về vầng hào quang của các thiên thần, anh giải thích rằng các thiên thần gắn những vì sao ở đế ủng của họ thay vì những cái đinh đầu to. Việc dạy dỗ những điều tốt và đơn giản rất phù hợp với những cư dân giữa vùng hoang địa; vị thầy giáo ở dưới làng hẳn phải phì cười với  tất cả những lời dạy đó, nhưng hai đứa con của Isak thấy những thứ này có ích cho cuộc sống nội tâm của chúng. Chúng được dạy dỗ và huấn luyện cho cái thế giới bé nhỏ của riêng chúng, và còn gì có thể tốt hơn? Vào mùa thu, khi giết thịt gia súc, hai cậu bé rất tò mò sợ hãi và thấy nặng lòng vì những con thú sắp phải chết. Isak giữ con vật bằng một tay và tay kia chọc tiết; Oline khuấy huyết. Con dê già có râu và khôn ngoan bị dẫn ra; hai cậu bé đứng ở góc nhà nhìn trộm. “Giờ này gió lạnh nhiều bụi quá,” Eleseus nói và quay đi để chùi mắt. Nhóc Sivert khóc một cách công khai hơn, không thể kềm được tiếng kêu: “Ồ, con dê già tội nghiệp!” Khi con dê đã bị giết, Isak tới chỗ chúng và dạy chúng bài học này: “Đừng bao giờ đứng đó nói rằng ‘Con vật tội nghiệp’ và tỏ ra thương xót khi các con thú bị giết. Việc đó sẽ khiến cho chúng lì lợm và khó giết hơn. Hãy nhớ điều đó!” 
Nhiều năm cứ thế trôi qua, và lại sắp tới mùa xuân. 
Inger đã viết thư về nhà để báo rằng nàng vẫn khỏe, và đang học hỏi nhiều thứ ở nơi nàng đang sống. Đứa bé gái khá lớn con và được đặt tên là Leopoldine, theo ngày nó chào đời, ngày 15 tháng 11. Nàng biết làm nhiều thứ và là một thiên tài về khâu rua và thêu đan, nàng có thể tạo nên những hình thêu đẹp trên vải lanh hay vải bạt. 
Điều kỳ lạ ở bức thư này là chính Inger đã tự tay viết đúng chính tả. Isak không học hành nhiều nhặn gì mấy nên anh phải nhờ người đàn ông ở cửa tiệm dưới làng đọc hộ thư; nhưng một khi anh đã đưa nó vào đầu mình thì nó nằm lại đó; khi trở về nhà anh đã nhớ nó nằm lòng. 
Và giờ đây anh ngồi xuống một cách nghiêm trang ở đầu bàn, mở lá thư ra, và đọc to cho hai đứa con nghe. Anh rất muốn Oline trông thấy anh có thể đọc thư một cách dễ dàng ra sao nhưng anh không nói trực tiếp lời nào với bà. Khi đọc xong, anh nói: “Nào, Eleseus và con, Sivert, chính mẹ của các con đã tự mình viết lá thư này và học được tất cả những thứ đó. Ngay cả đứa em gái bé tí xíu của các con cũng biết nhiều hơn tất cả chúng ta ở đây. Hãy nhớ điều đó!” Hai cậu bé ngồi yên, tự hỏi trong im lặng. 
“Phải, đó là một điều rất tuyệt,” Oline nói. 
Và ý của bà là sao? Có phải bà nghi ngờ rằng Inger không nói đúng sự thật? Hoặc bà đã nghi ngờ về khả năng đọc của Isak? Không dễ biết được thật sự Oline nghĩ gì khi bà ngồi đó với gương mặt tầm thường đang nói lên những điều đen tối. Isak quyết định làm ngơ bà. 
“Và khi mẹ của các con về, hai đứa ạ, các con cũng sẽ học viết,” anh nói với hai đứa trẻ. 
Oline đảo mớ quần áo đang treo gần bếp lò để hong khô; nhấc một cái nồi, đảo lại mớ quần áo, nói chung là tỏ ra bận rộn luôn tay. Trong suốt thời gian đó bà suy nghĩ. 
“Thật tốt đẹp và tuyệt vời hệt như mọi thứ ở đây,” cuối cùng bà nói. “Tôi nghĩ hẳn anh có mua một gói cà phê cho nhà.” 
“Cà phê à?” Isak nói. Câu nói trôi tuột đi. 
Oline đáp một cách lặng lẽ: “Cho tới nay thỉnh thoảng tôi đã mua  từ tiền riêng của tôi, nhưng…” 
Cà phê là một món trong mơ và trong những câu chuyện thần tiên đối với Isak, một dải cầu vồng. Anh không nổi giận với bà, không, nhưng vì là người suy nghĩ chậm chạp, cuối cùng anh mới sực nhớ sự ăn tàn phá hại của bà với những người Lapp, và anh nói một cách chua chát: 
“Phải, tôi sẽ mua cà phê cho dì, tôi sẽ mua. Một gói cà phê, phải không? Sao không mua luôn một cân? Một cân cà phê, trong lúc dì thèm nó.” 
“Không cần nói kiểu đó, Isak. Thằng Nils em tôi nó có cà phê; cả ở dưới trại Breidablik họ cũng có cà phê.” 
“Phải, vì họ không có sữa. Ở chỗ đó họ không có tới một giọt sữa.” 
“Có lẽ là thế. Nhưng anh, kẻ biết nhiều như thế, và đọc thư nhanh như một con gián chạy, anh nên biết rằng cà phê là một thứ phải có trong nhà của mọi người.” 
“Bà đúng thật là!” Isak nói. 
Tới đây Oline ngồi xuống và có vẻ không muốn lặng im. “Còn về cô nàng Inger đó,” bà nói, “nếu như tôi dám nói một lời nào…” 
“Cứ nói những gì dì muốn nói, cũng chẳng có gì là quan trọng đối với tôi.” 
“Cô ấy sẽ về nhà, và đã học được mọi thứ. Và trên mũ của cô ấy hẳn có đính những hạt cườm và lông chim, có lẽ thế?"
 “Phải, có thể là thế.” 
“Vâng,” Oline nói, “và cô ấy có thể cám ơn tôi chút đỉnh về tất cả những gì đã giúp cô ấy trở nên xinh đẹp và tuyệt vời như thế.” 
“Bà?” Isak nói. Câu nói trôi tuột đi. 
Oline đáp một cách nhún nhường: “Phải, chính nhờ việc làm khiêm tốn của tôi mà cô ấy mới đi xa.” 
Isak không thốt nổi lời nào với câu nói đó; mọi ngôn từ của anh đều bị kềm hãm lại, anh ngồi đó nhìn trừng trừng. Anh có nghe lầm không? Oline ngồi đó như thể chưa hề nói gì. Không, trong một trận chiến ngôn từ Isak hoàn toàn thua cuộc. 
Anh lao ra khỏi nhà, đầy những ý nghĩ đen tối. Oline, một con quái vật đã lớn lên trong sự xấu xa và trở nên béo tốt từ nó – tại sao anh không vặn cổ bà ngay từ năm đầu tiên? Anh nghĩ như thế, cố lấy lại bình tĩnh. Lẽ ra anh có thể làm điều đó – anh? Dù vậy, anh không thể. Vì không thể tìm ra ai tốt hơn. 
Và rồi một điều lạ lùng xảy ra. Isak đi vào chuồng và đếm lũ dê. Chúng ở đó với lũ dê con, đủ số. Anh đếm bầy bò, con heo, mười bốn con gà mái, hai con bê. “Mình đã quên mấy con cừu,” anh tự nhủ; anh đếm bầy cừu, và vờ như lo lắng vì e rằng có một con nào bị mất; anh đã biết điều đó lâu rồi; tại sao anh lại để cho nó xảy ra? Chính là cách này. Trước đây Oline đã chơi khăm anh một lần, bảo rằng một trong các con dê bị mất, dù tất cả số dê vẫn còn đủ ở đó; lúc ấy anh đã làm om xòm lên về chuyện đó, nhưng không có mục đích nào cả. Những lần xung đột giữa anh với Oline luôn giống hệt như nhau. Rồi, vào mùa thu, mùa mổ thịt, anh đã thấy ngay rằng thiếu mất một con cừu cái nhưng anh không đủ can đảm yêu cầu bà giải thích vào lúc đó. Và từ đó trở đi anh chưa bao giờ có đủ can đảm. 
Nhưng hôm nay anh cứng rắn; Isak cứng rắn. Lần này Oline đã khiến anh rất giận. Anh đếm lại bầy cừu lần nữa, đặt ngón trỏ lên từng con và đếm lớn tiếng – Oline có thể nghe thấy nếu muốn, nếu như bà có mặt ở ngoài. Và anh nói nhiều điều gay gắt về Oline – nói toáng lên; rằng bà đã dùng một phương pháp mới của riêng mình trong việc cho cừu ăn như thế nào, một phương pháp chỉ đơn giản khiến chúng biến mất – đây, một con cừu cái đã đơn giản biến mất. Bà là một con mụ trộm cắp, hoàn toàn là thế, và có thể bà biết điều đó! Ồ, anh những muốn Oline đứng ở bên ngoài và nghe thấy, và sẽ sợ hết hồn một lần. 
Anh sải bước ra khỏi chuồng gia súc, tới chuồng ngựa và đếm con ngựa; từ đó anh sẽ đi vào – sẽ đi vào nhà và nói lên ý nghĩ của mình. Anh bước nhanh đến nỗi áo của anh phồng lên ở phía sau. Nhưng dù muốn dù không Oline cũng đã nhận ra điều gì đó, đang nhìn qua kính cửa sổ; bà xuất hiện ở cửa, lặng lẽ và vững vàng, với hai cái xô trong tay, đang trên đường đi tới chuồng bò. 
“Bà đã làm gì với con cừu cái có đôi tai bẹp?” Anh hỏi. 
“Con cừu cái?” Bà hỏi lại. 
“Phải. Nếu nó còn đây thì bây giờ nó đã có hai con cừu con. Bà đã làm gì nó? Nó luôn sinh đôi. Bà đã làm mất của tôi tất cả ba con, bà có hiểu không?” 
Oline hoàn toàn bị áp đảo, hoàn toàn bị tiêu diệt bởi lời cáo buộc; bà lúc lắc đầu, và đôi chân bà dường như tan chảy ra bên dưới thân người – bà có thể té quỵ và tự làm cho mình bị thương. Trong suốt thời gian đó đầu bà bận rộn; trí khôn nhanh nhạy của bà luôn giúp đỡ bà; luôn phục vụ bà rất tốt; lúc này nó không được làm bà thất bại. 
“Tôi ăn trộm dê và ăn trộm cừu,” bà lặng lẽ nói. “Và tôi làm gì với chúng, tôi muốn biết điều đó? Tôi không ăn tươi nuốt sống tất cả chúng một mình được, tôi cho là vậy?” 
“Bà biết rõ nhất bà đã làm gì với chúng.” 
“Thế à! Như thể tôi chưa có đủ và thừa thãi thịt, thức ăn các thứ, với những thứ anh cho tôi, Isak, nên tôi phải lấy cắp thêm? Nhưng dù sao tôi sẽ nói rằng tôi chưa bao giờ cần nhiều đến thế, suốt mấy năm nay.” 
“Được,  bà đã làm gì với con cừu? Có phải Os-Anders đã lấy nó?” 
"Os-Anders?” Oline phải đặt hai cái xô xuống và chắp hai tay lại. “Tôi chưa bao giờ có nhiều tội hơn để trả lời! Anh đang nói gì về tất cả những chuyện cừu cái và cừu con này vậy? Có phải anh muốn nói con dê với đôi tai bẹp?” 
“Bà đúng thật là!” Isak nói, quay đi. 
“Được, nếu anh không phải là một phép mầu, Isak ạ, tôi sẽ nói… Ở đây anh có mọi thứ mà anh muốn, và một đàn cừu, dê đông đúc và các thứ trong chuồng, và anh vẫn chưa thấy đủ. Làm sao tôi biết con cừu nào và hai con cừu non nào, bây giờ anh đang cố tống khứ tôi đi phải không? Anh nên tạ ơn Thượng đế vì tình thương của Người từ thế hệ này sang thế hệ khác, anh nên làm thế. Bây giờ là mùa hè và chỉ tới mùa đông sau, và anh lại có mùa cừu đẻ một lần nữa, và lại có nhiều hơn gấp ba lần.” 
Ồ, cái người đàn bà tên là Oline này! 
Isak bỏ đi, càu nhàu như một con gấu. “Mình thật ngốc khi không giết chết bà ta ngay ngày đầu tiên!” Anh nghĩ, tự đặt cho mình đủ mọi cái tên. “Mình thật đúng là thằng đần, một đống rác! Nhưng vẫn chưa quá muộn; cứ đợi đấy, cứ mặc bà ta vào chuồng bò nếu muốn. Sẽ không khôn ngoan nếu làm bất cứ điều gì ngay đêm nay, nhưng ngày mai… phải, ngày mai, vào buổi sáng. Mất toi ba con cừu! Và cà phê, bà ta nói thế!”