Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

Phúc lành của đất - Quyển I - Chương 8

 
 
Knut Hamsun 
Giải Nobel văn chương 1920 
 
Markens Grøde
 
Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
  
 
 
 
Quyển I
CHƯƠNG VII
Thời gian qua như bay? Phải, khi một người đàn ông đang già đi. Isak không già, anh chưa mất đi nguồn sinh lực của mình; những năm đó có vẻ quá dài đối với anh. Anh lao tác trên đất của mình và mặc cho hàm râu kẽm mọc thế nào tùy thích. 
Thỉnh thoảng, sự đơn điệu của vùng hoang địa bị phá vỡ bởi hình ảnh một người Lapp đi ngang, hoặc bởi chuyện gì đó xảy ra đối với một trong số các con thú ở nông trại, rồi tất cả lại trở về như cũ. Có lần cả một đoàn người tới cùng một lúc; họ nghỉ lại ở Sellanraa, được đãi ít thức ăn và một cốc sữa; họ hỏi Isak và Oline về con đường băng qua dãy đồi; họ đang đánh dấu đường dây điện thoại, họ bảo. Và có một lần Geissler tới – chính Geissler chứ không phải ai khác. Ông tới đó, tự do và thoải mái như hồi nào, từ dưới làng lên, có hai người đi cùng ông, mang theo những dụng cụ khai thác mỏ, cuốc chim và thuổng. 
Ồ, cái ngài Geissler này! Không hề thay đổi, vẫn giống hệt hồi nào; gặp gỡ và chào hỏi như thể không có chuyện gì xảy ra, trò chuyện với lũ trẻ, bước vào nhà rồi lại trở ra, nhìn khắp miếng đất, mở những cánh cửa chuồng bò và vựa cỏ rồi nhìn vào. “Tuyệt lắm!” ông bảo. “Isak, anh vẫn còn những hòn đá đó chứ?” 
“Những hòn đá nào?” Isak nói, và tự hỏi. 
“Những hòn đá nặng tôi trông thấy thằng bé đang chơi khi tôi ở đây lần trước.” 
Những hòn đá ở bên ngoài trong kho chứa thức ăn, được dùng làm vật nặng cài then cho những cái bẫy chuột; Isak mang chúng vào. Geissler và hai người đàn ông kiểm tra chúng, trò chuyện với nhau, gõ đập chúng ở chỗ này chỗ khác, đo sức nặng của chúng trong lòng bàn tay. “Đồng,” họ nói. 
“Anh có thể đi với chúng tôi và chỉ cho chúng tôi chỗ anh tìm thấy chúng không?” Geissler hỏi. 
Cả bọn cùng đi với nhau; chỗ Isak tìm thấy chúng không xa lắm nhưng họ ở lại trên đồi suốt hai ngày, tìm kiếm những mạch quặng kim loại và săn bắn đây đó. Họ trở xuống Sellanraa với hai túi đựng đầy những hòn đá nặng. 
Trong thời gian đó Isak đã có một cuộc nói chuyện với Geissler, và đã nói cho ông nghe mọi chuyện về phần mình: về việc mua mảnh đất, đã lên tới giá một trăm thay vì năm chục Daler. 
“Đó chỉ là chuyện vặt,” Geissler nói một cách thoải mái. “Anh có cả ngàn đồng, có lẽ thế, thuộc phần của anh trên dãy đồi.” 
“Thế à!” Isak nói. 
“Nhưng tốt hơn anh nên đăng ký những chứng thư đó càng sớm càng tốt.” 
“Vâng.” 
“Khi đó Nhà nước không thể hoạnh họe gì về nó nữa, anh hiểu không.” 
Isak hiểu. “Xấu nhất là chuyện về Inger.” anh nói. 
“Phải,” Geissler nói, và tiếp tục trầm tư lâu hơn thường lệ. “Có thể đưa vụ án ra xử lại. Vạch ra toàn bộ sự việc một cách đúng đắn; rất có khả năng hình phạt sẽ giảm đi đôi chút. Hoặc chúng ta có thể đưa vào một đơn xin ân xá, và cuối cùng có thể việc đó cũng đưa đến một kết quả tương tự.” 
“Sao, nếu như có thể làm thế…” 
“Nhưng không nên cố xin ân xá ngay. Phải đợi ít lâu. Điều tôi muốn nói là… anh từng mang các thứ xuống cho vợ tôi, thịt, pho mát các thứ, phải không?” 
“Sao, về chuyện đó, ngài đã trả trước cả rồi.” 
“Vậy sao?” 
“Và đã tận tình giúp chúng tôi nhiều thứ.” 
“Không hề,” Geissler nói ngắn gọn. “Đây, nhận lấy cái này.” Và ông móc ra mấy tờ giấy bạc Daler. 
Geissler không phải là loại người nhận mà chẳng chịu mất gì, điều đó rất rõ ràng. Và dường như ông có rất nhiều tiền trong người, từ cách cái túi của ông phình lên. Chỉ có Trời biết thật sự ông có tiền hay không. 
“Nhưng cô ấy đã viết rằng mọi chuyện đều tốt đẹp ổn thỏa,” Isak nói, quay trở lại với ý nghĩ của mình. 
“Cái gì? Ồ, vợ anh!” 
“Phải. Và vì đứa bé đã ra đời. Cô ấy có một bé gái, sinh trong lúc cô ấy ở đó. Một con bé rất xinh xắn.” 
“Tuyệt!” 
“Vâng, và  hiện giờ tất cả bọn họ đều rất tốt, giúp cô ấy mọi thứ, cô ấy nói thế.” 
“Nhìn đây,” Geissler nói, “tôi sẽ gửi những mẫu đá này cho vài chuyên gia về quặng mỏ để tìm xem có thứ gì trong chúng. Nếu chúng có một tỷ lệ đồng kha khá, anh sẽ trở thành một người giàu có.” 
“Ừm,” Isak nói. “Và ông nghĩ khoảng bao lâu thì chúng ta có thể làm đơn xin ân xá.” 
“Ờ, có lẽ không lâu lắm đâu, tôi sẽ viết nó giùm anh. Tôi sẽ sớm quay lại đây. Anh vừa nói gì nhỉ, vợ anh đẻ một đứa bé sau khi rời khỏi đây?” 
“Vâng.” 
“Vậy là họ đã đưa cô ấy đi khi đang mang thai. Đó là một điều mà họ không có quyền làm.” 
“Thế à?” 
“Dù sao thì việc này sẽ thêm vào một lý do để cô ấy được thả ra sớm hơn.” 
“Vâng, nếu điều đó có thể…” Isak nói với lòng biết ơn. 
Isak không biết gì về những thư từ dài dòng qua lại giữa các cơ quan hữu trách khác nhau có liên quan tới người đàn bà đang mang thai. Nhà chức trách địa phương đã để cho nàng tự do trong khi vụ việc đang chờ xử vì hai lý do: trước tiên, họ không có nhà giam trong làng để giam giữ nàng, và, thứ hai là họ muốn tỏ ra càng khoan dung càng tốt. Hậu quả đó là điều mà họ không thể tiên liệu được. Sau đó, khi họ đến đưa nàng đi, không có ai đề nghị xem xét về tình trạng của nàng, và bản thân nàng cũng không nói gì về chuyện đó. Có lẽ nàng đã che giấu một cách có dự tính, để có một đứa bé ở với mình trong những năm bị giam cầm; nếu nàng cư xử tốt, chắc chắn nàng sẽ được phép thỉnh thoảng tới thăm nó. Hoặc có lẽ nàng chỉ đơn giản thờ ơ và lên đường một cách bất cẩn, bất chấp tình trạng của mình… 
Isak cần cù làm lụng, đào những con mương và khai khẩn thêm đất mới, dựng các đường ranh giới giữa đất đai của anh và của Nhà nước, và thu được một lượng gỗ mới trong mùa. Nhưng giờ đây, khi Inger không còn ở đó để kinh ngạc với những việc làm của anh, anh làm theo thói quen hơn là vì bất kỳ niềm vui nào trong những gì anh thực hiện. Và anh đã để cho hai phiên họp trôi qua mà không đăng ký các chứng thư sở hữu, không quan tâm mấy tới chuyện đó; cuối cùng, mùa thu ấy anh đã cố tập trung tinh thần để làm nó cho xong. Giờ đây mọi sự không tốt như mong muốn đối với Isak. Vẫn lặng lẽ và nhẫn nại như hồi nào – phải, nhưng giờ đây là vì anh không còn quan tâm gì nữa. Anh chế biến da thú là vì phải làm chuyện đó – những tấm da dê và da bê – ngâm chúng dưới sông, đặt chúng lên vỏ cây và thuộc chúng để sẵn sàng cho việc may giày. Vào mùa đông – ở lần đập lúa đầu tiên – anh để riêng ra số hạt giống cho mùa xuân tới, để không còn lo về chuyện đó; tốt nhất nên chuẩn bị trước những gì có thể; anh là một người làm việc có phương pháp. Nhưng đó là một cuộc sống xám ngắt và cô độc; phải, lạy Chúa! Lại trở thành một người không vợ, và tất cả những điều còn lại… 
Giờ đây có còn vui thú gì đâu khi ngồi nhà vào những ngày Chủ nhật, đã tắm rửa sạch sẽ, với một chiếc áo sơ mi thẳng thớm trên người, khi không có một ai để khoe sự nhẵn nhụi bảnh bao! Những ngày Chủ nhật là những ngày dài nhất, những ngày mà anh buộc phải rảnh rang với những ý nghĩ ảm đạm; không có gì để làm ngoài việc lang thang vơ vẩn khắp trại, tính đếm mọi việc phải được hoàn thành. Anh luôn luôn dắt lũ trẻ đi cùng, luôn bế một đứa trên tay. Nghe chúng tán chuyện nhau và trả lời những câu hỏi về mọi thứ của chúng cũng là một cách để vơi bớt nỗi niềm. 
Anh giữ Oline lại vì không thể tìm được người nào khác. Và, nói cho cùng, Oline cũng có ích theo cách nào đó. Chải lông cừu và kéo sợi, đan tất và găng tay, làm pho mát – bà có thể làm tất cả những việc đó, nhưng bà thiếu cái dáng vẻ hạnh phúc của Inger, và không đặt tâm hồn mình vào công việc; tất cả những việc bà giải quyết đều không phải của riêng bà. Có một vật mà lần đó Isak đã mua từ cửa tiệm dưới làng, một cái lọ Trung Hoa với cái nắp hình đầu chó. Thật ra nó là một loại hộp đựng thuốc lá, và được đặt trên một cái kệ. Oline tháo cái nắp ra và đánh rơi nó trên nền nhà. Inger đã để lại một ít cành hoa vân anh giâm bên dưới tấm kính. Oline tháo tấm kính ra, và khi đặt nó lại, đã ấn nó một cách quá mạnh và có ác ý; ngày hôm sau tất cả những cành giâm đều chết hết. Isak không thể chịu đựng một cách khá dễ dàng tất cả những chuyện như thế; anh có vẻ không vui và biểu lộ ra, và vì ở Isak không có chút gì gọi là tế nhị nhẹ nhàng, nên anh bày tỏ nó một cách thẳng thắn. Oline ít quan tâm tới những thái độ; vẫn nói năng mềm mỏng như mọi lúc, bà chỉ nói: “Nào, tôi có thể giúp gì không?” 
“Tôi không thể nói được điều đó,” Isak đáp. “Nhưng lẽ ra dì nên để yên các thứ.” 
“Tôi sẽ không chạm vào hoa của cô ấy nữa đâu,” Oline nói. Nhưng những cành hoa ấy đã chết mất rồi. 
Thêm nữa, làm thế nào mà dạo sau này bọn người Lapp lại thường xuyên lên Sellanraa đến thế? Chẳng hạn Os-Anders, chả có công việc gì đó, lẽ ra hắn nên đi qua theo đường của hắn. Hai lần trong một mùa hè hắn tới qua dãy đồi, và nên nhớ rằng Os-Anders không có con tuần lộc nào để đi tìm mà chỉ sống nhờ vào việc xin xỏ và ăn nhờ ở đậu vào những người Lapp khác. Ngay khi hắn tới trại, Oline rời bỏ công việc của mình và huyên thuyên tán gẫu với hắn về mọi người trong làng, và khi hắn ra đi, cái bao tời của hắn nặng trĩu đủ thứ đồ. Isak kiên nhẫn chịu đựng chuyện này suốt hai năm, không nói lời nào. 
Rồi Oline lại muốn có giày mới, và anh không thể lặng im được nữa. Dạo đó là mùa thu, và Oline vẫn mang giày hàng ngày thay vì đi lại bằng guốc gỗ hay dép da thô. 
“Ừm, hôm nay trông có vẻ tốt đẹp,” Isak nói. Đó là cách anh mở đầu. 
“Phải,” Oline đáp. 
“Eleseus, số pho mát trên kệ đó có phải con đã đếm là mười thỏi hồi sáng này?” 
“Vâng,” Eleseus đáp. 
“Ờ, bây giờ chỉ còn chín.” 
Eleseus đếm lại, và suy nghĩ một lúc trong cái đầu nhỏ bé của nó, rồi nó nói: “Vâng, nhưng rồi Os-Anders đã lấy đi mất một. Thế là đủ mười.” 
Sau đó là một khoảnh khắc dài im lặng. Rồi thằng Sivert bé bỏng cũng thử đếm lại và bảo với anh nó: “Thế là đủ mười.” 
Lại lặng im. Cuối cùng Oline cảm thấy bà phải nói gì đó. 
“Phải, tôi đã cho hắn một mẩu nhỏ xíu, đúng là thế. Tôi không nghĩ rằng việc đó có hại gì. Nhưng chúng nó là trẻ con, chúng chưa thể nói lên được những gì chúng nghĩ. Và tôi có thể nghĩ hoặc đoán ra chúng giống ai hơn. Vì đó không phải là cách của anh, Isak à, đó là điều tôi biết.” 
Ẩn ý quá đơn giản để bỏ qua không xét tới. “Lũ trẻ khá tốt,” Isak nói ngắn gọn. “Nhưng tôi muốn biết Os-Anders đã từng làm điều gì tốt cho tôi và gia đình tôi.” 
“Điều gì tốt?” 
“Phải, đó là cái mà tôi muốn nói.” 
“Os-Andres đã làm điều gì tốt…?” 
“Phải, vì tôi sẽ cho hắn pho mát để đáp lại.” 
Oline đã có thời gian để suy nghĩ và lúc này đã có sẵn câu trả lời. 
“Chà, tôi sẽ không nghĩ như anh đâu, Isak, tôi sẽ không làm thế. Cầu Trời, có phải tôi là người đầu tiên bắt đầu với Os-Anders hay không? Tôi ước tôi sẽ không bao giờ còn sống để rời khỏi chốn này nếu tôi có bao giờ nhắc nhiều tới tên của hắn.” 
Oline đã thành công rực rỡ. Isak phải nhịn thua, như anh đã từng nhịn thua nhiều lần trước đó. 
Nhưng Oline còn nhiều điều để nói. “Và nếu anh muốn nói rằng ở đây tôi phải đi lại chân trần, với mùa đông đang tới các thứ, và không bao giờ được làm chủ các thứ kiểu như một đôi giày, sao, anh cứ việc vui vẻ mà nói thế. Tôi đã nói về chuyện đó cách đây ba bốn tuần, rằng tôi cần giày, nhưng không bao giờ có dấu hiệu nào về một chiếc giày cho tới tận hôm nay, và tôi đang ở đây.” 
Isak nói: “Có gì không ổn với đôi guốc của dì vậy, dì không thể mang chúng hay sao?” 
“Có gì không ổn với chúng?” Oline lặp lại, hoàn toàn chưa chuẩn bị. 
“Phải, đó là cái mà tôi muốn biết.” 
“Với đôi guốc của tôi?” 
“Phải.” 
“Được… tôi chải lông cừu và kéo sợi, chăm sóc gia súc và cừu các thứ, chăm nom lũ trẻ ở đây, anh không có gì để nói về chuyện đó sao? Tôi cũng muốn biết; cô vợ đó của anh, kẻ ở tù vì những hành vi của cô ta, anh có để cô ta đi chân trần trên tuyết hay không?” 
“Cô ấy mang guốc,” Isak đáp. “Còn để đi tới nhà thờ và viếng thăm các thứ, sao chứ, dép da thô cũng quá đủ đối với cô ấy.” 
“Phải, và tất cả những thứ đẹp hơn cho việc đó, không ngờ gì nữa.” 
“Phải, cô ấy là thế. Và khi cô ấy mang giày da vào mùa hè, cô ấy nhét một nắm cỏ vào trong chúng, và không bao giờ không có. Nhưng còn dì, dì cứ mang tất bên trong giày quanh năm suốt tháng.” 
Oline nói: “Về chuyện đó, tôi sẽ mang guốc vào đúng lúc, chắc chắn thế. Tôi không nghĩ cần phải vội mang những đôi guốc tốt ngay lập tức.” Bà nói mềm mỏng và khẽ khàng, nhưng với đôi mắt hơi khép hờ, vẫn là Oline quỷ quyệt như hồi nào. “Còn về phần Inger,” bà nói, “đứa bé đánh tráo[1], như chúng ta gọi cô ta, cô ta từng đi theo lũ con của tôi và học được điều này việc nọ, cô ta đã làm như thế nhiều năm. Và đây là điều mà chúng ta nhận được cho nó. Vì tôi có một con gái đang sống ở Bergen và đội một cái mũ, tôi cho rằng đó là cái mà Inger phải ra đi để tìm kiếm; đi tới Trondhjem để mua một cái mũ, hê hê!”
 Isak đứng lên và rời khỏi phòng. Nhưng giờ đây Oline đã phơi mở tâm hồn của bà ra, mở khóa cái kho của sự đen tối bên trong; phải, bà đã phát ra những tia bóng tối, Oline đã làm điều đó. Nhờ Trời, không có đứa con nào của bà có gương mặt bị chẻ toạt ra giống như một con rồng đang phun lửa, có thể nói thế; nhưng có lẽ với điều đó chúng cũng không phải là thứ tệ nhất. Không, không thể có người nào nhanh chóng và dễ dàng xóa bỏ đứa trẻ mà họ sinh ra như thế – bóp nó chết nghẹt bằng một cú vặn… 
“Hãy cẩn thận với những gì bà đang nói,” Isak hét lên. Và để hàm ý của anh hoàn toàn rõ ràng, anh nói thêm: “Bà, mụ phù thủy già đáng bị nguyền rủa!” 
Nhưng Oline không quan tâm tới những gì bà đang nói; không hề, hê hê! Bà ngước mắt lên trời và nói bóng gió rằng một cái môi sứt có thể như thế này thế khác, nhưng dường như có người nào đó đã đưa nó đi quá xa, hê hê! 
Có lẽ Isak cũng mừng vì rốt cuộc đã an toàn ra khỏi nhà. Và anh còn có thể làm gì ngoài việc mua một đôi giày cho Oline? Chỉ còn là một nông phu giữa chốn hoang vu; không còn chút tư thế nào của một vị thần để anh có thể nói với người giúp việc của mình: “Cút đi!” Anh sẽ bất lực nếu không có Oline; dù có nói gì hay làm gì, bà chẳng việc gì phải sợ, và bà biết điều đó. 
Giờ đây đêm lạnh lẽo hơn, với một vầng trăng tròn; những vùng đất đầm lầy cứng hơn cho tới lúc chúng gần như có thể chịu đựng được người đi qua, nhưng rồi chúng lại loãng ra khi mặt trời ló dạng, lại trở thành một đầm lầy không thể vượt qua. Isak xuống làng vào một đêm lạnh giá, để đặt giày cho Oline. Anh mang theo mấy thỏi pho mát cho phu nhân Geissler. 
Ở giữa đường xuống làng đã xuất hiện một cư dân mới. Một người giàu có, không ngờ gì nữa, vì anh ta đã mời dân làng tới xây nhà cho mình, và thuê người cày một mảnh đất cát để trồng khoai; bản thân anh ta không làm hoặc làm rất ít. Người mới này là Brede Olsen, trợ lý của ngài Lensmand, một người phải lên đường khi cần mời một bác sĩ hay cần giết thịt một con heo. Y chưa tới ba mươi, nhưng đã có bốn đứa con phải trông nom, chưa kể tới vợ y, người không hơn gì một đứa trẻ con. Ồ, nói cho cùng, có lẽ Brede cũng chẳng khấm khá gì; số tiền mà y kiếm được từ việc chạy đây chạy đó trong những việc linh tinh và thu thuế từ những người chưa nộp không phải là nhiều. Vì thế bây giờ y đang thử đầu tư vào đất đai. Y đã vay một khoản ở ngân hàng để cất nhà giữa vùng đất hoang. Y gọi nơi đó là Breidablik; và chính phu nhân của Lensmand Heyerdahl đã nghĩ ra cái tên tuyệt vời đó. 
Isak vội vã đi qua ngôi nhà, không phí thì giờ để nhìn vào, nhưng anh có thể trông thấy qua cửa sổ tất cả bọn trẻ đã thức, khá sớm vào lúc đó. Isak không có thời gian để mất, nếu anh muốn về tới chỗ này trong chuyến trở về nhà đêm mai, trong lúc đường còn đang cứng. Một người đàn ông sống giữa chốn hoang vu phải nghĩ tới, cân nhắc nhiều điều và thu xếp mọi việc tốt nhất trong khả năng cho phép. Lúc này không phải là thời điểm anh bận rộn nhất, nhưng anh lo lắng cho lũ trẻ phải ở lại một mình với Oline. 
Khi đang đi, anh nghĩ về lần đầu tiên anh đã đến theo con đường này. Thời gian đã trôi qua, hai năm cuối thật dài; có nhiều điều tốt lành ở Sellanraa, và cũng còn nhiều điều chưa tốt – vâng, lạy Trời! Và bây giờ lại có thêm một người khác đang khai khẩn giữa vùng hoang địa. Isak biết nơi này rất rõ; nó là một trong những mảnh đất tốt mà anh đã lưu ý trên đường đi lên, nhưng anh đã đi xa hơn. Chỗ này gần làng hơn, tất nhiên, nhưng gỗ không tốt lắm, đất đai ít đồi dốc hơn, nhưng cũng ít mầu mỡ hơn; dễ làm ở bề mặt nhưng khó mà cày cuốc sâu hơn. Cái gã Brede đó sẽ thấy rằng không chỉ đơn giản xới lật lớp đất lên là có thể tạo được một cánh đồng tốt. Và vì sao y không cất một cái kho chứa đồ ở cuối kho thóc để cất những chiếc xe và nông cụ nhỉ? Isak để ý thấy có một cỗ xe bị bỏ mặc trên khoảng sân trống bên ngoài, không che đậy gì cả. 
Anh xong xuôi công việc với người thợ giày, và, vì phu nhân Geissler đã rời khỏi nơi ấy, anh bán số pho mát cho người chủ tiệm. Vào buổi chiều, anh lên đường quay về nhà. Lúc này sương giá đang rơi dày hơn, và đường đi tốt, chắc chắn, nhưng Isak lê chân một cách nặng nề vì những chuyện đó. Ai có thể nói khi nào Geissler mới quay trở lại, khi giờ đây vợ ông ta cũng đã ra đi; có lẽ ông chẳng bao giờ về nữa? Inger đã đi xa, và thời gian đang tiếp tục trôi… 
Anh không nhìn vào nhà của Brede trên đường về; trái lại, anh đánh một đường vòng xa hơn, tránh xa ngôi nhà đó. Anh không quan tâm tới việc dừng lại và trò chuyện với mọi người, chỉ lê bước tiến tới. Cỗ xe của Brede vẫn nằm ngoài trời – phải chăng y muốn để mặc nó ở đó? Chà, đó là việc riêng của y. Bản thân Isak hiện đang có một cỗ xe riêng và một nhà kho để chứa nó, nhưng chẳng vui gì hơn về chuyện đó. Nhà của anh chỉ là một nửa ngôi nhà; trước đây nó đã từng là một ngôi nhà, nhưng giờ đây chỉ còn là một nửa. 
Trời đã sáng rõ khi anh đi tới một chỗ có thể nhìn thấy nông trại của mình trên sườn đồi, và anh thấy hơi vui dù khá mệt mỏi sau bốn mươi tám tiếng đi đường. Ngôi nhà và những kho chái, chúng đứng đó, khói cuộn lên từ ống khói; cả hai đứa nhỏ đang ở ngoài, và đang chạy xuống đón anh khi anh xuất hiện. Anh bước vào nhà, và thấy một đôi vợ chồng người Lapp đang ngồi. Oline đứng dậy trong nỗi ngạc nhiên: “Sao, anh đã về tới rồi!” Bà đang đun cà phê trên bếp lò. Cà phê? Cà phê nhé! 
Isak từng nhìn thấy một việc tương tự trước đó. Khi Os-Anders hay bất kỳ người Lapp nào khác tới, Oline sẽ đun cà phê trong cái nồi nhỏ của Inger suốt một lúc lâu sau đó. Bà làm chuyện này trong lúc Isak đang ở trong rừng hay trên đồng, và khi anh trở về một cách đột ngột và nhìn thấy nó, bà không nói lời nào. Nhưng anh biết rằng mỗi lần như thế anh sẽ nghèo hơn do mất thêm một thỏi pho mát hay một bó len. Và anh không nhấc bổng Oline lên bằng những ngón tay và bóp nát bà vì cái tính biển lận của bà chỉ vì một niềm tin. Nói chung, anh đang thật sự cố gắng trở thành một người tốt hơn, tốt hơn nữa, bất chấp ý nghĩ của anh là gì, vì sự an bình trong nhà hay vì một niềm hy vọng nào đó rằng Thượng đế sẽ sớm trao trả Inger lại cho anh. Anh đang có chút gì đó mê tín và hay suy tưởng về mọi chuyện; ngay cả sự cảnh giác giản đơn của anh cũng khá ngây thơ theo cái cách của nó. Đầu thu ấy anh thấy cỏ trên mái chuồng ngựa đã bắt đầu trượt xuống ở bên trong. Isak nhấm nhấm bộ râu của mình một lúc, rồi mỉm cười, như một người thấu hiểu được một câu nói giỡn chơi, anh đặt vài cái sào chéo qua để chống nó lên. Anh không hề nói một lời cay đắng. Và một chuyện khác: cái nhà kho nơi anh cất giữ thực phẩm chỉ được dựng trên những hòn đá chất cao ở bốn góc, và để trống ở giữa. Một thời gian sau lũ chim bé nhỏ bắt đầu tìm thấy đường bay qua những khoảng trống lớn của bức tường, và cứ vùng vẫy ở bên trong mà không thoát ra ngoài được. Oline phàn nàn rằng chúng mổ thức ăn và phá hỏng thịt và làm cho cái kho thức ăn rối tung lên. Isak bảo: “Phải, những con chim bé nhỏ tội nghiệp đó đã bay vào và không thể bay ra trở lại.” Và giữa độ dày của một mùa bận rộn anh chợt trở thành một người thợ đá đi trám kín những chỗ trống trên bức tường. 
Chỉ có Trời biết chuyện gì đang diễn ra trong đầu anh khi anh làm những điều như thế; có lẽ anh tưởng tượng Inger có thể sớm trở về với anh vì sự dịu dàng mềm mỏng của anh chăng.



[1]A Changeling: Theo truyền thuyết dân gian  châu Âu và tôn giáo dân gian, một “đứa bé đánh tráo” là con của một vị tiên, người khổng lồ, yêu tinh hay một sinh vật truyền thuyết nào đó khác đã bị bí mật tráo đổi cho một em bé con của loài người. Những đứa bé đánh tráo nói chung thường thiểu chức năng, bị dị tật bẩm sinh hay chết yểu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét