Knut Hamsun
Giải Nobel văn chương 1920
Markens Grøde
Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
Quyển I
CHƯƠNG IX
Những năm trôi qua.
Một lần nữa có nhiều khách tìm đến Sellanraa; một viên kỹ sư, với một người đốc công và hai người thợ, lại đánh dấu những đường dây điện thoại trên những ngọn đồi. Theo tuyến đường mà lúc này họ đang làm, đường dây có thể đi ngang qua bên trên ngôi nhà chút ít, và một con đường thẳng sẽ cắt ngang qua khu rừng. Không có hại gì trong chuyện đó. Nó có thể khiến cho chỗ này bớt quạnh quẽ đi, một thoáng nhìn của thế gian sẽ làm cho nó sáng sủa hơn.
“Chỗ này,” viên kỹ sư nói, “sẽ là chặng giữa của hai đường dây băng qua các thung lũng ở cả hai phía. Có khả năng họ sẽ đề nghị anh nhận công việc bảo dưỡng đường dây cho cả hai.”
“Thế à,” Isak nói.
“Mỗi năm anh sẽ có hai mươi lăm Daler đút túi.”
“Ừm, vậy tôi sẽ làm gì để có số tiền đó?” Isak hỏi.
“Bảo trì đường dây, sửa những dây điện khi cần, dọn quang những cây rừng trên tuyến đường khi chúng mọc cao. Họ sẽ gửi tới đây một cái máy nhỏ trong nhà để treo trên tường, nó sẽ báo cho anh biết khi nào họ cần anh. Và khi đó, anh phải rời bất kỳ công việc gì đang làm để lên đường.”
Isak suy nghĩ thật kỹ. “Tôi có thể làm tốt việc đó vào mùa đông,” anh nói.
“Thế không được, công việc phải kéo dài suốt cả năm, mùa hè cũng như mùa đông.”
“Không thể làm được,” Isak nói. “Mùa xuân, hè và thu tôi còn có công việc đất đai và không còn thời gian cho những việc khác.”
Viên kỹ sư nhìn anh một lúc, rồi đặt một câu hỏi lạ lùng: “Anh có thể kiếm ra tiền theo cách đó không?”
“Kiếm ra tiền?” Isak hỏi.
“Anh có thể kiếm tiền trong một ngày bằng cách làm việc trên đất nhiều hơn so với làm cho chúng tôi không?”
“Sao, về chuyện đó tôi không thể nói được,” Isak nói. “Chỉ là thế này, ông thấy đó, tôi ở đây chính vì mảnh đất này. Tôi có nhiều người và còn có nhiều súc vật hơn phải nuôi sống, và chính mảnh đất nuôi dưỡng chúng tôi. Đây là cuộc sống của chúng tôi.”
“Nếu anh không nhận, tôi có thể tìm một người khác,” viên kỹ sư nói.
Nhưng dường như Isak chỉ nhẹ nhõm hơn với lời đe dọa. Anh không muốn làm phật lòng nhân vật lớn này, và cố giải thích: “Chỉ là vầy,” anh nói, “tôi có một con ngựa và năm con bò cái, và thêm một con bò đực. Tôi có hai mươi con cừu và mười sáu con dê. Những con thú cho chúng tôi thức ăn, len và da; chúng tôi phải cho chúng thức ăn.”
“Phải, phải, tất nhiên,” người kia nói ngắn gọn.
“Phải, vì thế tôi mới nói, làm sao tôi cho chúng ăn khi phải chạy đi xa nhiều lần trong mùa bận rộn để làm việc trên tuyến đường điện thoại.”
“Khỏi nói thêm gì nữa,” viên kỹ sư nói. “Tôi sẽ lấy người đàn ông mé dưới chỗ anh, Breder Olsen; anh ta sẽ vui mừng nhận nó.” Ông ta quay sang người của mình với một lời vắn tắt: “Nào, các cậu, chúng ta tiếp tục.”
Lúc này Oline cảm thấy từ cách nói của Isak rằng anh cứng cổ và không biết điều, và bà sẽ chấn chỉnh nó.
“Anh đã nói gì vậy Isak? Mười sáu con dê? Không có hơn mười lăm con,” bà nói.
Isak nhìn Oline, và bà nhìn lại anh, nhìn thẳng vào mặt.
“Không phải là mười sáu con dê sao?” Anh hỏi.
“Không,” bà đáp, nhìn một cách bất lực về phía những người lạ, như thể muốn bảo rằng anh thật không biết phải trái gì sất.
“Thế à,” Isak khẽ nói. Anh dúi một chỏm râu vào giữa hai hàm răng và đứng nhấm nhấm nó.
Viên kỹ sư và người của ông ta đi làm công việc của họ.
Bây giờ, nếu như Isak muốn bày tỏ sự không hài lòng với Oline, có lẽ còn đập cho bà một trận nữa vì những việc làm của bà, thì đây là cơ hội của anh – một cơ hội Trời cho để làm chuyện đó. Họ chỉ còn lại một mình trong nhà; lũ trẻ đã đi theo những người đàn ông khi họ lên đường, và Oline đang ngồi cạnh bếp lò. Isak đằng hắng lấy giọng một hai lần, chỉ để cho thấy rằng anh sắp nói một điều gì đó nếu muốn. Nhưng anh không nói gì cả. Đó là sức mạnh tâm hồn của anh. Cái gì chứ, chẳng lẽ anh lại không biết số dê của mình như biết rõ những ngón tay trên hai bàn tay hay sao – người phụ nữ này có điên không? Có thể nào một trong số dê lại bị đếm nhầm, khi anh biết tường tận từng con một trong số chúng và trò chuyện với chúng mỗi ngày – mười sáu con dê của anh? Hẳn là Oline đã bán bớt một con vào hôm trước, khi người đàn bà từ Bredablik lên đây để nhìn trang trại. “Ừm,” Isak nói, và lần này lời lẽ đã tuôn tới đầu lưỡi của anh. Oline đã làm gì với nó? Không chính xác là giết chết, có lẽ, mà là một điều gì gần như thế. Anh có thể nói một cách nghiêm chỉnh chết người như thế về con dê thứ mười sáu đó.
Nhưng anh không thể đứng đó mãi, ngay giữa phòng, không nói lời nào. “Ừm,” anh nói. “Thế sao! Vậy là bây giờ chỉ có mười lăm con dê, dì nói thế?”
“Đó là tất cả con số tôi đã đếm,” Oline nhẹ nhàng trả lời. “Nhưng tốt hơn anh nên tự mình đếm lại xem sao.”
Bây giờ là thời điểm của anh – anh có thể làm việc đó ngay bây giờ: đưa đôi tay ra và làm cho Oline thay đổi hình dạng một cách đáng kể, với chỉ một cú kẹp duy nhất. Anh có thể làm điều đó. Nhưng anh không làm, mà chỉ nhấn mạnh khi tiến về phía cửa: “Bây giờ tôi sẽ không nói gì nữa.” Và anh đi ra, như thể đã chứng tỏ một cách thẳng thắn rằng, lần sau, anh sẽ có những lời chính xác để nói, đừng lo.
“Eleseus,” anh gọi to.
Eleseus ở đâu, lũ trẻ ở đâu? Cha chúng có chuyện cần hỏi chúng; giờ chúng đã là những cu cậu lớn, với đôi mắt biết nhìn ngó quan sát. Anh tìm thấy chúng bên dưới sàn kho thóc; chúng đã bò vào sâu hết mức cho phép, trốn kỹ và không thể nhìn thấy, nhưng lại tự phản bội mình bởi những tiếng xì xào lo lắng. Giờ thì chúng bò ra như hai tội phạm.
Sự thật là thế này: Eleseus đã tìm thấy một mẩu bút chì màu mà viên kỹ sư bỏ lại, và đã chạy theo ông ta để trả lại, nhưng những người đàn ông to lớn với sải bước dài đã đi xa vào rừng. Eleseus dừng lại. Nó chợt nghĩ ra một ý rằng nó có thể giữ mẩu bút chì – ước gì nó có thể! Nó đi lùng nhóc Sivert, để ít nhất cả hai cùng chia chung tội lỗi này, và cả hai đứa đã bò xuống sàn kho thóc với vật mà chúng nhặt được. Ôi chao, cái mẩu bút chì đó – nó là một sự kiện trong cuộc đời chúng, một vật diệu kỳ! Chúng tìm thấy những mẩu dăm bào và tô đầy lên đó những dấu hiệu; mẩu bút chì, chúng khám phá ra, có một đầu tạo ra những vết màu xanh trời và đầu kia là màu đỏ, và chúng thay nhau sử dụng nó. Khi cha chúng gọi chúng quá to và dứt khoát, Eleseus thầm thì: “Họ đã trở lại để tìm cây bút chì!” Trong khoảnh khắc, tất cả niềm hân hoan của chúng biến mất, bị quét sạch khỏi tâm trí chúng, và trái tim nhỏ bé của chúng bắt đầu đập thình thịch một cách kinh khủng. Hai anh em bò ra. Eleseus chìa cây bút chì ra, nó đây, chúng chưa làm gãy nó; chỉ ước gì chúng chưa bao giờ trông thấy nó.
Không thấy viên kỹ sư đâu hết. Tim chúng đã trở lại một nhịp đập lặng lẽ hơn; thật nhẹ nhõm khi thoát khỏi sự căng thẳng đáng sợ đó.
“Hôm qua có một phụ nữ ở đây?” cha chúng hỏi.
“Vâng.”
“Người phụ nữ từ chỗ dưới kia. Các con có thấy bà ta đi không?”
“Vâng.”
“Bà ta có đem theo một con dê không?”
“Không,” hai đứa bé nói. “Một con dê?”
“Khi rời khỏi đây bà ta có mang theo con dê nào không?”
“Không. Dê nào?”
Isak tự hỏi nhiều lần. Vào xế chiều, khi đàn gia súc về nhà, anh đếm qua đàn dê – có mười sáu con. Anh đếm lại lần nữa, đếm năm lần. Có mười sáu con. Không mất con nào hết.
Isak thở đều trở lại. Nhưng tất cả những chuyện này có nghĩa là gì, Oline, con người khốn khổ đó, chẳng lẽ bà ta không thể đếm tới số mười sáu? Anh giận dữ hỏi bà: “Tất cả những chuyện vô lý này là gì? Có mười sáu con dê.”
“Có mười sáu con à?” Bà hỏi với vẻ ngây thơ vô tội.
“Phải.”
“Ồ, vậy thì tốt.”
“Bà đếm giỏi lắm.”
Oline lặng lẽ trả lời bằng một giọng bị tổn thương, “Vì tất cả số dê có ở đó, sao chứ, tạ ơn Trời, vậy thì anh không thể nói Oline đã ăn tươi nuốt sống chúng. Và tốt cho nó nữa, con vật tội nghiệp.”
Oline đã hoàn toàn cho anh vào bẫy với trò xỏ lá của bà; anh hài lòng, tưởng tượng rằng tất cả đều tốt. Anh không hề nghĩ tới, chẳng hạn, việc đếm những con cừu. Anh không bận tâm tới việc đếm số gia súc nữa. Nói cho cùng, Oline không xấu như anh tưởng, bà coi sóc nhà cửa cho anh theo một cách thức riêng, và đã chăm sóc gia súc của anh; bà chỉ đơn giản là một kẻ ngốc nghếch, và đó là điều tệ nhất ở bà. Cứ để bà ở lại, để bà sống – không đáng bận tâm tới bà. Nhưng cuộc sống lúc này với Isak là một cuộc sống u ám và không có niềm vui.
Nhiều năm trôi qua. Cỏ đã mọc đầy trên mái nhà, thậm chí trên mái kho thóc, mới hơn vài năm, cũng xanh ngắt cỏ. Lũ chuột hoang, cư dân của rừng xanh, từ lâu đã tìm được lối vào nhà kho. Chim sẻ ngô và đủ loại chim nhỏ khác kéo tới đó từng đàn; trên sườn đồi có nhiều chim hơn; ngay cả lũ quạ cũng đã tới. Và kỳ diệu nhất là, vào mùa hè trước, những con mòng biển đã xuất hiện. Đàn mòng biển bay suốt chặng đường từ bờ biển để tới đó cư ngụ trên những cánh đồng giữa chốn hoang vu. Tất cả những sinh vật hoang dã gần xa đều biết rất rõ về nông trại của Isak. Và Eleseus cùng nhóc Sivert đã nghĩ gì khi nhìn thấy những con chim biển? Ồ, đó là những con chim đến từ một chốn xa xôi; không nhiều lắm, chỉ có sáu con chim trắng, tất cả đều giống hệt nhau, núng nính đi qua đi lại khắp những cánh đồng, thỉnh thoảng mổ một ngọn cỏ.
“Cha à, chúng tới để làm gì?” Hai cậu bé hỏi.
“Ở ngoài biển đang có thời tiết xấu,” cha chúng đáp. Ồ, việc nhìn thấy những con mòng biển này thật là một điều lớn lao và bí ẩn!
Và Isak đã dạy cho hai đứa con trai của anh biết nhiều điều tốt và hữu ích. Chúng đang ở tuổi đến trường, nhưng ngôi trường lại ở dưới làng cách xa nhiều dặm, ngoài tầm với. Isak tự mình dạy cho lũ trẻ học đánh vần vào những ngày Chủ nhật, nhưng không phải anh, không phải gã nông phu bẩm sinh của đất đai này là người có thể mang tới cho chúng một trình độ giáo dục cao hơn; cuốn sách vấn đáp giáo lý và cuốn Thánh kinh nằm lặng lẽ trên kệ với những thỏi pho mát. Rõ ràng từ cái cách anh xử lý với lũ trẻ, Isak đã nghĩ rằng đối với đàn ông tốt hơn nên trưởng thành mà không cần tới kiến thức sách vở. Chúng là niềm vui và hạnh phúc đối với anh, cả hai đứa; nhiều lần anh nghĩ tới cái ngày chúng còn là những sinh vật bé tí teo, và mẹ chúng không cho anh dạy dỗ chúng vì tay anh dính đầy nhựa thông. Thế đấy, nhựa thông, thứ sạch nhất trên đời! Nhựa đường và sữa dê và tủy, chẳng hạn, tất cả đều là những thứ tuyệt vời, nhưng nhựa thông, thứ nhựa sạch chảy ra từ cây thông thì không còn lời để tả!
Hai đứa trẻ cứ thế lớn lên trong một thiên đường bẩn thỉu và dốt nát, nhưng chúng đều là những đứa trẻ xinh xắn khi đã tắm rửa, một chuyện thỉnh thoảng xảy ra; nhóc Sivert là một cậu bé tuyệt vời, dù Eleseus có phần xinh đẹp và sâu sắc hơn.
“Làm thế nào lũ mòng biển biết về thời tiết?” Nó hỏi.
“Chúng bị ốm theo thời tiết,” cha nó đáp. “Nhưng về chuyện đó chúng không hơn gì lũ ruồi. Chuyện xảy ra thế nào với lũ ruồi cha không thể nói, chúng bị đông máu hay chóng mặt hay gì đó. Nhưng đừng bao giờ đập một con ruồi, vì điều đó chỉ khiến nó tệ hơn, hãy nhớ điều đó, các con! Con mòng là một loại khác, nó tự chết đi. Một ngày hè nào đó nó đột nhiên xuất hiện, và ở đó; rồi một ngày đột nhiên nó biến mất, và đó là kết cục của nó.”
“Nhưng nó chết như thế nào?” Eleseus hỏi.
“Mỡ trong người nó cứng lại, và nó nằm đó chết.”
Mỗi ngày chúng lại học một điều gì đó mới. Ví dụ, khi nhảy từ những tảng đá cao xuống phải ngậm lưỡi trong miệng và không được đặt nó giữa hai hàm răng. Khi chúng lớn hơn và muốn được thơm tho khi đi lễ nhà thờ, vấn đề là phải chà xát người với một loại hoa cúc ngải nhỏ mọc trên sườn đồi. Người cha này có đầy hiểu biết khôn ngoan. Anh dạy cho hai cậu bé về những tảng đá, về đá lửa, vì sao mà đá trắng lại cứng hơn đá xám. Anh có thể tạo ra lửa từ đá. Anh dạy chúng về mặt trăng, rằng khi phía lõm của trăng ở bên tay trái thì trăng đang tròn dần, và khi nó ở bên tay phải thì trăng đang khuyết dần; hãy nhớ điều đó, các con! Thỉnh thoảng, Isak nói về những việc khá xa vời và trở nên bí ẩn; một thứ Sáu nọ anh tuyên bố rằng việc một con lạc đà được lên thiên đàng còn khó hơn là việc một người xỏ chỉ qua lỗ kim. Một lần khác, trong lúc nói với chúng về vầng hào quang của các thiên thần, anh giải thích rằng các thiên thần gắn những vì sao ở đế ủng của họ thay vì những cái đinh đầu to. Việc dạy dỗ những điều tốt và đơn giản rất phù hợp với những cư dân giữa vùng hoang địa; vị thầy giáo ở dưới làng hẳn phải phì cười với tất cả những lời dạy đó, nhưng hai đứa con của Isak thấy những thứ này có ích cho cuộc sống nội tâm của chúng. Chúng được dạy dỗ và huấn luyện cho cái thế giới bé nhỏ của riêng chúng, và còn gì có thể tốt hơn? Vào mùa thu, khi giết thịt gia súc, hai cậu bé rất tò mò sợ hãi và thấy nặng lòng vì những con thú sắp phải chết. Isak giữ con vật bằng một tay và tay kia chọc tiết; Oline khuấy huyết. Con dê già có râu và khôn ngoan bị dẫn ra; hai cậu bé đứng ở góc nhà nhìn trộm. “Giờ này gió lạnh nhiều bụi quá,” Eleseus nói và quay đi để chùi mắt. Nhóc Sivert khóc một cách công khai hơn, không thể kềm được tiếng kêu: “Ồ, con dê già tội nghiệp!” Khi con dê đã bị giết, Isak tới chỗ chúng và dạy chúng bài học này: “Đừng bao giờ đứng đó nói rằng ‘Con vật tội nghiệp’ và tỏ ra thương xót khi các con thú bị giết. Việc đó sẽ khiến cho chúng lì lợm và khó giết hơn. Hãy nhớ điều đó!”
Nhiều năm cứ thế trôi qua, và lại sắp tới mùa xuân.
Inger đã viết thư về nhà để báo rằng nàng vẫn khỏe, và đang học hỏi nhiều thứ ở nơi nàng đang sống. Đứa bé gái khá lớn con và được đặt tên là Leopoldine, theo ngày nó chào đời, ngày 15 tháng 11. Nàng biết làm nhiều thứ và là một thiên tài về khâu rua và thêu đan, nàng có thể tạo nên những hình thêu đẹp trên vải lanh hay vải bạt.
Điều kỳ lạ ở bức thư này là chính Inger đã tự tay viết đúng chính tả. Isak không học hành nhiều nhặn gì mấy nên anh phải nhờ người đàn ông ở cửa tiệm dưới làng đọc hộ thư; nhưng một khi anh đã đưa nó vào đầu mình thì nó nằm lại đó; khi trở về nhà anh đã nhớ nó nằm lòng.
Và giờ đây anh ngồi xuống một cách nghiêm trang ở đầu bàn, mở lá thư ra, và đọc to cho hai đứa con nghe. Anh rất muốn Oline trông thấy anh có thể đọc thư một cách dễ dàng ra sao nhưng anh không nói trực tiếp lời nào với bà. Khi đọc xong, anh nói: “Nào, Eleseus và con, Sivert, chính mẹ của các con đã tự mình viết lá thư này và học được tất cả những thứ đó. Ngay cả đứa em gái bé tí xíu của các con cũng biết nhiều hơn tất cả chúng ta ở đây. Hãy nhớ điều đó!” Hai cậu bé ngồi yên, tự hỏi trong im lặng.
“Phải, đó là một điều rất tuyệt,” Oline nói.
Và ý của bà là sao? Có phải bà nghi ngờ rằng Inger không nói đúng sự thật? Hoặc bà đã nghi ngờ về khả năng đọc của Isak? Không dễ biết được thật sự Oline nghĩ gì khi bà ngồi đó với gương mặt tầm thường đang nói lên những điều đen tối. Isak quyết định làm ngơ bà.
“Và khi mẹ của các con về, hai đứa ạ, các con cũng sẽ học viết,” anh nói với hai đứa trẻ.
Oline đảo mớ quần áo đang treo gần bếp lò để hong khô; nhấc một cái nồi, đảo lại mớ quần áo, nói chung là tỏ ra bận rộn luôn tay. Trong suốt thời gian đó bà suy nghĩ.
“Thật tốt đẹp và tuyệt vời hệt như mọi thứ ở đây,” cuối cùng bà nói. “Tôi nghĩ hẳn anh có mua một gói cà phê cho nhà.”
“Cà phê à?” Isak nói. Câu nói trôi tuột đi.
Oline đáp một cách lặng lẽ: “Cho tới nay thỉnh thoảng tôi đã mua từ tiền riêng của tôi, nhưng…”
Cà phê là một món trong mơ và trong những câu chuyện thần tiên đối với Isak, một dải cầu vồng. Anh không nổi giận với bà, không, nhưng vì là người suy nghĩ chậm chạp, cuối cùng anh mới sực nhớ sự ăn tàn phá hại của bà với những người Lapp, và anh nói một cách chua chát:
“Phải, tôi sẽ mua cà phê cho dì, tôi sẽ mua. Một gói cà phê, phải không? Sao không mua luôn một cân? Một cân cà phê, trong lúc dì thèm nó.”
“Không cần nói kiểu đó, Isak. Thằng Nils em tôi nó có cà phê; cả ở dưới trại Breidablik họ cũng có cà phê.”
“Phải, vì họ không có sữa. Ở chỗ đó họ không có tới một giọt sữa.”
“Có lẽ là thế. Nhưng anh, kẻ biết nhiều như thế, và đọc thư nhanh như một con gián chạy, anh nên biết rằng cà phê là một thứ phải có trong nhà của mọi người.”
“Bà đúng thật là!” Isak nói.
Tới đây Oline ngồi xuống và có vẻ không muốn lặng im. “Còn về cô nàng Inger đó,” bà nói, “nếu như tôi dám nói một lời nào…”
“Cứ nói những gì dì muốn nói, cũng chẳng có gì là quan trọng đối với tôi.”
“Cô ấy sẽ về nhà, và đã học được mọi thứ. Và trên mũ của cô ấy hẳn có đính những hạt cườm và lông chim, có lẽ thế?"
“Phải, có thể là thế.”
“Vâng,” Oline nói, “và cô ấy có thể cám ơn tôi chút đỉnh về tất cả những gì đã giúp cô ấy trở nên xinh đẹp và tuyệt vời như thế.”
“Bà?” Isak nói. Câu nói trôi tuột đi.
Oline đáp một cách nhún nhường: “Phải, chính nhờ việc làm khiêm tốn của tôi mà cô ấy mới đi xa.”
Isak không thốt nổi lời nào với câu nói đó; mọi ngôn từ của anh đều bị kềm hãm lại, anh ngồi đó nhìn trừng trừng. Anh có nghe lầm không? Oline ngồi đó như thể chưa hề nói gì. Không, trong một trận chiến ngôn từ Isak hoàn toàn thua cuộc.
Anh lao ra khỏi nhà, đầy những ý nghĩ đen tối. Oline, một con quái vật đã lớn lên trong sự xấu xa và trở nên béo tốt từ nó – tại sao anh không vặn cổ bà ngay từ năm đầu tiên? Anh nghĩ như thế, cố lấy lại bình tĩnh. Lẽ ra anh có thể làm điều đó – anh? Dù vậy, anh không thể. Vì không thể tìm ra ai tốt hơn.
Và rồi một điều lạ lùng xảy ra. Isak đi vào chuồng và đếm lũ dê. Chúng ở đó với lũ dê con, đủ số. Anh đếm bầy bò, con heo, mười bốn con gà mái, hai con bê. “Mình đã quên mấy con cừu,” anh tự nhủ; anh đếm bầy cừu, và vờ như lo lắng vì e rằng có một con nào bị mất; anh đã biết điều đó lâu rồi; tại sao anh lại để cho nó xảy ra? Chính là cách này. Trước đây Oline đã chơi khăm anh một lần, bảo rằng một trong các con dê bị mất, dù tất cả số dê vẫn còn đủ ở đó; lúc ấy anh đã làm om xòm lên về chuyện đó, nhưng không có mục đích nào cả. Những lần xung đột giữa anh với Oline luôn giống hệt như nhau. Rồi, vào mùa thu, mùa mổ thịt, anh đã thấy ngay rằng thiếu mất một con cừu cái nhưng anh không đủ can đảm yêu cầu bà giải thích vào lúc đó. Và từ đó trở đi anh chưa bao giờ có đủ can đảm.
Nhưng hôm nay anh cứng rắn; Isak cứng rắn. Lần này Oline đã khiến anh rất giận. Anh đếm lại bầy cừu lần nữa, đặt ngón trỏ lên từng con và đếm lớn tiếng – Oline có thể nghe thấy nếu muốn, nếu như bà có mặt ở ngoài. Và anh nói nhiều điều gay gắt về Oline – nói toáng lên; rằng bà đã dùng một phương pháp mới của riêng mình trong việc cho cừu ăn như thế nào, một phương pháp chỉ đơn giản khiến chúng biến mất – đây, một con cừu cái đã đơn giản biến mất. Bà là một con mụ trộm cắp, hoàn toàn là thế, và có thể bà biết điều đó! Ồ, anh những muốn Oline đứng ở bên ngoài và nghe thấy, và sẽ sợ hết hồn một lần.
Anh sải bước ra khỏi chuồng gia súc, tới chuồng ngựa và đếm con ngựa; từ đó anh sẽ đi vào – sẽ đi vào nhà và nói lên ý nghĩ của mình. Anh bước nhanh đến nỗi áo của anh phồng lên ở phía sau. Nhưng dù muốn dù không Oline cũng đã nhận ra điều gì đó, đang nhìn qua kính cửa sổ; bà xuất hiện ở cửa, lặng lẽ và vững vàng, với hai cái xô trong tay, đang trên đường đi tới chuồng bò.
“Bà đã làm gì với con cừu cái có đôi tai bẹp?” Anh hỏi.
“Con cừu cái?” Bà hỏi lại.
“Phải. Nếu nó còn đây thì bây giờ nó đã có hai con cừu con. Bà đã làm gì nó? Nó luôn sinh đôi. Bà đã làm mất của tôi tất cả ba con, bà có hiểu không?”
Oline hoàn toàn bị áp đảo, hoàn toàn bị tiêu diệt bởi lời cáo buộc; bà lúc lắc đầu, và đôi chân bà dường như tan chảy ra bên dưới thân người – bà có thể té quỵ và tự làm cho mình bị thương. Trong suốt thời gian đó đầu bà bận rộn; trí khôn nhanh nhạy của bà luôn giúp đỡ bà; luôn phục vụ bà rất tốt; lúc này nó không được làm bà thất bại.
“Tôi ăn trộm dê và ăn trộm cừu,” bà lặng lẽ nói. “Và tôi làm gì với chúng, tôi muốn biết điều đó? Tôi không ăn tươi nuốt sống tất cả chúng một mình được, tôi cho là vậy?”
“Bà biết rõ nhất bà đã làm gì với chúng.”
“Thế à! Như thể tôi chưa có đủ và thừa thãi thịt, thức ăn các thứ, với những thứ anh cho tôi, Isak, nên tôi phải lấy cắp thêm? Nhưng dù sao tôi sẽ nói rằng tôi chưa bao giờ cần nhiều đến thế, suốt mấy năm nay.”
“Được, bà đã làm gì với con cừu? Có phải Os-Anders đã lấy nó?”
"Os-Anders?” Oline phải đặt hai cái xô xuống và chắp hai tay lại. “Tôi chưa bao giờ có nhiều tội hơn để trả lời! Anh đang nói gì về tất cả những chuyện cừu cái và cừu con này vậy? Có phải anh muốn nói con dê với đôi tai bẹp?”
“Bà đúng thật là!” Isak nói, quay đi.
“Được, nếu anh không phải là một phép mầu, Isak ạ, tôi sẽ nói… Ở đây anh có mọi thứ mà anh muốn, và một đàn cừu, dê đông đúc và các thứ trong chuồng, và anh vẫn chưa thấy đủ. Làm sao tôi biết con cừu nào và hai con cừu non nào, bây giờ anh đang cố tống khứ tôi đi phải không? Anh nên tạ ơn Thượng đế vì tình thương của Người từ thế hệ này sang thế hệ khác, anh nên làm thế. Bây giờ là mùa hè và chỉ tới mùa đông sau, và anh lại có mùa cừu đẻ một lần nữa, và lại có nhiều hơn gấp ba lần.”
Ồ, cái người đàn bà tên là Oline này!
Isak bỏ đi, càu nhàu như một con gấu. “Mình thật ngốc khi không giết chết bà ta ngay ngày đầu tiên!” Anh nghĩ, tự đặt cho mình đủ mọi cái tên. “Mình thật đúng là thằng đần, một đống rác! Nhưng vẫn chưa quá muộn; cứ đợi đấy, cứ mặc bà ta vào chuồng bò nếu muốn. Sẽ không khôn ngoan nếu làm bất cứ điều gì ngay đêm nay, nhưng ngày mai… phải, ngày mai, vào buổi sáng. Mất toi ba con cừu! Và cà phê, bà ta nói thế!”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét