Thứ Hai, 18 tháng 2, 2013

Phúc lành của đất - Giới thiệu


Các bạn thăm vườn thân mến,

Hiện tác phẩm này vẫn còn trong hạn hợp đồng với nhà đầu tư nên chưa thể post hết để các bạn thưởng thức. Vì vậy rất mong các bạn thông cảm, tạm thời xem vài chương đầu của tác phẩm. Trân trọng.

Nguyễn Thành Nhân





 
Knut Hamsun 
Giải Nobel văn chương 1920 
 
PHÚC LÀNH 
CỦA ĐẤT
(Markens Grøde)
 
Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân




  
Dịch từ bản tiếng Anh
Growth of the Soil (1920)
của W.W. WORSTER
Dịch giả giữ bản quyền bản tiếng Việt
 


TIỂU SỬ TÁC GIẢ[1]

Nhà văn Knut Hamsun (4/81859 – 19/2/1952) tên thật là Knud Pederson. Ông chào đời tại xã Lom, huyện Gudbrandsdalen, (nay thuộc tỉnh Oppland) miền Nam Na Uy; là con thứ tư trong một gia đình nghèo đông con (bảy người con). Năm ông lên bốn, cả gia đình chuyển tới sinh sống tại quận Hamarøy, tỉnh Nordland, miền Bắc Na Uy.
Từ năm lên chín, ông phải tới giúp việc cho ông chú đang làm việc tại một bưu cục, thường xuyên bị đánh và bỏ đói. Những chấn thương tinh thần và thể xác này đã khắc sâu dấu ấn trong ông và là nguyên nhân của những di chứng thần kinh mãn tính về sau.
Năm 1874, ông bỏ trốn trở về Lom, và từ đó bắt đầu một cuộc sống lang thang phiêu bạt khắp đó đây, hai lần sang Mỹ (1882-1884 và 1886-1888); nếm trải đủ mùi khổ ải, làm đủ mọi thứ nghề ngỗng trên đời: thư ký tiệm tạp hóa, bán hàng rong, phụ chữa giày, phụ tá cho quan chức hành chánh xã, giáo viên tiểu học, và hàng chục thứ nghề không tên khác. Từ năm mười bảy tuổi, ông cũng bắt đầu tập tành viết lách.
Năm 1890, tác phẩm Sult (Đói) của ông được xuất bản, gây chấn động lớn trong văn giới bấy giờ với một bút pháp lạ lùng sâu thẳm, mô tả rất xác thực, tinh vi, nhưng đôi khi cũng khá hài hước những cảm xúc và ý tưởng của một nhà văn trẻ đang hồi khốn khó. Có lẽ đây là tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc nhất cho giới phê bình học giả cũng như bạn đọc toàn cầu kể từ ngày nó ra đời cho tới nay. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim hai lần. Lần thứ nhất năm 1966, do Henning Carlsen (sinh 1929) nhà sản xuất phim lừng danh người Đan Mạch đạo diễn; lần thứ hai năm 2001 do đạo diễn, biên kịch người Mỹ Maria Giese đạo diễn.
Từ đó trở đi, bút lực của ông ngày càng dồi dào sung mãn. Về mặt bút pháp, ông là một trong những nhà văn cùng thời khác như James Joyce (1882-1941), Marcel Proust (1871-1922) và Virginia Woolf (1882-1941)… đã khai thác một cách tài tình thủ pháp Dòng ý thức; hình thành nên trào lưu văn học hiện đại.
Tổng cộng ông đã viết trên ba mươi cuốn tiểu thuyết và nhiều tác phẩm kịch, thơ… Trong đó nổi bật nhất là: Đói (Sult-1890); Những điều bí ẩn (Mysterier-1892); Pan[2] (Pan-1894); Victoria (Victoria -1898); Dưới ánh sao thu (Under Høststjærnen -1906); Gã lang thang chơi đàn không dây (En Vandrer spiller med Sordin-1909); Niềm vui cuối cùng (Den sidste Glæde-1912); Phúc lành của đất (Markens Grøde-1917); Trên lối mòn hoang (Paa gjengrodde Stier-1949)… 
Năm 1917, ông mua một điền trang ở Nørholm, miền Nam Na Uy, lui về đó sống một cuộc đời ẩn dật, viết văn và làm việc nông điền.
Năm 1920, ông đoạt giải Nobel văn chương nhờ bộ tiểu thuyết Phúc lành của đất (2 quyển).
Xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân, sự oán ghét chủ nghĩa tư bản hiện đại của bản thân và do hâm mộ truyền thống tư tưởng Nietzche trong chủ nghĩa Phát xít cũng như đã có sẵn cảm tình với Đức do chính nghĩa của nước này trong Thế chiến I, trong lúc đó công luận tại Na Uy lại nghiêng về Anh và Pháp, dần dần trong ông đã hình thành một cảm tình sai lệch với chủ nghĩa xấu xa này.
Năm 1932, ông gặp Hitler và Joseph Goebbels – Bộ Trưởng Tuyên truyền của Đức Quốc Xã. Dù không bao giờ gia nhập Đảng Phát xít, ông đã có những hành động và phát ngôn bày tỏ rõ rệt thái độ ủng hộ Đức của mình, chẳng hạn như tuyên bố với những người đồng bào rằng: “Tất cả chúng ta đều là người Đức” trong thời gian Đức chiếm đóng Na Uy, hoặc công khai viết lời ca tụng Hitler khi nghe tin ông này chết rằng: “Ông ấy là một chiến binh, một chiến binh của nhân loại, và một nhà tiên tri của nền công lý đối với mọi quốc gia.”
Sau Thế chiến II, ông bị công chúng ghét bỏ; do được coi là bị bệnh tâm thần nên ông không phải ngồi tù mà chỉ bị phạt tiền 80.000 đô la Mỹ (1947). Kể từ đó cho tới khi lìa đời, ông sống trong cảnh lẻ loi nghèo khổ, bị mọi người xung quanh xa lánh.
Ngày 19-2-1952, Knut Hamsun qua đời ở thị trấn Grimstad, miền Nam Na Uy, hưởng thọ 92 tuổi.
Hồi đầu năm ngoái, 2009, khi Na Uy phát hành đồng tiền mệnh giá 200 Kroner (khoảng 500.000 đồng VN) in hình ông và tiếp sau đó là những hoạt động trọng thể tưởng niệm 150 năm ngày sinh của Hamsun, đã có nhiều quan điểm gay gắt phản đối từ nhiều nước trên thế giới. Dĩ nhiên, bên cạnh đó cũng có nhiều ý kiến đồng tình, biện minh cho những hoạt động nói trên. 
Nếu không xét tới quan điểm chính trị của Knut Hamsun – vốn đã trăm phần trăm trăm sai trái, không có gì cần bàn cãi nữa (có lẽ bản thân Knut Hamsun cũng đã nhận ra những sai lầm của ông trong quãng thời gian cuối đời), có thể khẳng định đa phần những di sản văn học mà ông để lại cho nhân loại là vô cùng quý báu. Và người đọc chúng ta có thể tri ân ông ở khía cạnh này.
Sài Gòn, 3-2010
Nguyễn Thành Nhân



DIỄN TỪ NOBEL CỦA KNUT HAMSUN (*)
 
                
 Tôi sẽ phải làm gì trước một sự rộng lượng bao dung choáng ngập hồn người như thế? Đôi chân tôi không còn đặt trên mặt đất, tôi đang bước giữa không trung, đầu tôi quay cuồng chao đảo. Thật khó mà tự chủ bản thân vào đúng lúc này. Ngày hôm nay vinh hạnh và tiền tài ập xuống người tôi. Tôi vẫn chính là tôi, nhưng tôi không còn đứng vững bởi tặng vật dành cho quê mẹ của tôi, bởi những giai điệu trong bài quốc ca cách đây một phút đã vang dội khắp sảnh đường này.  

Tuy nhiên, tôi không được tự cho phép mình hân thưởng cái trí khôn chất phác tại đây trước một hội đồng lỗi lạc thế này, đặc biệt là khi tiếp theo sau tôi sẽ là một vị đại biểu của nền khoa học. Tôi sẽ sớm ngồi xuống lại, nhưng hôm nay là một ngày trọng đại của tôi.

Tôi đã được chọn ra do lòng rộng lượng của quý vị, được chọn ra trong số nhiều ngàn người khác, và được đội vòng nguyệt quế lên đầu! Nhân danh quê hương tôi, tôi xin cám ơn Viện Hàn lâm Thụy Điển và tất cả mọi công dân Thụy Điển về niềm vinh dự mà họ đã ban tặng cho tôi.

Với tư cách cá nhân, tôi cúi đầu dưới sức nặng của những vinh hạnh lớn lao như thế. Nhưng tôi cũng tự hào rằng các quý vị trong Viện Hàn lâm đã đánh giá đôi vai của tôi còn đủ vững để gánh chịu chúng.

Lúc nãy, một diễn giả lỗi lạc đã nói rằng tôi có cách viết của riêng tôi[3], và điều tôi sắp nói là có lẽ tôi chỉ có thể khẳng định điều này, không còn gì hơn nữa. Tuy nhiên, tôi đã học được đôi điều gì đó từ mọi người, và có người nào lại không học được chút gì từ tất cả mọi người? Tôi đã học được rất nhiều điều từ thi ca Thụy Điển, và, đặc biệt hơn nữa, từ những bài thơ trữ tình của thế hệ vừa qua. Giá như tôi thông thạo về văn học và những cái tên vĩ đại của nó hơn, tôi có thể tiếp tục trích dẫn chúng tràng giang đại hải và bày tỏ lòng tri ân cho cái phẩm chất mà quí vị đã quá rộng lượng tìm thấy trong tác phẩm của tôi. Tuy nhiên, thốt ra từ một cá nhân như tôi, điều này sẽ chỉ là một sự phô trương, là những ấn tượng âm thanh nông cạn không có một nốt trầm nào để hỗ trợ cho chúng. Tôi không còn đủ trẻ đối với việc này; tôi không còn sức mạnh.

Không, điều tôi thật sự muốn làm ngay lúc này, dưới ánh đèn rực rỡ, trước mặt hội đồng lẫy lừng này, là rắc tung cho mỗi một người trong số quí vị những món quà, những đóa hoa, những quà tặng thi ca – để trẻ thêm lần nữa, để cưỡi trên đầu ngọn sóng. Đó là điều mà tôi ao ước muốn làm trong dịp trọng đại này, cơ may cuối cùng này đối với tôi. Tôi không dám thực hiện nó, vì tôi sẽ không khỏi tỏ ra lố bịch. Hôm nay tiền tài vinh hạnh đã trút xuống người tôi, nhưng còn thiếu một món quà, thứ quan trọng nhất trong tất cả, thứ duy nhất có ý nghĩa, món quà của tuổi trẻ. Không ai trong số chúng ta già tới mức không nhớ tới nó. Đúng là chúng ta, những người đang trở về già, nên lui lại một bước, và làm điều đó với phẩm cách và sự khoan dung.

Tôi không biết mình nên làm gì – tôi không biết đâu là điều đúng đắn để làm, nhưng tôi xin nâng ly chúc mừng tuổi trẻ của nước Thụy Điển, chúc mừng những người trẻ tuổi ở khắp mọi nơi, chúc mừng tất cả những gì trẻ trung trong cuộc sống.

 (*) Nguồn: http://www.hamsun.dk/uk/hamsun_citat.html
 



[1] Phần giới thiệu tác giả này không có trong bản in, có lẽ bị biên tập viên cắt bỏ khi biên tập bản thảo, nay xin bổ sung để các bạn hiểu rõ hơn về tác giả.
[2] Thần điền dã trong thần thoại Hy Lạp.
[3] Trước khi Hamsun đọc diễn từ nhận giải, Giáo sư Oscar Montelius đã nói với ông: “Tôi biết ông thích được nói tới càng ít càng tốt, nhưng tôi không thể kềm lòng để đoan chắc với ông rằng tất cả chúng tôi, những người hâm mộ quyển Phúc lành của đất, đều hân hoan được diện kiến ông.”  










Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét