Thứ Tư, 20 tháng 2, 2013

Phúc lành của đất - Quyển I - Chương 4

 
Knut Hamsun 
Giải Nobel văn chương 1920 
 
Markens Grøde
 
Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
  
 
 
 
Quyển I
CHƯƠNG IV
Đã là thời gian rỗi việc giữa hai mùa, nhưng Oline không đến. 
Lúc này Isak đã ngơi việc đồng áng; anh có sẵn hai cái hái và hai cái cào cỏ cho việc cắt cỏ phơi khô; anh làm những tấm ván lót sàn dài cho chiếc xe để chở cỏ khô, tìm ra hai thanh trượt cùng một miếng gỗ thích hợp để làm một chiếc xe trượt tuyết mùa đông. Anh làm nhiều vật hữu ích. Thậm chí cả những cái kệ. Anh lắp hai cái kệ trong nhà, như một nơi tuyệt diệu để cất giữ nhiều thứ, chẳng hạn một cuốn niên lịch – cuối cùng anh đã mua một cuốn – và những cái muỗng canh, những bình vại không dùng tới. Inger hài lòng một cách dễ dãi; nàng nghĩ rất nhiều về mọi thứ. Ví dụ như con Sừng Vàng, giờ thì không sợ nó chạy mất nữa, vì đã có con bê và con bò đực làm bầu bạn; nó chạy quanh rừng suốt ngày. Cả đàn dê cũng đang béo tốt, những chiếc vú của chúng gần như quét lê trên mặt đất. Inger may một chiếc áo thụng dài từ tấm vải hoa xanh và một cái mũ nhỏ xinh xắn hết mực với cùng chất liệu – những thứ đó dành cho lễ rửa tội. Bản thân thằng bé nhiều lần quan sát nàng làm việc; nó là một bé trai kỳ diệu được ban phúc lành, và nếu nàng rất thích gọi nó là Eleseus thì sao chứ, Isak cho rằng nàng phải có cách thức của mình. Khi chiếc áo thụng đã hoàn thành, nó được nối thêm một mảnh đuôi dài, gần một thước rưỡi vải hoa, và mỗi in-sơ tiền mua nó đều được sử dụng; nhưng thế thì sao – đứa bé là con đầu lòng của họ. 
“Còn những hạt cườm của em?” Isak hỏi. “Nếu có bao giờ dùng tới chúng…” 
Ồ, nhưng Inger đã nghĩ tới chúng, những hạt cườm của nàng. Cứ tin một người mẹ về chuyện đó. Inger không nói gì, và rất tự hào. Không có nhiều hạt cườm lắm, không đủ để làm một cái vòng cổ cho thằng bé, nhưng trông chúng sẽ rất đẹp khi đính vào phía trước chiếc mũ của nó, và chúng sẽ nằm ở đó. 
Nhưng Oline không tới. 
Nếu không vì lũ gia súc, hẳn ba người bọn họ đã lên đường và quay trở về nhà vào vài hôm sau với đứa trẻ đã được đặt tên thánh theo đúng phép tắc. Và nếu như không vì chuyện kết hôn, hẳn Inger đã đi một mình. 
“Nếu chúng ta hoãn vụ kết hôn lại ít lâu thì sao?” Isak nói. Nhưng Inger không muốn hoãn lại; ít nhất phải cần tới mười hoặc mười hai năm trước khi Eleseus đủ lớn để ở nhà chăm nom việc vắt sữa trong lúc họ đi khỏi. 
Không, Isak phải sử dụng đầu óc mình để tìm ra một cách. Toàn bộ mọi thứ đã xảy ra theo cách nào đó mà họ không hề biết; có lẽ vấn đề kết hôn cũng quan trọng không kém việc rửa tội – làm sao anh biết được? Thời tiết trông có vẻ muốn hạn hán – một cơn hạn hán tệ hại; nếu mưa không đến sớm, mùa màng của họ sẽ bị cháy rụi. Nhưng tất cả nằm trong bàn tay của Chúa. Isak chuẩn bị đi xuống làng và tìm một ai đó lên giúp. Tất cả những dặm đường đó một lần nữa! 
Và tất cả những rối ren nhặng xị đó chỉ vì việc kết hôn và rửa tội. Phải, những người dân ở nơi hẻo lánh gặp đủ thứ phiền toái lớn nhỏ. 
Cuối cùng Oline đã tới… 
Và giờ đây họ đã kết hôn và rửa tội, mọi thứ nghiêm chỉnh theo trình tự; họ đã nhớ ra phải kết hôn trước, để đứa bé có thể được rửa tội với tư cách là con của một đôi vợ chồng đã kết hôn. Nhưng cơn hạn hán kéo dài, và những cánh đồng lúa nhỏ bé khô rang nứt nẻ, những tấm thảm nhung ấy đã khô rang nứt nẻ – vì sao? Tất cả đều nằm trong bàn tay của Chúa. Isak cắt cỏ trên những đồng cỏ của anh; chỉ có một ít cỏ trên đồng cho tất cả những gì anh đã chăm bón vào mùa xuân ấy. Anh miệt mài cắt cỏ trên những sườn đồi, ngày càng đi xa hơn; cắt cỏ, quay về và chở về nhà những bó cỏ khô, như thể anh không bao giờ biết mệt – vì anh đã có một con ngựa và một nông trại có nhiều kho đụn. Nhưng cho tới giữa tháng Bảy anh phải cắt lúa để làm rơm, vì không còn cách gì khác. Và giờ đây tất cả tùy thuộc vào việc thu hoạch khoai tây. 
Còn những bụi khoai tây đó thì sao? Có phải chúng chỉ là một thứ đến từ những miền hải ngoại, như cà phê; một thứ sang trọng, một thứ vượt mức bình thường? Ồ, khoai tây là một thứ cây kiêu hãnh; hạn hán hoặc mưa rào, nó vẫn cứ phát triển như nhau. Nó chế nhạo thời tiết và sẽ chịu đựng bất cứ điều gì; chỉ cần xử sự tử tế với nó, và nó lại mọc ra mười lăm nhánh. Không phải là thứ nước của một quả nho, mà lớp thịt của một quả hạt dẻ, sẽ được luộc hay nướng, có thể sử dụng theo mọi cách. Một người đàn ông có thể thiếu lúa để làm bánh mì, nhưng cứ cho anh ta khoai tây và anh ta sẽ không chết đói. Cứ nướng chúng trong than hồng là đã có thứ để ăn tối; cứ luộc chúng trong nước là đã có sẵn bữa điểm tâm. Còn về thịt, người ta ít khi cần tới chúng. Khoai tây có thể dọn lên với thứ gì bạn thích; một cốc sữa, một con cá trích, thế là đủ. Người giàu có ăn chúng với bơ; dân nghèo thì cũng xong với một nắm muối. Isak có thể làm cả một bữa tiệc với chúng vào những ngày Chủ nhật, với một ít kem làm từ sữa của Sừng Vàng. Thứ khoai tây tội nghiệp bị xem thường – một phẩm vật được ban phúc lành! 
Nhưng bây giờ mọi thứ đều có vẻ đen tối, ngay cả vụ thu hoạch khoai tây. 
Mỗi ngày, Isak nhìn lên bầu trời vô số lần. Và bầu trời vẫn xanh trong. Có nhiều buổi chiều trông có vẻ như một cơn mưa đang tới, Isak đi vào nhà và nói, “Rốt cuộc có vẻ như chúng ta sẽ có cơn mưa đó.” Và vài giờ sau tất cả lại tuyệt vô hy vọng như trước. 
Tới lúc này cơn hạn hán đã kéo dài bảy tuần, và sức nóng rất nghiêm trọng; suốt thời gian đó khoai tây tiếp tục ra hoa; ra hoa một cách kỳ lạ, phi tự nhiên. Những cánh đồng lúa nhìn từ một khoảng cách xa như nằm dưới một lớp tuyết. Tất cả những chuyện này sẽ kết thúc khi nào? Cuốn niên lịch chẳng nói gì – những cuốn niên lịch thời buổi này không phải là chúng như trước nữa; một cuốn niên lịch ngày nay không tốt chút nào. Hiện tại, trời lại có vẻ sắp mưa, và Isak bước vào tìm Inger: 
“Đêm nay sẽ có mưa, theo ý Chúa.” 
“Trông trời có vẻ như thế à?” 
“Phải. Và con ngựa đang rùng mình chút ít, theo kiểu của chúng.” 
Inger liếc ra cửa và bảo, “Phải, anh thấy đó, nó sẽ tới ngay thôi.” 
Một vài giọt rơi xuống. Nhiều giờ trôi qua, họ ăn bữa tối, và khi Isak bước ra giữa màn đêm để nhìn, bầu trời vẫn xanh. 
“Được, được,” Inger nói, “trời sẽ cho một ngày nữa để phơi khô số địa y cuối cùng ,” nàng nói, cố gắng an ủi anh. 
Isak đã hái địa y, càng nhiều càng tốt, và hái được khá nhiều, tất cả đều là loại hảo hạng. Đó là một thứ cỏ khô tốt, và anh cũng đối xử với nó như với cỏ khô, che nó lại bằng những vỏ cây trong rừng. Chỉ còn một ít nằm ngoài trời, và giờ đây, khi Inger nói về nó, anh trả lời một cách tuyệt vọng, “Tôi sẽ không đưa nó vào nếu trời nắng.” 
“Isak, anh không có ý định đó đâu!” Inger nói. 
Và hôm sau anh vẫn không đưa số địa y vào nhà, chắc chắn thế. Anh bỏ mặc nó ở ngoài và chẳng hề đụng tới nó, như anh đã nói. Cứ mặc nó nằm ở nơi nó đang nằm, dù sao thì trời cũng không mưa; cứ mặc nó nằm ở nơi nó đang nằm với lòng kính Chúa! Anh có thể mang nó vào ở một thời điểm nào đó trước lễ Giáng sinh, nếu như mặt trời chưa thiêu rụi nó. 
Isak bị tổn thương sâu sắc. Việc ngồi ở ngoài trên bậc cửa và nhìn ra những mảnh đất của mình, cảm thấy là chủ nhân ông của tất cả, không còn là một niềm vui thú. Đồng khoai tây đang ra hoa một cách điên rồ và đang héo khô đi; cứ mặc cho số địa y đó nằm ở nơi nó đang nằm – anh quan tâm gì cơ chứ? Cái anh chàng Isak đó! Ai có thể nói; có thể anh có một ý nghĩ tinh quái nào đó trong đầu đối với tất cả những dửng dưng đơn giản ấy; nói cho cùng, có lẽ anh biết mình đang làm gì, khi cố theo dõi bầu trời xanh với sự thay đổi của vầng trăng lúc bấy giờ. 
Chiều tối hôm đó trông có vẻ như trời sẽ mưa lần nữa. “Anh nên đưa số địa y đó vào nhà,” Inger nói. 
“Để làm gì?” Isak hỏi, có vẻ rất ngạc nhiên. 
“Phải, anh với sự vô lý của anh – nhưng nói cho cùng trời sẽ mưa.” 
“Năm nay trời sẽ không mưa, em có thể tự mình thấy.” 
Nhưng mặc cho tất cả những chuyện đó, trời đêm trở nên tối lạ lùng. Họ có thể nhìn thấy qua kính cửa sổ rằng trời đang tối sầm đi – phải, và như thể có một thứ gì đó đập vào những tấm kính cửa. Một thứ gì đó ẩm ướt, bất kể nó là gì. Inger thức giấc. “Trời mưa! Hãy nhìn ra kính cửa sổ.” 
Nhưng Isak chỉ khịt mũi. “Mưa à? Chả có mưa chút nào. Em không biết mình đang nói gì đâu.” 
“Chà, giả vờ thế là không tốt,” Inger nói. 
Isak đang vờ vịt – phải, đúng vậy. Trời đang mưa, chắc chắn là thế, và đó là một cơn mưa lớn – nhưng ngay khi mưa vừa đủ để làm hỏng số địa y của Isak thì trời tạnh. Bầu trời trong xanh. “Tôi đã nói gì nhỉ,” Isak nói một cách cố chấp. 
Trận mưa không ảnh hưởng gì tới vụ khoai tây, và nhiều ngày đến rồi đi; bầu trời trong xanh. Isak bắt tay vào việc trên chiếc xe trượt chở gỗ, chăm chỉ làm lụng, lên kế hoạch một cách nhún nhường với thanh trượt và càng xe. Vâng, trời đất ạ! Những ngày đến rồi đi, và đứa trẻ lớn lên. Inger đánh kem và làm pho mát; không có nguy cơ nghiêm trọng nào; những người dân này có trí khôn và có thể làm việc để không chết vì một năm tệ hại. Ngoài ra, sau chín tuần, một trận mưa lành thông thường đã đến, mưa như trút nước suốt một ngày đêm, suốt mười sáu tiếng. Nếu nó tới trước đó hai tuần, hẳn Isak sẽ nói, “Giờ thì đã muộn!” Và như thường lệ, anh nói với Inger, “Em biết đó, cơn mưa sẽ cứu được một ít khoai.” 
“Phải,” Inger đáp một cách hy vọng. “Nó sẽ cứu được khá nhiều, rồi anh sẽ thấy.” 
Và giờ đây mọi thứ trông khá hơn. Mưa rơi mỗi ngày; tốt, những trận mưa trọn vẹn. Mọi thứ trông xanh tươi trở lại, như bởi một phép mầu. Khoai tây vẫn còn ra hoa, tệ hơn trước, với những chùm quả lớn mọc ra ở các ngọn cây, nơi lẽ ra chúng không xuất hiện; nhưng không ai có thể nói có thứ gì dưới những rễ cây. Isak không dám nhìn thử xem sao. Thế rồi một hôm Inger ra ngoài và phát hiện ra hơn hai chục củ khoai nhỏ dưới một gốc khoai. “Và chúng có thêm năm tuần nữa để lớn lên,” Inger bảo. Ồ, cái cô nàng Inger đó, luôn cố an ủi và nói năng một cách đầy hy vọng với cái môi sứt của mình. Nghe nàng nói không hay ho gì cho lắm, vì có một thứ tiếng xì xào như hơi nước thoát ra từ một cái van bị rò rỉ, nhưng đồng thời nó cũng là một niềm an ủi ở giữa chốn hoang vu. Và lúc nào nàng cũng là một tâm hồn hạnh phúc vui tươi. 
Một hôm, nàng bảo với Isak, “Tôi ước gì anh có thể làm thêm một cái giường.” 
“Thế à!” anh nói. 
“Sao, không cần phải vội, nhưng vẫn…” 
Họ bắt đầu thu hoạch khoai tây, và kết thúc trước ngày lễ Thánh Michael, theo tập quán. Đó là một năm ở mức trung bình – một năm tốt đẹp; một lần nữa họ thấy rằng khoai tây không chịu ảnh hưởng thời tiết nhiều lắm, vẫn cứ phát triển bình thường, và có thể chịu đựng tốt. Một năm trung bình – một năm tốt đẹp… Ồ, có lẽ không, nếu họ xem xét một cách chính xác, nhưng năm nay họ không thể làm điều đó. Một ngày nọ, gã người Lapp đi ngang lối đó đã nói khoai tây của họ thật tốt; ở dưới làng thì tệ hơn rất nhiều, anh ta bảo. 
Và giờ đây Isak có thêm vài tuần để làm đất trước khi sương giá xuống. Bầy gia súc được thả rong, gặm cỏ ở nơi nào tùy thích; thật tốt khi làm việc mà có chúng quẩn quanh gần đó và nghe thấy tiếng chuông, dù thỉnh thoảng nó cũng làm anh mất chút ít thời gian. Cái con bò đực ranh ma đó có thể húc đầu vào đống địa y; còn về phần đàn dê thì chúng tản mác khắp nơi cao thấp, thậm chí cả trên mái lều. 
Những  chuyện phiền toái lớn nhỏ. 
Một hôm Isak nghe thấy một tiếng hét đột ngột; Inger đứng ở bậc cửa với đứa bé trên tay, chỉ về phía con bò đực và con bò cái non xinh đẹp Sừng Bạc – chúng đang lẹo nhau. Isak ném cuốc xuống và chạy về phía đôi bò, nhưng đã quá muộn, theo như họ thấy. Chuyện quái quỷ ấy đã được thực hiện. “Ồ, đồ nhãi ranh bé nhỏ, nó còn quá non – sớm hơn tới nửa năm, một đứa trẻ con!” Isak đưa nó vào lều, nhưng đã quá muộn. 
“Tốt, tốt,” Inger nói, “nói cho cùng việc này cũng không quá tệ, theo cách nào đó; cứ đợi xem, chúng ta sẽ có cả hai con bò đẻ cùng một lúc.” Ồ, cái cô nàng Inger đó; không sáng dạ như người ta, có lẽ, thế nhưng, với những lời đó, hẳn nàng đã biết mình định làm gì khi thả lỏng đôi bò sáng hôm đó. 
Đông tới, Inger chải len và xe sợi, Isak chở về nhiều củi đốt; củi tốt và đường đi thuận lợi; tất cả nợ nần của anh đã thanh toán xong xuôi; ngựa và xe, cày và bừa là của riêng anh. Anh đánh xe xuống làng với pho mát sữa dê của Inger và mang về len sợi, một cái khung cửi, những con thoi và suốt cuốn chỉ các thứ; mang về bột yến mạch và thực phẩm, nhiều ván và đinh hơn; một hôm anh mang về một cây đèn dầu. 
“Cũng thật như tôi đang ở đây, tôi không thể tin nổi,” Inger nói. Nhưng từ lâu nàng đã nghĩ tới một cây đèn dầu cho tất cả các thứ đó. Họ thắp nó lên ngay tối đó, và sống trong chốn thiên đường; và chắc chắn bé Eleseus sẽ cho rằng đó là mặt trời. “Hãy xem nó cứ nhìn chằm chằm như thế kia,” Isak bảo. Và giờ đây Inger có thể se sợi vào buổi tối nhờ ánh đèn dầu. 
Anh cũng mua vải để may áo và một đôi giày da mới cho Inger. Nàng cũng đã yêu cầu một ít thuốc nhuộm len, và anh mang chúng về. 
Rồi một hôm anh trở về với một cái đồng hồ treo tường. Với cái gì chứ? – Một cái đồng hồ treo tường. Điều này thật là quá sức tưởng tượng đối với Inger; nàng hoàn toàn choáng ngợp và không nói được lời nào. Isak treo nó lên tường, chỉnh lại kim theo phỏng đoán, lên dây cót, và để cho nó đổ chuông. Thằng bé quay mắt về phía âm thanh rồi nhìn mẹ nó. “Phải, con có thể lấy làm lạ,” Inger bảo và bế thằng bé lên. Ở đây, tại một nơi cô quạnh, trong tất cả những thứ tốt đẹp, không có thứ nào tốt hơn một cái đồng hồ để trải qua mùa đông tăm tối, với tiếng chuông báo giờ ấm áp. 
Khi chuyến gỗ cuối cùng đã được chở đi, Isak lại trở thành một gã tiều phu, đốn cây và chất đống, xây dựng những con đường của anh, cái thị trấn gỗ của anh, cho mùa đông kế tiếp. Lúc này anh ngày càng đi xa nhà hơn, đã có sẵn một dải dất rộng lớn ở sườn đồi để canh tác. Anh không còn cắt ngắn gỗ nữa mà chỉ đốn những cây lớn nhất đã khô ngọn. 
Dĩ nhiên, anh biết rất rõ điều mà Inger nghĩ tới khi nàng đòi có thêm một cái giường; tốt nhất nên vội vàng lên và hoàn thành nó. Một xế chiều u ám anh từ rừng trở về nhà, và chắc chắn là thế, Inger đã sinh nở xong xuôi – một bé trai khác đang nằm đó. Cái cô nàng Inger này! Đúng ngay sáng hôm ấy nàng đã cố thuyết phục anh đi xuống làng lần nữa: “Lần này con ngựa phải có chuyện gì đó để làm,” nàng bảo. “Cứ ăn không suốt cả ngày.” 
“Tôi không có thời gian cho mấy chuyện vớ vẩn đó,” Isak nói ngắn gọn, và đi ra. Giờ thì anh đã hiểu; nàng muốn anh tránh đi chỗ khác. Và tại sao? Chắc chắn là có anh ở quanh nhà thì tốt hơn chứ. 
“Vì sao em không bao giờ báo cho người ta biết chuyện gì sắp xảy ra?” anh hỏi. 
“Anh tự dọn giường cho mình và ngủ trong căn phòng nhỏ đi,” Inger nói. 
Về chuyện đó, không chỉ là làm một cái khung giường, cần phải có vải để trải giường. Họ chỉ có một một tấm mền da, và không thể có một tấm khác cho tới mùa thu kế tiếp, khi họ thịt mấy con cừu thiến – và thậm chí khi đó hai tấm da cũng không đủ để làm một tấm mền. Isak trải qua một thời gian cực khổ, với cái rét ban đêm; anh cố vùi mình trong đống cỏ khô bên dưới tảng đá lồi, cố ngủ chung với mấy con bò. Isak trở thành kẻ không nhà. May cho anh lúc ấy là tháng Năm; chẳng bao lâu tháng Sáu sẽ tới; rồi tháng Bảy… 
Họ đã xoay xở làm nên một cơ ngơi tuyệt diệu, ở đó trong vùng hoang dã; cất nhà cho chính họ và chuồng cho bầy gia súc, phát quang đất đai và trồng trọt, tất cả chỉ trong ba năm. Isak lại xây cất – giờ anh đang xây cất cái gì? Một cái chuồng mới, một cái chái nhô ra từ ngôi nhà. Khắp chốn vang động tiếng búa khi anh đóng những cây đinh dài chín in-sơ. Thỉnh thoảng Inger bước ra và bảo tiếng ồn quá lớn đối với bọn trẻ. 
“À, bọn trẻ, hãy vào nhà và nói chuyện với chúng, hát bài gì đó. Có thể cho thằng Eleseus một cái nắp thùng để nó tự gõ. Tôi chỉ đóng mấy cây đinh lớn ở chỗ này thôi, trên những chiếc xà ngang, chúng sẽ gánh chịu cả mái nhà. Sau đó chỉ đóng mấy tấm ván với đinh hai in-sơ rưỡi, nhẹ nhàng như cất những ngôi nhà búp bê.” 
Chẳng có gì là lạ nếu Isak vẫn gõ đập ầm vang. Kia là một thùng đựng cá trích, và bột, và tất cả các thứ thực phẩm để tạm trong chuồng ngựa; vẫn tốt hơn là để chúng ngoài trời, có lẽ thế, nhưng thịt lợn đã bị ôi; cần phải có một cái kho thực phẩm, và điều đó rất rõ ràng. Còn về phần lũ trẻ, chúng mau chóng quen thuộc với tiếng ồn. Eleseus có chiều hướng hơi ốm yếu, nhưng đứa kia ăn uống một cách ngon lành, như một đứa bé béo tốt, và khi nó không khóc thì nó ngủ. Một đứa bé diệu kỳ! Isak không phản đối việc đặt tên nó là Sivert, dù bản thân anh thích cái tên Jacob hơn. Đôi khi Inger có thể làm điều đúng. Eleseus được đặt theo tên của vị linh mục ở giáo xứ của nàng, và chắc chắn đó là một cái tên đẹp; nhưng Sivert được đặt theo tên của ông cậu nó, viên thủ quỹ huyện, một người giàu có, không có vợ con gì để thừa kế di sản của ông. Họ không thể làm điều gì tốt hơn là đặt tên thằng bé theo tên ông. 
Rồi mùa xuân đến, và công việc của mùa vụ mới; tất cả đều gắn với đất đai trước ngày Whitsun.[1] Khi chỉ phải chăm nom một mình Eleseus, Inger không bao giờ có thì giờ để giúp chồng nàng vì bị cột chặt vào đứa con đầu lòng của mình; giờ đây, với hai đứa bé trong nhà thì lại khác; nàng giúp chồng ở những cánh đồng và lo liệu một số công việc vặt vãnh này khác; trồng khoai tây, gieo cà rốt và củ cải trắng. Một người vợ như thế không phải dễ tìm. Ngoài ra nàng còn có khung cửi của mình; những khi rỗi việc nàng lại chui vào căn phòng nhỏ và se một hai ống chỉ, may những quần áo lót với nửa phần là len cho mùa đông. Rồi nàng nhuộm len, màu đỏ và xanh dương cho nàng và hai đứa nhỏ; cuối cùng nàng pha nhiều màu để làm một tấm mền cho Isak, tất cả chỉ một tay nàng. Không có chuyện giải trí ở khung cửi của Inger mà là làm ra những vật hữu dụng và cần thiết, và tất cả đều tốt đẹp. 
Chà, họ đang làm việc rất cừ, những cư dân giữa chốn hoang vu này; họ đã tiến rất xa, và nếu mùa màng năm nay bội thu họ sẽ trở thành những thôn dân đáng ganh tị. Còn thiếu thứ gì nữa ở chốn này? Có lẽ là một cái vựa cỏ khô; một nhà kho với một cái sân đập lúa bên trong – nhưng cái đó sẽ đến vào đúng lúc. Phải, nó sẽ đến, không lo, chỉ cần dành thời gian cho lúc ấy. Và giờ thì Sừng Bạc đã đẻ con, đàn cừu đã có cừu non, đàn dê cũng sinh con, những con thú con trở nên đông đúc. Còn những vị chủ nhân của ngôi nhà thì sao? Eleseus đã biết đi, đi một mình bất cứ lúc nào nó muốn, và Sivert bé bỏng đã được rửa tội. Còn Inger? Với mọi dấu hiệu và biểu hiện, đang chuẩn bị cho một kỳ sinh nở khác; nàng không phải loại người mà bạn gọi là sinh nở hiếm hoi. Một đứa bé khác – chà, với Inger chỉ là chuyện nhỏ! Dù vậy nàng khá tự hào về chúng khi chúng ra đời, chắc chắn là thế. Những tạo vật bé nhỏ xinh đẹp, như bất kỳ một ai có thể nhìn thấy. Về lâu dài, Thượng đế không chỉ ban phúc cho những đứa bé đang lớn xinh đẹp đó. Inger còn trẻ và đang ở lứa tuổi chín mọng nhất. Nàng không đẹp, và suốt thời thơ ấu đã phải đau khổ vì điều đó, bị đẩy ra bên lề và bị coi thường. Những gã thanh niên không bao giờ để ý tới nàng dù nàng có thể khiêu vũ cũng như làm việc. Họ không thấy có gì ngọt ngào ở nàng và quay sang kẻ khác. Nhưng giờ thì thời gian đã đến; nàng đang nở rộ như một bông hoa và thường xuyên mang thai. Bản thân Isak, chúa tể và chủ nhân của nàng, vẫn nghiêm trang và lãnh đạm như thường lệ, nhưng anh đã ăn nên làm ra và rất hài lòng. Việc anh làm sao để sống cho tới khi Inger đến là một điều bí ẩn; không còn ngờ gì nữa, chỉ sống nhờ vào khoai tây và sữa dê, hoặc có thể đánh liều với những thứ thức ăn không tên; giờ đây, anh đã có tất cả những thứ mà một người đàn ông có thể nghĩ tới trong nơi chốn ngụ cư của mình trên trần thế. 
Lại xuất hiện một cơn hạn khác, một năm mới tồi tệ. Gã người Lapp Os-Anders, đến cùng con chó của mình, mang tới tin tức rằng thôn dân dưới làng đã cắt lúa của họ để làm cỏ khô. 
“Thật là một chuyện đáng buồn,” Inger nói, “khi phải đến nước đó.” 
“Phải, nhưng họ có cá trích. Một mẻ đầy, người ta bảo thế. Cậu Sivert của bà sẽ cất một nông trại.” 
“Sao, trước đây ông ấy không thích thế.” 
“Đúng vậy. Và muốn giống như bà, vì tất cả các thứ trông có vẻ như thế.” 
“Sao chứ, về chuyện đó, tạ ơn Trời, chúng tôi có đủ cho các nhu cầu nhỏ bé của mình. Ở quê nhà người ta nói gì về tôi trên này?” 
Os-Anders lúc lắc đầu một cách bất lực; không thể kể hết những điều to tát họ đã nói; nhiều không kể xiết. Một gã nói năng thú vị, như mọi thổ dân Lapp.  
“Nếu ông muốn một ly sữa bây giờ, chỉ việc nói ra,” Inger bảo. 
“Thật không đáng để bà phải mất công. Nhưng nếu bà có chút gì cho con chó này…”  
Sữa cho Os-Anders và thức ăn cho con chó. Os-Anders đột ngột ngẩng đầu lên, khi có một thứ âm nhạc nào đó ở bên trong nhà. 
“Đó là gì vậy?” 
“Chỉ là cái đồng hồ của chúng tôi,” Inger nói. “Nó đổ giờ theo cách đó.” Inger nở từng khúc ruột với niềm tự hào. 
Gã người Lapp lại lúc lắc đầu: “Nhà và gia súc và đủ các thứ. Không vật gì một người đàn ông có thể làm ra mà bà không có.” 
“Ừ, chúng tôi phải biết ơn về chuyện đó, đúng vậy.” 
“Tôi quên nữa, Oline gửi lời hỏi thăm bà.” 
“Oline? Bà ấy thế nào?” 
“Bà ấy cũng không tệ lắm. Giờ này chồng bà đi đâu?” 
“Anh ấy làm việc ở đâu đó trên đồng.” 
“Họ nói ông ta chưa mua,” gã người Lapp thờ ơ nói. 
“Mua? Ai nói thế?” 
“Sao, đó là lời họ nói.” 
“Nhưng anh ấy mua từ ai được? Đây là đất công mà.” 
“Phải, đúng thế.” 
“Và anh ấy đã đổ mồ hôi trên từng lát thuổng.” 
“Ờ, họ nói Nhà nước làm chủ tất cả đất đai.” 
Inger không thể làm gì hơn với chuyện này. “Phải, có thể là thế. Có phải Oline nói thế không?” 
“Tôi không nhớ rõ lắm,” gã người Lapp nói, và đôi mắt gian xảo của hắn đảo quanh. 
Inger tự hỏi vì sao hắn không xin thứ gì cả; Os-Andres luôn xin xỏ, như tất cả mọi người Lapp khác. Os-Anders nhồi thuốc vào cái tẩu đất sét của hắn rồi đốt lửa. Một cái tẩu cực kỳ! Hắn rít thuốc cho tới khi gương mặt già nhăn nhúm trông như những dấu hiệu ma thuật của một phù thủy. 
“Không cần phải hỏi mấy đứa nhỏ đó có phải là con của bà không,” hắn nói, lại nịnh nọt. “Chúng giống hệt bà. Hình ảnh của chính bà khi còn bé.” 
Inger là một người dị dạng; những lời đó không đúng, dĩ nhiên, nhưng nàng thấy nở từng khúc ruột với niềm tự hào về tất cả những điều đó. Ngay cả một người Lapp cũng có thể làm vui trái tim của một bà mẹ. 
“Nếu cái bao tời của ông không đầy như thế, tôi sẽ tìm cho ông thứ gì để bỏ vào đó,” Inger nói. 
“Không, bà không cần mất công làm thế.” 
Inger đi vào nhà với đứa bé trên tay; Eleseus ở ngoài với gã người Lapp. Cả hai kết bạn với nhau ngay lập tức; đứa bé trông thấy vật gì đó lạ lùng trong cái bao, một vật mềm và có lông tơ, và muốn sờ vào nó. Con chó đứng cảnh giác, sủa và rên rỉ. Inger bước ra với một gói thức ăn; nàng kêu lên và ngồi xuống bậc cửa. 
“Ông có cái gì trong đó vậy? Đó là gì?” 
“Có gì đâu. Chỉ là một con thỏ rừng.” 
“Tôi đã thấy nó.” 
“Thằng bé muốn nhìn. Con chó bắt được nó hồi sáng này và giết chết nó, và tôi mang nó theo…” 
“Thức ăn của ông đây,” Inger nói.
 
 
[1] Ngày Chủ nhật thứ 7 sau  lễ Phục sinh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét