Knut Hamsun
Giải Nobel văn chương 1920
Markens Grøde
Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
Quyển I
CHƯƠNG I
Con đường trải dài qua những truông hoang rồi ngược vào rừng – ai là người mở lối đầu tiên? Một người đàn ông, kẻ tới đây trước nhất. Trước khi anh tới không có lối mòn nào cả. Sau đó, vài con thú hoang này khác lần theo những dấu vết nhạt nhòa băng qua đầm lầy và vùng hoang địa, làm cho chúng hằn sâu hơn; tiếp đến một tay người Lapp[1] phát hiện ra lối mòn và đi theo con đường đó để tìm bầy tuần lộc của mình. Cứ thế con đường băng qua vùng Almenning bao la đã được hình thành – những lối mòn chung vô chủ; vùng đất không người.
Người đàn ông đi về hướng bắc. Anh vác theo một cái bao tời cỡ lớn nhất, trong đựng thức ăn và vài dụng cụ. Một tráng đinh thô kệch, với một bộ râu kẽm hung đỏ và vài cái sẹo nhỏ trên mặt và đôi bàn tay, ở chỗ những vết thương cũ, không biết do lao động hay đánh nhau? Có lẽ anh đã từng ở tù và đang tìm nơi ẩn náu; cũng có lẽ anh là một triết gia tìm kiếm sự an bình. Dù là người này hay kẻ nọ, anh đã tới đó; một bóng người giữa chốn bao la quạnh quẽ. Anh chầm chậm bước; quanh anh các loài chim thú đều im bặt; thỉnh thoảng anh thốt lên một hai từ; trò chuyện với chính mình. “Ờ, phải, phải…” anh tự nhủ. Đó đây, nơi những truông hoang nhường chỗ cho một mảnh đất màu mỡ hơn, một khoảnh đất trống giữa rừng, anh đặt cái bao xuống và đi quanh khảo sát; một lúc sau anh quay lại, hất cái bao lên vai và đi tiếp. Ngày cứ thế trôi qua, nhìn mặt trời đoán giờ; đêm buông xuống, anh ngả người xuống cạnh bụi thạch nam, đầu gối lên tay.
Sau vài giờ nghỉ ngơi, anh lại tiếp tục lên đường: “Ờ, phải…” – lại tiến về hướng bắc, nhìn mặt trời đoán giờ; ăn một bữa gồm bánh lúa mạch và pho mát sữa dê, uống nước từ dòng suối, rồi đi tiếp. Hôm nay anh vẫn tiếp tục hành trình, vì có rất nhiều khoảnh đất tốt trong rừng cần được khám phá. Anh đang tìm kiếm cái gì? Một nơi ở, một mảnh đất? Có lẽ anh là một kẻ di cư lìa bỏ quê hương bản quán; anh cảnh giác nhìn quanh; thỉnh thoảng lại trèo lên đỉnh đồi nhìn ra. Mặt trời lại lặn.
Anh men theo mé tây một thung lũng; những cánh rừng vân sam xen lẫn với thông rậm rạp, bên dưới là thảm cỏ. Nhiều giờ như thế. Ánh chiều hôm buông xuống, nhưng tai anh đã thoáng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách mơ hồ, và, như giọng nói của một sinh vật, nó khiến cho anh phấn chấn. Anh trèo lên dốc và nhìn thấy cái thung lũng đang chìm khuất nửa phần trong bóng tối bên dưới; mé bên ngoài là bầu trời hướng nam. Anh nằm xuống nghỉ.
Ánh ban mai phơi bày trước anh một dải rừng và đồng cỏ. Anh đi xuống và nhìn thấy một sườn đồi xanh ngát; xa xa phía dưới, thấp thoáng một dòng suối, và một con thỏ rừng vừa phóng ngang qua. Anh gật đầu, có vẻ hài lòng – dòng suối không rộng lắm nên một con thỏ có thể dễ dàng nhảy qua. Một con gà gô trắng đang nằm trong tổ rít lên giận dữ khi nghe tiếng chân anh, và anh lại gật đầu: chim và thú để săn – đây là một địa điểm tốt. Những lùm thạch nam, việt quất và dâu dại[2] phủ kín mặt đất; có cả những lùm dương xỉ nhỏ và những bụi lộc đề có hoa hình sao bảy cánh. Anh dừng lại đây đó để đào xới với một dụng cụ bằng sắt, và tìm thấy những lớp đất tơi xốp hoặc đất lẫn than bùn, đã trở nên màu mỡ nhờ những thân gỗ mục và những thảm lá rụng suốt cả ngàn năm. Anh gật đầu, ý nói đã tìm được cho mình một nơi cư ngụ: phải, anh sẽ ở lại, sinh sống tại đây. Anh bỏ ra hai ngày đi khảo sát vùng đất xung quanh, quay trở lại chỗ sườn đồi vào chiều tối. Ban đêm anh ngủ trên chiếc giường làm bằng những nhánh lá thông; anh đã cảm thấy đây là chốn quê nhà, với một chiếc giường nhánh lá thông bên dưới một tảng đá nhô ra.
Công việc khó khăn nhất của anh là tìm ra địa điểm này, cái chốn không người này, nhưng lại là chốn nương thân của anh. Bây giờ còn nhiều việc phải làm. Anh bắt đầu ngay lập tức, lột vỏ bạch dương trong những cánh rừng xa, trong lúc nhựa vẫn còn trong những thân cây. Anh ép và phơi khô những mảnh vỏ cây, sau đó gom lại thành một bó nặng, vác nó suốt nhiều dặm trở về làng để bán. Rồi quay trở lại sườn đồi, với những bao tời mới đựng thực phẩm và đồ dùng; bột mì và thịt heo, một cái nồi, một cái thuổng – ra đi và quay về theo con đường đã tới, lúc nào cũng mang vác thứ này thứ khác. Một phu khuân vác bẩm sinh, một dáng người chậm rãi lê chân giữa cánh rừng. Như thể anh yêu quý công việc của mình – lê bước trên những chặng đường dài với những gánh nặng trên vai; như thể cuộc sống mà không có một vật nặng trên vai thật là một điều bất hạnh, không phải là cuộc sống đối với anh.
Một hôm anh trở về với thứ khác ngoài những thứ vác trên vai; ba con dê được cột dây nối với nhau. Anh tự hào về những con dê của mình và chăm sóc chúng rất tận tình. Thế rồi người lạ đầu tiên đã đi ngang, một tay du mục người Lapp; khi nhìn thấy đàn dê, hắn biết rằng đây là một người muốn ngụ cư tại đó, và hắn trò chuyện với anh.
“Ông bạn sẽ sống mãi ở đây chứ?”
“Ờ,” anh nói.
“Ông bạn tên gì?”
“Isak. Anh có biết một phụ nữ từ bất cứ chỗ nào có thể tới đây và giúp đỡ không?”
“Không, nhưng tôi sẽ nói một lời về chuyện này với tất cả những người tôi gặp.”
“Phải, cứ làm như thế. Hãy nói rằng ở đây không có ai trông nom lũ súc vật giúp tôi.”
Tay người Lapp tiếp tục lên đường. Isak – phải, hắn sẽ nói một lời về việc đó. Người đàn ông trên sườn đồi không phải là một kẻ trốn tránh; anh ta đã nói tên mình. Một kẻ trốn tránh? Anh ta ắt sẽ bị tìm ra. Chỉ là một người lao động, một người lao động cần cù.
Anh tiến hành cắt cỏ khô mùa đông cho đàn dê của mình, phát quang mảnh đất, cuốc một cánh đồng, thu gom đá để dựng một bức tường. Tới đầu thu anh đã xây được cho mình một ngôi nhà, một căn lều cỏ, chắc chắc, bền vững và ấm áp; những cơn bão không thể làm nó lung lay và không gì có thể xô đổ nó. Đây là một ngôi nhà; anh có thể vào trong và đóng cửa, ở lại đó; có thể đứng trên bậc cửa, một chủ nhân ông của ngôi nhà, nếu có ai đó đi qua. Trong lều có hai phòng; một đầu dành cho anh, còn đầu kia cho đàn gia súc. Ở phía trong cùng sát vách đá là vựa cỏ khô. Mọi thứ đều cất ở đó.
Thêm hai người Lapp nữa đi ngang, cha và con trai. Họ đứng nghỉ, đặt hai bàn tay lên những mảnh ván dài của mình, quan sát căn lều và mảnh đất trống, chú ý tới tiếng chuông cổ dê ở mé trên sườn đồi.
“Xin chào,” hai cha con người Lapp nói. “Đây là một người dân tốt tới để sinh sống.” Những người Lapp thường nói theo kiểu đó, với những lời tâng bốc.
“Ông biết một phụ nữ nào gần đây để giúp việc không?” Isak nói, luôn nghĩ tới một điều duy nhất.
“Phụ nữ giúp việc? Không, nhưng chúng tôi sẽ nói một lời về chuyện đó.”
“Phải, nếu ông tốt bụng. Rằng tôi có một ngôi nhà và chút ít đất ở đây, và mấy con dê, nhưng không có người đàn bà nào giúp đỡ. Hãy nói thế.”
Chà, anh đã từng tìm kiếm một người phụ nữ để giúp mình mỗi lần đi xuống làng với những bó vỏ cây, nhưng chẳng tìm ra ai cả. Họ thường nhìn anh, một góa phụ hoặc một phụ nữ lớn tuổi chưa chồng nào đó, nhưng tất cả đều ngại đưa ra lời đề nghị, bất kể trong đầu họ nghĩ gì. Isak không thể biết nguyên do. Không thể biết nguyên do ư? Ai chịu tới sống với một người đàn ông trong chốn rừng hoang, cách xa quá nhiều dặm đất – một chặng đường dài trọn ngày để tới ngôi nhà gần nhất? Và bản thân người đàn ông trông cũng chẳng dễ thương hay thú vị chút nào, còn khuya mới thế; và khi anh nói, với đôi mắt hướng lên trời, thì đó không phải là giọng nam cao mà là một giọng thô kệch, có gì đó giống như giọng của một con thú.
Chà, hẳn anh phải một mình xoay xở mà thôi.
Vào mùa đông, anh làm những cái máng gỗ lớn và bán chúng trong làng, băng qua lớp tuyết để vác về những bao thực phẩm và dụng cụ. Anh gặp khó khăn khi phải rời nhà. Không có ai trông nom đàn dê; anh không thể đi xa lâu được. Vậy anh làm cách nào? Nhu cầu khiến anh trở nên thông minh; bộ óc của anh khỏe mạnh và chưa sử dụng nhiều; anh đã huấn luyện nó ngày càng tốt hơn. Cách đầu tiên của anh là thả lũ dê trước lúc lên đường để chúng có thể ăn những cây cỏ mọc thấp trong rừng. Nhưng anh nghĩ ra một kế hoạch khác. Anh lấy một cái xô, một thùng đựng nước lớn, và treo nó cạnh con sông sao cho mỗi lúc chỉ một giọt nước rơi vào đó, mất mười bốn tiếng để cái thùng đầy nước. Khi nó đầy tràn, sức nặng đã đủ, cái thùng chìm xuống, và do đó sẽ kéo một sợi dây nối liền với vựa cỏ khô, một cánh cửa sập mở ra, và ba bó cỏ khô rơi qua đó – mấy con dê được cho ăn.
Đấy là cách của anh.
Một ý tưởng sáng suốt, có lẽ đã được Thượng đế gửi xuống. Anh không có ai giúp đỡ ngoài chính bản thân. Ý tưởng đó phục vụ cho nhu cầu của anh tới cuối thu, rồi đợt tuyết đầu tiên rơi xuống, rồi mưa, và tuyết lại rơi, rơi suốt ngày đêm. Thế là cỗ máy của anh bị chệch choạc; cái thùng đầy tuyết mở cánh cửa sập quá sớm. Anh đậy phía trên thùng lại, và mọi thứ lại ổn thỏa trong một thời gian; thế rồi mùa đông tới, giọt nước đóng băng thành một cột băng, và cỗ máy ngưng hoạt động hẳn.
Lũ dê phải làm theo ông chủ của chúng: học cách nhịn ăn.
Những thời điểm khó khăn – anh cần được giúp đỡ, và chẳng có ai giúp cả, thế nhưng anh vẫn tìm ra một cách. Anh miệt mài làm việc tại nhà; anh làm một khung cửa sổ với hai cánh cửa kính thật sự, và hôm đó là một ngày sáng sủa và tuyệt diệu trong đời anh. Không cần phải đốt lửa để nhìn thấy; anh có thể ngồi trong nhà và làm những cái máng gỗ nhờ ánh sáng ban ngày. Những ngày tốt đẹp hơn, những ngày xán lạn hơn… phải!
Anh không đọc cuốn sách nào, nhưng những ý nghĩ của anh thường hướng về Thượng đế; đó là lẽ tự nhiên, xuất phát từ tính tình mộc mạc và lòng kính sợ. Những vì sao trên trời, cơn gió trong đám cây cối, tấm màn tuyết quạnh hiu và giăng trải rộng khắp, mỗi ngày sức mạnh của đất trời nhiều lần phủ đầy tâm trí anh với sự nghiêm trang sâu thẳm. Anh là một kẻ tội lỗi và kính Chúa; vào những ngày Chủ nhật anh tắm gội do lòng sùng kính đối với cái ngày thiêng liêng đó, nhưng dù gì đi nữa anh cũng vẫn làm việc trọn tuần.
Mùa xuân đến; anh cuốc xới mảnh đất của mình và trồng khoai. Bầy gia súc của anh đã tăng lên; cả hai con dê cái đều sinh đôi, đưa tổng số đàn dê lên bảy con. Anh làm cho chúng một cái chuồng lớn hơn, chuẩn bị cho sự gia tăng nhiều hơn nữa, và cũng lắp thêm hai cánh cửa kính ở đó. Phải, giờ đây mọi thứ đều xán lạn rực rỡ hơn theo mọi cách.
Thế rồi cuối cùng sự giúp đỡ, người phụ nữ anh cần đã tới. Nàng lượn lờ quanh quẩn một lúc lâu, đi qua đi lại ngang sườn đồi trước khi dám đến gần; tới tận xế chiều nàng mới lò dò đi xuống. Nàng tới như thế đó – một cô gái to cao, mắt nâu, người đậm và thô, với đôi bàn tay to khỏe, chân mang một đôi giày đi núi cổ cao thô kệch, như thể nàng là một thổ dân Lapp, và một cái túi da mèo vắt vẻo trên vai. Không còn trẻ lắm; nói năng nhã nhặn; khoảng gần ba mươi tuổi.
Chẳng có gì để sợ, nhưng nàng chào anh và vội vã nói: “Tôi đang băng qua dãy đồi và đi theo lối này, chỉ thế thôi.”
Chẳng có gì để sợ, nhưng nàng chào anh và vội vã nói: “Tôi đang băng qua dãy đồi và đi theo lối này, chỉ thế thôi.”
“Vậy hả,” anh nói. Anh gần như không hiểu ý của nàng, vì nàng nói năng ngọng nghịu, và còn quay mặt sang một phía.
“Phải,” nàng nói, “cả một chặng đường dài để tới đây.”
“Ừ, đúng vậy,” anh nói. “Cô nói là băng qua dãy đồi hả?”
“Vâng.”
“Để làm gì?”
“Tôi có bà con ở đó.”
“À, vậy ra cô có bà con ở đó? Cô tên gì?”
“Inger. Còn ông?”
“Isak.”
“Isak? Ừm. Ông sống ở đây một mình, có lẽ thế?”
“Phải, ở đây, vậy đó.”
"Sao, thế cũng không tệ lắm,” nàng nói để làm anh vui lòng.
Lúc này anh đã trở nên thông minh hơn khi suy nghĩ về mọi sự, và anh giật mình bởi nàng đến chính vì việc đó chứ không phải việc nào khác; đã lên đường từ hai hôm trước chỉ để tới đây. Có lẽ nàng đã nghe được tin anh cần có một phụ nữ giúp việc.
“Hãy vào nhà nghỉ chân,” anh nói.
Họ bước vào lều và ăn một ít thức ăn nàng đã mang tới, rồi uống một ít sữa dê của anh; sau đó họ pha thứ cà phê mà nàng mang tới trong một cái túi bong bóng. Họ ngồi thoải mái, cùng uống cà phê cho tới giờ ngủ. Vào giữa đêm, anh muốn ngủ với nàng, và nàng ưng chịu.
Sáng hôm sau nàng không ra đi; suốt ngày hôm đó nàng không đi mà giúp việc quanh nhà; vắt sữa đàn dê, cọ rửa nồi niêu các thứ với cát mịn khiến chúng trở nên sạch bóng. Nàng không đi đâu nữa. Nàng tên Inger. Còn anh tên Isak.
Giờ đây, một cuộc đời khác đã đến với người đàn ông cô lẻ. Đúng, người vợ này của anh có cách nói năng ngọng nghịu lạ lùng, và luôn quay mặt sang một bên, vì nàng bị sứt môi, nhưng điều đó không quan trọng. Nếu môi nàng bình thường, ắt hẳn nàng không bao giờ đến với anh; anh nên biết ơn vì nàng bị sứt môi. Và so với chuyện đó, bản thân anh cũng không xinh đẹp gì. Isak với bộ râu kẽm và thân hình thô kệch, một gã đàn ông trông dữ tợn và cáu kỉnh; phải, như một gã đàn ông nhìn qua một vết rạn trên kính cửa sổ. Dáng vẻ của anh không phải là dáng vẻ của một người dịu dàng; như thể một gã Barabbas[3] có thể bộc phát vào bất cứ lúc nào. Việc Inger không bỏ đi thật là một điều kỳ diệu. Khi anh đi khỏi và lại quay về nhà, Inger vẫn có mặt trong lều; cả hai là một, người phụ nữ và túp lều.
Anh phải nuôi thêm một miệng ăn, nhưng không có gì mất mát ở việc này; giờ anh được tự do hơn, có thể đi và ở theo nhu cầu cần thiết. Và có những việc cần phải coi sóc ở xa nhà. Có con sông; nhìn thật thích mắt, sâu và chảy xiết; một con sông không thể xem thường; nó phải đến từ một nguồn suối lớn trên dãy đồi. Anh mang theo ít dụng cụ đánh bắt cá và đi thăm dò; xế chiều, anh quay về với một giỏ cá hồi và cá hồi chấm hồng. Đây là một điều thật tuyệt đối với Inger, và là một điều kỳ diệu; nàng rất đỗi vui mừng, vì chưa từng quen với những thứ thức ăn ngon lành như thế. Nàng vỗ tay và kêu lên: “Sao! Bất cứ nơi nào…” Và nàng nhanh chóng nhận thấy anh hài lòng với sự ngạc nhiên của nàng, tự hào về nó, vì thế nàng nói thêm với cùng một giọng – ồ, nàng chưa hề nhìn thấy những con cá như thế bao giờ, làm sao anh có thể xoay xở để tìm được những thứ như thế chứ!
Inger cũng là một phúc lành theo nhiều cách khác. Đầu óc không thông minh sắc sảo lắm, có lẽ, nhưng nàng có hai con cừu cái đã sinh con ở chỗ một người bà con nào đó, và đã mang chúng về. Đó là điều tốt nhất mà họ có thể ước ao ở túp lều; lũ cừu với len và bốn con cừu non thêm vào số gia súc của họ; nó đang tăng trưởng, to hơn; gia sản của họ tăng lên một cách lạ lùng kỳ diệu làm sao. Và Inger mang tới thêm nhiều thứ; quần áo, những thứ lặt vặt của riêng nàng, một tấm gương soi, một mớ hạt cườm, một cái guồng se sợi, và những chiếc lược chải lông cừu. Sao chứ, nếu nàng cứ tiếp tục kiểu đó thì chẳng bao lâu túp lều sẽ đầy tràn từ nền tới mái và không còn chỗ trống! Tới lượt Isak ngạc nhiên với tất cả những thứ tài sản này, nhưng là một người đàn ông lặng lẽ và chậm lời, anh không nói gì cả, chỉ bước ra khỏi ngạch cửa và nhìn thời tiết, rồi lại đi vào. Phải, anh thật là may mắn, anh cảm thấy ngày càng yêu nàng hơn, hoặc bị thu hút về phía nàng hơn, hoặc bất cứ điều gì có thể xảy ra.
“Em không việc gì phải đưa hết mọi thứ đó về,” anh nói. “Chúng nhiều hơn mức cần thiết.”
“Tôi sẽ có nhiều hơn nếu muốn lấy. Và ngoài ra còn có cậu Sivert – anh có nghe nói về ông ấy không?”
“Không.”
“Sao, ông ấy là một người giàu có, ngoài ra còn là thủ quỹ huyện.”
Tình yêu khiến một gã ngốc trở nên khôn ngoan. Isak cảm thấy anh phải làm một điều gì đó quan trọng, và đã làm quá trớn. “Tôi sẽ nói gì nhỉ, em không cần bận tâm với việc đào khoai. Chiều nay khi về nhà tôi sẽ tự làm.”
Rồi anh cầm lấy rìu và đi vào rừng.
Nàng nghe thấy tiếng anh đốn cây trong rừng, không xa lắm; nàng có thể đoán từ tiếng rìu chan chát rằng anh đang hạ một thân cây lớn. Nàng lắng nghe một lúc, rồi đi ra đồng khoai và bắt đầu đào.
Tình yêu khiến một gã ngốc trở nên khôn ngoan.
Isak trở về nhà vào xế chiều, lôi theo sợi thừng cột quanh một súc gỗ lớn. Ồ, anh chàng Isak giản đơn và ngây thơ đó, anh tạo ra đủ mọi tiếng ồn ào với súc gỗ của mình, ho khúc khắc và đằng hắng, tất cả chỉ để nàng bước ra và ngạc nhiên về anh. Và chắc chắn là thế:
“Sao, anh mất trí à,” Inger nói khi bước ra. “Công việc đó phải chăng dành cho một người đơn độc?” Anh không đáp; không hề nói lời nào về bất cứ điều gì. Làm nhiều hơn chút ít so với công việc của một người đơn độc không có gì đáng nói – không là gì cả. Một súc cây coi được, hả!
“Và anh sẽ làm gì với nó?” nàng hỏi.
“Ồ, chúng ta sẽ xem sao,” anh trả lời một cách thờ ơ, như thể không để ý tới nàng đang đứng đó.
Nhưng khi anh thấy rằng nàng đã đào khoai, anh chẳng hài lòng chút nào. Như thể nàng đã làm nhiều không kém gì anh; và đó là điều anh không thích. Anh tháo sợi thừng ra khỏi súc gỗ và đi vào rừng một lần nữa.
“Sao, anh chưa làm xong hả?”
“Chưa,” anh nói cộc lốc.
Và anh trở lại với một súc gỗ khác giống súc trước, chỉ có điều không có tiếng ồn ào hoặc dấu hiệu nào tỏ ra hụt hơi; kéo nó lên chỗ túp lều như một con bò đực, và để nó nằm ở đó.
Mùa hè đó anh đốn được rất nhiều gỗ, và mang chúng về lều.
[1]
Còn gọi là Sami, một tộc thổ dân
sinh sống ở khu vực Bắc Âu, nghề chính của họ là nuôi tuần lộc, đánh cá, bẫy
thú hoang.
[3] Nhân vật trong Thánh kinh, có tính tình
hung hăng bạo ngược.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét