Thứ Hai, 18 tháng 2, 2013

Phúc lành của đất - Quyển 1 - Chương 2

 
Knut Hamsun 
Giải Nobel văn chương 1920 
 
Markens Grøde
 
Bản dịch: Nguyễn Thành Nhân
  
 
 
 
Quyển I
CHƯƠNG II
Một hôm Inger gói ít thức ăn cho vào cái túi da mèo. “Tôi tính đi thăm mấy người bà con, chỉ để coi họ sinh sống ra sao.” 
“Ờ,” Isak nói. 
“Tôi phải nói chuyện với họ về nhiều thứ.” 
Isak không ra ngoài ngay để tiễn chân nàng mà chờ một lát. Và cuối cùng khi lóng ngóng bước ra, trông anh hơi bồn chồn khổ sở và đầy sợ hãi, Inger đã sắp khuất dáng sau bìa rừng. 
“E hèm,” anh đằng hắng và gọi to, “Em sẽ quay lại chứ?” Anh không có ý hỏi nàng câu đó, nhưng… 
“Quay lại? Sao, anh nghĩ gì trong đầu vậy? Dĩ nhiên là tôi sẽ quay lại.” 
“Ừm.” 
Thế là một lần nữa anh bị bỏ lại một mình – ờ, phải…! Với sức khỏe của anh, và tình yêu lao động trong người, anh không thể ở không đi ra đi vào mãi; anh lên đường, đốn cây, hạ những thân cây suôn thẳng, và chặt bằng hai đầu của chúng. Anh làm công việc này suốt ngày, rồi về vắt sữa dê và đi ngủ. 
Trong lều bây giờ trống vắng một cách đáng buồn; im lặng nặng nề giăng khắp những bức vách trộn than bùn và nền đất; một sự cô độc sâu thẳm trang nghiêm. Cái guồng se sợi và những chiếc lược chải lông cừu vẫn nằm ở chỗ của chúng; ngay cả mớ hạt cườm vẫn được cất giữ an toàn trong một cái giỏ bên dưới mái nhà. Inger chẳng mang theo vật gì của nàng cả. Nhưng Isak, đơn giản một cách không thể tưởng, chợt thấy sợ bóng tối của những đêm hè trong sáng, và nhìn thấy những Hình dáng và Sự vật đang len lén lướt qua cửa sổ. Anh trở dậy trước bình minh, khoảng hai giờ theo ánh sáng, và ăn điểm tâm, một dĩa to cháo yến mạch cho suốt cả ngày để tiết kiệm thời gian nấu nướng. Vào xế chiều anh cuốc lật một mảnh đất mới để làm một cánh đồng khoai rộng hơn. 
Anh lần lượt làm việc với thuổng và rìu suốt ba ngày; hôm sau Inger sẽ về tới. Cũng nên có một dĩa cá dành cho nàng khi nàng về tới nhà. Nhưng con đường thẳng dẫn tới dòng sông nằm trên lối nàng sẽ đi ngang, và việc này có vẻ như… Vì thế anh đi vòng một đoạn xa hơn; một con đường mới, băng qua dãy đồi mà anh từng thấy trước đó. Những tảng đá xám và nâu, và những hòn đá nặng nằm rải rác, nặng như đồng hoặc chì. Có thể có nhiều thứ trong những hòn đá nặng này; vàng hoặc bạc – anh không biết về những thứ đó và không quan tâm. Anh đến chỗ dòng nước, quăng mồi, và đêm ấy cá đớp câu rất khá. Anh mang về nhà một giỏ cá mà hẳn Inger sẽ mở to mắt để nhìn! Buổi sáng, khi quay về theo lối cũ, anh nhặt vài hòn đá nhỏ trên đồi; chúng có màu nâu, với những đốm xanh dương thẫm đó đây, và nặng một cách lạ lùng trong lòng bàn tay. 
Inger vẫn chưa về tới. Đã là ngày thứ tư. Anh vắt sữa dê như đã từng làm khi còn ở một mình và không ai giúp; rồi anh đi lên một mỏ đá gần đó mang đá về, nhiều đống lớn các phiến đá vuông và dẹt, để xây một bức tường. Anh bận rộn không ngơi tay với đủ chuyện. 
Vào xế chiều ngày thứ năm, anh quay vào lều để nghỉ với chút sợ hãi trong lòng; nhưng những chiếc lược chải lông cừu, cái guồng se sợi và những hạt cườm vẫn còn đó. Trong lều trống vắng buồn tênh và không có đến một âm thanh; giờ khắc dài ra, và cuối cùng, khi nghe thấy gì đó giống như tiếng chân ở bên ngoài, anh tự nhủ rằng đó chỉ là tưởng tượng mà thôi. “Chà, lạy Chúa!” anh lẩm bẩm, thấy lòng tuyệt vọng. Isak không phải là người giỏi mồm mép. Lại có tiếng chân bước bên ngoài, và khoảnh khắc sau có vật gì đó thoáng qua cửa sổ; một vật gì đó có sừng, sống động. Anh bật dậy lao tới cửa, và trông kìa, một ảo ảnh! “Thần thánh hay ma quỷ vậy,” Isak lẩm bẩm, anh không phải là người giỏi mồm mép. Anh nhìn thấy một con bò cái vừa biến mất vào chuồng gia súc. 
Giá như anh không đứng đó và tự mình nghe thấy – Inger đang khẽ nói với con bò trong chuồng – hẳn anh không tài nào tin nổi. Nhưng anh đứng đó. Và ngay tức khắc một mối nghi ngờ đen tối hiện ra trong đầu anh: một người vợ thông minh, phải, một người tạo ra những điều kỳ diệu – nhưng, thật là quá đáng, và đó là từ duy nhất cho điều đó. Một cái guồng se sợi và dăm chiếc lược chải lông cừu; thậm chí cả mớ hạt cườm thì còn được, có lẽ, dù chúng tới đây một cách quá tốt đẹp theo bất kỳ cách thức đúng đắn và tự nhiên nào. Nhưng một con bò cái, bắt gặp tình cờ khi nó đang lạc trên đường hay trong một cánh đồng thì lại khác – điều này không thể bỏ qua, và phải được làm rõ ngay lập tức. 
Inger bước ra khỏi chuồng, nói với một tràng cười rộ pha chút tự hào: 
“Tôi đây mà. Tôi vừa mang con bò cái về.” 
“Hừm,” Isak nói. 
“Vì nó mà tôi đi lâu như thế – dắt nó qua đồi không dễ chút nào.” 
“Vậy là em đã mang về một con bò?” anh nói. 
“Vâng,” nàng đáp, sẵn sàng vỡ òa ra với sự tuyệt vời và giàu có trên quả đất. “Có lẽ anh không tin tôi hả?” 
Isak e sợ điều tệ hại nhất, nhưng không tỏ vẻ gì, chỉ nói: 
“Vào nhà và ăn chút gì đi.” 
“Anh thấy nó chưa? Một con bò cái đẹp, phải không?” 
“Ờ, một con bò cái đẹp,” Isak nói. Và cố hết sức hỏi một cách ngẫu nhiên, “Ở đâu mà em có nó vậy?” 
“Tên nó là Sừng Vàng. Anh xây cái bức tường đằng kia làm gì vậy. Anh sẽ tự giết mình vì công việc, thế đó. Nè, lại nhìn con bò đi.” 
Họ tới nhìn con bò, và Isak đang mặc quần áo lót, nhưng việc đó không quan trọng. Họ nhìn nó, nhìn mãi, một cách cẩn thận, vào mọi bộ phận, và lưu ý tới tất cả những dấu vết, đầu và vai, mông và đùi, nơi có lông màu đỏ và trắng, và cách nó đứng. 
“Em nghĩ là nó bao nhiêu tuổi rồi?” Isak hỏi với vẻ cảnh giác. 
“Nghĩ à? Sao chứ, chính xác là nó vừa mới tròn bốn tuổi. Chính tôi nuôi lớn nó, và tất cả bọn họ đều nói rằng nó là con bò xinh đẹp nhất mà họ từng nhìn thấy. Nhưng anh nghĩ ở đây có đủ thức ăn cho nó ăn hay không?” 
Isak bắt đầu tin, như anh quá sẵn lòng để tin, rằng tất cả đều ổn thỏa. “Đừng lo gì về thức ăn, chà, sẽ có đủ thức ăn mà.” 
Thế rồi họ đi vào nhà để ăn uống và cùng nhau qua một buổi chiều. Họ nằm trò chuyện về con bò cái; về sự kiện trọng đại đó. “Chẳng phải nó cũng là một con bò dễ mến sao? Nó sẽ có con. Và tên của nó là Sừng Vàng. Anh ngủ chưa, Isak?” 
“Chưa.” 
“Và anh nghĩ sao, nó đã nhận ra tôi; nhận ra tôi ngay lập tức, và đi theo tôi như một con cừu non. Đêm qua bọn tôi đã nằm trên đồi một lúc.” 
“Vậy hả?” 
“Nhưng cần phải cột nó lại suốt hè, không thì nó sẽ chạy mất. Một con bò vẫn là một con bò.” 
“Trước đó nó ở đâu?” cuối cùng Isak hỏi. 
“Sao, với những bà con của tôi, chủ của nó. Và họ rất tiếc khi mất nó, tôi có thể bảo anh thế; bọn nhóc khóc ầm lên khi tôi dắt nó đi.” 
Có thể nào nàng bịa ra tất cả những thứ này, và nghĩ ra một cách nhanh nhẹn như vậy hay không? Không, không thể có chuyện này. Nó phải đúng, con bò là của nàng. Chà, họ đang trở nên giàu có, với túp lều này, với nông trại này; sao chứ, nó khá tốt đẹp đối với bất kỳ ai. Phải, họ sẽ sống ổn với tất cả những thứ sẵn có mà họ có thể ước ao. Ôi, cái cô nàng Inger này; anh yêu nàng và nàng cũng yêu anh; họ là người tằn tiện; họ sống với sự khôn ngoan nguyên thủy, và không thiếu thứ gì. “Chúng ta đi ngủ thôi!” Họ đi ngủ. Và lại thức giấc vào sáng hôm sau, với những thứ để ngắm nhìn, những vấn đề cần coi sóc; phải, sự cần lao và niềm vui thú, những lúc thăng trầm, đó là cách thức của cuộc đời. 
Chẳng hạn như với những súc gỗ kia – Isak sẽ cố lắp ghép chúng lại với nhau. Anh đã chú ý quan sát khi đi xuống làng, với chính điều này trong tâm trí, đã nhìn thấy chúng được thực hiện ra sao; anh có thể tự mình xây nhà, tại sao không? Ngoài ra, đó là một  trách vụ của anh, nó phải được thực hiện. Không phải họ đã có một nông trại với bầy cừu, một nông trại với một con bò cái, đã có nhiều và sẽ còn có nhiều dê hơn nữa hay sao? Chỉ lũ gia súc không thôi cũng đã quá đông đúc so với túp lều, cần phải làm một điều gì đó. Và tốt nhất là tiến hành nó ngay lập tức, trong lúc khoai tây vẫn còn ra hoa, và trước khi mùa cắt cỏ bắt đầu. Inger sẽ giúp một tay trong chuyện này chuyện khác. 
Isak thức giấc trong đêm  và ngồi dậy, Inger còn đang say ngủ sau chuyến đi dài vất vả. Anh đi ra chỗ chuồng bò. Đừng nghĩ rằng anh sẽ trò chuyện với con bò cái với bất kỳ lời lẽ nịnh nọt đáng tởm nào; không, anh chỉ khẽ vỗ về nó, và nhìn khắp người nó thêm lần nữa, để xem có tình cờ bắt gặp bất kỳ dấu hiệu vết tích nào cho thấy nó thuộc về một chủ nhân xa lạ hay không. Không một dấu hiệu, không một vết tích, và Isak len lén đi ra, nhẹ cả lòng. 
Gỗ đang nằm đó. Anh hạ chúng xuống, lăn những súc gỗ về, rồi nhấc chúng lên, xếp chúng tựa vào tường trong một cái khung nhà; một cái sườn lớn để làm phòng khách, và một cái sườn nhỏ – cần có một căn phòng ngủ. Đây là một công việc nặng nề, cực nhọc, và tâm trí anh đặt hết vào nó; anh quên khuấy mất thời gian. Một làn khói tỏa lên từ cái lỗ trên mái lều, Inger bước ra và gọi anh vào ăn bữa sáng. 
“Anh lại bận bịu chuyện gì thế?” Inger hỏi. 
“Em sẽ sớm biết mà,” Isak đáp, và chỉ có thế. 
Chà, cái gã Isak đó với những bí mật và cung cách hách dịch của anh ta! Nhưng anh thấy vui, có lẽ thế, khi nàng hỏi han thắc mắc, tỏ ra tò mò về những việc anh đang thực hiện. Anh ăn đôi chút, và ngồi trong lều một lúc trước khi ra ngoài trở lại. Anh có thể mong đợi điều gì? 
“Ừm,” cuối cùng anh nói, đứng lên. “Như thế này không được. Hôm nay không thể ngồi rảnh rang ở đây. Có công việc cần làm.” 
“Trông như anh đang xây dựng,” Inger nói. “Cái gì thế?” 
Và anh, cái gã đàn ông sắp sửa một mình dựng nhà với gỗ này, trả lời một cách khiêm nhường: “Chà, em có thể tha hồ nhìn thấy, tôi đang làm nó mà.” 
“Vâng… Vâng, tất nhiên.” 
“Xây cất. Sao, theo tôi thấy thì không còn cách nào khác. Em đưa về trại một con bò, nghĩa là phải có một cái chuồng bò, tôi nghĩ vậy.” 
Inger tội nghiệp, không quá khôn ngoan thường xuyên như anh, như Isak, vị chúa tể sáng tạo đó. Và chuyện này xảy ra trước khi nàng học cách biết anh, thấu hiểu cách anh sắp đặt mọi thứ. Inger nói: 
“Sao, có phải anh đang xây một cái chuồng bò không đó?” 
“Thì sao,” anh nói. 
“Nhưng anh không có ý đó chứ? Tôi nghĩ anh nên xây một ngôi nhà trước đã.” 
“Nghĩ thế à?” Isak nói, với vẻ mặt như thể anh chưa bao giờ tự mình nghĩ ra chuyện đó trong đời. 
“Phải, sao chứ. Và nhốt lũ súc vật trong lều.” 
Isak suy nghĩ một chút. “Phải, có lẽ tốt nhất là làm như vậy.” 
“Đó,” Inger nói, vui mừng hớn hở vì thắng lợi. “Anh thấy không, nói cho cùng tôi cũng giỏi đấy chứ.” 
“Ờ, đúng thế. Và em nói gì về một ngôi nhà với hai căn phòng bên trong?” 
“Hai phòng? Ồ…! Sao, nó sẽ giống như nhà của những người khác. Anh nghĩ là chúng ta có thể làm được hả?” 
Họ làm được. Isak đi ra dựng nhà, khắc khía lên những súc gỗ và ghép dần sườn nhà; anh cũng xoay xở làm một cái nền lò sưởi và lò sưởi với những hòn đá đã nhặt, dù thứ sau khá là rắc rối, và bản thân Isak không phải lúc nào cũng hài lòng với công việc của mình. Mùa cắt cỏ tới, anh buộc phải trèo từ công trình xây dựng của mình xuống và đi tới những sườn đồi gần xa, cắt cỏ và vác về những bó cỏ khô to tướng. Thế rồi một ngày mưa nọ anh phải đi xuống làng. 
“Anh xuống làng làm gì?” 
“Chà, tôi không thể nói chính xác được…” 
Anh lên đường, ở lại đó hai ngày, rồi trở về với một cái bếp lò – một người đàn ông bươn bả băng qua cánh rừng với một cái bếp lò bằng thép trên lưng. “Đây là việc ngoài khả năng thực hiện của một người đàn ông,” Inger nói. “Anh sẽ tự giết mình với cái cách đó.” Isak tháo dỡ cái lò sưởi đá xuống, vì trông nó không hợp với ngôi nhà mới, và đặt cái lò thép vào vị trí. “Không phải ai cũng có một cái bếp lò,” Inger nói. “Thật kỳ diệu biết bao, chúng ta đang ăn nên làm ra!…” 
Vẫn đang là mùa cắt cỏ; Isak vác về những bó cỏ khô, vì cỏ trong rừng khác với cỏ trong đồng, tiếc là nó ở xa quá. Giờ đây chỉ vào những ngày mưa anh mới có thời gian rỗi cho công việc xây cất; đó là một công việc kéo dài, và thậm chí cho tới tháng Tám, khi tất cả cỏ khô đã được cất giữ an toàn bên dưới tảng đá, ngôi nhà mới chỉ vừa được hoàn thành một nửa. Rồi tới tháng Chín: “Như thế này không ổn,” Isak bảo. “Tốt hơn em nên chạy xuống làng và tìm một người lên giúp.” Dạo sau này Inger tỏ ra mệt mỏi và không chạy tới chạy lui nhiều, nhưng nàng vẫn sẵn sàng lên đường. 
Nhưng Isak lại đổi ý; lại khoác lên cái cung cách hách dịch của mình, và bảo anh sẽ tự xoay xở một mình. “Chả việc gì phải dây với người khác,” anh nói; “tôi có thể tự mình xoay xở.” 
“Công việc này không phải chỉ một người làm,” Inger nói. “Anh sẽ tự làm mình kiệt sức.” 
“Cứ giúp tôi đưa mấy thứ này lên,” Isak nói, và chỉ có thế. 
Tháng Mười tới, và Inger phải ngưng làm việc. Đây là một điều không hay, vì những rui kèo phải được dựng xong bằng mọi giá, và ngôi nhà phải được che mái trước những trận mưa thu; không được bỏ lỡ ngày nào. Chuyện gì không ổn đã xảy ra cho Inger? Không ngã bệnh đấy chứ? Lúc này thỉnh thoảng nàng vẫn làm pho mát từ sữa dê, nhưng ngoài việc đó nàng không làm thêm gì ngoại trừ dời chỗ con Sừng Vàng mỗi ngày khoảng chục lần để nó gặm cỏ.  
“Lần sau khi anh xuống làng,” nàng nói, “hãy mang về một cái giỏ hoặc một cái thùng cỡ lớn.” 
“Em cần cái đó để làm gì?” Isak hỏi. 
“Tôi sẽ cần tới nó,” Inger đáp. 
Isak kéo những chiếc kèo nhà lên với một sợi thừng, Inger lái chúng đi bằng một tay; có vẻ như chỉ cần có nàng quanh đó đã là một sự phụ giúp. Công việc tiếp tục từng chút một; mái nhà không cao lắm, nhưng gỗ làm nhà khá to và nặng đối với một ngôi nhà nhỏ. 
Thời tiết ít nhiều vẫn đẹp. Inger tự mình đưa khoai vào nhà, còn Isak phải hoàn thành việc lợp mái trước khi mưa tới. Đêm nọ đàn dê được đưa vào lều và tất cả ngủ với nhau ở đó; bằng cách nào đó họ đã xoay xở được, họ đã xoay xở bằng mọi cách, và không hề càu nhàu than vãn. 
Isak chuẩn bị cho một chuyến đi khác xuống ngôi làng. Inger nói rất nhún nhường: 
“Anh nghĩ anh có thể mang về một cái giỏ hoặc một cái thùng cỡ lớn không?” 
“Tôi đã đặt mua vài tấm kính cửa sổ,” Isak nói. “Và một cặp cửa ra vào sơn sẵn. Tôi phải mang chúng về,” anh nói, theo cung cách hách dịch của mình. 
“Ờ, vậy thì thôi. Cái giỏ không phải là chuyện lớn.” 
“Em muốn gì với một cái giỏ?  Để làm gì?” 
“Để làm gì?… Chắc là anh không có đôi mắt trên trán!” 
Isak lên đường, chìm sâu vào suy nghĩ. Hai hôm sau anh quay về, với một cánh cửa sổ, một cánh cửa cho phòng khách, một cánh cửa cho phòng ngủ; anh cũng treo trước cổ mình một cái thùng gỗ lớn, đựng đầy những thứ cần dùng. 
“Một ngày nào đó anh sẽ tự giết chết mình thôi ,” Inger bảo. 
“Vậy hả, thật thế sao!” Thật ra, còn khuya Isak mới chết; anh lấy ra từ trong túi một lọ thuốc – một lọ dầu thô – và trao nó cho Inger với lời dặn thường xuyên thoa nó để chóng khỏe trở lại. Còn có những cánh cửa sổ và cửa ra vào sơn sẵn mà anh có thể huênh hoang về chúng; anh bắt tay ngay vào việc lắp chúng vào khung. Ôi chao, những cánh cửa sổ nhỏ nhắn, chỉ là đồ đã dùng rồi, nhưng tất cả đều được sơn mới lại bằng sơn đỏ và sơn trắng; hầu như việc này cũng tốt đẹp không kém việc treo những bức tranh lên các bức tường. 
Thế là họ chuyển sang ngôi nhà mới và nhốt hết bầy gia súc vào túp lều, chỉ có một con cừu mẹ được để lại với con bò cái để nó không thấy lẻ loi. 
Họ đã làm rất tốt, những người thợ xây ở vùng đất hoang vu đó: phải, bản thân họ đã là một sự lạ lùng và một điều kỳ diệu.
 
 


 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét