STEPHEN
BROWN
Những
chiêu tiếp thị
ngược đời
BẢN DỊCH:
NGUYỄN THÀNH NHÂN
Dịch từ nguyên bản tiếng Anh Free Gift Inside (2003)
________________________
GIAI
ĐIỆU THƯ GIÃN
BÂY GIỜ, ĐÓ LÀ CÁI MÀ
TÔI GỌI LÀ TIẾP THỊ # 1
Quà
tặng unplugged
Trong hầu hết những buổi hòa nhạc rock
đều có một thời điểm, ngay sau màn mở đầu với nhịp độ nhanh. Khi ấy, người ca
sĩ chính thông báo rằng: “Đã tới lúc cho mọi thứ chậm lại chút xíu.” Đó là cách
nói của dân rock ‘n’ roll để chỉ “một đoạn buồn chán”, dù đôi khi nó có nghĩa
là “tất cả những đoạn buồn chán từ album mới nhất, thể hiện một sự thay đổi
triệt để về phương hướng của ban nhạc, đang được lưu trữ ở các cửa hàng ngay
lúc này, và là điều mà mọi người hoặc là ghét, hoặc là chưa hề nghe thấy.”
Những con tim chìm xuống trong khắp sân
vận động. Những đôi chân đang khiêu vũ cảm thấy ngứa ngáy. Ban nhạc trở nên mụ
mẫm. Sự không quen thuộc sinh ra sự coi thường.
Vâng, chúng ta đã đi tới điểm này trong
cuốn sách và đã đến lúc cho mọi thứ chậm lại chút xíu. Ồ, vâng! Được thôi!!
Rock ‘n’ roooooollllllll đi nào!
Theo những đặc tính dựa vào nghệ thuật và
lịch sử của cuốn sách này, tôi sẽ chơi cho các bạn nghe một đoạn nhạc hỗn hợp
nhỏ từ bài nhạc hoang đường đã nêu bên trên,
Đây là cái mà tôi gọi là tiếp thị.
Nó bao gồm nhiều nghiên cứu đối tượng nhỏ về các nhạc sĩ nổi tiếng. Tất cả đều
là hiện thân của tâm lý TEASE. Tôi sẽ không giải thích vì sao họ lại là những
hình ảnh thu nhỏ của phương thức tiếp thị trêu ngươi (marketease). Bản thân
những câu chuyện sẽ nói rõ điều đó. Chỉ cần nói rằng không như Elvis Presley
hay ban nhạc The Beatles, những người mà sự nghiệp của họ đã được Đại tá Parker
và Brian Epstein vạch kế hoạch và điều khiển, những nhạc sĩ này là những bậc
thầy tiếp thị âm nhạc theo kiểu riêng của họ.
Thưa quý vị, thưa các cậu trai cô gái,
hãy thả hồn vào một huyền thoại không thể quên, vừa mới khai quật gần đây nhưng
rất đáng quan tâm, về “Chàng Orpheus người Ái Nhĩ Lan”, Patrick Sarsfield
Gilmore...
Chàng
Orpheus người Ái Nhĩ Lan
Patrick Sarsfield Gilmore là một tay U2 của giai đoạn giữa
thế kỷ 19.[1] Giờ đã gần như bị lãng quên, nhưng ông từng là sức hấp dẫn âm nhạc phổ biến nhất
vào thời của mình. Nổi danh với những live show hấp dẫn – loại nhạc rock chơi
trong sân vận động tương đương với thời đại Victoria – ông biểu diễn cho những
đám đông khổng lồ mua sạch vé trên khắp Hoa Kỳ và Tây Âu. Ông lưu diễn liên
miên. Ông soạn nhiều bài hát đến nay vẫn còn quen thuộc, độc đáo nhất là bài Khi Johnny hành quân về quê cũ (When Johnnycomes marching home [1]);
ông tập hợp một ban nhạc chuyên nghiệp, bao gồm những nhạc công hàng đầu; và
ông mở đường cho những trưởng ban nhạc nổi tiếng sau đó, chẳng hạn John Philip
Sousa. Thực tế, cú sụp đổ lớn của Sousa là do cái chết đột ngột của Gilmore năm
1881 và trong suốt nhiều năm sau đó, kẻ được mệnh danh là vua nhạc March được xem
là một sự thay thế nghèo nàn cho vị nhạc trưởng người Ái Nhĩ Lan chói lọi.[2]
Pat Gilmore sinh vào ngày 24/12/1829
trong một ngôi làng ở Ballygar, Co. Galway.
Với dự tính ban đầu là trở thành linh mục, ông chuyển sang làm một thương nhân
bán sỉ khắp mọi nơi. Từ đây ông chơi kèn, tốt nghiệp loại kèn cornet tông si giáng, tham gia một ban
quân nhạc Anh, tình nguyện phục vụ ở Canada, và, sau khi thoát khỏi vòng tay ác
ôn của quân đội, ông chuyển tới Hoa Kỳ vào năm 1848. Ông tìm được một việc làm
với những nhà sản xuất nhạc cụ hàng đầu ở Boston,
Anh em nhà Ordway. Tại đây, khả năng tự nhiên đối với quan hệ công chúng của
ông đã bộc lộ lần đầu. Ông thành lập một công ty hát rong, Ordway Eolians, dùng
để quảng bá những hàng hóa của các ông chủ của mình. Nhóm nhạc Eolians tỏ ra
rất được ưa chuộng và chắc chắn sẽ bảo đảm cho tương lai của Gilmore với tư
cách một cổ đông của Ordway nếu không có sự can thiệp tình cờ của Louis
Jullien. Một nhạc trưởng Pháp lập dị, hoàn toàn không hề lúng túng với tính
trầm lặng tự nhiên, Jullien sang lưu diễn ở Hoa Kỳ vào năm 1854 và tạo được cảm
tình.[3] Đoàn giao hưởng khổng lồ 100 nhạc công của ông, kinh phí
quảng cáo không hạn chế, và tài quảng cáo thậm chí còn ít hạn chế hơn nữa, đã
hấp dẫn sự chú ý chưa từng có cho tới tận hôm nay. Có lẽ, nói chính xác hơn,
phục trang hoàn hảo của ông, bộ râu rậm, cách sử dụng gậy chỉ huy ngông cuồng
và những buổi diễn hoàn toàn vượt khỏi đỉnh cao đã tác động sâu sắc tới một
chàng trai hai mươi lăm tuổi đầy tham vọng đến từ miền tây Ái Nhĩ Lan.
Pat nhanh chóng trở thành một nhạc trưởng
chuyên nghiệp, tiếp quản ban nhạc Salem ở gần đó, bỏ quên nó để đi vào một
guồng máy âm nhạc kinh khủng, tạo nên những buổi hòa nhạc ngày 4-7 nổi tiếng
trước công chúng Boston, và kiếm được một hợp đồng biểu diễn trong buổi lễ nhậm
chức của Tổng thống James Buchanan vào tháng 3-1857. Sự quảng bá kèm theo khiến
chàng nhạc trưởng tập sự tin rằng nhạc phổ thông là con đường để bước lên, và
anh lên đường với niềm thích thú. Năm 1859, anh trở thành chủ sở hữu duy nhất của
một ban nhạc 32 thành viên. Anh trang bị ngay cho nó những nhạc cụ mới toanh
sáng chói, những bộ đồng phục may tuyệt khéo và những phòng diễn tập cực kỳ
tuyệt vời. Nhưng thật không may, kinh phí chi tiêu của Gilmore vượt xa mức thu
nhập của anh và chắc chắn anh sẽ bó tay nếu Nội chiến Mỹ không xảy ra như một
bà tiên đỡ đầu kỳ diệu.
Chàng
nghệ sĩ hát rong
Những ban nhạc là những vụ làm ăn lớn
trong thời chiến và những ban nhạc lớn lại là những vụ làm ăn lớn hơn nữa. Đoàn
quân âm nhạc của Gilmore lao vào những khe hở giữa các tiểu bang, nơi nó phục
vụ một cách độc đáo với tư cách là một đơn vị tuyển quân của Liên minh miền Bắc
(Union), một đơn vị vận động tài trợ hậu
phương và một nơi củng cố tình bằng hữu dã chiến. Giây phút vinh quang của ông
bầu người Ái Nhĩ Lan đã đến vào năm 1864, khi anh được yêu cầu tổ chức một buổi
hòa nhạc kỷ niệm ngày bang Louisiana miễn cưỡng quay lại với đại gia đình vinh
quang miền Bắc. Chịu ảnh hưởng của Jullient, anh tập hợp một dàn đồng ca 5.000
giọng, một ban nhạc gồm 500 nhạc công, một cái trống khổng lồ, một đội kèn
trumpet và, vào ngày 4/3 ở Quảng trường Lafayette, anh đã đưa ra một buổi trình
diễn tuyệt diệu những bản Star Spangled Banner (Ngọn cờ điểm sao), America
(châu Mỹ), The Union Forever (Liên
minh mãi mãi) và Hail Columbia (Hoan
hô Columbia). Bài cuối cùng được nhấn mạnh với những hồi chuông của các nhà thờ
gần đó và đệm bằng những những phát đại bác điểm theo từng nhịp trống.
Như Lord Byron, Patrick Sarsfield Gilmore
được đánh thức để phát hiện ra mình nổi tiếng. Trong chuyến trở về New England thắng lợi, chàng nhạc trưởng Ái
Nhĩ Lan của chúng ta cải tiến ban nhạc, tìm ra hướng đi đúng, chiếm một vị trí
trong Nhà hát Boston, bắt đầu bán những nhạc cụ mang mang nhãn Gilmore, và khởi
sự suy tư về chương trình hấp dẫn sắp tới của mình. Chưa bao giờ là một người
nửa vời, ông quyết định nhân đôi mọi thứ bằng cách gắn kết với phong cách New
Orleans phóng túng và đi lên với phương tiện hoàn hảo này, một buổi hòa nhạc kỷ
niệm tầm cỡ quốc gia để ghi dấu nền hòa bình đã tới sau bấy lâu mong đợi. Tự
nhiên, những dòng máu mang âm hưởng nhạc blue của Boston thất kinh hồn vía với ý tưởng này và
xua đuổi anh như là một “gã đi buôn sấm”. Không nản lòng, Gilmore chuẩn bị một
cuộc quảng cáo rình rang, trấn an cộng đồng kinh doanh và hội đồng thành phố -
cả hai nơi này đều có thể nhận ra một cái máy dệt ra tiền nếu nhìn thấy nó,
thuyết phục được các hiệp hội đồng ca địa phương với những hứa hẹn tặng không
giấy viết nhạc, giảm giá ăn ở và khấu trừ tiền vé xe lửa. Trên 100 tổ chức âm
nhạc đồng ý tham gia, chương trình đề xuất được phân bổ, những cuộc diễn tập
bắt đầu, và một thính phòng khổng lồ bằng gỗ được dựng lên trong thời gian
nhanh gấp đôi. Một con đường dành cho các cửa hàng bán lẻ và các nhà hàng được
xây dựng gần đó. những khách sạn bằng lều được dựng lên trên khu đất công; các
công ty xe khách mở thêm các dịch vụ đặc biệt; những nhà buôn nhạc cụ ganh đua
quyết liệt để được cử làm nhà cung ứng chính thức; và một nhà sản xuất thuốc ho
mạnh dạn tuyên bố rằng ông sẽ tặng không cho tất cả các diễn viên hát đồng ca
một hộp Brown’s Bronchial Touches (tạm hiểu là một loại thuốc giúp thông cổ).
Trong sự kiện này, mọi chỗ ngồi đều được
bán hết, ngay cả ở cái giá đặc biệt là 5 đô/vé. Nhiều người đến từ những nơi xa
như California và Texas. Tổng thống Grant và nội các của ông
hạ cố tham dự, tương tự, có thêm một đoàn chức sắc địa phương, bao gồm nhiều
người đã phản đối kế hoạch của Gilmore vào lúc đầu.
Như dự tính, giữa ngày 15 và 17/6/1869,
Boston rung chuyển với âm thanh của 1.000 giọng đồng ca, 1.000 nhạc công giao
hưởng và một lượng khán giả 50.000 người sẵn sàng hát hòa theo. Khúc tạp âm này
được đối âm bởi những phát súng đại bác và những hồi chuông nhà thờ, được bổ
sung thêm bởi một cái trống và đàn ống cỡ lớn nhất, và được giữ trong vòng kiểm
soát nhờ nhiều phó nhạc trưởng rải ra khắp nơi trong đám đông. Chương trình kéo
dài từ bài Star Spangled Banner và
những bài hát kích động quần chúng đáng tin cậy như William Tell Overture của Rossini cho tới bài A Hymn of Peace (Tụng ca hòa bình) long trọng, do Oliver Wendell
Holmes viết cho chính sự kiện này. Tuy nhiên, bài nổi bật là Anvil Chorus soạn lại từ bài Il Trovatore của Verdi, đưa ra 100 lính
cứu hỏa địa phương mặc đồng phục và đội nón bảo hiểm. Họ bước đều trên sân
khấu, vác trên vai những chiếc búa tạ cán dài và đánh nhịp vào những cái đe
được thiết kế đặc biệt.
Nhạc heavy metal, hay cái gì vậy nhỉ?
Không cần phải nói, sự ầm ĩ huyên náo
bùng lên, nhanh chóng được nối theo bằng một sự huyên náo ầm ĩ khác, với một
dấu hiệu lờ mờ của những tiếng hò reo la ó cực đại. Ngay lập tức người ta yêu
cầu diễn lại thêm lần nữa, và ngay lập tức bài hát được diễn lại thêm lần nữa.
Đáng buồn thay, một khán giả kích động quá mức, một cô Dunlap nào đó đến từ Chicago, không chịu nổi
cảm xúc mạnh đã chết ngay tại chỗ. Cái chết của cô ta có thể là một tai họa PR.
Nhưng, luôn là một người nhanh nhạy, Pat Gilmore biến nó thành một lợi thế cổ
động.[4] “Không có ai,” anh ngâm nga một cách thê thảm, “trong sáng
và dịu dàng hơn, hiền hòa và trìu mến hơn, có thể chọn việc gánh chịu tiếng hát
đồng ca thiên thần trên những đợt thủy triều của quang cảnh huy hoàng trên trái
đất, của hàng ngàn người đang lắng nghe trong sự tôn kính mê say những bài hát
thiêng liêng khuấy động tâm hồn của những bậc thầy vĩ đại nhất.”
Khi
Paddy quay lại quê xưa
Đi đâu sau chuyện đó? Còn nơi nào khác để
đi ngoài việc hành động gấp đôi lên hoặc bỏ cuộc! Được tán tụng bởi sự tiếp đón
của lễ hội này, Gilmore đi tới chỗ phá sản vào ba năm sau đó với Lễ kỷ niệm Hòa
bình Thế giới của mình. Sự kiện này không chỉ lớn gấp đôi sự kiện mùa hè năm
1869, mà nó còn thật sự có tầm cỡ quốc tế. Nó bao gồm những ban nhạc đến từ
Đức, Anh, Pháp, Nga và Ái Nhĩ Lan, cũng như chính bậc thầy nhạc waltz vô song
Johann Strauss. Nhà soạn nhạc vĩ đại ở thành Vienne bị chiêu dụ vào cuộc biểu
diễn này vì Gilmore hứa rằng sẽ có một dàn đồng ca 20.000 người và ban nhạc
giao hưởng gồm 2.000 nhạc công, một lực lượng tập hợp lớn nhất cho đến khi đó.
Đúng vậy, sự diễn xuất bài The Blue
Danube được Strauss mô tả: “Tôi sẽ không bao giờ quên được một sự huyên náo
kinh khủng đến thế.” Nhưng rõ ràng nó là
một trường hợp không đếm xỉa tới chất lượng đồng ca, cảm giác về chiều
rộng của dàn giao hưởng.[5] Thật đáng tiếc, lần này ông bầu người Ái
Nhĩ Lan đã vượt quá sức mình. Lễ hội này là một thất bại thảm thương. Ngay cả
việc khôi phục lại bài Anvil Chorus
đáng nể cũng không thể lôi kéo đủ số đông cần thiết cho một sự kiện kéo dài ba
tuần. Trong một buổi không may, có khoảng
22.000 người trên sân khấu và chỉ có 7.000 khán giả. Tất cả mọi sự trở nên quá nhiều, quá sớm
sau Lễ kỷ niệm Hòa bình, và nó kết thúc trong một thảm họa tài chính một cách
bất khả kháng.[6]
Ngã quỵ nhưng chưa đo ván, Gilmore đắm mình
vào những buổi diễn tiền- Ozzfests của mình. Với ngoại lệ là những buổi hòa
nhạc cỡ vừa ở Chicago để tưởng niệm việc tái xây dựng thành phố bị cháy rụi
trong cuộc Triển lãm Chu niên Philadelphia năm 1876, chàng trai Ái Nhĩ Lan
không thể kiềm chế việc hiến những năng lượng không phải không đáng kể của mình
để đánh bóng một ban nhạc 65 nhạc công. Trang phục tinh khiết, mũ mạo đẹp đẽ,
và đã tập luyện đến mức hoàn hảo, nhạc đoàn đã được đánh bóng của Gilmore tiến
về New York, nơi nó bắt đầu một loạt các buổi hòa nhạc tại thính phòng
Hippodrome khả kính. Dù buộc phải cạnh tranh trực tiếp với P.T. Barnum, người
có gánh xiệc cùng sử dụng nơi biểu diễn, Pat vẫn giữ vững lập trường trong
những phép ngoa dụ đầu đối với đầu. Anh duy trì sự hiện diện của tên mình trên
những tờ báo với mọi kiểu quảng cáo gây chú ý, chẳng hạn cuộc “thách đấu” với
một đối thủ trong ngành nhạc và “cuộc chiến tranh” giữa hai tay soloist của
anh. Những chuyện này đã làm tăng thêm huyên náo trong những ủng hộ viên của các vai chính. Anh cũng tung ra những bài
hit, bao gồm O let me Dream of Former Years, Freedom on the Old Plantation và Whispers from Erin. Anh viết một bài
quốc ca mới, Columbia. Bài này thịnh hành một thời gian
ngắn, nhưng không bao giờ de dọa nghiêm trọng tới bài quốc ca đang sử dụng. Anh
lưu diễn ở các nước châu Mỹ và Tây Âu thường xuyên như đi chợ. Anh gặt hái một
mùa hè thành công ở bãi biển Mahattan hợp thời trang. Và anh giữ các nhạc công
của mình trong điều kiện tốt bằng cách quy định những khoảng tiền thưởng khi
được yêu cầu diễn lại là 5 đô/người.
Ngoài ra, Gilmore còn đưa ra công thức
cho một người tiên phong của “Các bé xinh opera” của thời nay bằng cách đưa ban
nhạc của mình lên tuyến đấu với một loạt ca sĩ giọng nữ cao lộng lẫy chết
người. Gác sang một bên nữ tính thanh lịch và sự cân bằng tinh thần của họ,
những bé xinh của Gilmore sẵn sàng biểu diễn trong các buổi “hòa nhạc sổ xố” và
các cuộc trình diễn ngày Chủ nhật, dù thỉnh thoảng họ biểu diễn trong những
buổi diễn được mệnh danh là “những sự kiện thiêng liêng”. Tuy nhiên, dù những
điều này làm những người kính Chúa nổi giận, sự chỉ trích của những tín đồ Cơ
Đốc giáo ngoan đạo cứ trút lên ban nhạc báng bổ, còn vé vào cửa cứ bán chạy như
tôm tươi sau đó. Hãy ca ngợi Thượng đế và chuyền cái ống sáo đi nào.
Giai
nhân nước Mỹ
Gilmore vẫn đắm đuối trong cõi phù hoa
của anh khi một Bé xinh Opera khác xuất hiện trên sân khấu với một tiếng tăm
vang dội. Lillian Rusell gây ấn tượng mạnh vào ngày 15/11/1878 đến nỗi đèn sân
khấu vẫn còn rung lên sau đó bốn mươi năm, khi cô đã giã từ sự nghiệp.[7]
Được quảng cáo vào hồi đầu như một “Ca sĩ hát nhạc Ballad người Anh” dù cô sinh
ra ở Iowa, Rusell xuất hiện lần đầu và gây một ấn tượng khó quên trong một sản
phẩm mô phỏng vở HMS Pinafore or The lass that loved a sailor (Chiếc tạp
dề HMS hay còn gọi là Cô nàng yêu thủy thủ), vừa đúng lúc sự say mê Gilbert và
Sullivan đang quét qua toàn nước Mỹ.
Hơn tám mươi phiên bản mô phỏng của vở
operette này được lưu diễn trên cả nước trong những ngày tháng nặng nề đó trước
khi cánh tay dài của luật bản quyền quốc tế sờ vào gáy của hiện tượng Napster[2]
tiền phong này của Bắc Mỹ. Nhưng không ai có được ảnh hưởng như của Lillian. Dù
cô gái mười tám tuổi quyến rũ chỉ góp một phần trong vở diễn, tầm vóc phi
thường của cô đã tạo nên một tác động khôn lường. Mắt xanh, tóc vàng, nước da
trắng hồng tuyệt mỹ, thân hình vệ nữ. Những anh chàng nhân viên nhà hát, những
nhân vật quyền thế đến xem buổi diễn đầu tiên, các chàng ngố lơ ngơ, và một dọc
dài các công tử hào hoa phong nhã đã trở thành một khối trong sự hạ mình chung
của họ trước Giai nhân nước Mỹ. Theo lời một nhà viết tiểu sử si tình,[8]
“có một cái gì đó đầy khêu gợi trong đôi mắt xanh của nàng, trong cặp hông uốn
éo; có một chỉ dấu triển vọng phong phú ở thân hình nàng và cái tinh chất dễ
tổn thương của mọi nữ thần tình yêu, điều mà chúng ta cũng có thể nhận ra ở
những người sau đó như Jean Harlow và Marylin Monroe… Như ông bầu Florenz
Zeigfeld đã tán thán sau khi nhìn thấy nàng lần đầu: ‘Định mệnh và những cánh
đồng ngô ở Iowa
đã nặn ra nàng cho sàn diễn.’”
Ướt át, có lẽ; sang cả, không còn ngờ gì
nữa; nhưng Lillian Russell không chỉ là một gương mặt đẹp đơn thuần. Hơn thế
nhiều. Nàng có thể hát như một thiên thần âm nhạc được đào tạo bài bản. Nàng
thiếu nữ Lillian có một khả năng thiên phú để vươn tới nốt Đô cao, lặp lại
nhiều lần mà không cần cố gắng. Dù có giọng hơi pha kim – một nhà phê hình xấu
bụng đã so sánh nàng với một ấm nước đang reo- chất giọng của nàng vô cùng
phong phú. Khi phát hiện ra rằng nàng từng xử lý đến bảy nốt Đô cao trong mỗi
lần diễn, trong suốt hai mươi bảy suất diễn mỗi tuần, diva người Úc hống hách Dame
Nellie Melba [9] rất kinh ngạc rồi sau đó bị tổn thương. “Công
chúng,” cô ta nhắc nhở Russell một cách kẻ cả, “không bao giờ đánh giá cao bất
cứ thứ gì đến với họ một cách rẻ rúng. Hãy nhớ lời tôi khuyên và mỗi đêm chỉ
nên cho khán giả nghe hai nốt Đô cao. Cô sẽ được tán thưởng nhiều hơn
nữa.”
Được tán thưởng nhiều hơn, tuy thế, là
mối quan tâm ít nhất của Lillian. Ở đỉnh cao của thời vàng son, con tàu cự
phách Russell lướt gió một cách thanh thản từ thắng lợi này sang thắng lợi
khác. Ngay sau vở Cái tạp dề, nàng
cắm neo trong hài kịch Những tên cướp
biển xứ Benzan, một vở diễn thành công đến nỗi Gilbert và Sullivan đã cố mô
phỏng theo người đóng vai hải tặc trong vở Những
tên cướp biển của họ, khi đó đang được dựng ở Nhà hát Đại lộ thứ Năm gần
đó. Russell lưỡng lự rồi ký giao kèo cho một vở operetta được ưa chuộng khác, Olivette. Mặc quần áo con trai thùng
thình, nàng cất giọng luyến láy ngân nga: “Ở biển bắc có một chú cá voi” và kết
thúc mỗi đoạn thơ với một điệu nhảy tung tăng. Phản ứng của khán giả với điệu
nhảy Baywatchesque của nàng, vâng, có thể đoán được, là vô cùng hưng phấn.
Giờ thì tôi biết vì sao họ gọi đó là điệu
nhảy thủy thủ.
Sự huyên náo do hooc-môn gây nên càng lên
cao với vai diễn kế tiếp của nàng trong hai vở Những bé xinh trong khu rừng nhỏ và Chuyện vui trong một thư viện ảnh được đưa ra lưu diễn liên tiếp
khắp vùng West Coast vào mùa hè năm 1881. Bởi mọi nguyên do, vở Những bé xinh gửi những đợt sóng địa
chấn đầy nhục cảm tới khắp nơi trong tiểu bang Ánh nắng, mà trong đó phần lớn là
do những vòng xà cạp của Lillian. Quần áo bó sát khi đó được xem như tuyên ngôn
cuối về sự phóng đãng và Giai nhân nước Mỹ đã nô đùa với khán giả chút chơi.
Nhưng chỉ đôi khi. Đôi tất dài kín đáo hợp mốt của nàng được phô bày theo định
kỳ và không bao giờ thất bại trong việc tạo nên một phản ứng tương thích từ
những khán giả yêu mến opera ở địa phương – chủ yếu là những tay nghiện lời
nhạc kịch. Đây không phải là một trường hợp cợt đùa, hành hạ và trêu ngươi
khách hàng như một tội ác chống lại nhân tính của người California. Thật sự, Lillian quyến rũ đáng
yêu đến nỗi một trong những người hâm mộ đã bắn chết một gã lưu manh đã phỉ
báng nét đẹp lộng lẫy của nụ hồng. Giết người vì lý do chính đáng là lời bào
chữa của anh ta và anh ta được xử trắng án.
Có lẽ Russell đã đóng vai trò cô gái ngây
thơ không may đến mức hoàn hảo, nhưng về mặt chuyên môn nàng hoàn toàn trái
hẳn. Là một nữ doanh nhân cực kỳ khôn ngoan, biết rõ giá trị thương mại của
mình, nàng thường xuyên từ chối những mối quan hệ tình ái với một loạt những
tay quản lý nhà hát. Nhiều lần nàng đã từ chối những bản hợp đồng vinh hạnh,
thậm chí không chịu bước lên sân khấu cho tới khi những ông bầu đáp ứng những
đòi hỏi tài chính nặng cân của mình. Lương của Russell tăng dần từ 35 đô/tuần
lên đến gấp cả trăm lần hơn vào năm 1905. Nàng cũng có một tỷ lệ phần trăm
trong lãi ròng; bảo đảm rằng giá trang phục của mình – luôn là mốt mới nhất và
đắt tiền nhất mà Paris có thể cung cấp – do một nhà sản xuất liên quan thanh
toán; và, trong một phạm vi nhất định, có phần chia trong doanh số bán ảnh, các
chương trình hòa nhạc và các chất liệu cổ động liên quan. Hết lần này sang lần
khác, Russell đòi hỏi nhiều đến mức sự chấp thuận của ông bầu thậm chí đã khiến
nàng phải ngạc nhiên và buộc phải thực hiện những tour lưu diễn (có lợi nhuận
cao) mà lẽ ra nàng đã khước từ. Tuy nhiên, những đề nghị vẫn liên tục đưa tới,
và, là một diễn viên giàu kinh nghiệm, giọng nữ cao vĩ đại này hiếm khi thất
bại trong diễn xuất. Xuyên suốt thập kỷ 1880 và 1890, nàng không chỉ ngự trị Broadway
mà cả toàn cảnh nền âm nhạc Mỹ. Nàng trườn người một cách quyến rũ trong vở Người dụ rắn, rung động một cách khêu
gợi trong vở Nhẫn nại, bỏ bùa mê cho
tất cả mọi người có liên quan trong vở Phù
thủy, làm những khán giả si mê sững sờ trong vở Reptila, cô gái với con mắt thủy tinh. Và khi Russell đặt yêu cầu
với đoàn diễn ở Nhà hát Casino đầy thanh thế của Rudolph Aronson, nàng được
đứng chung với những nhạc công bất tử. Vé cho những đêm diễn đầu tiên của giọng
hát oanh vàng không chỉ xứng đáng để chết vì chúng, mà chúng còn đáng giá hơn
nhiều cuộc sống ở Purgatory.
Điều đó không thể kéo dài mãi. Nhưng nó
vẫn kéo dài. Russell đã hoàn toàn thành công trong việc tự điều chỉnh mình theo
những thị hiếu âm nhạc đổi thay, chẳng hạn sự lên ngôi của nhạc kịch hài hước,
sự suy tàn của opera hài và mốt chương trình tạp kỷ đang thịnh hành. Hơn nữa,
nàng hiểu rõ rằng khi những khả năng trong giọng hát của mình đã mỏi mòn và một
diễn viên tập sự khỏe khoắn vùng Trung Tây sẽ dần dà thế chỗ, cần có sự điều
chỉnh trong các vai diễn của mình. Nhờ sự huấn luyện của Weber và Fields, hai
vua hề của thính phòng Mỹ, Russell trở thành một diễn viên hài kịch xuất chúng
và, cuối cùng, một nữ nghệ sĩ đỉnh cao.
Về mặt nghề nghiệp, những năm đầu của thế
kỷ 20 cũng đầy thắng lợi như thời Hoàng kim. Dù nàng là hình ảnh thu nhỏ của
“những năm chín mươi tục tĩu”, cái kỷ nguyên của nhung đỏ xa hoa, những bữa ăn
tối có mười món, những ông trùm kẻ cướp điên cuồng, sự đam mê lạc thú trầm
trọng và sự tiêu thụ vô sỉ một cách rõ rệt – cái kỷ nguyên mà Thorstein Veblen
giận dữ chống đối một cách kẻ cả - Lillian Russell cưỡi trên những đợt sóng
thời trang và đánh bại tất cả những ai cố đoạt lấy chiếc vương miện sân khấu
của mình. Phu nhân Teazle, Cô nàng
Helene, Ngày lễ cưới, Hokey-Pokey, Giai nhân nước Mỹ, và vô số những vở
khác đã thổi bùng một cách thành công những ngọn lửa đam mê. Hơn thế nữa, khi
thỉnh thoảng bị phơi sáng quá mức và phát hiện ra mình không thể quyến rũ công
chúng thủ đô, nàng chỉ cần lên đường tới những tỉnh lẻ và thành phố nhỏ, những
nơi sẵn sàng chi một cách hào phóng để được nhìn thấy Lillian huyền thoại bằng
xương bằng thịt. Vì lý do đó, một cuộc lưu diễn vở Hồ điệp vào năm 1907 với 104 điểm diễn, mỗi điểm chỉ diễn một đêm,
nằm trong danh sách những vụ làm ăn thắng lợi nhất của nàng.
Khu
liên hợp công nghiệp trang phục nữ
Giai nhân nước Mỹ, nói tóm lại, có một
con mắt đánh giá chính xác về công
chúng. Nàng là một nhà tự tổ chức siêu phàm, một tiếp thị gia xuất chúng. Những
khó khăn hôn nhân được tường thuật khá nhiều của nàng – một vụ vi phạm chế độ
một vợ một chồng khi vụ khác còn chưa kết thúc – khiến đám đông có đạo đức luôn
ở tâm trạng hết sức phẫn nộ, những lời đồn đại về các quan hệ tình ái của nàng
(với một diễn viên xiếc, hoàng tử Haiti và nhiều người khác) và những cơn hờn
dỗi trên sân khấu theo chu kỳ của nàng cũng vậy. Nàng chơi trò quảng cáo để bán
vé một cách xuất sắc với “những cuộc giải nghệ”, “những lần quay lại”, “những
đêm diễn đầu tiên”, và “những cơ hội cuối cùng”, sau này, các chiêu thức đó
được hoàn hảo hóa bởi Frank Sinatra và ban Rolling Stones. Tương tự, những vụ
kiện tụng chống các tay cổ đông quyền lực (một trong số đó luôn tìm cách vén
váy của nàng), những trò quảng cáo rùm beng (thu âm cho Thomas Edison, thực
hiện cú điện thoại chính thức đầu tiên cho Tổng thống Grove Cleveland vv.), và
sự phô trương quá thể trong nếp sống của nàng (những bộ đồ mốt mới nhất, những
bạn bè nổi tiếng, sự phóng đại trong chuyện phòng the, chiếc xe hơi Pullman cá
nhân hóa, những chuồng ngựa nòi, những cái mũ khổng lồ trưng dụng toàn bộ vật
tư quý hiếm của khu liên hợp công nghiệp trang phục nữ), tất cả đã giúp cho
những tờ báo lá cải chuyên đăng chuyện giật gân làm việc hết công suất.
Với sự khôn ngoan sắc sảo về tiếp thị,
hình ảnh nàng xuất hiện trên mọi thứ, từ những điếu xì gà và áo ngực cho đến mỹ
phẩm và bao thuốc lá. Nàng là đối tượng để những nhà may y phục thời trang nữ
ve vãn, là kho tiền vô tận cho những người làm mũ và trang phục nữ, và, với
những chiếc xe đạp có biển số bằng vàng nạm ngọc, nàng đã tạo nên những điều kỳ
diệu cho công nghệ đồ lót Edwardian. Nàng tiếp thị phương châm trang điểm của
chính mình, xuất hiện như là một người mẫu thời trang trong Hội nghị Các nhà
sản xuất trang phục Chicago năm 1910, sản xuất nhiều phim ngắn về trang phục
trước Jane Fonda cả năm mươi năm, viết cho nhiều tờ báo trong chuyên mục các
mẹo vặt về sức khỏe, hạnh phúc và cách săn chồng. Chiêu cuối cùng trong số này
bao gồm một triết lý tự lực cánh sinh kỳ lạ pha trộn các nguyên lý của Marcus
Aurelius, Mary Baker Eddy và lý lẽ đanh thép không thể thất bại về việc đừng cố
gắng quá sức trong khi vẫn duy trì một chút bí ẩn hấp dẫn đối với giới mày râu.
Về sau này, Lillian quay sang tiếp thị xã hội. Nàng là một phát ngôn viên hàng
đầu cho quyền bầu cử của phụ nữ, bán trái phiếu chiến tranh như bán bánh nóng
làm tại nhà, và phục vụ như một chiến sĩ hậu cần hàng đầu của lính bộ binh.
Nàng tỏ ra là một viên trung sĩ tuyển
quân hữu hiệu. Khi hết hạn phục vụ vào ngày 6/6/1922, Giai nhân nước Mỹ bị chôn
vùi dưới một đống huân chương. Tấm màn sân khấu, cùng với khúc dạo đầu trứ danh
của nàng, cuối cùng cũng đã “hạ xuống thôi nào, ngôi sao Hôm của tôi.”
(còn tiếp)
Chú ý: Do bản dịch này đã hết hạn khai thác tác quyền tiếng Việt và người đầu tư không tiếp tục dự án xuất bản bản dịch nên tôi chỉ đưa vào blog của mình để các bạn quan tâm tới lĩnh vực này có tư liệu tham khảo. Xin các bạn đọc vui lòng không sao chép lại các phần của bản dịch này vào các trang mạng khác. Rất cám ơn sự ủng hộ của các bạn.
Chú ý: Do bản dịch này đã hết hạn khai thác tác quyền tiếng Việt và người đầu tư không tiếp tục dự án xuất bản bản dịch nên tôi chỉ đưa vào blog của mình để các bạn quan tâm tới lĩnh vực này có tư liệu tham khảo. Xin các bạn đọc vui lòng không sao chép lại các phần của bản dịch này vào các trang mạng khác. Rất cám ơn sự ủng hộ của các bạn.
[1] http://www.youtube.com/watch?v=T3k8H_9SjoM
[2] Napster là một dịch vụ chia sẻ nhạc online do Shawn Fanning
sáng lập khi anh đang theo học Đại học Northeastern ở Boston và đi vào hoạt động từ tháng 6/1999 cho tới 7/2001. Nó giúp giới sinh viên
dễ dàng chia sẻ các file nhạc MP3 và do đó đã dẫn tới những vụ vi phạm bản
quyền.
_______________________________
CHÚ GIẢI VÀ THAM KHẢO
_______________________________
CHÚ GIẢI VÀ THAM KHẢO
Giai
điệu thư giãn: Bây giờ, đó là cái mà
tôi là Tiếp thị # 1
1. Marwood
Darlington, Irish Orpheus: The Life of patrick
S. Gilmore, Bandmaster Extraordinary
(Philadelphia: Olivier Maney Klien, 1950). Bối cảnh âm nhạc mở rộng được để cập
đến một cách dễ hiểu trong nghiên cứu ba tập của Ronald L. Davis, A History of
Music in American Life (Huntington, NY: Krieger, 1980).
2. Neil
Harris, “John Philip Sousa and the Culture of Reassurance”, trong Cultural Excursions: Marketing
Appetites and Cultural Tastes in Modern America (Chicago: University of
Chicago Press, 1990, pp. 198-232)
3. Adam
Carse, The Life of Jullien: Adventurer,
Showman-Conductor and Establisher of the Promenade Concerts in England,
Together with a History of Those Concerts up to 1895 (Cambridge: W. Heffer
and Sons, 1951).
4. Darlington, Irish
Orpheus, sách đã dẫn, pp. 54-5.
5. Davis, A History of Music in America Life, Volume
II – The Gilded Years, 1864-1920,
sách đã dẫn, p.4.
6. Quyển
tiểu sử có tính chất khá gần với tiểu sử các vị thánh của Darlington
xem thường tai họa nghề nghiệp này – Lễ kỷ niệm Hòa bình Thế giới. Tình huống
thật sự đã được David mô tả, sách đã dẫn, pp. 3-5.
7. Có nhiều
quyển tiểu sử xuất sắc, dù hơi lỗi thời, viết về Lillian Russell, Ví dụ: Parker
Morell, Lillian Russell: The Era of Plush
(Garden City, NY: Garden City Pubishing, 1943); James Brough, Miss Lillian Russell: A Novel Memoir (New
York: McGraw-Hill, 1978); John Burke, Duet in Diamonds (New York: G.T.
Putnam;s, 1972).
8. Trích Duet in Diamond, Burke, sách đã dẫn, pp.
23-24.
9. Trích Lillian Russell, Morell, sách đã dẫn,
p.165.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét