Nguyễn Thành Nhân trích dịch
(từ Modern Sociological Theory của
George Ritzer)
"Tác phẩm tiểu sử và tiểu sử tự thuật hữu dụng trong việc giúp
chúng ta thấu hiểu thế giới của các lý thuyết gia xã hội học, và của các nhà xã
hội học nói chung. Sử gia khoa học Thomas Hankin lý giải theo cách
sau: '(Một) tiểu sử hoàn toàn hòa hợp của một nhà khoa học bao gồm không
chỉ cá tính của anh ta, mà cả tác phẩm khoa học, bối cảnh tri thức và xã hội của
thời đại của anh ta… vẫn là cách thức tốt nhất để đi tới nhiều vấn đề vây quanh
công việc viết lách về lịch sử của khoa học… Khoa học được sáng tạo bởi các cá
nhân, tuy nhiên nó bị lái đi rất nhiều bởi các lực lượng bên ngoài, các lực
lượng này tác động qua chính bản thân nhà khoa học. Tiểu sử là một kính viễn
vọng văn học mà qua nó chúng ta có thể quan sát một cách tốt nhất quá trình
này.' "
GEORGE RITZER
1
ABDEL
RAHMAN IBN KHALDUN:
Có một khuynh hướng xem xã hội học như là một
hiện tượng tương đối hiện đại và riêng biệt ở Tây phương. Tuy nhiên, thật ra
các học giả đã nghiên cứu về xã hội học từ
trước đó khá lâu, và ở nhiều vùng khác trên thế giới. Một dẫn chứng là
Abdel Rahman Ibn Khaldun.
Ông sinh ở Tunis, Bắc Phi vào ngày 27/5/1332,
trong một gia đình có truyền thống về giáo dục. Ông được dạy các môn kinh:
Koran (thánh kinh của Đạo Hồi), toán học, và lịch sử. Trong cả cuộc đời, ông đã
phục vụ cho nhiều vua chúa ở Tunis, Morocco, Tây Ban Nha, và Algeria với chức
vụ đại sứ, tùy thần và thành viên của Hội đồng học giả. Ông đã trải qua hai năm
bị tống giam ở Morocco vì niềm tin của mình rằng các luật lệ của nhà nước không
chia rẻ các nhà lãnh đạo. Sau khoảng hai thập kỷ hoạt động chính trị, Ibn
Khaldun trở về Bắc Phi, ở đó ông tiến hành một cuộc tập trung nghiên cứu và
viết lách kéo dài năm năm. Các công trình vào thời kỳ này càng nâng cao danh
tiếng của ông và dẫn tới chức vụ giảng sư
ở trung tâm nghiên cứu Hồi Giáo - Đại học Al Azhar Moque ở Cairo. Trong
các bài giảng thu hút nhiều học viên của mình về xã hội và xã hội học, Ibn
Khaldun đã nhấn mạnh đến sự quan trọng của việc kết hợp các tư duy xã hội học
và quan sát lịch sử.
Trước khi mất vào năm 1406, Ibn Khaldun đã cho
ra đời một toàn tập, trong đó có nhiều ý tưởng tương đồng với xã hội học hiện
thời. Ông đã chuyển sang nghiên cứu xã hội một cách khoa học, bằng khảo sát
thực nghiệm, và tìm hiểu các nguyên nhân của các hiện tượng xã hội. Ông dành sự
quan tâm lớn cho các thể chế xã hội khác nhau (ví dụ chính trị và kinh tế) và
các mối tương quan chặt chẽ giữa chúng. Ông rất quan tâm đến việc so sánh giữa
các xã hội sơ khai và hiện tại. Ibn Khaldun không tạo nên một ảnh hưởng sâu sắc
trong xã hội học cổ điển, nhưng, như các học giả nói chung và các học giả
chuyên về Hồi giáo nói riêng đã phát hiện ra trong các công trình tác phẩm của
ông, rồi người ta sẽ đánh giá lớn lao hơn nữa tầm quan trọng của ông về mặt
lịch sử.
2
August Comte sinh ngày 19/1/1798 ở Montpelier,
Pháp. Bố mẹ ông thuộc tầng lớp trung lưu, cha ông đã lên đến chức đại diện quan
chức địa phương về thu thuế. Mặc dù là một sinh viên sớm phát triển, Comte chưa
bao giờ đạt được một bằng cấp đại học. Ông cùng toàn bộ các bạn cùng lớp bị
đuổi học khỏi trường Cao đẳng bách khoa vì sự phản kháng và các ý tưởng chính
trị của họ. Sự kiện này đã gây ra một ảnh hưởng bất lợi trong sự nghiệp hàn lâm
của Comte. Năm 1817 ông trở thành thư ký (và là “con nuôi”) của Claude Henri
Saint Simon, một triết gia hơn ông 40 tuổi. Họ cùng làm việc với nhau trong
nhiều năm và Comte tỏ lòng tri ân ơn nghĩa to lớn của Simon đối với mình: “Tôi
tất nhiên mang một món nợ vô cùng lớn lao về tri thức đối với Saint Simon… ông
đã góp phần to lớn để đưa tôi đi theo định hướng triết học mà ngày nay tôi đã
tạo lập cho mình một cách rõ ràng, và tôi sẽ không ngần ngại theo đuổi trọn đời
mình.” Nhưng vào năm 1824, giữa họ đã
nảy sinh mâu thuẫn, vì Comte cho rằng Saint Simon muốn bỏ tên của mình
ra khỏi một trong những công trình của ông ta. Sau đó, Comte viết về quan hệ
của mình và Simon như là một điều “thảm
khốc”, và diễn tả ông là một kẻ “lừa bịp sa đọa”. Năm 1852, Comte nói về Simon:
“Tôi không nợ nần gì con người này hết.”
Heilbron miêu tả Comte là một người thấp (cao
khoảng 5 feet 2 inch), có hai mắt khá gần nhau, và rất dễ dao động đối với các
hoàn cảnh xã hội, đặc biệt là trong quan hệ với phụ nữ. Ông cũng rất xa lánh
với xã hội nói chung. Những sự kiện này giúp ta hiểu được sự kiện Comte đã cưới một cô gái điếm không xu
dính túi, Caroline Massin, cuộc hôn nhân kéo dài từ 1825 tới 1842. Sự dao động
của cá nhân Comte ngược hẳn với sự vững chải lớn lao về các năng lực tri thức
của ông, và dường như sự tự trọng thị này đã được mọi người nhận thấy rõ:
Khả năng ghi nhớ phi thường của Comte rất nổi tiếng. Được thiên
phú một ký ức như một máy chụp ảnh, ông có thể trích dẫn lại những từ ở bất kỳ
trang sách nào ông đã từng đọc dù chỉ một lần. Khả năng tập trung của ông cao
đến nổi ông có thể phác họa ra cả một cuốn sách mà không cần đặt bút lên trên
giấy. Những bài giảng của ông đều phát xuất trực tiếp từ trong đầu, không cần
một ghi chú nào. Khi ông ngồi viết những cuốn sách của mình, ông viết ra mọi
điều từ trí nhớ.
(
Schweber)
Năm 1826, Comte xây dựng một dự án trong đó ông sẽ giới thiệu một loạt 72 bài
thuyết trình công cộng (tổ chức ở nhà ông) về triết lý của mình. Khóa giảng đã
thu hút được một số lượng người dự khán đông đảo, nhưng phải hoãn lại sau 3 bài
vì Comte bị một cơn đột qụy thần kinh. Ông tiếp tục chịu đựng các vấn đề thần
kinh sau đó, và một lần vào năm 1827, ông đã cố tự sát bằng cách nhảy xuống
sông Seine nhưng không thành công.
Dù ông không đạt
được một chức vụ thường xuyên ở CĐBK (Ecole Polytechnique), Comte cũng giữ một
chức vụ thứ yếu với tư cách là trợ giảng ở đó năm 1832. Năm 1837, Comte được
giao thêm một nhiệm vụ là nhân viên kiểm tra học phí, và nhờ công việc này, lần
đầu tiên đã tạo cho ông một nguồn thu nhập khá đủ (trước đó ông vẫn phải phụ thuộc
về kinh tế vào gia đình). Trong thời gian này, Comte thực hiện một bộ sách 6
tập mà nhờ đó ông đã nổi danh: Cours de
Philosophie Positive, được xuất bản toàn bộ vào năm 1842 (tập đầu xuất bản
năm 1830). Trong công trình này, Comte đã phác họa ra quan điểm của mình, rằng
xã hội học là bộ môn khoa học cơ bản. Ông cũng tấn công vào trường CĐBK, và kết
quả là năm 1844, hợp đồng trợ giảng của ông không được tái ký kết nữa. Tới
1851, ông hoàn tất bộ sách 4 tập Systeme
de Politique Positive, mang nhiều tính thực hành hơn và đề ra một hoạch
định lớn về việc tái tổ chức lại xã hội.
Heilbron cho rằng
có một đổ vỡ lớn đã xảy ra trong đời Comte vào năm 1838, và khi ấy ông đã mất
đi niềm hy vọng rằng sẽ có một ai đó xem công trình khoa học nói chung, và xã
hội học nói riêng của ông là nghiêm túc. Cũng vào thời điểm đó, ông bắt tay vào
việc “tẩy não” cho mình, nghĩa là Comte bắt đầu tránh đọc sách của những người
khác, kết quả là ông đã không còn nắm bắt được các phát triển mới về tri thức.
Từ sau 1838, ông bắt đầu phát triển những tư tưởng quái lạ của mình về cải tạo
xã hội đã được diễn tả trong Systeme de
Politique Positive. Comte tự tưởng tượng mình là một chức sắc cao cấp của
một tôn giáo mới của nhân loại; ông tin vào một thế giới cuối cùng sẽ được dẫn
dắt bởi các giáo sĩ - nhà xã hội học. (Comte đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi nền
tảng Thiên chúa giáo của ông.) Điều thú vị là, mặc dù có những tư tưởng quái lạ
như vậy, Comte cuối cùng đã phát triển được một số lượng kế thừa đáng kể ở
Pháp, cũng như ở một số nước khác.
August Comte qua
đời ngày 5/9/1857.
3
Emile Durkheim sinh ngày 15/4/1858 ở Epinal,
Pháp. Ông xuất thân từ một dòng dõi giáo sĩ
Do Thái lâu đời và bản thân cũng nghiên cứu để trở thành một giáo sĩ,
nhưng vào đầu thời kỳ thanh niên, ông đã kịch liệt chối bỏ giáo hội. Từ đó, mối
quan tâm cả đời của ông về tôn giáo là về mặt học thuật hơn là về mặt thần học.
Ông không chỉ không hài lòng với việc học tập tín ngưỡng của mình mà cả với nền
giáo dục phổ thông với sự đề cao các vấn đề văn chương và duy mỹ của nó. Ông
ước ao một nền giáo dục theo các phương pháp khoa học và các nguyên tắc luân lý
cần thiết để hướng đạo cho đời sống xã hội. Ông từ bỏ một sự nghiệp học thuật
truyền thống về triết học và thay vào đó, tìm cách đạt tới một học vấn khoa học
cần thiết để cống hiến cho việc hướng đạo luân lý đối với xã hội. Dù ông chú ý
tới khoa học xã hội, nhưng ở thời đó chưa có lĩnh vực xã hội học, nên thời kỳ
giữa 1882 và 1887, ông dạy triết học tại một số trường học địa phương trong
phạm vi Paris.
Niềm khao khát
của ông đối với khoa học càng bị kích thích hơn từ một chuyến đi sang Đức, ở đó
ông đã được tiếp xúc với khoa học tâm lý do Wilhelm Wundt khởi xướng. Trong
những năm tiếp theo chuyến đi này, Durkheim đã xuất bản một số lượng lớn các
công trình cơ bản của ông, trong đó một phần là những kinh nghiệm của ông ở Đức
. Các ấn phẩm này giúp ông kiếm được một chức vụ ở khoa triết trường ĐH
Bordeaux năm 1887. Ở đó, ông đã giảng bài đầu tiên về khoa học xã hội cho một
đại học ở Pháp. Nó đã thành công xuất sắc và gây ấn tượng, vì chỉ trước đó một
thập kỷ, một cuộc tranh cãi náo nhiệt đã nổ ra trong một trường đại học Pháp vì
sự lưu ý của August Comte tới luận văn
của một sinh viên. Dù sao, trách nhiệm chủ yếu của Durkheim là dạy các
khóa luận về sư phạm cho các giáo viên phổ thông, và khóa giảng quan trọng nhất
của ông thuộc về lĩnh vực đạo đức sư phạm. Mục tiêu của ông là truyền đạt một
hệ thống luân lý cho các nhà sư phạm, những người mà ông hy vọng rồi sẽ nỗ lực
truyền đạt nó lại cho giới thanh niên trẻ tuổi nhằm khắc phục sự suy đồi đạo
đức mà ông đã nhìn thấy xung quanh ông trong xã hội Pháp.
Những năm sau đó
là một chuỗi các thành công cá nhân đối với Durkheim. Năm 1893 ông xuất bản
luận án Tiến sĩ Pháp của mình, Sự phân
loại lao động trong xã hội, cùng với luận văn môn tiếng Latin về
Montesquieu. Phát biểu chủ yếu của ông về phương pháp luận, Luật của Phương pháp xã hội học, xuất hiện năm 1895, tiếp đó là
các ứng dụng thực nghiệm các phương pháp đó của ông trong quyển Sự tự
sát (1897). Trước 1896 ông đã là giáo sư thực thụ ở Bordeaux. Năm 1902 ông
được mời tới trường ĐH nổi tiếng Sorbonne, và năm 1906 ông được phong hàm Giáo
sư về khoa học sư phạm và xã hội học. Một công trình nổi tiếng khác của ông, Các hình thái nguyên sơ của đời sống tôn giáo,
được xuất bản năm 1912.
Ngày nay, người
ta thường nghĩ về Durkheim như là một nhà bảo thủ về chính trị, và tầm ảnh
hưởng của ông trong phạm vi xã hội học tất nhiên cũng mang tính chất bảo thủ.
Nhưng trong thời đại của mình, ông được coi là một người trung lập, điều này
được minh họa bởi vai trò công cộng tích cực của ông trong cuộc bảo vệ Alfred
Dreyfus, một đại úy quân đội người Do Thái đã bị khép án mưu phản tại Tòa quân
sự bởi những người theo phe chống chủ nghĩa Xe-míc.
Durkheim bị xúc
phạm sâu sắc bởi vụ Dreyfus, đặc biệt ở tính chất phản Xe-mít chủ nghĩa của nó.
Nhưng ông không quy tính chất này là chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở dân chúng
Pháp. Về đặc điểm, ông nhìn nhận nó như là một triệu chứng của sự bệnh hoạn về
đạo đức mà xã hội Pháp với ý nghĩa là một tổng thể phải đối mặt. Ông nói :
Khi xã hội chịu khổ đau, nó cảm thấy có nhu cầu tìm ra một ai đó
để qui trách nhiệm cho căn bệnh của nó, kẻ mà nó có thể trả đũa lại những bất
hạnh rủi ro của nó; và những gì chống lại kẻ mà công luận đã phân biệt đối
xử đương nhiên đã ấn định cho vai trò
này. Đã có những người cùng khổ với tư cách nạn nhân chứng tỏ. Cái mà tôi xác
định trong diễn dịch này là cách thức mà trong đó kết quả của vụ xét xử Dreyfus
được chào đón tung hô năm 1894. Một đợt sóng hân hoan dâng trào trên
khắp những đại lộ. Mọi người chào mừng như một chiến thắng cái mà lẽ ra phải là
nguyên nhân của một đám tang công cộng. Ít nhất họ đã biết được người chịu
trách nhiệm cho những khốn cùng đạo đức và vấn nạn kinh tế mà trong đó họ đang
sống. Can cớ đến từ người Do Thái. Lời buộc tội đã được chính thức chứng minh.
Bởi mỗi một sự kiện này, mọi sự dường như trở nên tốt hơn và người ta cảm thấy
an ủi lắm.
Như vậy, quan tâm
của Durkheim trong vụ Dreyfus bắt nguồn từ
mối quan tâm sâu sắc và kéo dài trọn đời của ông đối với đạo đức và sự
khủng hoảng đạo đức đang đối mặt với xã hội hiện đại.
Đối với Durkheim,
câu trả lời cho vụ Dreyfus và những cuộc khủng hoảng tương tự nằm ở cuối đường
của cơn hỗn loạn trong xã hội. Bởi vì việc này không thể tiến hành nhanh chóng
và dễ dàng được, Durkheim đưa ra những hành động cụ thể hơn, như nghiêm khắc trấn áp những kẻ kích động lòng
thù ghét lẫn nhau, và các nỗ lực của chính phủ để cho công chúng thấy họ đã lầm
lạc ra sao. Ông kêu gọi mọi người hãy
“dũng cảm lớn tiếng tuyên bố những gì họ
nghĩ, và hãy đoàn kết lại trong trật tự
nhằm giành lấy chiến thắng trong cuộc chiến đấu chống lại cơn điên cuồng
của quần chúng”.
Mối quan tâm của ông đối với chủ nghĩa xã hội
cũng được coi như là chứng cứ chống lại ý tưởng rằng ông là một người bảo thủ,
nhưng loại chủ nghĩa xã hội của ông rất khác so với loại mà Marx và những người
kế tục quan tâm. Thật sự, Durkheim gọi chủ nghĩa Marx là một tập hợp “những giả thuyết mong manh, không
chắc chắn và lỗi thời”. Đối với Durkheim, chủ nghĩa xã hội tiêu biểu cho một
phong trào hướng tới sự phục hồi đạo đức xã hội thông qua đạo đức khoa học, và
ông không chú ý tới những phương pháp chính trị ngắn hạn hoặc các khía cạnh
kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Ông không coi giai cấp vô sản là cứu tinh của xã
hội, và ông kịch liệt phản đối sự bạo động hay phiến loạn. Đối với ông, chủ
nghĩa xã hội rất khác với những gì mà chúng ta thường hình dung về nó; nó đơn
giản chỉ tiêu biểu cho một hệ thống trong đó ứng dụng các nguyên tắc đạo đức do
xã hội học phát hiện ra.
Durkheim, như
chúng ta sẽ thấy trong suốt quyển sách này, đã có một ảnh hưởng sâu sắc đến sự
phát triển xã hội học, nhưng ảnh hưởng của ông không chỉ giới hạn ở nó. Nhiều
tác động của ông đối với các lĩnh vực khác đến từ tạp chí L’année sociologique
mà ông sáng lập năm 1898. Quanh tờ tạp chí mà Durkheim là trung tâm của nó đã
lan tỏa một vòng âm ba tri thức. Thông qua nó, ông và những tư tưởng của ông
ảnh hưởng đến những lĩnh vực như nhân loại học, lịch sử, ngôn ngữ học - và, khá
là trớ trêu - khi nhớ lại cuộc tấn công ở thời kỳ trẻ tuổi của ông vào lĩnh vực
này – tâm lý học.
Durkheim qua đời
ngày 15/11/1917. Là một nhân vật lừng danh của giới trí thức Pháp, nhưng phải
đến hơn hai mươi năm sau đó, với sự xuất bản quyển Cấu trúc của hành động xã hội của Talcott Parson (1937), công trình
của ông mới trở nên có ảnh hưởng quan trọng đến xã hội học Mỹ.
4
Karl Marx ra đời ở Trier, nước Phổ, ngày
5/5/1818. Cha ông, một luật sư, tạo cho gia đình một nếp sống theo kiểu trung
lưu. Cả cha mẹ ông đều xuất thân từ các gia đình giáo sĩ, nhưng vì những lý do
làm ăn, người cha đã cải đạo sang Luther giáo khi Karl Marx còn rất trẻ. Năm
1841 Marx nhận học vị tiến sĩ triết học
của ĐH Berlin, một ngôi trường chịu ảnh hưởng lớn của Hegel và phái Hegel Trẻ –
ủng hộ nhưng có phê phán thầy của họ. Luận văn bảo vệ Tiến sĩ của Marx là một luận án triết học khô khan,
nhưng nó đã góp phần thúc đẩy nhiều tư tưởng về sau của ông. Sau khi tốt nghiệp,
ông trở thành một cây bút cho một tờ báo tự do cấp tiến, và chỉ trong vòng 10
tháng đã lên chức vị tổng biên tập tờ báo này. Tuy thế, vì các lập trường chính
trị của nó, tờ báo đã bị Chính phủ đóng cửa sau đó không lâu. Các tiểu luận đầu
tiên trong thời kỳ này bắt đầu phản ánh một số quan điểm đã dẫn dắt Marx suốt
đời. Chúng thấm nhuần các nguyên tắc dân chủ tự do, nhân bản chủ nghĩa và chủ
nghĩa duy tâm trẻ trung. Ông phản đối tính trừu tượng của triết học Hegel, một
giấc mơ ngây thơ về một chủ nghĩa cộng sản không tưởng, và những nhà hoạt động
đang xui giục kích động cái mà ông xem là những hành vi chính trị chưa tới độ
trưởng thành. Để phản đối những nhà họat động này, Marx đã đề ra nền tảng cho
công trình một đời tạo tác của mình:
Các nỗ lực thực hành, ngay khi tiến hành bởi quần chúng nhân dân,
cũng có thể được đáp lại bằng súng đại bác khi chúng trở nên nguy hiểm, nhưng
những tư tưởng đã chiến thắng trí năng của chúng ta và ngự trị niềm tin chắc
của chúng ta, các tư tưởng mà sự duy lý đã ấn định vào ý thức chúng ta, đó
chính là những sợi xích mà người ta không thể nới lỏng ra nếu không làm tan vỡ
trái tim mình; chúng là những yêu ma quỷ quái mà người ta chỉ có thể vượt qua
bằng mỗi cách qui phục chúng mà thôi.
Marx lập gia đình năm 1843 và sau đó không lâu buộc phải rời khỏi
Đức để tìm đến một bầu không khí tự do hơn ở Paris. Ở đó, ông tiếp tục nắm bắt
những tư tưởng của Hegel và những người ủng hộ, nhưng ông cũng tiếp xúc với hai
hệ tư tưởng mới – Chủ nghĩa xã hội Pháp và Kinh tế chính trị Anh. Đó là con
đường thống nhất trong đó ông kết hợp thuyết Hegel, chủ nghĩa xã hội và kinh tế
chính trị đã hình thành định hướng trí thức của ông. Một sự kiện rất quan trọng
khác ở thời điểm này là việc gặp gỡ một người sau đó trở thành người bạn suốt
đời, người ân nhân và người cộng sự của ông - Friedrich Engels. Là con của một
nhà sản xuất nguyên liệu dệt may, Engels đã trở thành một nhà phê phán xã hội
chủ nghĩa đối với các điều kiện mà giai cấp công nhân đang đối mặt. Phần lớn
những đồng cảm với sự khốn cùng của giai cấp công nhân của Marx xuất phát từ
cuộc tiếp xúc với Engels và những tư tưởng của ông. Năm 1844, hai người đã có
một cuộc trò chuyện khá dài tại một quán café nổi tiếng ở Paris và đã đặt nền
móng cho mối cộng tác cả đời của họ. Trong cuộc trò chuyện này, Engel nói: “Sự
nhất trí hoàn toàn giữa chúng tôi trong mọi lĩnh vực lý thuyết đã trở nên hiển
nhiên… và mối quan hệ làm việc của chúng tôi đã được xác định từ ngày đó.” Trong những năm tiếp theo, Engel xuất bản một
tác phẩm đáng chú ý, quyển Điều kiện của
giai cấp công nhân ở Anh Quốc. Trong thời gian này Marx đã xuất bản một số
tác phẩm sâu sắc, bao gồm Gia đình thần
thánh và Hệ tư tưởng Đức (cả hai
đều đồng tác giả với Engels), ông cũng cho ra đời quyển Các bản thảo về Kinh tế và Triết học năm 1844, tác phẩm đã dự báo sự quan tâm ngày càng tăng đến lĩnh
vực kinh tế của ông.
Trong lúc Marx và Engels cùng chia sẻ một định hướng lý thuyết,
giữa hai người cũng có rất nhiều khác biệt, Marx có khuynh hướng thiên về lý
thuyết, một trí thức vô trật tự và một định hướng về gia đình mình, Engels lại
là một tư tưởng gia thực hành, một doanh nhân chu đáo ngăn nắp, và một kẻ không
tin vào thiết chế của gia đình. Dù có những khác biệt, Marx và Engels tiến bước
trong mối đoàn kết thân thiết, cộng tác với nhau viết sách, báo, và cùng làm
việc cho các tổ chức cấp tiến, và Egels thậm chí còn hỗ trợ Marx trong suốt
phần đời còn lại để ông có thể hiến trọn đời mình cho những nỗ lực trí thức và
chính trị.
Bất chấp mối quan
hệ thân thiết giữa hai cái tên Marx và Egels, Engels vẫn xác định rõ ông là
thành viên thứ yếu:
“Marx rất có thể hoàn thành
tốt công việc mà không cần đến tôi. Những điều Marx đã hoàn thành tôi không sao
đạt được. Marx đứng cao hơn, nhìn xa hơn và có một quan điểm rộng rãi linh hoạt
hơn tất cả chúng ta. Marx là một thiên tài.”
Thật sự, nhiều người tin rằng Engels đã không hiểu được nhiều chi
tiết tinh tế trong tác phẩm của Marx. Sau khi Marx chết, Engels trở thành phát
ngôn viên dẫn đầu cho học thuyết của Marx và trong nhiều cách đã làm nó bị bóp
méo, giản đơn hóa rất nhiều, dù ông còn duy trì niềm tin vào viễn cảnh chính
trị mà ông đã hướng tới với Marx.
Vì một số tác
phẩm của ông làm chính phủ Phổ khó chịu, chính phủ Pháp (theo yêu cầu của Phổ)
đã trục xuất Marx vào năm 1845, và ông chuyển tới Brussels. Thuyết cấp tiến của
ông lớn dần, và ông trở thành một thành viên tích cực của phong trào cách mạng
quốc tế. Ông cũng cộng tác với Liên đoàn Cộng sản và được yêu cầu viết một văn
bản trình bày các mục tiêu và niềm tin của nó. Kết quả là Bản Tuyên ngôn cộng sản vào năm 1848, một
tác phẩm có đặc tính là đưa vào rất nhiều khẩu hiệu chính trị (ví dụ, “Công
nhân các nước đoàn kết lại!”)
Năm 1849, Marx
chuyển tới London và dưới sự thất bại của những cuộc cách mạng chính trị năm
1848, ông bắt đầu rút lui khỏi hoạt động chính trị và bắt đầu nghiêm túc nghiên
cứu các công xuởng của hệ thống tư bản chủ nghĩa. Năm 1852, ông thực hiện các
cuộc nghiên cứu nổi tiểng ở Bảo tàng viện Anh về các điều kiện lao động trong
chủ nghĩa tư bản. Những nghiên cứu này cuối cùng đã hình thành bộ ba tác phẩm Tư bản, quyển đầu xuất bản năm 1867; hai
quyển kia xuất bản sau khi ông chết. Ông sống trong nghèo khó suốt những năm
đó, cố xoay sở bằng một món thu nhập nhỏ nhoi từ bài viết và hỗ trợ của Engels.
Năm 1864, Marx trở lại hoạt động chính trị bằng cách gia nhập Quốc tế, một tổ chức của phong trào công
nhân quốc tế. Chẳng bao lâu, ông đã nổi lên hàng đầu trong phong trào và cống
hiến nhiều năm cho nó. Ông trở nên danh tiếng vừa với tư cách là người lãnh đạo
Quốc tế vừa là tác giả cuốn Tư bản.
Nhưng sự tan rã của Quốc tế vào 1876,
sự thất bại của nhiều phong trào cách mạng, và căn bệnh riêng đã hủy hoại Marx.
Vợ ông mất năm 1881, một người con gái năm 1881 và bản thân Marx qua đời ngày
14/3/1883.
5
Max Weber sinh ở Refurt, Đức ngày 21/4/1864,
trong một gia đình trung lưu. Sự khác biệt quan trọng giữa bố mẹ đã tạo ra một
tác động sâu sắc đối với cả định hướng tri thức và sự phát triển tâm thần của
ông. Bố ông là một quan chức có một địa
vị tương đối quan trọng về chính trị. Rõ ràng ông ta là một bộ phận của thể chế
chính trị và kết quả là ông lánh xa mọi hoạt động có tính cách lý tưởng đòi hỏi
một đức hy sinh cá tính hoặc đe dọa tới địa vị của ông trong hệ thống. Ngoài
ra, bố của Weber còn là một con người ưa hưởng thụ mọi khoái lạc trần gian, và
theo cách đó, ông hoàn toàn trái hẳn với vợ mình. Mẹ của Weber là một tín đồ Canvin mộ đạo, một phụ nữ hướng về cuộc sống khổ hạnh không có một niềm vui nào như nỗi thèm khát
của chồng bà. Mối quan tâm của bà thuộc về một thế giới khác: bà phiền muộn vì
sự bất toàn đã chỉ cho bà thấy bà không được dành cho sự cứu rỗi. Những khác
biệt sâu sắc này giữa hai vợ chồng đã tạo ra một sự căng thẳng trong quan hệ,
và cả những khác biệt cùng sự căng thẳng này có một tác động lớn đến Weber.
Vì không thể cạnh
tranh với bố mẹ, Weber chỉ thể hiện là một đứa con. Đầu tiên, dường như ông
chọn định hướng của bố cho mình, nhưng về sau ông ngày càng gần với mẹ hơn. Dù có sự chọn lựa nào,
sự căng thẳng bởi nhu cầu phải chọn giữa hai cực đối nghịch như thế đã tác động
một cách tiêu cực đến tâm thần của Weber.
Năm 18 tuổi, Max
Weber rời nhà một thời gian ngắn để dự học ở trường ĐH Heldelberg. Ông vốn phát
triển sớm về trí thức, nhưng ở mức độ xã hội, ông nhập trường đại học một cách
rụt rè và chậm phát triển. Tuy nhiên, việc này nhanh chóng thay đổi khi ông
hướng về lối sống của bố mình, tham gia vào nhóm của ông. Ở đó ông phát triển
về mặt xã hội, ít nhất là phần nào vì số bia nhiều vô số kể mà ông tiêu thụ
cùng bạn bè trang lứa. Ngoài ra, ông tự hào khoe những vết thẹo đánh nhau vốn
là bằng cứ cho những nhóm hội đoàn. Weber không chỉ biểu lộ sự đồng nhất với
cách sống của bố mà còn chọn, ít nhất là
ở thời điểm đó, nghề nghiệp của bố ông - nghề luật.
Sau ba học kỳ,
Weber rời trường để thực hiện nghĩa vụ quân sự, năm 1884 ông trở lại Berlin và
về nhà bố mẹ để theo học tại ĐH Berlin. Ông ở đó suốt 8 năm kế tiếp cho tới khi
hoàn tất việc học, đạt học vị tiến sĩ, trở thành một luật sư, và khởi sự dạy
học ở ĐH Berlin. Trong quá trình này, mối quan tâm của ông chuyển sang những
quan tâm trọn đời - kinh tế học, lịch sử, và xã hội học. Trong 8 năm ở Berlin,
Weber phụ thuộc vào bố về tài chính, một tình trạng mà ông ngày càng không
thích. Đồng thời, ông tiến gần hơn về phía các giá trị của mẹ, trong khi ác cảm
với bố tăng dần. Ông theo một lối sống khổ hạnh và chìm đắm vào công việc. Ví
dụ, trong một học kỳ thời sinh viên, thói quen của ông được diễn tả như sau :
“Ông tiếp tục theo kỷ luật làm việc khắt khe, qui định đời mình bằng chiếc đồng
hồ, chia công việc hàng ngày ra từng phần chính xác trong nhiều mặt khác nhau,
dành dụm theo cách của mình bằng cách ăn tối trong phòng với một cân bò bíp tết
và bốn quả trứng.” ( Mitzman) Như vậy,
Weber, theo mẹ mình, đã trở nên người làm việc khổ hạnh và cần mẫn, tự ép buộc
mình- nói theo kiểu đương thời là một “người tham công tiếc việc”.
Sự lao động ép
xác này đưa lại một chức vụ giáo sư về kinh tế học ở ĐH Heidelberg vào năm
1896. Nhưng năm 1897, khi sự nghiệp của ông bắt đầu khởi sắc, bố của ông mất
sau một vụ cãi nhau nghiêm trọng với ông. Không lâu sau đó, Weber bắt đầu bộc lộ những triệu chứng mà tột đỉnh của
chúng là một cơn đột qụy thần kinh. Thường không thể ngủ hoặc làm việc, Weber
trải qua 6 hoặc 7 năm kế tiếp trong tình trạng hầu như suy sụp hoàn toàn. Sau
một thời gian dài gián đoạn, một số năng lực của ông bắt đầu trở lại vào năm
1903, nhưng chỉ năm 1904, khi ông được giao cho dạy (ở Mỹ) khóa giảng đầu tiên
trong 6 năm rưỡi, Weber mới bắt đầu trở lại cuộc sống học thuật tích cực. Năm
1904 và 1905, ông xuất bản một trong những tác phẩm được biết nhiều nhất của
mình, cuốn Đạo đức của tín đồ Tin Lành và
tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Trong tác phẩm này, Weber công bố uy thế
của tôn giáo của mẹ mình ở cấp độ hàn lâm học thuật. Weber dành phần lớn đời
mình để nghiên cứu tôn giáo, dù bản thân ông không phải là một tín đồ.
Mặc dù ông tiếp
tục bị hành hạ bởi những vấn đề tâm thần, sau 1904 Weber đã có khả năng thực sự
sản sinh ra một trong những tác phẩm quan trọng nhất của minh. Trong mấy năm
đó, Weber xuất bản những nghiên cứu của ông về các tôn giáo trên thế giới theo
một viễn tượng thế giới - lịch sử (ví dụ, Trung Quốc, Ấn Độ, và Do Thái cổ). Vào
lúc sắp chết (14/7/1920) ông đang viết tác phẩm quan trọng nhất của mình, Kinh tế và Xã hội. Dù cuốn sách này được
xuất bản, và được dịch ra nhiều thứ tiếng, nó chưa được hoàn thành.
Ngoài việc viết
vô số tác phẩm, trong thời kỳ này Weber thực hiện một số hoạt động khác. Ông
góp phần thành lập GSS vào năm 1910. Nhà ông trở thành trung tâm của nhiều nhà
trí thức, bao gồm những nhà xã hội học như Georg Simmel, Robert Michels và
Alfred, anh ông ta, cũng như nhà triết
học và phê bình văn học Georg Lukács. Ngoài ra, Weber còn là một chính trị gia
tích cực và viết nhiều luận văn về các vấn đề thời đó.
Trong cuộc đời Weber có một mối căng thẳng, và
quan trọng hơn, cả trong tác phẩm của ông, giữa một trí óc quan lại, tiêu biểu
là cha ông, và sự sùng đạo của mẹ ông. Mối căng thẳng không thể giải quyết này
thấm vào tác phẩm của Weber cũng như nó đã thấm vào cuộc đời ông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét