Nguyễn Thành Nhân trích dịch
(Từ Modern Sociological Theory của George Ritzer)
6
Georg Simmel sinh ở trung tâm Berlin ngày
1/3/1858. Ông nghiên cứu một loạt đề tài khác nhau ở ĐH Berlin. Tuy nhiên, nỗ
lực đầu tiên của ông để làm ra một bài luận văn đã bị loại, và một trong những
giáo sư của ông đã nhận xét: “Chúng ta sẽ làm cho cậu ta một điều tốt nếu chúng
ta không khuyến khích cậu ta đi xa hơn theo hướng này.” Dù vậy, Simmel vẫn kiên
trì và nhận học vị tiến sĩ triết học vào năm 1881. Ông ở lại trường làm giảng
viên cho tới năm 1914, mặc dù ông giữ một vị trí tương đối không quan trọng là
giảng viên ngoại ngạch từ 1885 tới 1900. Ở vị trí sau, Simmel làm việc như là
một giảng viên không lương, đời sống phụ thuộc vào khoảng học phí sinh viên
đóng góp. Dù đứng ngoài lề, Simmel vẫn làm khá tốt ở vị trí này, phần lớn bởi
vì ông là một giảng viên giỏi và thu hút một số đông sinh viên. Phong cách của
ông phổ thông đến nổi ngay cả những thành viên văn hóa của Hiệp hội Berlin cũng
bị lôi kéo tới những buổi giảng của ông, cái đã trở thành những sự kiện công
cộng.
Sự ngoài lề của
Simmel song hành với sự thật rằng ông có hơi mâu thuẫn và do vậy là con người
hay gây hoang mang cho kẻ khác: Nếu chúng ta đặt lại bên nhau các chứng cứ do
những bạn bè, họ hàng, sinh viên, người cùng thời với ông để lại, chúng ta sẽ
tìm thấy những biểu thị đôi khi mâu thuẫn nhau có liên quan đến Georg Simmel.
Một số mô tả ông là người cao và mảnh khảnh, một số khác lại nói ông thấp và có
vẻ cô đơn khắc khổ. Ngoại hình của ông được tả là không hấp dẫn, kiểu điển hình
Do Thái, nhưng cũng rất có vẻ trí thức và cao quý. Người ta thuật lại là ông làm
việc rất cần mẫn, nhưng cũng rất vui vẻ và lưu loát với tư cách giảng viên.
Cuối cùng, chúng ta nghe nói rằng ông rất thông minh sáng chói, thân thiện, dễ
gần, nhưng cũng lại có người nói rằng về nội tâm ông rất phi lý, trì trệ và
ngông cuồng phóng túng.
Simmel viết vô số
bài báo (Tờ Metropolis và Mental Life) và sách (Triết học của kim tiền). Ông
nổi danh trong giới học giả Đức và thậm chí còn có một lớp học trò quốc tế, đặc
biệt là ở Mỹ, nơi mà tác phẩm của ông có ý nghĩa rất quan trọng trong buổi khai
sinh của xã hội học. Cuối cùng, năm 1900, Simmel được chính thức công nhận một
danh hiệu danh dự thuần túy ở ĐH Berlin, nơi đã không cho ông một tư cách hàn
lâm toàn vẹn.
Simmel cố gắng
đạt được nhiều học vị hàn lâm, nhưng ông thất bại mặc dù có sự hỗ trợ của những
học giả như Max Weber.
Một trong những
nguyên nhân thất bại là vì ông là một người Do Thái trong một nước Đức ở thế kỷ
19 đầy rẫy những người chống chủ nghĩa Se-mít. Do vậy, trong một báo cáo về
Simmel gửi cho một bộ trưởng giáo dục, ông được mô tả là “Y hoàn toàn là một
người Israel ở ngoại hình, tác phong và kiểu cách tư duy.” Một nguyên nhân khác
là loại công việc mà ông làm. Nhiều bài báo của ông xuất hiện trên báo chí và
tạp chí; chúng được viết cho một lượng người đọc đông đảo hơn là những nhà xã
hội học hàn lâm. Ngoài ra, vì ông không được bổ nhiệm một chức vụ thường trực,
ông buộc phải kiếm sống bằng những bài giảng trước công chúng. Những khán giả
và độc giả của ông là một công chúng trí thức hơn là những nhà xã hội học
chuyên nghiệp, và điều này dẫn tới những phê phán chế giễu từ những nhà chuyên
nghiệp. Ví dụ, một trong những người đương thời chỉ trích ông bởi vì “ảnh hưởng
của ông ta còn… trên bầu không khí chung và bị tác động bởi, trên hết, những
cấp độ cao hơn của nghề viết báo chí.” Những thất bại cá nhân của Simmel cũng
có thể nối kết với sự đánh giá thấp của những viện sĩ hàn lâm ở Đức thời đó đối
với môn xã hội học.
Năm1914 Simmel cuối cùng đạt được một bổ nhiệm
thường xuyên ở một trường đại học thứ yếu (Strasbourg), nhưng ông một lần nữa
lại cảm thấy bị xa lánh. Mặt khác, ông hối tiếc vì đã rời bỏ số khán thính giả
trí thức ở Berlin. Do đó, vợ ông đã viết cho Max Weber: “Georg đã buộc phải rời
bỏ một thính phòng một cách tồi tệ… Các sinh viên rất bị cuốn hút và đồng cảm…
Đây là một sự khởi hành ở dốc cao của cuộc đời”. Mặt khác, Simmel không cảm
thấy mình là một bộ phận của cuộc sống của trường đại học mới. Ông viết cho bà
Weber: “Hầu như chúng tôi không có gì để kể. Chúng tôi sống một cuộc sống như
trong nhà tu kín, bưng bít như nhau, cô đơn quạnh vắng. Hoạt động học thuật là
con số không, mọi người xa lạ và chứa đầy thù ghét bên trong.”
Thế chiến I bắt
đầu chẳng bao lâu sau khi Simmel được bổ nhiệm tới Strasbourg; giảng đường trở
thành bệnh viện dã chiến, và các sinh viên ra trận. Do đó, Simmel vẫn là một kẻ
ngoài lề của giới hàn lâm Đức cho tới lúc chết vào năm 1918. Ông chưa từng có
một sự nghiệp học thuật bình thường. Dù sao, ông đã lôi cuốn được một lượng lớn
môn sinh vào thời của mình, và danh vọng với tư cách là nhà học giả của ông đã
lớn lên theo năm tháng.
7
Một nhân vật dẫn đầu khác trong khoa học xã hội
Đức vào cuối những năm 1800 đầu những
năm 1900 là Sigmund Freud. Mặc dù ông không phải là một nhà xã hội học, Freud
chịu ảnh hưởng các tác phẩm của nhiều nhà xã hội học (ví dụ, Tacott Parsons và
Nobert Elias) và tiếp tục gần gũi với những nhà xã hội học.
Ông ra đời ở thành phố Freibeg thuộc Áo-Hung
ngày 6/5/1856. Năm 1859, gia đình ông chuyển tới Vienna, và năm 1873, Freud
nhập học trường y của Đại học Vienna. Freud thích khoa học hơn là y học và
chiếm một chỗ trong phòng thí nghiêm sinh học. Ông hoàn tất bằng y khoa, và sau
khi rời phòng thí nghiệm vào năm 1882, ông làm việc trong một bệnh viện và
thiết lập một phương pháp y học thực hành với chuyên ngành bệnh thần kinh.
Đầu tiên Freud sử dụng thôi miên để cố gắng xử
lý một kiểu loạn thần kinh chức năng được biết là chứng hysteria. Ông đã học được kỹ thụật này từ Jean Martin
Charcot ở Paris năm 1995. Sau đó ông theo một kỹ thuật mà người tiên phong là
một vật lý gia ở Vienna, Joseph Breuer, trong đó các triệu chứng của bệnh
hysteria biến mất khi bệnh nhân nói lại những trạng huống mà trong đó những
triệu chứng bệnh đã nảy sinh lần đầu tiên. Trước năm 1895, Freud xuất bản một
cuốn sách cùng Breuer với một số gợi ý cách mạng: rằng các nguyên nhân của
những chứng loạn thần kinh chức năng như hysteria là về mặt tâm thần (chứ không
phải là về mặt sinh học như mọi người vẫn tin) và rằng liệu pháp bao gồm việc
nói lại các nguyên nhân nguồn gốc. Từ đó lĩnh vực lý thuyết và thực hành của
một môn phân tâm học đã ra đời. Freud bắt đầu cộng tác với Breuer khi ông đi
đến xem các nhân tố về tính dục, hoặc nói chung hơn là libido, là nguồn gốc của chứng loạn thần kinh chức năng. Trong
nhiều năm kế tiếp, Freud cải tiến những kỹ thuật trị liệu của ông và viết nhiều
về những tư tưởng mới của mình.
Năm 1902, Freud bắt đầu tập hợp một số học trò
lại, gặp gỡ nhau hàng tuần ở nhà ông. Từ 1903 tới 1904, những người khác (như
Carl Jung) bắt đầu sử dụng các ý tưởng của Freud trong những thực hành phân tâm
của họ. Năm 1908, một đại hội các nhà phân tâm học đầu tiên được tổ chức, và
năm kế tiếp, một định kỳ để phổ biến các kiến thức phân tâm học được hình
thành. Cũng nhanh như lúc hình thành, lĩnh vực mới của phân tâm học bị tản mác
khi Freud cắt đứt với những người như Jung và họ bỏ đi để phát triển những ý
tưởng riêng của mình, thành lập những nhóm riêng. Thế chiến I làm chậm lại tiến
triển của môn phân tâm học, nhưng nó mở rộng và phát triển mạnh trong những năm
1920. Với sự ra đời của chủ nghĩa quốc xã, trung tâm của phân tâm học chuyển
sang Mỹ, nơi nó tồn tại cho tới nay. Nhưng Freud vẫn ở lại Vienna cho tới khi
bọn quốc xã nắm quyền năm 1938, mặc dù ông là người Do Thái và bọn quốc xã đã
đốt những sách của ông từ đầu 1933. Ngày 4/6/1938, sau khi trả một món tiền
chuộc và có sự can thiệp của Tổng thống Roosevent, Sigmund Freud rời Vienna.
Ông đã chịu một cơn đau do ung thư hàm từ năm 1923, và ông mất ở London ngày
23/9/1939.
8
Herbert Spencer sinh ở Derby, Anh Quốc ngày
27/4/1820, ông không được học về các bộ môn nghệ thuật và nhân loại học, mà chỉ
các vấn đề kỹ thuật và thực tế. Năm 1837 ông bắt đầu làm việc với tư cách kỹ sư
dân sự cho một công ty hỏa xa, một nghề mà ông làm cho đến năm 1846. Trong thời
kỳ này, Spencer tiếp tục tự nghiên cứu và bắt đầu cho xuất bản các tác phẩm
khoa học và chính trị.
Năm 1848, Spencer được bổ nhiệm chức vụ biên tập
của tờ The Economist, và các ý tưởng của ông bắt đầu cô đúc lại. Năm 1850, ông
hoàn thành tác phẩm chủ yếu đầu tiên, Tĩnh
học xã hội. Trong lúc viết tác phẩm này, lần đầu tiên Spencer đã trải qua
chứng mất ngủ, và theo thời gian các vấn đề thể chất và tâm thần của ông ngày
càng tăng lên. Ông cũng trải qua một loạt cơn đột quỵ thần kinh trong phần đời
còn lại.
Năm 1853, Spencer nhận được một khoản di sản cho
phép ông thôi việc và sống hết phần đời còn lại với tư cách một học giả. Ông
chưa từng nhận được một chứng chỉ đại học hoặc một địa vị hàn lâm nào. Khi ngày
càng hiu quạnh và các bệnh tật về thể chất và tâm thần tăng lên, ông lại sáng tạo
nhiều tác phẩm học thuật hơn. Cuối cùng, Spencer bắt đầu đạt được danh vọng
không chỉ ở Anh mà cả trên thế giới. Như Richard Hostadter nói: “Trong ba thập
kỷ sau Thế chiến I, không thể nào hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực tri thức nào
mà lại không thấy bậc thầy Spencer.” Trong số những người ủng hộ ông là nhà
công nghiệp quan trọng Andrew Carnegie, người đã viết cho ông những dòng sau
trong cơn bệnh cuối cùng của ông vào năm 1903:
Thầy kính mến… thầy đến với tư duy của con mỗi ngày, và câu hỏi
bất tận “tại sao” lại dâng lên - Tại sao ông ta nằm? Tại sao ông ta phải đi?…
Thế giới chậm chạp lê bước mà không nhận ra trí tuệ vĩ đại nhất của nó… Nhưng
một ngày nào đó nó sẽ thức giấc và ghi nhận chỗ đứng cho Spencer ở nơi cao cả
nhất.”
Nhưng đó không phải là số phận của Spencer.
Một trong những đặc tính thú vị nhất của
Spencer, cái mà cuối cùng làm cho ông giảm bớt thanh danh, là việc ông không
sẵn lòng đọc tác phẩm của những người khác. Ở sự kiện này, ông tương tự như một
người vĩ đại khác của xã hội học, August Comte, kẻ đã thực hiện việc “tẩy não”.
Về nhu cầu đọc tác phẩm của người khác, Spencer nói” “Cả đời tôi, tôi đã là một
nhà tư tưởng chứ không phải là một độc giả, để có thể trả lời với Hobles rằng
nếu tôi đọc nhiều như những người khác, hẳn là tôi đã hiểu biết ít đi.” Một
người bạn hỏi ý kiến của Spencer về một cuốn sách và “câu trả lời của ông là
khi nhìn vào cuốn sách ông trông thấy tính chất cốt yếu làm ra vẻ của nó là một
sự sai lầm, và do vậy, không lưu tâm đến việc đọc nó.” Một tác giả viết về
Spencer: “Không thể hiểu được cái cách thức hấp thu kiến thức qua năng lượng
của làn da của ông… ông dường như không hề đọc sách.”
Nếu ông không đọc tác phẩm của những học giả
khác, vậy thì ông đã lấy đâu ra các ý tưởng và những hiểu biết sâu sắc? Theo
Spencer, chúng phát sinh một cách tự nhiên và trực giác từ trí óc của ông. Ông
nói rằng các ý tưởng sinh ra dần dần, theo những cách không dễ hình dung, không
hề có một dự tính hoặc cố gắng đáng kể nào.” Trực giác đó dường như với Spencer
có hiệu quả hơn nghiên cứu và suy nghĩ cẩn thận: “Một giải pháp tới theo cách
đã diễn tả có vẻ chân thật hơn là một giải pháp tới do sự nỗ lực theo đuổi; nó
(thường) tạo ra sự xuyên tạc của tư duy.”
Spencer gánh chịu đau khổ do sự không sẵn lòng
nghiêm túc đọc tác phẩm của người khác. Thật sự, nếu ông đọc tác phẩm của một
người nào đó, thường là để xác nhận lại các ý tưởng đã được sáng tạo một cách
độc lập của ông. Ông bỏ qua những ý tưởng không đồng ý với ông. Do đó, một
người cùng thời, Charles Darwin, đã nói về Spencer: “Nếu ông ta tập cho mình
quan sát nhiều hơn, thậm chí ngay cả ở cái giá của việc mất mát đi một số năng
lực tư duy, ông hẳn sẽ là một con người tuyệt diệu.” Việc Spencer không quan
tâm đến các quy tắc của giới học giả đã đưa ông tới chỗ có những ý tưởng lạ
thường và những xác quyết vô căn cứ về sự tiến hóa của thế giới. Vì những lý do
trên, các nhà xã hội học ở thế kỷ 20 đã loại bỏ tác phẩm của Spencer để thay
vào đó một nghiên cứu thực nghiệm cẩn thận và có tính học thuật hơn.
Spencer qua đời ngày 8/12/1903.
9
Robert Park không đi theo con đường sự nghiệp
của một nhà xã hội học điển hình - cao đẳng, tốt nghiệp, giáo sư. Thay vì vậy,
ông theo một nghề nghiệp khác trước khi trở thành nhà xã hội học khá muộn màng.
Dù khởi sự muộn, Park có ảnh hưởng sâu
sắc đến xã hội học nói chung và về lý thuyết nói riêng. Những kinh nghiệm phong
phú của Park giúp ông có một định hướng hơi lạ thường đối với cuộc đời, và lập
trường này cũng đã định hình trường phái Chicago, thuyết tương tác biểu tượng,
và, cuối cùng, một vị trí vững chắc của môn xã hội học.
Park sinh ở Harveyville, Pennsylvania ngày
14/3/1864. Là một sinh viên của ĐH Michigan, ông được tiếp xúc với một số nhà
tư tưởng lớn, như John Dewey. Mặc dù bị khích động bởi các tư tưởng, Park cảm
thấy có một nhu cầu làm việc trong thế giới thực tại mạnh mẽ. Ông nói: “Tôi
quyết định trải qua kinh nghiệm vì chính nó, để tập trung vào tâm hồn tôi… mọi vui buồn của thế gian.” Sau khi tốt
nghiệp, ông bắt đầu sự nghiệp với nghề làm báo, nghề đã tạo cho ông một cơ may
tốt trong thực tại. Ông rất thích mạo hiểm (“ truy lùng các ổ cờ bạc và các
tiệm thuốc phiện”). Ông viết về đời sống thành phố với các chi tiết sống động.
Ông lao vào lĩnh vực đó, quan sát và phân tích, để cuối cùng viết ra những gì
quan sát được. Thực tế, về cơ bản ông thực hiện một loại nghiên cứu (“báo cáo
khoa học”) đã trở thành một trong những chỉ dấu tiêu chuẩn của xã hội học
Chicago - đó là dân tộc học đô thị, vận dụng các kỹ thuật quan sát các thành
viên.
Dù sự mô tả chính xác đời sống xã hội vẫn còn là
một trong những đam mê của ông, Park ngày càng thất vọng với công việc báo chí,
vì nó không đáp ứng cho gia đình ông, và quan trọng hơn, các nhu cầu trí thức
của ông. Ngoài ra, dường như nó không góp phần
vào sự cải thiện thế giới, còn ông thì có một quan tâm sâu sắc vào việc
cải cách xã hội. Năm 1898, ở tuổi 34, Park rời bỏ nghề báo và trở thành thành
viên của phân khoa triết học ĐH Harvard. Ông ở đó một năm, rồi quyết định sang
Đức, lúc bấy giờ là trung tâm tri thức của thế giới. Ở Berlin, ông gặp Georg
Simmel, người đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với xã hội học của ông. Thật sự, các
bài giảng của Simmel là sự huấn luyện xã hội học chính thức duy nhất mà Park nhận được. Ông nói: “Tôi thu được
kiến thức về xã hội và bản chất con người từ những quan sát riêng của tôi.” Năm
1904, Park hoàn thành luận án tiến sĩ ở ĐH Heidelberg. Một sự lạ lùng là ông
không hài lòng với luận án của mình” “Tất cả những gì tôi phải đưa ra là cuốn
sách nhỏ bé đó và tôi rất xấu hổ vì nó”. Ông từ chối công việc giảng dạy mùa hè
ở ĐH Chicago và bỏ sự nghiệp hàn lâm cũng như trước đó đã bỏ nghề báo.
Nhu cầu cống hiến cho cải thiện xã hội dẫn ông
trở thành thư ký và chánh văn phòng cho Hội Cải cách Congo, được thành lập để
làm giảm bớt sự tàn bạo và bóc lột khi đó đang diễn ra ở Congo thuộc Bỉ. Trong
thời gian này, ông gặp Booker T. Washington, và ông bị thu hút bởi mục tiêu cải
thiện của đại đa số người Mỹ da đen. Ông trở thành thư ký của Washington và
đóng vai trò chủ chốt trong hoạt động của học viện Tuskegee. Năm 1912 ông gặp
W.I. Thomas, nhà xã hội học Chicago, đang giảng ở học viện Tuskegee. Thomas mời
ông giảng một khóa về đề tài “Người da
đen ở Mỹ” cho một nhóm nhỏ các nghiên cứu sinh viên ở Chicago, và Park đã
làm điều này năm 1914. Khóa giảng rất thành công, và ông lặp lại vào năm sau
cho một lượng nguời nghe đông gấp đôi. Vào lúc này, ông gia nhập Hiệp hội xã
hội học Mỹ, và chỉ một thập kỷ sau đó ông trở thành chủ tịch của nó. Park dần
dần được bổ nhiệm toàn thời gian ở ĐH Chicago, dù ông không có bằng giáo sư cho
đến năm 1923, khi ông đã 59 tuổi. Trong khoảng 20 năm từ khi tham gia ĐH
Chicago, ông đóng một vai trò chủ chốt trong việc xác định định hướng trí thức
của phân khoa xã hội học.
Park vẫn là một kẻ long đong ngay cả sau khi về
hưu vào đầu 1930. Ông giảng một số khóa và giám thị việc nghiên cứu tại ĐH Fisk
cho tới khi ông gần 80 tuổi. Ông đi du lịch rất nhiều. Ông qua đời ngày
7/3/1944, một tuần trước ngày sinh nhật 80 tuổi.
10
PITIRIM A. SOROKIN
Pitirim Sorokin ra đời tại một làng quê xa xôi ở
Nga ngày 12/1/1889. Trong thời thanh niên, là một sinh viên trường dòng,
Sorokin bị bắt giữ vì những hoạt động cách mạng và bị nhốt bốn tháng. Cuối
cùng, Sorokin dời tới ĐH St. Peterburg, và giữa các nghiên cứu cần mẫn, các khả
năng sư phạm, các hoạt động cách mạng một lần nữa đưa ông vào tù một thời gian
ngắn. Luận văn tốt nghiệp của Sorokin được bố trí bảo vệ vào tháng 3/1917,
nhưng trước khi cuộc thi diễn ra, Cách mạng Nga bùng nổ. Sorokin không thể lấy
bằng tiến sĩ cho tới năm 1922. Hoạt động cách mạng, nhưng chống lại phe
Bolshevik, Sorokin nắm một chức vụ trong chính phủ lâm thời Kerensky. Khi phe
vô sản Nga thắng lợi, Sorokin lại bị tù, lần này trong tay những người vô sản.
Cuối cùng, dưới chỉ thị trực tiếp của Lenin, Sorokin được phóng thích và cho
phép quay lại trường đại học. Tuy nhiên, công việc của ông bị kiểm duyệt và ông
bị quấy rầy bởi mật vụ. Cuối cùng Sorokin được phép rời Nga, và sau một thời
gian lưu lại Tiệp Khắc, ông tới Mỹ vào tháng 10/1923.
Đầu tiên, Sorokin giảng tại nhiều trường đại
học, nhưng cuối cùng ông được bổ nhiệm một vị trí ở ĐH Minesota, chẳng bao lâu
ông trở thành giáo sư chính thức. Trước đó, Sorokin đã xuất bản nhiều tác phẩm
ở Nga, ông tiếp tục viết với một tỷ lệ đáng kinh ngạc ở Mỹ. Về hoạt động viết
lách của mình ở Minesota, ông nói: “Tôi biết nó đã vượt quá những tác phẩm lao
tác một đời của một nhà xã hội học bình thường”. Những cuốn như Tính
lưu động của xã hội và Các lý thuyết
xã hội học đương thời tạo cho ông một tiếng tăm trong nước, năm 1929 ông
được đề nghị ghế thứ nhất của xã hội học ĐH Harvard. Vị trí được đặt trong khoa kinh tế học vì
thời đó Harvard chưa có khoa xã hội học.
Không lâu sau khi ông tới Harvard, một khoa xã
hội học riêng biệt được thành lập và Sorokin được coi là chủ tịch đầu tiên của
nó. Ở chức vụ này, ông đã giúp cho việc xây dựng phân khoa xã hội học quan
trọng nhất ở Mỹ. Trong thời kỳ này, Sorokin cũng hoàn tất tác phẩm nổi tiếng
nhất của ông: Các động lực văn hóa và xẩ
hội.
Pitirim Sorokin được mô tả là “anh chàng xấu xí
của Peck và tay ủng hộ viên quỷ sứ của
xã hội học Mỹ”. Bị một chứng tự kỷ kinh khủng, Sorokin dường như phê phán hầu
hết mọi người và mọi thứ. Kết quả là Sorokin và tác phẩm của ông là đối tượng
của nhiều phân tích phê phán. Mọi chuyện này rõ ràng trong một trích đoạn từ
một lá thư ông gửi cho biên tập viên của tờ tạp chí xãhội học Mỹ:
Đặc tính chỉ trích mạnh mẽ của các bài báo là
một điềm lành cho các tác phẩm của tôi vì có một sự tương quan giữa việc chỉ
trích các tác phẩm của tôi với nghề nghiệp của họ. Càng chê bai khỏe chừng nào,
(và thực tế là tất cả các cuốn sách của tôi đều bị chê bai) các cuốn sách đó
càng có ý nghĩa quan trọng và càng thành công.
Một trong những quan tâm và mối căm hận kéo dài
của Sorokin là với Talcott Parsons. Parsons được bổ nhiệm giảng viên xã hội học
ở Harvard khi Sorokin là chủ tịch của
phân khoa. Dưới quyền lãnh đạo của Sorokin, Parsons rất chậm thăng tiến ở
Harvard. Tuy nhiên, cuối cùng ông cũng nổi lên là một nhà xã hội học hàng đầu ở
Harvard và ở Mỹ. Mối xung đột giữa hai người càng tăng cao bởi sự trùng lặp
giữa lý thuyết của họ. Dù có những điểm tương đồng, tác phẩm của Parsons hấp
dẫn một lượng độc giả cao và rộng rãi hơn là của Sorokin. Theo năm tháng,
Sorokin ngày càng có thái độ quan tâm đến tác phẩm của Parson, điều này thể
hiện trong nhiều cuốn sách của ông. Một mặt, ông có xu hướng chỉ trích Parsons
đã lấy cắp một số ý tưởng hay nhất của ông. Mặt khác, ông nghiêm khắc phê phán
lý thuyết của Parsons.
Một mối căng thẳng khác trong quan hệ giữa hai
người là các nghiên cứu sinh. Một trong các thành tựu to lớn nhất của phân khoa
Harvard sơ khai là khả năng thu hút các
sinh viên tài năng như Robert Merton. Dù những sinh viên này chịu ảnh hưởng của
các tư tưởng của cả hai người, ảnh hưởng của Parson chứng tỏ có sự lâu dài hơn là
Sorokin. Merton là trợ giảng của Sorokin, nhưng ông không chấp nhận định hướng
lý thuyết của Sorokin. Khi Merton đệ trình một phác thảo ý tưởng ban đầu cho
luận án của mình lên Sorokin, Sorokin trả lời: “Là một khóa luận, thì nó rất
tốt. Anh sẽ đạt điểm A. Nhưng, từ một lập trường sâu sắc và quan trọng hơn, tôi
phải nghiêm khắc và sắc bén phê phán nó.”
Parsons thay cho Sorokin làm chủ tịch phân khoa
xã hội học và chuyển nó thành phân khoa Quan hệ xã hội. Về chuyện này, Sorokin
nói:
Như thế, tôi không chịu trách nhiệm đối với bất cứ điều gì xảy ra
cho phân khoa, như sự liên kết giữa tâm lý xã hội bất bình thường và nhân loại
học văn hóa để tạo ra một “Khoa Quan hệ xã hội” hoặc sự chìm đắm của xã hội học
vào một khối chiết trung những thứ linh tinh của các bộ môn này… Khoa Quan hệ
xã hội khó mà sản sinh được nhiều nhà xã hội học nổi bật như phân khoa xã hội
học đã làm được…dưới sự lãnh đạo của tôi.”
Sau cùng, Sorokin bị cô lập trong phân khoa
Harvard, bị đóng băng trong một văn phòng “cách ly” và bị xuống cấp bởi việc
đặt một tuyên bố quay rô-nê-ô dưới các cánh cửa của văn phòng khoa kêu ca rằng
Parsons đã đánh cắp các ý tưởng của ông.
Sorokin qua đời ngày 11/2/1968.
KỲ TRƯỚC
XEM TIẾP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét