1. Điếu niệm
Kính viếng hương hồn Tân,
và những đồng đội của tôi.
Tân,
Tôi nhớ những ngày mùa đông năm 1985,
tụi mình cùng nhau lặn lội bắt cá suốt ngày ở suối Phum Pô. Tôi đeo cái rộng cá lội bì bõm trong dòng nước mấp mé
vai, nhũng nhẵng bám sau lưng Tân, chỉ để Tân bỏ vào đó những con cá lóc, cá
lăng vừa mò được. Tôi nhớ những đêm cuối năm trời lạnh căm căm, tôi trùm thêm
một chiếc áo lên vai, ngồi co gối bên ánh đèn
đốt từ mỡ lon thịt hộp, trên đầu gối là một miếng gỗ ván dùng để lót trong thùng đạn, trong tay
là một cây bút chì ngắn củn. Tôi vẽ Tchiete. Không biết tôi đã vẽ nàng lên bao nhiêu mảnh ván. Nhưng chỉ nhớ là cùng
với những nét vẽ vụng dại, đơn sơ đó, tim tôi đã ấm áp lạ thường, máu tôi đã
chảy rộn ràng, nóng bỏng trong từng huyết mạch. Tôi đã quên đi cái lạnh của khí
trời và cái lạnh của sự cô đơn trong những đêm đông ấy. Tôi không ngủ vì đang
yêu. Đó là điều dễ hiểu, và là chuyện thường tình. Nhưng cả Tân cũng không ngủ
được. Tân nằm trăn trở trên chiếc võng, im lặng nhìn tôi, nhìn ngọn lửa nhỏ
xíu, lù mù của chiếc đèn dã chiến, thao thức cùng tôi. Thương tôi, hiểu tôi
trong những ngày tháng đó, còn ai hơn Tân nữa.
Tôi nhớ sau khi chuyển xuống đại đội, có
một lần Tân ghé tôi chơi. Tân có vẻ buồn khi trông thấy tôi mặc một chiếc áo
cũ. Vai áo sờn rách, chằng chịt những
đường chỉ vụng về. Thật ra lúc ấy chúng ta đâu còn đến nỗi phải mặc rách, phải
không Tân? Nhưng áo mới của tôi, tôi
cũng đã cho người khác, một người anh kết nghĩa Khmer. Sau đó vài ngày, Tân đã
gửi lên cho tôi chiếc áo mới của mình.
Rồi không bao lâu sau lần gặp cuối cùng
đó, Tân đã rời xa vĩnh viễn. Không chỉ một mình Tân, tôi đã mất biết bao nhiêu
đồng đội, người rất là thân thiết, người vừa quen mặt mà chưa kịp biết tên,
trong những tháng ngày xa quê đó.
Tân ơi ! Những dồng đội của tôi ơi! Mồ của các bạn đã được phủ lên bao nhiêu lớp cỏ úa mùa thu. Tên tuổi, hình ảnh của các
bạn chỉ còn trong nỗi nhớ - những nỗi nhớ ngắn ngủi, bất chợt
hiện ra trong giây lát, rồi lại chìm khuất dưới bao âu lo, suy tư của thực tế mỗi ngày. Điều quan trọng là tôi
không được quyền quên! Trái tim con người còn đập trong lồng ngực chúng ta
không được quyền quên!
Tân! Đã sắp đến ngày giỗ lần thứ mười một
của Tân rồi đó. Tôi viết những dòng này, thắp một nén hương trong tâm tưởng,
hoài niệm hương hồn Tân và tất cả những anh em khác. Cầu mong hương hồn các
bạn sẽ tìm được an bình.
TP.HCM, tháng 11-1997
2. Thư gửi
Sanly
TP.Hồ Chí Minh,
11/1997
Sanly thân mến,
Khi đặt bút
viết những dòng đầu tiên cho quyển truyện này, tôi đã nhớ tới cô. Tôi nhớ lại
ngày chúng ta tình cờ gặp gỡ nhau ở một
phòng triển lãm tranh tại Sài Gòn; và những gì chúng ta đã trao đổi với nhau.
Truyện được viết nên, phần nào đó cũng
bắt nguồn từ cuộc chuyện trò giữa chúng ta hôm ấy. Tôi hy vọng là sau khi đã
đọc qua, cô sẽ tìm thấy những gì mà trong lần trao đổi đó tôi chưa thể nói hết được với cô. Tôi
cũng hy vọng rằng cô, và cả những bạn bè của cô – những người trí
thức trẻ, những người sau này sẽ đứng mũi chịu sào lèo lái con thuyền đất nước
Campuchia – sẽ có
một cái nhìn mới, hiểu biết và đồng cảm hơn với chúng tôi, những người lính
tình nguyện Việt Nam.
Tôi muốn nhắc
lại với cô ngày hôm ấy. Chắc hẳn cô vẫn còn nhớ, một buổi chiều cuối năm 1995,
tại phòng triển lãm, trước một bức tranh dầu, cô đã đứng yên lặng giờ lâu?
Bức tranh vẽ
một người lính Việt Nam đang một tay bưng bát sữa, tay kia cầm chiếc muỗng nhỏ
bón sữa cho một bé gái Khmer, vây quanh hai nhân vật đó là vài người lính khác.
Hậu cảnh bức tranh là một phum làng đổ
nát, tan hoang, một vài túp nhà sàn cháy dở dang còn nghi ngút khói, và đó đây
trên mặt đất rải rác một vài xác chết. Tác giả bức tranh này, và một số tranh
khác trong cuộc triển lãm, là một người bạn của tôi. Đó là lý do giải thích sự
có mặt của tôi hôm ấy. Dạo đó, tôi chưa hiểu biết gì nhiều, nhưng đã rất yêu
thích hội họa. Và tôi, khi ấy, đã dừng
lại khá lâu, sau lưng cô để ngắm nhìn bức tranh .
Bức tranh gợi cho tôi một nỗi niềm, mà
có lẽ giờ đây tôi sẽ không thể nhớ lại, và diễn đạt được chính xác, nếu không
có cuộc trò chuyện với cô. Đó là một nỗi buồn sâu thẳm. Nó không quá mãnh liệt
đến làm cho ta đau đớn, nhưng cũng không hời hợt thoáng qua. Một nỗi buồn đã
kinh qua nhiều năm tháng, đã gắn chặt, chìm lặng xuống đáy tim, đã trở thành ký
ức không thể phai nhòa. Đó là nỗi buồn trước một điều bi thảm nhất, một điều
xấu xa, gây nhức nhối nhất cho con người. Đó là nỗi buồn và cảm giác bất lực
trước hậu quả của chiến tranh. Tôi đã cảm nhận bức tranh như vậy. Nhưng cô,
Sanly thân mến, cô chỉ thấy ở đó một sự ca ngợi tầm thường và hơi có phần cường
điệu cái gọi là tình cảm quân dân, tình đoàn kết Campuchia-Việt Nam, và lòng
nhân đạo chung chung.
Lúc đó, cô đã
lẩm bẩm, bằng tiếng Khmer: "Giả tạo, dối trá...!" Tôi thoáng nghe
những lời ấy. Tôi biết lõm bõm tiếng Khmer, nhưng cũng đã quên đi khá nhiều,
nên không hiểu hết những lời cô nói. Tôi chỉ có cảm giác cô đang bực dọc, bất
bình. Tôi đã bước lên, đứng đối diện với
cô, mỉm cười chào và hỏi: "Cô có biết tiếng Việt không?"
Cô lắc đầu, rồi lại gật đầu, "Chỉ chút chút
thôi!"
"Cô có thể
ra bên ngoài uống một ly cà phê với tôi không? Tôi có chuyện muốn nói với cô."
"Dạ được,"
cô đáp thật ngọt ngào, và mỉm cười, nói tiếp bằng tiếng Khmer, "Tôi không
nói được nhiều tiếng Việt đâu. Anh có thể nói chuyện với tôi bằng tiếng Khmer
không?"
"Tiếng Khmer của tôi cũng như tiếng Việt
của cô vậy!” tôi cười, "Tôi đã quên nhiều. Chắc cô nói được tiếng Anh?"
"Vâng, khá hơn tiếng Việt, tôi mới sang
Việt Nam
hai tháng," cô đáp.
Rồi chúng ta đã
ngồi nói chuyện với nhau khá lâu, lúc thì nói tiếng Việt pha lẫn tiếng Khmer,
lúc nói tiếng Anh, rồi có lúc dùng cả
điệu bộ, nét mặt kết hợp với ba thứ ngôn ngữ đó để cố làm cho nhau hiểu. Dù sao, hôm đó
chúng ta đã hiểu người kia muốn nói gì, và cũng đã diễn tả ý nghĩ của mình tương đối tốt, phải không,
Sanly?
Cô cho biết tên
cô là Sanly, hiện là du học sinh ở Hà
Nội, nhân nghỉ Tết, cô ghé vào Sài Gòn thăm vài người đồng hương học ở đây
trước khi về Campuchia. Cô chỉ mới mười chín tuổi, rất yêu thích các bộ môn
nghệ thuật. Tôi cũng nói sơ cho cô biết về tôi, một người lính xuất ngũ, đã có
mấy năm ở Campuchia. Sau đó, tôi hỏi cô về những lời nhận xét cô bất giác thốt
ra lúc nãy khi xem tranh.
(Cuộc trò
chuyện, như tôi nói trên, khá là phức tạp. Để bạn đọc dễ dàng theo dõi,
tôi xin
kể lại theo diễn biến nội dung câu chuyện, bỏ qua những chỗ khó khăn,
ngắc ngứ vì lớp rào ngôn ngữ).
Cô đã nói ngay,
dường như đã ấp ủ sẵn những ý nghĩ đó
trong đầu từ lâu:
"Tôi nói
là giả dối, là vì người lính Việt Nam trong bức tranh tượng trưng cho
một sự cứu vớt, tượng trưng cho một vị anh hùng cứu khổn phò nguy cho dân tộc
Campuchia. Đó là một sự tự đề cao quá đáng, lố bịch, xúc phạm tới lòng tự hào dân
tộc của chúng tôi. Tôi sẽ nói cho anh biết vì sao như vậy. Quân đội Việt Nam đã chen quá
sâu vào cuộc đấu tranh nội bộ của đất nước tôi, làm cho những mâu thuẫn đó thêm
trầm trọng, khó hàn gắn lại. Nếu như Việt Nam thật sự vì tình đoàn kết, vì sự
giúp đỡ vô tư, họ đã rút về nước sau khi Campuchia có một quân đội riêng hùng
mạnh. Thế nhưng, mãi cho đến những năm đầu thập kỷ 90, Campuchia mới thật sự
vắng bóng những bộ quân phục Việt Nam. Và theo như tôi biết, qua lời
kể của họ hàng, bè bạn, cũng như qua những gì chính tôi mục kích, người lính
Việt Nam
có nhiều hành vi trái hẳn với sự tuyên
truyền đầy chính nghĩa. Vậy thì anh giải thích động cơ, ý nghĩa của những hành vi đó ra sao?"
Tôi cố sắp xếp
những ý tưởng để có thể diễn đạt sao cho cô
dễ hiểu. Rồi tôi đáp:
"Điều cô
nói, cũng chính là điều đã làm ray rứt đa số những người lính chúng tôi. Nhưng
trước hết, tôi tạm gác lại những chuyện đó, để nói với cô ý nghĩa thật sự của
bức tranh. Cô đã hiểu sai, cảm nhận sai về nó. Tôi biết đích xác là cô đã cảm
nhận sai, vì tôi là bạn thân của tác giả bức tranh. Tôi đã nhiều lần trò chuyện
với anh ấy trong khi anh đang vẽ nó, mặt
khác, vì tôi cũng là một người lính. Nó không đề cao người lính
Việt Nam như cô nói đâu. Lúc nãy, cô có chú ý đến ánh
mắt của các nhân vật trong tranh không?
Ánh mắt của đứa bé Campuchia có vẻ sợ hãi, kinh hoàng, dù đôi môi nó
đang hé mở một cách hồn nhiên để đón
nhận muỗng sữa. Rồi ánh mắt của người lính đang đút cho đứa bé. Anh ta không
nhìn vào nó, anh ta đang nhìn mông lung vào một điểm nào đó ở phía trước một cách lo âu. Đứa bé mồ côi
rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc,nuôi nấng nó trong những tháng ngày sau? Liệu nó có còn sống đến lúc trưởng thành
không? – Không ai
biết! ... Ánh mắt của người lính mang những nỗi niềm như vậy... Và ánh mắt, vẻ
mặt của những người lính còn lại. Họ đang nhìn quanh, người thì về phía hai
nhân vật chính, người thì về phía những túp nhà ngún cháy. Họ như bàng hoàng,
ngơ ngác vì những tác hại của súng đạn, của chiến tranh. Họ như không biết vì
sao lại đến nông nỗi thế này. Họ còn có vẻ đau đớn và bất lực, với những bàn
tay buông thỏng, xòe ra bỡ ngỡ. Họ vẫn không quen được với những đau thương,
mất mát, và có lẽ không bao giờ quen được với chúng, dù chiếc áo của họ đã bạc
phếch sau nhiều tháng năm cầm súng.
Không, bức tranh không đề cao một cá nhân hay một dân tộc nào riêng biệt. Nó chỉ
đề cao tình người nói chung, và chủ yếu là nó cố làm người xem nhận ra sự đau
thương, khủng khiếp của chiến tranh thôi, Sanly ạ!…"
Tôi dừng lại,
dõi nhìn phản ứng trên nét mặt của cô.
Gương mặt cô
vẫn còn những nét hồn nhiên của tuổi thơ, đôi mắt đen to có vẻ rất thông minh,
nhạy bén. Mái tóc cô không quăn như đa số phụ nữ Kh’mer. Nó đen, dày, mềm mại trùm xuống vai
cô.
Đôi mắt và mái
tóc cô gợi cho tôi nhớ tới một người con gái khác... Tôi cố nén một hơi thở
dài, buộc ý nghĩ của mình quay về hiện tại.
Cô gật gật đầu, có vẻ hơi đồng ý, nhưng rồi đôi
mày lại nhướng lên như muốn nói điều gì. Tôi giơ tay ngăn cô, nói tiếp:
"Xin để
cho tôi nói hết, Sanly. Bây giờ, tôi nói về cách nhìn của cô đối với người lính
Việt Nam
chúng tôi đây... Tôi không biết có nhiều thanh niên nam nữ Campuchia cùng chia
sẻ quan điểm đó của cô hay không, nhưng nếu có nhiều người cũng nghĩ như cô, thì thật là đáng buồn, và thật là
nguy hiểm. Có lẽ tôi sẽ cố gắng để nói với cô, nhưng tôi e rằng chỉ trong một
vài câu nói, hay thậm chí trọn cả một buổi trò chuyện chiều nay, tôi cũng không
sao nói hết được, diễn tả đầy đủ được những gì tôi đã băn khoăn, một số bạn bè
tôi đã băn khoăn trong suốt những năm
sống xa quê, những năm cầm súng trên đất người... Chúng tôi từng tự hỏi: chúng
tôi đang bắn giết, đánh nhau, và có thể
sẽ chết vì ai, vì cái gì. Và không phải lúc nào chúng tôi cũng tự trả
lời được những câu hỏi đó. Có đôi lúc, chúng tôi cảm thấy sự lý giải của mình là có lý, rồi đôi lúc, lại
cảm thấy nó vô cùng phi lý. Như cô nói
lúc nãy, nếu chúng tôi hoàn toàn bất vụ lợi, lẽ ra chúng tôi đã rút quân về từ lâu trước đó. Nhưng cô đâu hiểu rằng cuộc
chiến trên đất nước cô vào thời điểm ấy không còn đơn thuần là một cuộc nội
chiến giữa các phe phái Campuchia có chính kiến khác nhau. Campuchia lúc ấy là
một con cờ trên bàn cờ chiến lược giữa
hai thế lực, hai chủ nghĩa đang giành quyền thống soái vũ đài thế giới. Thật
ra, điều tôi vừa nói với cô, tôi cũng mới hiểu được về sau này. Còn lúc đó, chúng tôi chỉ rất mơ hồ. Chúng tôi
không như những người lính Việt Nam
thời chống Mỹ, họ cầm súng để giải phóng quê hương, thống nhất đất nước. Chúng
tôi thậm chí cũng không như những người lính Việt Nam giai đoạn 1978-1980. Lúc đó, họ
chiến đấu đánh đuổi quân đội Pol Pot tàn ác đang đốt phá, tàn sát những người dân vô tội ở
vùng biên giới Việt Nam, và kế tiếp sau đó, họ giúp quân đội cách mạng
Campuchia giải phóng đất nước. Họ biết rõ ý nghĩa, mục đích và có một niềm tin
trọn vẹn vào công việc họ làm. Họ xứng đáng với cái tên quân tình nguyện. Đối
với chúng tôi, những người lính từ sau 1980, mọi sự không đơn giản và rõ ràng
như vậy. Nói cho cùng thì chúng tôi phải chấp nhận tham dự vào cuộc chiến ở Campuchia như là một điều
không thể nào tránh khỏi. Chúng tôi lớn lên, đủ mười tám tuổi, thực hiện nghĩa
vụ quân sự. Rồi được đưa sang Campuchia, dù muốn dù không. Chúng tôi đâu phải
là những người chọn việc binh đao như một cái nghề sinh sống. Chúng tôi chỉ thực
hiện nghĩa vụ của một công dân đối với Tổ quốc của mình. Và chúng tôi, khi đã
biết thế nào là chiến tranh, chết chóc, đều mong cho nó mau kết thúc, đều mong
cho sớm tới ngày yên lành trở lại quê nhà…"
"Tôi quay
trở lại điểm xuất phát, tại sao tôi lại nói thật là điều đáng buồn và nguy hiểm
nếu cô và nhiều người trẻ tuổi như cô
đánh giá về chúng tôi một cách phiến diện, chủ quan như vậy. Thanh niên
trí thức các cô sẽ là những người đảm
nhiệm gánh nặng đất nước Campuchia trong một tương lai không xa. Trong đó rồi
sẽ có những người nắm giữ những chức vụ, cương vị lớn lao quan trọng. Nếu đa số
những người này lại có một cách nhìn đầy định kiến, thiếu cảm thông, thì cái
hoạ chiến tranh chẳng khác nào một hòn than cháy cứ âm ỉ mãi. Nhưng tôi mong là không có nhiều
người như vậy. Tôi biết có nhiều người khác –
những bà mẹ già, những người con trai con gái,
những đứa trẻ con ở những phum làng hẻo lánh miền tây bắc Batđomboong không
nghĩ như cô. Họ thương yêu chúng tôi. Họ cảm thông với những chàng trai trẻ mới
lớn đã phải sống xa nhà, xa quê, chịu nhiều hy sinh, mất mát. Họ thật sự xem
chúng tôi là con cháu, anh em của họ..."
Tôi ngưng lời,
cảm thấy càng nói càng bất lực, không tài nào diễn đạt hết được những ý nghĩ
đang dồn dập xô về. Cô đăm đăm nhìn tôi, trầm ngâm rất lâu mới cất tiếng:
"Anh nói
nghe rất hay, và có vẻ hợp lý nữa, nhưng tôi vẫn thấy có điều không ổn. Tôi có
cảm giác như anh đã đánh tráo khái niệm ở đây. Như tôi đã nói, quân tình nguyện
Việt Nam
các anh khoác lên mình cái vòng hoa vẻ vang của người hiệp sĩ, nhưng các anh đã
làm nhiều chuyện tồi tệ. Nếu như mọi người lính Việt Nam đều có những ý thức, những trăn
trở như anh nói, tại sao họ lại có thể có những hành động đó. Có những vụ cưỡng dâm, cướp bóc, hà hiếp dân, hà hiếp bộ
đội Campuchia, anh không thể phủ nhận những sự kiện đó. Điều buồn cười nhất là
những hành vi đó lại nằm dưới một lớp áo choàng cao cả."
"Sanly ơi!Cô
còn trẻ quá, cô chưa hiểu con người phức tạp, tự mâu thuẫn đến độ nào đâu. Và
chiến tranh, với biết bao tình cảm trái ngược nhau: yêu thương, hờn oán, căm
thù, điên cuồng, phẫn nộ...có thể gây
nên mọi chuyện, có thể trong một lúc nhất thời biến đổi hoàn toàn một cá nhân
bé nhỏ bất kỳ nào đó. Mặt khác, những chuyện cô nói đúng là có thật, nhưng nó
chỉ là những sự kiện hiếm hoi, cá biệt. Những chuyện như vậy không thể coi là
cơ sở để đánh giá bản chất của những người lính chúng tôi. Tôi sẽ kể cho cô
nghe một câu chuyện, hoàn toàn có thật..."
Tôi ngừng lời,
hồi nhớ lại những sự kiện dường như đã quá xa xăm. Cô vẫn ngồi lặng lẽ, chăm
chú nhìn tôi một cách nhẫn nại, cô hiểu tâm trạng của tôi. Rồi tôi kể.
"Đầu mùa
đông năm ấy, một tiểu đoàn quân tình nguyện Việt Nam về tạm đóng ở phum X, một
phum nhỏ nghèo nàn nằm ở phía đông bắc huyện Th’mo Puoc, tỉnh Batdomboong. Đơn
vị ở đó để tiến hành kế hoạch truy quét mùa khô các vùng lân cận. Tiểu đoàn
trưởng vào ở tạm trong một căn nhà đầu phum, các trung đội trực thuộc nằm bao
quanh ở vòng ngoài. Trung đội súng máy 12mm 7 nằm ở hướng bắc phum,
nơi có một con suối nhỏ chảy qua. Trung đội phó trung đội này là một anh chàng trẻ tuổi, có hơi lãng mạn.
Anh ta rất yêu mến những người dân Khmer hiền lành chất phác, và đang cố học
thêm tiếng Khmer để nói chuyện nhiều với họ. Buổi sáng hôm ấy, trời còn mù
sương, anh tới chỗ ở của tiểu đoàn trưởng để xin ý kiến ông về một công vụ. Cô
biết không, năm ấy trời rất lạnh, lạnh nhất trong những mùa đông tôi đã trải
qua ở Campuchia . Vì vậy, chàng trung đội phó vừa đi thật nhanh vừa xoa hai tay
lên má cho đỡ rét. Anh còn cách căn nhà vài mươi mét thì bắt gặp một cô gái
nhỏ, khoảng mười sáu, mười bảy tuổi đang đứng giã gạo trước sân, dưới gốc một
cây vông cổ thụ với những chùm hoa muộn cuối mùa đỏ rực. Cô bé mặc một chiếc áo vải trắng thô
dày, quanh cổ quàng một chiếc khăn croma tím thẫm. Mái tóc đen nhánh mềm mại
trùm xuống bờ vai, đôi má ửng hồng vì trời rét và vì làm việc nặng.Trông cô
thật là dễ thương, xinh xắn. Anh bước tới gần hơn, rồi cứ đứng im nhìn cô mãi.
Chợt cô bé ngưng giã gạo, ngẩng lên, bắt gặp một đôi mắt đang nhìn mình chăm
chú. Cô cũng đứng im, nhìn thẳng vào đôi mắt đó. Hai bên nhìn nhau như vậy
không biết đến bao lâu, rồi cô bé như sực tỉnh, luống cuống quay mặt đi, e
thẹn. Chàng trai cất lời hỏi cô bé về người chỉ huy tiểu đoàn. Cô không đáp mà
chỉ đưa tay chỉ lên nhà, rồi quay lưng
đi ra phía vườn sau. Chàng trai vừa kịp thoáng thấy hình như trên khuôn mặt đỏ
bừng xinh xắn xuất hiện một nụ cười…
Cô mỉm cười,
nhận xét:
“Câu chuyện có
vẻ lãng mạn quá, hệt như trong tiểu
thuyết!"
"Vâng",
tôi đáp, "nhưng là một cuốn tiểu thuyết có kết thúc buồn…Tôi xin kể tiếp…
Đơn vị đóng ở phum ba tháng. Những ngày không hành quân tác chiến, chàng trai
vẫn thường hay ngồi bên bờ suối mỗi chiều chờ gặp cô gái nhỏ ra gánh nước. Và
đôi ba ngày, lại vào phum, đến nhà cô chơi, trò chuyện với bà và mẹ của cô. Ba
tháng trôi qua thật nhanh, họ vừa kịp quen nhau, cảm thấy mến thương nhau thì
đơn vị rút đi... Khoảng nửa năm sau, đơn vị lại quay về vùng đó, nhưng lần này
thì dựng cứ dưới chân núi Svai, cách Phum X khoảng bốn cây số. Chàng trẻ tuổi
vẫn thường qua Phum X tìm cô bạn. Tình cảm hai bên đã rất đậm đà, nhưng vẫn còn
sự ngượng ngùng e ấp về phía cô gái nhỏ. Gặp nhau, cô chỉ mỉm cười, ngồi nghe
chàng trai bập bẹ nói những lời thương nhớ bằng tiếng Khmer. Thấm thoắt lại sắp
đến mùa đông. Nhưng không khí năm ấy thật khác thường. Từ anh em lính trong đơn
vị đến những người dân ở các phum lân cận đều căng thẳng, bất an. Quân đội của
ba phái Khmer phản động đã sống dậy sau một năm im hơi lặng tiếng. Từ những căn
cứ huấn luyện quân sự trên đất Thái, hàng chục trung đoàn, tiểu đoàn địch bắt
đầu tung ra hoạt động dọc theo tuyến hành lang biên giới. Các đại đội quân tình
nguyện Việt Nam
đóng chốt riêng lẻ lần lượt bị bao vây, tấn công dữ dội. Cả những người dân
hiền lành cũng chịu vạ lây. Đã có một số dân khi vào rừng, ra suối đã bị
thương, bị chết vì mìn. Một hôm, cô gái nhỏ đi vào rừng hái nấm một mình. Cô bị
vướng mìn, và đã chết ở ven bờ một con suối cạn cách phum khoảng ba cây số. Dân
làng bắt gặp xác cô chiều hôm đó, thân hình đẫm máu nằm bên chiếc giỏ tung tóe
những chiếc nấm rừng…"
Tôi phải tạm
dừng vì chợt thấy cổ họng nghẹn ngào, đắng ngắt. Giọng nói tôi đã trở nên run
rẩy đến mức cô nhận ra một cách dễ dàng. Cô nhìn tôi kinh ngạc. Tôi ngước đầu
lên, hít thật sâu mấy hơi liền, cố lấy lại bình tĩnh, rồi kể tiếp.
"...Chàng
trai đau đớn xé lòng khi biết được tin. Anh như người mất hồn, thẫn thờ suốt cả
tháng trời. Đến một hôm, đơn vị vừa có phụ cấp nên mua rượu thịt về tổ chức
liên hoan. Đang giữa cuộc vui, anh bỏ ra
ngoài. Anh nhớ người yêu, và đau đớn quá, anh bỗng muốn tự sát theo cô. Anh
mang theo một quả lựu đạn, lần về Phum X, dự tính sẽ tìm đến nhà cô, nhìn lại
lần cuối nơi đã tình cờ gặp gỡ. Về tới căn nhà xưa, anh ngồi dưới gốc cây vông
già khóc nức nở, dưới ánh mắt thương cảm của bà và mẹ của cô gái. Rồi anh bước
lên nhà, nhìn lại cây đèn dầu làm bằng chiếc lọ thủy tinh đựng thuốc cảm mà một
năm trước anh đã làm tặng cho cô. Anh ngồi dựa vào vách, cầm chiếc đèn trong
tay, ve vuốt nó, mơ lại những ngày dĩ vãng, rồi thiếp ngủ lúc nào không biết.
Anh giật mình
thức giấc lúc trời đã ngả về chiều. Anh sờ tay lên hông, nơi dắt quả lựu đạn,
nó đã biến mất. Anh bước ra ngoài, trông thấy X, một đồng đội, đang đứng trò
chuyện với bà mẹ. Các đồng đội của anh thấy thái độ anh có vẻ khả nghi, đã cử X
và Y theo dõi, ngăn cản, bảo vệ anh nếu cần. Lúc anh tỉnh dậy thì Y đã mang
theo quả lựu đạn về trước. Anh bước tới gần X, hỏi mấy câu với vẻ thản nhiên,
rồi chợt kẹp cổ X, cố giằng lấy khẩu AK. Hai bên đang giằng co quyết liệt thì
vị trưởng phum chạy tới cầm lấy khẩu súng mang đi giấu, sợ anh sẽ làm liều. X
vẫn cố chịu đau ôm ghì anh lại. Anh lúc này đã nổi điên, không còn biết gì là
phải trái. Anh đấm đá X, vùng ra, chạy tới nhà vị phum trưởng, đòi khẩu súng.
Vị phum trưởng ôm anh cố can ngăn, nhưng anh vẫn hung hăng đấm đá. Cuối cùng,
một số thanh niên trong phum phải nhào tới, kẻ ôm tay, người ôm chân anh ghì
xuống đất, lấy dây trói lại. Anh vùng vẫy điên cuồng cho đến lúc kiệt sức ngất
đi. Khi tỉnh dậy, anh đã nằm trên chiếc chõng tre trong căn nhà của mình.Vị
phum trưởng đã cho xe bò chở anh về doanh trại. Anh nằm yên trong bóng tối, nhớ
lại những chuyện vừa mới xảy ra, tưởng như đã trải qua một giấc mơ khủng khiếp.
Suýt nữa anh đã chết một cái chết vô nghĩa lý, làm buồn lòng những người thân,
thương mến của mình... Anh không hiểu vì sao mình lại điên lên như vậy... Vì
say rượu thì không, vì anh chỉ uống một ít. Nhưng tại sao, anh vẫn thầm tự hỏi
suốt những ngày sau đó..."
"Chàng trai
đó chính là anh, phải không?" cô
buột miệng hỏi sau một lúc lặng im.
"Phải,
chính là tôi," tôi đáp. "Cho đến bây giờ, Sanly à, tôi cũng không
biết mình đã thật sự hiểu được nguyên do của những hành động đó hay chăng. Cô
thấy không, có những chuyện như vậy đã xảy ra. Thật khó tin nhưng đã xảy
ra..."
Rồi sau đó, tôi
im lặng.Cô cũng im lặng. Tôi nghĩ có lẽ cô đã phần nào đó cảm thông được với tôi. Nắng đã tắt từ lúc
nào. Đêm đã buông. Phòng triển lãm cũng đã đóng cửa từ lâu. Trong quán, những
bóng đèn tròn xanh đỏ tí hon treo trên những chậu cây nhấp nháy. Ngồi thêm lúc
nữa, chúng ta chia tay nhau. Cô chúc tôi mạnh khỏe. Và tôi chúc lại cô lời chúc
tương tự.
Sanly thân mến!
Lá thư này, tôi
gửi tới cô, và tới tất cả những bạn bè
cô, với ý nghĩa là một phần không thể tách rời của quyển truyện này. Nói rõ
hơn, nó như là một dạo khúc mở đầu cho câu chuyện về những ngày tôi đã sống.
Tôi viết câu chuyện này là để trả phần nào món nợ tinh thần mà tôi đã tự nguyện
gánh vác đối với bạn bè, đồng đội của tôi. Trong số đó có kẻ đang còn sống,
đang tiếp tục không ngừng cuộc đấu tranh kiếm tìm hạnh phúc, cũng có kẻ đã ngủ yên trong lòng
đất.
Mong cô đọc nó
với lòng thông cảm. Vốn dĩ, tôi không phải là một nhà văn gì cả. Tôi chỉ là một
người bình thường, bằng những lời đơn giản kể lại một câu chuyện mà nhiều người
đã biết.
Chúc Sanly
những ngày tuổi trẻ bình an, nhiều hạnh phúc.
Một người bạn của cô.
Nguyễn Thành Nhân
3. Thư gửi Ban Tổ chức cuộc Thi sáng tác văn học Tuổi Hai Mươi lần
2
TP.HCM, 30/7/2000
Thưa
các chú và các anh chị,
Vừa
qua, tôi được anh Phạm Sỹ Sáu, đại diện BTC cuộc thi có nhã ý mời tới gặp mặt
để trực tiếp trao đổi về một số vấn đề liên quan tới tác phẩm dự thi của tôi
(Mùa xa nhà). Thật lòng, tôi rất vui mừng và cảm động khi được biết tác phẩm
của mình đã nhận được sự chú ý, đồng cảm và bảo vệ của một vài chú, anh chị
trong Ban Giám khảo. Qua cuộc trao đổi với anh Phạm Sỹ Sáu hôm ấy, anh Sáu có
đề nghị tôi sữa chữa lại kết cấu quyển truyện, cụ thể là đưa chương cuối vào
khoảng giữa, theo ý của Ban Giám khảo, cũng như đề nghị cắt bỏ, thay đổi một số
đoạn, câu rải rác trong tác phẩm.
Tôi
đã đồng ý với anh Sáu về việc chuyển đổi kết cấu. Nhưng vẫn xin được nói thêm
đôi chút về kết cấu câu chuyện. Có thể theo quan điểm của một số người, kết cấu
ấy là không hợp lý, vì nó đã làm xấu đi bối cảnh chung của tác phẩm, làm nặng
nề bi thảm hóa cuộc chiến tranh ở Campuchia, và nguy hiểm hơn nữa, nó “có vẻ
như” phủ nhận toàn bộ tính chất chính nghĩa và cần yếu của cuộc chiến tranh
này.
Thật
ra, tôi đã băn khoăn, trăn trở nhiều lắm, đầu tư rất nhiều công sức để tìm một
kết cấu tối ưu cho tác phẩm, và cũng đã làm hết sức mình để tránh đi sự ngộ
nhận, hiểu lầm, phê phán một chiều của người đọc sau này. Phần lá thư dẫn
chuyện, và những cảm tưởng của nhân vật Huy đối với nhân vật Quân được xây dựng
nên cũng vì lẽ đó. Ở đây – ở tác phẩm này – tôi không hề có chút dụng tâm đánh giá
hay tuyên bố một sự khẳng định nào (dù chỉ ở góc độ cá nhân) về tính chất và ý
nghĩa của cuộc chiến ở Campuchia. Cuộc chiến đó chỉ được sử dụng như một chiếc
cầu nối, một phương tiện, một minh chứng cụ thể, một kinh nghiệm bản thân, để
tìm tòi, đặt những dấu hỏi và nêu ra vài phương cách giải đáp cho một vấn đề có
ý nghĩa lớn lao hơn. Đó là tính chất không phân hai (bất nhị) của cặp phạm trù
Chiến tranh-Hòa bình. Chiến tranh-Phản đề là tàn khốc, là chết chóc, mất mát,
khổ đau, dù là chính nghĩa hay phi nghĩa. Nhưng chính từ chiến tranh, từ những
thảm họa do nó gây ra, ý nghĩa của Hòa bình-Chính đề càng sâu sắc, càng được
tôn vinh. Mâu thuẫn nội tại này, tôi đã cố gắng thể hiện nó rõ nét hơn qua sự
phân bố những bối cảnh đối kháng nhau: những trận đánh, những chết chóc, đau
thương, những gian lao, mưa gió phũ phàng đan xen vào những chuyện tình, những
khoảnh khắc an bình, những tiếng chim, những hoa lá cỏ cây, mặt trời, ánh trăng
thơ mộng. Nhưng dù trong chiến tranh vẫn tồn tại an bình, đó cũng chỉ là những an
bình tạm bợ, phù du. Tôi muốn thông qua câu chuyện, một lần nữa góp chút giọng
nhỏ bé của mình vào tiếng hát chung – tiếng hát ước mơ, ngợi ca và kêu gọi một
an bình thật sự, vĩnh viễn cho toàn nhân loại. Tất cả chúng ta, với tư cách và
phẩm giá Con Người, ai mà không khát khao mong muốn hòa bình. Vậy nhưng chiến
tranh vẫn tồn tại và tiếp diễn. Tác phẩm đặt ra vấn đề, gợi lên cho người đọc,
để cùng tìm một giải đáp cho sự phi lý này. Đó là chủ đề chính chi phối toàn bộ
câu chuyện. Chương cuối của tác phẩm là một cảnh tử hình bi thảm, và đoạn kết
cuối cùng cũng quá buồn rầu, nhưng đó không phải là sự sơ sót của một “cây viết
không chuyên” hay là sự sắp xếp vô tình không chủ đích. Đó chính là chỗ dụng
tâm của tôi: một “cú nhấn cuối cùng” về tính chất bi kịch của chiến
tranh (nói chung) đối với những người trong cuộc và có liên quan tới nó.
Tôi
rất cám ơn các anh, các chú đã có nhiều quan tâm và thiện ý tốt dành cho tôi.
Và bản thân tôi cũng không phải là quá cố chấp để cứ khăng khăng cho mình là
đúng. Vì vậy, tôi xin đồng ý thay đổi, đưa chương cuối vào phần giữa, điều
chỉnh đôi chút để mạch truyện vẫn bảo đảm như lúc ban đầu. Chỉ là muốn trao đổi
thêm và nói lên quan điểm của mình về vấn đề này.
Ngoài
ra, đối với việc cắt bỏ, thay đổi những phần còn lại, tôi đã suy nghĩ nhiều, và
rất không yên tâm. Việc biên tập, nếu có, theo tôi biết, chỉ là sửa chữa những
sai sót về chính tả, cắt bỏ những từ ngữ, đoạn văn thừa thãi, rườm rà, vô
thưởng vô phạt. Tôi chấp nhận việc biên tập như vậy. Tôi chỉ xin thiết tha đề nghị
được giữ nguyên các đoạn đối thoại hay độc thoại trọng tâm, không biên tập cắt
xén đổi thay gì cả. Vì nếu làm điều này, cũng có nghĩa sẽ làm sai lệch, méo mó
ngay những luận đề và luận cứ của tôi (và nó còn trái với Luật về Quyền tác
giả). Vậy rất mong các chú, các anh chị thông cảm. Tác phẩm có đoạt giải và
nhất là có được in hay không, cũng là một điều rất quan trọng và ý nghĩa. Nhưng
điều quan trọng nhất, đối với tôi, là nếu công bố, tác phẩm phải tồn tại nguyên
vẹn, đầy đủ, chính xác những gì chính yếu mà tôi muốn thể hiện, muốn nói lên
với người đọc. Dù cách thể hiện ấy chưa hay, chưa hoàn chỉnh, nhưng hoàn toàn
không ẩn chứa một ý đồ xấu xa, đen tối, cố tình chống đối chế độ hay phê phán
lịch sử nào. Bởi vì tôi, khi viết, đã sẵn sàng chịu trách nhiệm đối với từng
câu chữ của mình. Bởi vì tôi, nếu có thể sống lại một lần nữa tuổi trẻ của
mình, tôi cũng sẽ sống như đã sống. Bởi vì, những tháng ngày mặc chiếc áo lính
chính là những tháng ngày đẹp đẽ và có ý nghĩa nhất trong quãng đời tôi đã
sống. Mọi ngộ nhận, nếu có, ấy chỉ là do tôi lực bất tòng tâm, vẽ cọp thành
mèo. Nhưng tôi tin tưởng rồi với thời
gian và sự công tâm, dư luận sẽ nhận thức được đúng những tâm tư tình cảm ấy,
hiểu được lòng tôi.
Cuối
cùng, xin chân thành cám ơn sự quan tâm của các chú, các anh chị. Rất mong
những tâm sự trên đây tìm được những đồng cảm sẻ chia.
Kính thư.
Nguyễn Thành Nhân